Các bài suy niệm: CHÚA NHẬT 7 PHỤC
SINH_C
Cv
7,55-60; Kh 22,12-14,16-17.20; Ga 17, 20-26
MỤC
LỤC
2.
Trong cung lòng Thiên Chúa.
3.
Dấu ấn của Thiên Chúa - Achille Degeest
4.
Chờ mong Thần Khí
5.
Hiệp nhất
6.
Nên một
7.
Người yếu
8.
Cái giá phải trả cho cuộc sống
9.
Xin cho chúng nên một – Lm. Vũ Thái Hoà
10.
Chú giải của Noel Quesson
11.
Chú giải của Fiches Dominicales
1.
Hiệp nhất
Một linh mục dòng Tên làm
việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại
một câu chuyện tưởng tượng như sau: Ngày kia, Chúa
Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một
trận bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa
Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội
Tin Lành và một đội Công giáo.
Đội Công Giáo làm bàn trước.
Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên
trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một
đều. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung cả
mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh
lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa
Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:
- Này ông bạn, ông bạn ủng hộ đội nào vậy?
Xem chừng như còn bị kích
thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
- Tôi hả? Tôi không ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.
Người khán giả đã khó chịu
về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội
hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
- Gã này quả là một tên vô thần.
Trên đường về nhà, chúng
tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên thế
giới. Chúng tôi nói với Ngài:
- Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ
ưng ý. Ngài nói:
- Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.
Khi nói đến hiệp nhất, chúng
ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó
những ai nghĩ khác chúng ta, đều phải qui phục và đứng
về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn
của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ
những sự phong phú riêng biệt của mỗi người, hay mỗi
nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự
tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Chỉ có một Chúa, một phép rửa,
một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để
nói về Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm.
Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có nhiều
cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội
và trong thế giới?
Qua thư gửi tín hữu Corintô,
thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân
xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự
đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có
nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả
đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân
xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách
nhiệm về sự lớn mạnh ấy.
Cũng thế, mỗi người chúng ta
là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý
nghĩ khác nhau và việc làm khác nhau, nhưng mỗi người
đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát
triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự
phát triển ấy.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo
hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn
trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu. Đa
dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng nhau.
Lúc đó, Giáo hội được sánh
ví như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài
hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau.
Ôi xinh đẹp thay, phong phú thay
Giáo hội Đức Kitô!!!
2. Trong cung lòng Thiên Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt)
Trong lịch sử Việt Nam, tôi
thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không
những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người.
Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng.
Thời nhà Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và
Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại có mối thù không
đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo trước khi tắt
thở còn dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù.
Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần Hưng Đạo
suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước
các tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế
giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần Hưng Đạo gạt bỏ
mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một
hôm, Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay
nấu nước tắm cho Trần Quang Khải và nói: “Hôm nay
được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang
Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng
công tắm cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung
vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết
của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.
Sự đoàn kết của Trần Hưng
Đạo và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng
của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu
nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp
nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng
được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt Nam có câu:
“Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có
đoàn kết làm việc gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu
cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi làm tan
rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp
nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới
có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là dấu
chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của
Thầy, là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp
nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai,
khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu
thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa xem họ
yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin
vào đạo để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất
yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự
hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp
nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được
sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ
Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi
trở thành một. Như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong
Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là một”. Cho
đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là
nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy
nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó,
ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình
Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn
mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải đoàn kết yêu thương
nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương
mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương
của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là
một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng
dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng
nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên mình. Vì
thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất
nhiều phấn đấu. Phấn đấu của bản thân. Phấn đấu
của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp
nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta
sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham
dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất
chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
- Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?
- Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?
- Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
3. Dấu ấn của Thiên Chúa - Achille Degeest
Người ta nói đến Phúc Âm về
nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh
chép sử Matthêu, Marcô và Luca, trong đó mô tả, với một
số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong hoàn
cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người.
Chúa được trình bày như một người rất cụ thể, rất
“thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư thánh
Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm
về thần trí, vì hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh
vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho chúng ta. Tất
cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song
bản, một bộ Phúc Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng
ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính và thần
trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình
hoặc chỉ dẫn của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc
Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm nay phụng
vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp
nhất trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu
ra một trong những chức năng cơ bản của Giáo Hội, đó
là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức
năng ấy.
