Alexei Volkov
Đại học Quốc gia Thanh Hoa, Tân Trúc
(Hsinchu), Đài Loan
Hình dạng và vị trí của Việt Nam trong
các bản đồ phương tây trước cuối thế kỷ XVII thay đổi đáng kể; người ta có thể
cho rằng tư liệu các nhà truyền giáo ở Việt Nam sưu tập được từ năm 1615 chắc
chắn giữ một vai trò trong sự thay đổi đó. Trong bài này, tôi sẽ tập trung vào
hai bản đồ của Việt Nam được giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593-1660) công bố
trong tác phẩm Relazione de’ felici sucessi della Santa Fede
predicate da’ padri della Compagnia di Giesu nel Regno di Tunchino (Rome,
1650) và Divers voyages et missions du P.Alexandre de Rhodes en la Chine et
autres royaumes de l’Orient (Paris, 1653) và thử xác định các
nguồn mà ông ta có thể sử dụng khi vẽ các bản đồ này. Không rõ tác giả của các
bản đồ là ai. Một ghi chú ở bản đồ thứ hai nói rằng nó được “các Giáo sĩ đạo
Jesus” vẽ, nhưng vẫn chưa rõ “các Giáo sĩ’ này làm việc ở Việt Nam hay ở châu
Âu, hoặc cả hai nơi. Đường Kinh tuyến gốc dùng trong bản đồ này được cho là
giống với đường Kinh tuyến gốc được dùng trong một số bản đồ châu Âu, cụ thể
trong bản đồ của J. Hondius năm 1606. Điều đó gợi ý rằng một phiên bản của bản
đồ thứ hai có thể có đối với các nhà truyền giáo ở Việt Nam, những người nâng
cao nó bằng việc việc thêm một số địa danh và các yếu tố địa hình.
1. Dẫn nhập
Alexandre de Rhodes (1593-1660) là
một trong những nhân vật được biết đến rộng rãi nhất trong lịch sử
truyền đạo Công giáo vào Việt Nam ở thời kỳ đầu[1].
Ông ở cả hai vương quốc của Việt Nam, lúc bấy giờ được trị vì bởi
các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Ở cả hai
vương quốc, ông đều có xung khắc với chính quyền và bị trục xuất
khỏi vương quốc nhiều lần. Cuốn sách của ông Relatione de’ felici sucessi della Santa Fede predicate da’ padri
della Compagnia di Giesu nel Regno di Tunchino (Tường trình
về sự thành công của việc Truyền Bá Đức tin của các Giáo sĩ Dòng
Chúa Jesus ở Vương quốc Đàng Ngoài)[2] xuất bản năm 1650 bằng tiếng Ý, sau
đó được dịch sang tiếng Pháp (1651) và tiếng Latin (1652) có một bản
đồ Việt Nam (ảnh 1) cho thấy một mô tả chi tiết về đường biển và
toàn bộ lãnh thổ của đất nước, trải dài từ biên giới với Trung
Quốc ở phía bắc tới biên giới với Champa ở phía nam;[3] bản đồ được để hướng Tây ở phía
trên.

Ảnh 1. Bản đồ Việt Nam trong sách
của Alexandre de Rhodes (1650) (“bản đồ A”)
Một bản đồ khác của Việt Nam có
tên “Royaume d’Annan Comprenant Les Royames de Tumkin et De La
Cochinchine” (Vương quốc Annam, gồm Vương quốc Đàng Ngoài và
Vương quốc Đàng Trong) bao gồm một lãnh thổ rộng hơn (Ảnh 2) in trong “Divers voyages et missions du P.Alexandre de Rhodes en la Chine et
autres royaumes de l’Orient” (Các cuộc hành trình và truyền
giáo khác nhau của Cha Alexandre de Rhodes ở Trung Hoa và Các Vương quốc
Viễn Đông khác) được xuất bản năm 1653.
