“Cha
mẹ sinh tôi,
thằng con bất hiếu,”
“thề
thốt thương người hơn cả song thân.”
(Dẫn
từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Lk
15:
1-3, 11-32
Con
bất hiếu, đâu cứ là
con đi hoang, như truyện kể Tin Mừng người người vẫn
hiểu những điều thánh Luca muốn nói. Trình thuật thánh
Luca nói, nay kể không có ý kể về chàng trai đi hoang
hoặc tình thương của bậc vua cha ở nhà mà thôi, nhưng
là về chàng trai trẻ từng can đảm đã thành công bước
vào tuổi trưởng thành, như anh mình. Truyện hôm nay, là
truyện gia đình có hai người con ngỗ nghịch, khó hội
nhập chòm xóm, rất cộng đoàn.
Truyện
vào đầu bằng sự thể hai người con chưa có đời sống
riêng nên
vẫn như con trẻ sống trong thế giới hài hoà/khép kín,
trong gia đình. Hoàn cảnh gia đình hết hài hoà, khi người
em bắt đầu có sáng kiến mới, đòi chia chác phần gia
sản và muốn có ngay lập tức. Muốn sống biệt lập,
phá vỡ cảnh sống quây quần ở gia đình để ra riêng,
tự lập. Anh coi cha mình như đã chết để thực hiện
mọi chủ đích. Anh muốn cha chia gia tài rồi xa chòm xóm
để lên phố. Điều này như cú sốc đánh động hết
mọi người.
Người
cha hiền đã thuận ý anh, để anh rời nhà, mà đi xa. Anh
chống trả mọi thứ nên nề nếp, chẳng muốn giống cha
điểm nào, lại muốn xoá bỏ mọi vết tích để cha mình
không còn cách nào tìm lại anh. Anh tiêu tán hết số tiền
cha gom góp cho anh; lại chối bỏ mọi nguyên tắc/lý tưởng
học từ cha minh, cứ tự ý bước đi cho cuộc đời mình.
Vẫn cứ muốn mình là chính mình, rất độc lập/độc
đáo, chẳng giống ai. Chẳng bao lâu, cả thôn làng đều
biết chuyện. Phố xá xa vời là nơi cuốn hút người trẻ
từ miền quê. Chòm xóm bắt đầu đóng kín cửa không
chơi với gia đình anh, sợ bị lây nhiễm, như cùi hủi.
Trong
một lúc, mọi việc xảy đến khá tốt đẹp. Anh thực
hiện được nếp sống theo ý mình cho đến lúc tiền cha
cho cũng đã cạn. Kinh nghiệm sống anh tạo được lại
không thuận theo ý muốn, anh đã bắt đầu cảm thấy rối
trí, rối cả bụng dạ đến cồn cào, đói khát. Anh cần
có cái bỏ vào miệng, chợt nhận ra rằng hồi còn ở
nhà anh muốn ăn lúc nào cũng có, nhưng với giá phải mất
đi tự do và độc lập. Và, cả với giá phải sống như
người con tốt bụng. Là nông gia, anh đã cảm nghiệm một
đối chọi với lối sống thành thị, khiến anh ngã quỵ.
Anh
giáp mặt thực tế rất phũ phàng. Anh cứ nghĩ mình sẽ
“mãn nguyện” về thực tại toàn hảo mà anh có thể
tạo cho chính mình. Trong thời gian cứ thế vung tiền sống
trác táng, truỵ lạc để chứng tỏ mình bất cần đời,
những đời cần mình mới phải. Nhưng thực tại đã
chứng minh đời người không phải thế. Anh khám phá ra
cuộc đời vẫn có những giới hạn đề ra cho chính anh.
Đôi lúc, anh cũng nói tiếng “Không” cho những gì mình
ao ước, cho đường lối sống do anh tưởng tượng. Nhưng
đường và lối rất khó đi, khó sống. Mọi người, ai
cũng học biết được điều ấy bằng những kinh nghiệm
đôi lúc cũng đắt giá.