1) Giáo Hội đóng vai trò trung
gian của Đức Kitô bên cạnh thế gian.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các
tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ
hoạt động tông đồ sẽ tin vào Người. Chúa biết rằng
các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu
xin cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là
đứng giữa, được thiện cảm của cả hai bên, đóng
vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông đồ
tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của
Người được thật sự thuộc về thế gian, đồng thời
triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội là
những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể
nhân loại, một hỗn hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm
chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần phải tham
dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất
trong tình yêu. Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu
nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong trào đại
kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi
Thiên Chúa) phải tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên
dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa
nhân loại.
2) Vai trò trung gian của Giáo
Hội phải mang dấu ấn đại kết.
Thiên Chúa không chia rẽ với
chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ
đi ngược yêu cầu chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất
hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu thương
mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn
của tội lỗi. Ở điểm này, mỗi người chúng ta phải
tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một
Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa
những “Giáo Hội” (sự phân hoá này giống như một
vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt
quá sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ
trách nhiệm của mình. Bằng cách nào? Bằng cách chiến
đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự
tội gây chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết-
trong khung cảnh sinh hoạt của mình trở nên một cực đại
kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa,
ăn ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô
hữu phải lãnh trách nhiệm mang trong não trạng, trong ngôn
ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu
hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.
4. Chờ mong Thần Khí
Suy Niệm 1. BÀI HỌC TỪ
TÊPHANÔ
Thánh Têphanô là người môn đệ
đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là
một thanh niên quảng đại và can đảm. Ông đã làm chứng
cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả
bằng cái giá của sự chết.
Đặc tính nổi bật của cái
chết ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu.
Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội. Giống như Đức
Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử
trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Giống như
Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo lực bên
ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như
những người bị loại bỏ trong cái chết).
Giống như Đức Giêsu, Têphanô
cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy
Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức
Giêsu đã trao linh hồn của Người vào tay Thiên Chúa với
lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con
trong tay Cha”. Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã
phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với lời này: “Lạy
Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả
những sự kiện, Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết
của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức Giêsu.
Sự tàn ác trong việc ném đá
Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết
ông cởi hết quần áo của ông ra và đặt dưới chân
thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông
này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết
chết những người như Têphanô. Ngày nay, một số người
cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết người khác
để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.
Sao lô như chúng ta biết không
lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một
chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Chắc chắn, ông
đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ
mà Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải
của Sao lô chứng tỏ rằng một người có thể thay đổi,
và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.
Nhưng Têphanô không chỉ bày tỏ
những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở
thành một anh hùng lúc chết nếu người ấy không là một
anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam kết
theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những
Phó tế đầu tiên được các tông đồ chỉ định để
phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã
rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ
hãi của ông về Đức Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo
Do Thái nổi giận.
Têphanô đã đem lại loại làm
chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái
chết của mình. Mức độ làm chứng này không được ban
cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc
nơi mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời
sống của chúng ta. Đây không phải là một cách làm
chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi
nhiều sức mạnh với lòng can đảm. Thế giới ngày nay
đang kêu gọi sự làm chứng của những người không sợ
trở nên một Kitô hữu chân chính.
Ngoài việc chỉ cho chúng ta phải
làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách
chết thế nào mà mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là
chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó mình cho
lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.
Suy Niệm 2. BÀI HỌC TỪ
PHAOLÔ
Có một hậu cảnh, nhưng đóng
vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô
đó là Sao lô. Ông giữ áo cho những người ném đá và
là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu. Dù
vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán
cải và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức
tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.
Sự kiện Phaolô tham gia vào việc
giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn
xấu xa. Đúng hơn đó là một sự mù quáng. Thái độ
cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên, có
một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một
người có cam kết cao độ, có khả năng làm việc gian
khổ và chịu hy sinh to lớn.
Khi một người trải qua một
cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã
trở thành một con người hoàn toàn mới”. Nhưng đó
không phải là toàn bộ sự thật. Trong mỗi cuộc hoán
cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những yếu
tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới
đã được thiết lập. Tài năng và thiên hướng của một
người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng
hơn, chúng được định hướng lại.
Nếu chúng ta có mặt lúc Têphanô
bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ
việc, hẳn là chúng ta đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng
ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác
trong một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ.
Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền tảng của một
kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta
thành hai loại: thánh nhân và tội nhân.
Nhưng con người không dễ phân
loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số
người dường như không biết gì về bản tính chia cắt
của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu
đuối nơi một người nào, họ liền loại bỏ người ấy
mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có mùi của chất
lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng
đắn và khôn ngoan không? Chúng ta có nên cấm người ta
thay đổi không?
Một nền văn hoá không không ích
lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là
giam chúng lại và vất chìa khoá phòng giam đi. Một nền
văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là
một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin
chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi chúng ta không thể chấp
nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết
người là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có
cơ may trở thành người, để sửa chữa và chuộc lại
lỗi lầm.
Chúng ta phải học tập sự nhẫn
nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng
ta phải biết rằng chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng
ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một con
người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một
hành động hoặc bởi chỉ một giai đoạn nào đó của
đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người
ấy.
Câu chuyện của Phaolô cho thấy
rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không
bao giờ gạt bỏ một ai ra ngoài ơn cứu chuộc. Một
người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được
cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp
của Phaolô. Đó là một bài học to lớn trong đời ông.
Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán
cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô
hữu chân chính. Phaolô đã xúc động bởi lòng can đảm
và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.
TIẾP CẬN KHÁC: Hội
đoàn của người yếu.
Làm một tín hữu trong thế giới
ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở
chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng
đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc
Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của
các môn đệ người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên
một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là
một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta
không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng
đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý
tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước
muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh
khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một
tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành
một thành viên của một cộng đoàn những người thánh
thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự
thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người
mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và
bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị
kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã
rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không
gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ
mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút
nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội
đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn
kết lớnhơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự
yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng
hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu
ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó,
chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con người
cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy
tụ, đặc biệt quy tụ những người yếu đuối. Cộng
đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và
dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự
thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi
người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông.
Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết
rằng họ được yêu thương không phải vì những thành
tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt
được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có
khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời
kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn
mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành
công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán
phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất
bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy
gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và
tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong
sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn
bè yếu đuối. Hội những người Nghiện rượu Vô Danh
là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên
đến với nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh
mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách
trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương
mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe doạ cho
người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và
đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới
được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu
đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ
phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn
nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng
ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi
lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên
khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm
mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của
tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải trong một
cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em
khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc
của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radeliffe).
5. Hiệp nhất
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì
đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm và trách
nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao
giảng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho
những người khác. Trong việc thực thi bổn phận ấy,
sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy
sự hiệp nhất đó, là sự hiệp nhất nào? Sự hiệp
nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc
truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự
hiệp nhất ra sao, để góp phần vào công việc truyền
giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng
hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.
Trước khi từ biệt trần gian,
Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết với Chúa
Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ
mà tin vào Chúa Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp
nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những người này nhưng
còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả
nên một”.
Sự hiệp nhất ở đây là một
ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin
với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không
thể là giả tạo như sự hiệp nhất của hai cây gậy
buộc lại với nhau thành một; cũng không như hai người
bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi,
nhưng là nhắm lợi ích riêng của mình; càng không phải
là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va
chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang
chia rẽ. Trái lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu
thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó phải được
như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha
ở trong Con, như Con ở trong Cha”.
Như vậy, sự hiệp nhất ở đây
không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự
hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn
bản của sự hiệp nhất này là tình yêu phát xuất từ
Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có
tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Thế và nhận ra tình yêu thương của Chúa Cha đối
với nhân loại.
Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất
rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha cho chúng
ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền
giáo rất đặc biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và
nước trời là những mầu nhiệm, những thực tại vô
hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái
lại, khi nhìn thấy đời sống yêu thương hiệp nhất của
các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện diện
của Thiên Chúa và nước trời.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI
cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của
sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa
chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ
Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai
đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của
các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.
Quả vậy, có hiệp nhất với
nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con
người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những
con người có đức tin trưởng thành, có khả năng đối
thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý
cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh
chứng chúng ta là môn đệ Đức Kitô, là những con người
có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn người
ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn
nữa, một sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa liên kết
chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của
Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời
Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa Cha:”Xin cho họ nên một,
như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã
sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Sống hiệp nhất nên một cách
thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” có
một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng.
Thế nhưng làm sao chúng ta có thể hiệp nhất nên một
cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha được?
Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm
tay của chúng ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực
hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong
ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho
họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên
một như Chúng Ta là một…” Vinh quang ở đây, chính là
sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào
chính sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng
ta hiệp nhất với nhau, cho nên phương thế hay nhất để
thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ
chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc
sống Thần Linh của Ngài, nhờ việc kết hiệp với Chúa
Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa
Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời
Chúa trong cuộc sống; nhờ việc chân thành cầu nguyện
cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu với
nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp
nhất với Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiệp
nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia
rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là
dấu hiệu để người ngoại nhận ra Thiên Chúa là tình
yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được
Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình yêu thương
của Người, và lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng sống
hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc
truyền giáo.
Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm
nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất có một
sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha
thiết cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với
nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức rằng Chúa
Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn
Chúa để làm triển nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn
xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta sống
gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp
lễ, lãnh nhận các bí tích, lắng nghe lời Chúa, cầu
nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình cũng
như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu
là giềng mối sự hiệp nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ
dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh chị
em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo
sự hiệp nhất nơi chúng ta.
6. Nên một
Khi cầu nguyện cho các môn đệ
tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp
nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được
nên một như chúng ta là một”.
Sự hiệp nhất không giống như
sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ với
đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã
hội để gợi ý rằng Người đã tìm trong tính đa dạng
một sức sống lành mạnh.
Sự nên một không thể được
thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác nhau.
Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác
nhau và góp phần bằng những ơn gọi khác nhau, nhưng tất
cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích
chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải
được thanh luyện khỏi nhu cầu chứng tỏ mình là tốt
nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người
khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.
Chúng ta được kêu gọi từ
nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân thể
trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác
nhau đó, chúng ta trở thành nhân chứng của Thiên Chúa,
Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường lối khác
nhau.
Người ta kể lại một câu
chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc sáng thế, sau
khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn
đề bất ngờ. Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường
như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh ra lòng kiêu
ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất
sắt.
Các cây ấy lập tức biết rằng
đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc chúng
vừa nói: “Oi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó,
chúng tôi sẽ bị lưỡi rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa
đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu không có
cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu
lại làm bằng gỗ, các ngươi hãy cố sống trong bình an
và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất và cái rìu
sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.
Đức Giêsu biết rằng sự nên
một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non trẻ
(các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng
yêu thương, và là kết quả của lòng trung thành với
giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em”.
Cộng đoàn là một thách đố
lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho nhau. Nó
bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và
niềm vui mừng trong hạnh phúc của những người khác.
Tính vị kỷ là một tai họa đối với một cộng đoàn:
mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng
không một ai muốn quan tâm đến những người khác.
Đáng buồn là qua bao thời đại,
sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo Hội của
Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày
nay chúng ta không phải chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội
Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một cớ
gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật
sự gây vấp ngã không phải là có nhiều tín ngưỡng và
sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu thuộc các giáo
phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau.
Chúng ta thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ
trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên quan đến việc
giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người
trung kiên của một tôn giáo (Do thái giáo) giết những
người của một tôn giáo khác nhau. Chúng ta không nên
ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho
sự qui tụ sắp tới của mọi Kitô hữu.
7. Người yếu
Làm một tín hữu trong thế giới
ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở
chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng
đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc
Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của
các môn đệ Người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên
một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một
lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không
cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn
như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý
tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước
muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh
khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một
tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành
một thành viên của một cộng đoàn những người thánh
thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự
thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người
mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và
bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng giòn, tội lỗi và
vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh
đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không
gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các tông đồ
mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút
nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội
đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn
kết lớn hơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự
yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng
hãy lấy một bó đũa làm ví dụ. Từng chiếc đũa thì
yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó,
chúng hầu như không thể bẻ gãy được. Với con người
cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc qui
tụ, đặc biệt qui tụ những người yếu đuối. Cộng
đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và
dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự
thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi
người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông.
Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết
rằng họ được yêu thương không phải vì những thành
tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt
được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có
khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời
kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn
mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành
công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán
phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất
bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy
gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và
tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong
sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn
bè yếu đuối. Hội những người nghiện rượu vô danh
là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên
đến với nhau là không để được chia sẻ sức mạnh mà
là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung
thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà
người nào cũng có. Không ai là một mối đe dọa cho
người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và
đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới
được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu
đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ
phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn
nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng
ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi
lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên
khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm
mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình
yêu Thiên Chúa được nhìn thấy “không phải trong một
cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em
khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về vương quốc
của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radcliffe)
8. Cái giá phải trả cho cuộc sống
Kitô hữu chúng ta thường bị tố
giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời
sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô
giáo không phải là một tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho
dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống của
một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để
cướp đi niềm vui của cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang
cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà Thiên
Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và
lo lắng cho chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu
rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang đến cho
chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự
sống đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay
từ ở đời này. Sự sống đó đến với chúng ta, và
nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây
giờ thì việc lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô
ích.
Có một câu truyện kể về một
chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn gái
và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không
thể nào sống nếu thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng
đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh Gioan, đừng
nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh
Gioan liền hỏi lại, “Như thiệt vậy?” Thật ra đó là
cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và bày
tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả.
Chúng ta chỉ nói chơi thôi.
Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ
với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ câu truyện người
thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng
trong tâm hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần
thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh vẫn cảm thấy một
sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn
bé. Đối với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người
gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh lại là một
người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy
Thầy nhân lành, con phải làm gì để tìm kiếm được sự
sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã trả lời
với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần
phải làm thêm một điều nữa là hãy về bán hết của
cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo Ngài
(Lc 18:22).
Có một câu truyện khôi hài
như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến
muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác
Niagara. Sáng kiến này đã được nhiều người thực
hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa
là ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một
chiếc xe cút-kít và chở một người ở trên đó. Ông đã
không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe
cút-kít chở đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến
nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta có thể làm
được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có
phải anh rất tin tưởng tôi có thể làm được chuyện
này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin như
thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì
anh hãy lên ngồi trên chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy
anh đi trên dây.”
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã
làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài hỏi họ
có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc
xe cút-kít! Hãy chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc
thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo ta!” Việc
này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối
mà không ngoại lệ. Đó là điều làm cho nhiều người
phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái
lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc,
chúng ta lơ là không nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn
tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta phải
trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.
Nếu các bạn là những người
đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc của
cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy
chuẩn bị để trả cái giá mà nó đòi hỏi. Các bạn
phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội
tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt
đối, ngài đã phải chịu sỉ nhục và ném đá do những
người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã
quì gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh
hồn con... Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59). Những
lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã
nắm chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa
của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu. Thánh Stêphanô không
phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng
không phải là người xa lạ với sự sống đời này.
Thánh Stêphênô đã không do dự để trả lời lời kêu
gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi
vì thánh nhân đã quá quen với sự việc đó nhiều lần
trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc sống làm
chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức
Kitô rằng khi cuộc sống này kết thúc thì phần thưởng
sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong chúng ta,
có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả
cái giá dưới một hình thức nào đó.
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và
chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần phải làm
gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng
Chúa Giêsu có thể đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong
cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc sống của chúng
ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt
sự sống của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín
thác vào Ngài.
9. Xin cho chúng nên một – Lm. Vũ Thái Hoà
«Con không cầu xin cho chúng mà
thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà
tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở
trong Con và Con ở trong Cha.» Sự mong ước của Chúa
Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp
nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng
ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã
biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng
biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài,
chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài
thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết
bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng
không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng
đoàn công giáo Việt Nam...
Một linh mục Ấn Độ tên là
Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như
sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao
giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi
bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một
đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm
bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung
cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành
làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng
tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm
ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu.
Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: «Ê ông bạn,
ông bạn ủng hộ bên nào vậy?». Xem chừng như vẫn còn
bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
«Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây
là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi». Người
khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây
giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên
cạnh và nói nhỏ: «Hắn này là một tên vô thần!»
Trên đường trở về nhà, chúng
tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên
thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: «Thưa Chúa, những
người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng
Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại
với những người thuộc tôn giáo khác». Chúa Giêsu gật
đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: «Đó là lý do tại sao Ta
không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con
người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn
ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có
tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.»
Khi nói đến hiệp nhất, chúng
ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai
nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất
theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những
sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi
nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự
tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một
Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều
cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một
Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao
chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có
nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo
Hội và trong thế giới?
Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô
(1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của
một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội
trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của
các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân,
tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng
tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh
mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự
lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta
là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau,
nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác
với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới
chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo
Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất
trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn
điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc
đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi
thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác
nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!
10. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối
“Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên
trời và cầu nguyện rằng
Tôi thử mường tượng ra quang
cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu
sắp sửa ra đi chịu chết. Sau khi đã bầy tỏ những tâm
sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời
bỏ, Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài
cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện dài nhất của Đức
Giêsu trong các Tin Mừng.
Con không chỉ cầu nguyện
cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ
mà tin vào con.
Một lần nữa, chúng ta được
mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào
về Người. Người khoảng ba mươi tuổi sắp phải chết,
chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực
hiện. Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã
tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản nộp Người Đức
Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ
Người. Trong tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện”
cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người trong tương
lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công
việc phát triển rộng lớn của công trình Người thực
hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ người sẽ tin vào
Người. Người đã thấy trước Giáo hội.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho
mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào
Người: Người cầu nguyện cho tôi, ngay chiều hôm đó.
Đó là lời cầu nguyện được
thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của
một con người cụ thể. Thánh Phaolô quả quyết, lời
cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ
đây Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện
giúp cho chúng ta (Rm 8,34). “Ngài hằng sống để chuyển
cầu cho họ”. (Dt 7,25).
Vậy nội dung của lời cầu
nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các
tín hữu không?
Xin cho tất cả nên một...
Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức
Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự
Hiệp nhất!
Một lần nữa, qua lời cầu
nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như
một người sáng suốt phi thường. Người đã cảm thấy
trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người
sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)!
Người dũng cảm thấy rằng, thảm kịch to lớn của các
tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy
ra)!. Tư tưởng tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang
trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều tuyệt đối mà
nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi
lên: đáng buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở
thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ hiện đại, với
đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn
đến sự cuồng tín, và do đó đến những ly cách và sai
lầm.
Vâng, sự hiệp nhất là một
trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự
hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết bao thái độ chống
đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như
trong Giáo hội.
Lạy Cha, như Cha ở trong Con
và Con ở trong Cha
Đó không chỉ là một sự thông
cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều
gì khác hơn là một sự khoan nhượng chân thành với
nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn”
của các khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để
kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.
Mô hình tiêu biểu được Đức
Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là
nhiều nhưng chỉ làm nên một. Thực sự, chúng ta luôn
nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là những
người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại
với chúng ta! Khi hai người chia rẽ nhau vì sở thích,
chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự hiệp nhất
đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai
người tương quan: lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại
bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi! Trái lại
trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau,
nhưng lại tôn trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông
trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự hiệp nhất của
nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở
chỗ chỉ nhằm tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của
mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ phối hợp
mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội
cần phải xây dựng một sự hiệp nhất trong thái độ
tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Tại sao mọi chủng tộc, mọi
nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã
được Thiên Chúa trao ban cho họ như một yếu tố của
sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại
có thể buộc những người cầu nguyện cách khác phải
tuân theo? Cần phải chân thành thú nhận rằng, Giáo hội
Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với
“Âu Châu” hay “La tinh” của mình. Những nhà thần
học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo thường nghĩ
rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa
Ba Ngôi, Nhập thể, Cứu chuộc ...) chỉ thực sự bày tỏ
tất cả sự phong phú thần học, khi chúng được chuyển
dịch lại nhờ các bộ óc của những người An Độ,
những người Châu Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo
hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm đó đã bắt
đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp
của Platon và Aristote.
Nhưng chúng ta sẵn sàng sống “sự
hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác
biệt” không?
Ngày nay, mọi Người đều nói
đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự,
chúng ta có hướng tới một thái độ chân thành lắng
nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng
riêng tư một chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một
sự tôn trọng kẻ khác không?
Để họ được hoàn toàn nên
một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã
sai con.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta
hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy
trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu
này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm
nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican
II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín
điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế
tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã
đặt trọn vẹn suy tư'của mình trên một kiểu nói của
thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm
250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất
cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và
Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại,
kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo
hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu
chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như
là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết
hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với
toàn thể nhân loại” (LG số 1).
Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm
kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm
tông đồ tốt hơn, những công trình cần phải thiết lập
hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để
thế gian tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những
người trưởng thành đã đánh mất nó. Từ lâu, Đức
Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người:
chính sự “hiệp nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy
nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là người ta có
thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người
sống đức tin thế nào để đức tin có sức hấp dẫn
kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, xin làm
cho chúng con nên một như Chúa.