Chàng
trai trẻ nay đã biết học. Học cách tôn trọng lòng ao
ước bên trong con người mình vẫn thôi thúc anh rời khỏi
cung lòng ấm áp của quê nhà và tìm cách sống theo kiểu
riêng tư của chính mình. Nhưng, anh cũng đã học được
cách biết tôn trọng sự thể là mọi việc không dễ như
thế. Và có lúc anh thấy anh cũng phải thắt chặt lưng
bụng với những đòi hỏi ra như quá đáng. Anh bắt đầu
nhận ra thế nào là “trưởng thành, chín chắn khi sinh
sống. Vẫn không là những gì anh từng tưởng tượng.
Anh
cũng bắt đầu tự
hỏi: nếu cha mình cũng học được điều này khi ông còn
trẻ. Có lẽ cha anh cũng hiểu, từ kinh nghiệm riêng tư
của ông khi khôn lớn, giống như anh. Có lẽ cả cha và
anh đều giới hạn, không chế những đòi hỏi của mình.
Thế mới là con người thực. Và, anh chẳng bao giờ biết
rằng cha mình cũng từng như thế. Và, anh quyết định
đến với cha anh để tìm ra những gì anh chưa biết hết.
Anh nghĩ anh có thể tình nguyện làm gia nhân, người làm
mướn. Như thế, anh sẽ không tuỳ thuộc vào cha một lần
nữa. Anh những muốn sống bằng đồng lương riêng của
mình, sẽ là người đích thực. Làm thế, đâu có nghĩa
‘sám hối” đích thực. Mà chỉ để biết rõ thực tế
và biết rõ mọi người theo cung cách rất khác.
Anh
cũng nghĩ: nếu về với Cha sẽ bị chối bỏ, vì anh đã
rời bỏ “người cha kỳ quặc” mà anh biết chắc ông
có sẵn mọi câu trả lời, khi anh hỏi. Và, anh đang khám
phá ra “người cha đích thực” mà thực sự anh chưa
hiểu biết hết, tức như người lớn, với người lớn.
Anh cũng chẳng rõ điều đó có nghĩa gì.
Nhưng
trong lúc anh “còn ở đằng xa, thì cha anh đã nhận ra
anh”. Người cha cứ thế chạy đến, dù người cha ở
phương Đông, lại không có thói quen chạy như thế, để
đến ôm chầm lấy con, rồi hôn lấy hôn để. Cũng lại
là chuyện lạ
kỳ ít ai ngờ tới, như cú sốc cho anh. Người cha lấy
hết sức để đến với con mình. Đó là dấu hiệu để
chào mừng, nhưng cũng là dấu chỉ để dân làng biết
rằng con người mới đã sống lại và lớn lên phía đó,
và anh xưa vẫn là thành phần của xóm làng, nay đã khác.
Người
cha nhận
ra rằng con mình nay đã lớn. Cha kêu gọi đem quần aó
mới cho con và tổ chức tiệc chào mừng cho con ông. Làm
việc ấy, không có nghĩa là công việc đầy tính “sám
hối”. Bởi, người cha nay đồng thuận khi thấy tính
khí rất đáng quý trọng ở con mình. Ông muốn có quan hệ
giữa người cha đã trưởng thành đối với người con
cũng trưởng thành. Đó chính là quan hệ rất mới giữa
hai người, cha và con. Quan hệ này, cũng rất đáng để
tất cả cử hành mừng kính.
Ta
không chọn những ai đem ta vào với thế giới naỳ. Tuy
nhiên, muốn có được “người cha” theo nghĩa trọn
vẹn, ta cũng phải chọn như thế, lúc về sau. Cùng một
cung cách như thế, cha cũng phải chọn con mình. Là cha,
không chỉ có nghĩa về thể chất xác thịt thôi, nhưng
là nhận biết có trách nhiệm về người con do mình sinh
ra, thừa nhận con mình chính là con theo nghĩa đích thực.