“Phần con, con đã ban cho
họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên
một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong
con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế
gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu
thương họ như đã yêu thương con”.
Đó là lời cầu nguyện của Đức
Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức
Giêsu thông truyền tất cả những gì Người đã sống
trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết riêng”
của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song,
giúp Người được vinh quang, phấn khởi, tươi vui: đó
là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha,
được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong
nhau”: Cha ở trong con. Đức Giêsu là con người hoàn toàn
thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa Cha”.
- Lời nói của Người ư? Đó là những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40...): Yêu thương.
- Ý muốn của Người ư? Đó là ý muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38 ...): Yêu thương.
- Hành động của Người ư? Đó là hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28 ...): Yêu thương.
- Con người của Người ư? Đó là con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.
Hình tượng của Chúa Ba Ngôi đó
là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động
của chúng ta trong phạm vi gia đình, thành phố, nghề
nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu
thương!
Lạy Cha, con muốn rằng con
ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cứng ở đó
với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh
quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước
khi thế gian được tạo thành.
Lời nói “Con muốn” trên đây
của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin
Mừng: một kiểu nói đòi hỏi ít gặp thấy trên môi
miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa
Cha; thế nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy
nhất của Đức Giêsu là gì, khiến Người đã mạnh dạn
nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số
phận diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh
phúc mà chính Người đã cảm mến trước khi thế gian
được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên
những kiểu nói thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự
đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu trước khi
thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng
ta thấy.
Lạy Cha là Đấng công
chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết
Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai
Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết
nữa.
Đó là thảm kịch của Đức
Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh
suốt đời Ngài. Đó là từ chối của con người trước
“đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình
yêu Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống”
với tôi không? - Không. Chúng ta có thuộc vào số những
người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận
biết” món quà tặng phi thường được trao hiến cho họ
không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của sách Khải
huyền hoàn toàn sung sướng không?
Để tình Cha đã yêu thương
Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa.
Lời nguyện của Đức Giêsu đã
kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp,
ta sẽ bước vào vườn Ôliu, để chứng kiến cuộc nộp
bắt do Giuđa dẫn đầu.
Ta có thể nghĩ rằng, Đức Giêsu
vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế,
trong những giờ phút cuối cùng của đời Người. Ta cũng
có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục
chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của
Tin Mừng, “Tin vui” lớn lao: đó là chính Tình yêu của
Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha đã yêu
Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa,
được chia sẻ cho mọi người muốn đón nhận.
Điều đang hoạt động giữa
lòng nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ
đáng thương của ta, cho dù có bất toàn đi nữa, thì
thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp
các ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một
ngày nào đó, chúng ta sẽ được nối lại!
11. Chú giải của Fiches Dominicales
LỜI CẦU NGUYỆN
TRỌNG ĐẠI CỦA ĐỨC GIÊSU XIN CHO HỌ NÊN MỘT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tiếp theo diễn từ giã
biệt
Xưa kia, trước khi ông Môsê lìa
xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt,
ông đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho các chi tộc
Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu,
Môsê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt
lên trời đàm thoại với Cha Người. Người thâu tóm một
trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những ngày
sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người
và các môn đệ.
- Trước hết Người cầu cho chính mình (c. 1-5).
Rồi nhắc đến tình thế do cuộc
ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ
(c.6-19).
- Và sau cùng Người cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.
2. ...là lời cầu nguyện
trọng đại của Đức Giêsu.
Đức Giêsu cầu xin: “Xin cho họ
nên một” bằng hai vế (c 20-21 và 22-23), được kết cấu
theo kiểu song hành.
Từ ngữ “nên một” không phải
được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ
ngữ đó để chỉ sự liên kết giữa Người với Cha
(10.30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “Sẽ
chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Còn
trong lời cầu nguyện cho các môn đệ lúc này, từ ngữ
đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín
hữu, nó chỉ sự hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất
phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour
giải thích: “Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu
sau này thì ta hiểu: sự hiệp nhất nên một của các
“tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Chúa Cha
và Chúa Con”
Chính nhờ sự hiệp nhất của
các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức
Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến: “Như vậy thế gian sẽ
nhận biết là chính Cha đã sai Con”
- “Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con”. Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là “chiêm ngưỡng vinh quang của Người” - tác giả giải thích tiếp - là được thấy người mặt đối mặt, “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).