Truyện
kể của thánh Luca luôn có hậu, tức luôn đặt nặng
quan hệ cha–con. Có những truyện
kể không có hậu. Nhiều người con đi hoang, khi trở về,
không thấy được là người cha có trưởng thành, chín
chắn như người cha hay không, hay là chỉ mỗi con trai
mình thôi. Nhiều người cha trưởng thành ngang qua việc
con cái cách ly khỏi gia đình, và thấy rằng con cái mình
không trưởng thành theo cùng một cách thức như mình.
Thật đáng buồn, và đau lòng. Đó cũng là giai đoạn
khác trong trưởng thành, tức trong cung cách ổn định
thực tại.
Làng
xóm cũng thế. Họ nhận ra được người con trai là
thành viên trong làng. Dưới con mắt của họ, cả người
con đi hoang lẫn người cha hiền đều đáng xấu hổ.
Nhưng cả hai đã chung thủy với gia đình. Người cha và
cả gia đình đã mở tiệc chào đón người con đi hoang
nay trở về với gia đình và làng xóm. Cả làng ăn mừng
bằng bê béo. Cả làng cùng kéo đến ăn mừng. Nhưng sẽ
hỏi rằng, hai cha con có ngây ngô vẫn sống theo kiểu
trước đó chứ? Người trong làng có cần biết những gì
mà thành thị lẫn phố chợ đã và sẽ làm cho con người
không? Dân làng có cần coi chuyện đoàn kết cách thiển
cận như chuyện đã qua, rồi bỏ không?
Thái
độ của người anh thì sao? Anh tượng trưng cho sự đúng
đắn, trong hệ thống rất đóng kín. Anh chẳng làm điều
gì sai trái, bởi anh có bao giờ làm gì đụng chạm đến
đời mình đâu. Anh vẫn là con trẻ. Vẫn nổi nóng, tách
rời không làm thành viên gia đình và làng xóm. Cuối cùng
thì, anh vẫn có phần gia tài của anh khi người em lấy
đi phần của hắn. Anh không cùng xóm làng tham dự tiệc
mứng đón em. Anh chọn đứng xa, ở ngoài. Anh từ chối
chào mừng thực khách, chẳng giúp vui cho bất cứ ai. Cha
anh, vì quá mệt về tình cảm đã nài nỉ anh, nhưng anh
kết án cha những điều không đúng. Anh vẫn ở lại
trong nỗi giận rồi tự hỏi sau này mình già thì cha và
em có coi sóc mình không? Và người cha bất chấp tính
tình kỳ quặc của anh lớn không rộng lượng thủy chung
với tình gia đình.
Bắt
chước Giám Mục Helder Camara, có lẽ ta cũng nên nguyện
cầu khi nghe kể truyện người con đi hoang như thế. Cũng
cứ cầu cho mọi người con thấy khó lòng mà trưởng
thành, chín chắn. Cũng nên cầu cho thế hệ trẻ không
dám mạo hiểm để lớn lên, để trưởng thành trong
chính chắn. Cũng nên cầu cho các bậc cha mẹ vẫn xem xét
và nguyện cầu và ở đâu đó khi sự việc diễn ra. Cầu
mong sao, ngày nào đó tất cả đều sẽ đến với nhau và
cùng ăn mừng cho người con nay trưởng thành trong chín
chắn và cả người anh cũng biết đối xử cho đúng đắn
mà tham dự.
Trong
tinh thần cảm kích truyện kể rất ý nghĩa, tuởng cũng
nên ngâm nga lời ca còn chưa dứt:
“Tôi
vẫn đợi, đợi thêm người chút nữa
Tự
an ủi mình khi cắn nỗi sầu đau
Tình
một hai năm… chưa bạc mái đầu
Chưa
tuyệt vọng bởi vì chưa hy vọng…”
(Nguyễn
Tất Nhiên – Tình
Một Hai Năm)
“Tự
an ủi”, “cắn nỗi sầu đau”, có thể là tâm trạng
của người sống rất đúng luật nhưng lại không dám
mạo hiểm để trưởng thành, như người anh trong truyện.
Đó, là thái độ cần đổi thay trong những ngày này của
mùa rất Chay kiêng, tâm tịnh.
Lm
Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai
Tá lược dịch
Đăng nhận xét