- Nhưng việc các tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con duy nhất, phát xuất từ việc cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời nguyện kết thúc bằng câu: “Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”. Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Dấu chỉ của Thiên Chúa
nơi trần gian
Đức Giêsu đã sống những giờ
phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với
nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị nộp vào tay những kẻ
toan giết Người.
Đó là “giờ của Người”.
Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những
lo âu của giờ phút ấy. Anh mắt ấy mở rộng tầm nhìn
hướng về đám đông những người sẽ tin theo Người
cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những
kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ
Chúa thuộc mọi thế hệ. “Con không chỉ cầu cho những
người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào
Con”.
Chúng ta được lời cầu nguyện
của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương tựa
của ta đó sao? Người cầu xin điều gì cho các kẻ tin
Người chỉ xin có một điều duy nhất: “Cho họ được
nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong Cha, cho họ
cũng ở trong chúng ta”.
Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai
những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng tầm
mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn
phận Đức Giêsu trao cho ta, để cổ võ sự hiệp nhất
và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà
Đức Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận
Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân huệ của Chúa Cha, một
ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một
nhiệm vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một
ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu xin cho
ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao
ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở
trong Con và Con ở trong Cha? Sự hiệp nhất thần linh này
chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên
Chúa thực hiện trong ta. Đó chính là điều Đức Giêsu
nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con,
để họ được nên một, như chúng ta là một...” ước
vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp
thông đời sống, là chính sự sống của Thiên Chúa.
Chính vì thế, Ngươi mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha
và thông truyền cho họ tình yêu duy nhất phát xuất từ
Chúa Cha: “để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ,
và Con cũng ở trong họ nữa”.
Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ
có thể trở thành dấu chỉ của chính Thiên Chúa giữa
trần gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì
họ ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa sống trong họ, chính
nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế gian. Tình yêu
nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính
tình yêu nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy,
cộng đoàn các môn đệ có thể khơi dậy đức tin: “Như
vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu
hướng về một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích
đến từ Thiên Chúa và liên kết các môn đệ lại với
nhau, là biểu hiệp sự hiện diện của Thiên Chúa, giữa
thế gian. “Như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng
chính Cha đã sai Con vì đã yêu thương họ như Cha đã yêu
thương Con”. Ơn gọi của chúng ta vĩ đại dương nào
Này đây chúng ta được gọi để trở nên địa điểm
cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian? Chỉ có sức mạnh
lời cầu nguyện của Đức Giêsu mọi có thể thực hiện
được điều đó trong chúng ta.
2. Hội Thánh là hiệp thông
(HĐGM Pháp: “Giáo lý cho người
lớn”, trg 187-188).
“Tôi tin Hội Thánh duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Khi các tín hữu
tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, họ xác quyết rằng
Hội Thánh được nhận biết nhờ những đặc điểm đó.
Đó là những “điểm son” của Hội Thánh. Vì không chỉ
mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý
sâu xa về mầu nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều
đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải chỉ nguyên
nhờ nhìn bề ngoài mà biết được.
“Hội Thánh toàn cầu xuất
hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
Nguồn phát sinh sự hiệp nhất
của Hội Thánh được nói đến trong thư thánh Phaolô gởi
tín hữu Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần
Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng
một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một
phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người,
Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep
4,4-6).
Bởi vậy, Hội Thánh quả quyết
rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do chính
mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sự hiệp nhất này có thể nhìn
thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không bao
giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng
một đức tin, được định thức trong cùng một kinh Tin
Kính. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa
duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân
tộc duy nhất.
Bí tích Thánh Thể, bí tích của
sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không ngừng canh
tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại
với nhau bằng dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ
các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ cho sự hiệp
thông của Hội Thánh.
Bởi vì sự hiệp nhất của Hội
Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay do kỷ
luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như
hiệp thông đó là “một khái niệm trung tâm và nền
tảng” (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985). Khái niệm này
được triển khai trong các lài liệu của Công Đồng
Vatican II. Sự hiệp thông này là hiệp thông giữa Chúa
Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh
Thần (xem 1 Ga l,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ
trong tình bác ái.
Sự hiệp nhất còn là một yếu
tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của các
tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc
truyền giáo.
Đăng nhận xét