Một phần của lời ghi chú với
các chữ nhỏ in trong ô dưới góc trái cho người đọc biết rằng bản đồ
được “Vẽ bởi các Cha của Dòng Tên”, ngụ ý tác giả không phải một
người. Lời ghi chú này không nói rõ các Cha này truyền giáo ở Việt
Nam hay không, cũng như có cả các Cha ở các nơi khác, chẳng hạn như
Trung Quốc, Ý hay Pháp không, đồng thời cũng không nói rõ de Rhodes có
phải là một trong số tác giả hay không. Bản đồ này để hướng Bắc ở
trên và được vẽ ở Paris như lời ghi chú nói. Dưới đây tôi nói về hai
bản đồ này theo thứ tự là “Bản đồ A” và “Bản đồ B”.
Ảnh 2. Bản đồ Việt Nam trong sách
của Alexandre de Rhodes (1653) (“Bản đồ B”)
Vào thời gian hai bản đồ này được
xuất bản, một số bản đồ của Đông và Đông Nam Á do các nhà vẽ bản đồ chuyên
nghiệp thực hiện đã được lưu hành ở châu Âu trong một thời gian khá dài. Do đó,
những câu hỏi mà người ta phải trả lời khi xử lý các bản đồ do de Rhodes công
bố có thể là: Có liên hệ gì giữa hai bản đồ này với các bản đồ khác (có lẽ
là của phương Tây) về châu Á được thực hiện trước những năm 1650 không? Cụ thể,
(những) người tạo ra bản đồ A và B có vẽ các bản đồ châu Âu khác không, và nếu
có, họ có thể đã sử dụng những bản đồ nào làm mẫu? Hai bản đồ này có chứa bất
kỳ dữ liệu bản đồ mới nào không có trong các bản đồ (phương Tây) trước đó
không? Có phải bản đồ B do de Rhodes công bố muộn hơn bản đồ A khoảng ba năm
có chứa dữ liệu bản đồ khác với dữ liệu được trình bày trong bản đồ A không; và
nếu có, thì những sửa đổi được thực hiện trong bản đồ B đến từ đâu? Một câu hỏi
khác sẽ được thảo luận dưới đây liên quan đến các kinh độ trong bản đồ B:
chúng có phù hợp với các kinh độ được thể hiện trong các bản đồ Đông Nam Á
trước đây và cùng thời không? Cụ thể, “kinh tuyến gốc” nào được những người
vẽ bản đồ B sử dụng[4]. Trong bài báo này, tôi thử tìm
cách trả lời những câu hỏi này.
2. Cuộc đời và hoạt động của de
Rhodes: cái nhìn khái lược
Như đã nói ở trên, Alexandre de Rhodes
sinh năm 1593[5], gia nhập Dòng Tên năm 1612, và lên
đường sang Châu Á năm 1619. Ông đến Macao năm 1623 và đến Đàng Trong (miền
Trung Việt Nam do nhà Nguyễn kiểm soát) vào tháng 12 năm 1624; ông ở đó từ
tháng 1 năm 1625 đến tháng 7 năm 1626 trở về Macao và năm 1627 đến Đàng Ngoài
(tức miền Bắc Việt Nam do nhà Trịnh kiểm soát). Ông bị trục xuất khỏi
đây vào năm 1630, ở lại Macao cho đến tháng 2 năm 1640 và đến Đàng Trong một
lần nữa, rồi bị trục xuất khoảng bảy tháng sau đó. Sau một thời gian ngắn ở Macao,
ông trở về Đàng Trong (Đà Nẵng) vào tháng 12 cùng năm, bị chính quyền bắt và
trục xuất vào tháng 7 năm 1641.
Tuy nhiên, ông trở lại Đàng Trong vào
cuối tháng 1 năm 1642, trở lại Ma Cao vào tháng 9 năm 1643, và đến Đàng Trong
một lần nữa vào tháng 1 năm 1644. Ông bị bắt ở đó và bị kết án tử hình, nhưng
hình phạt này được thay thế bằng việc trục xuất. De Rhodes rời Việt Nam vào
tháng 7 năm 1645. Tháng 12 cùng năm, ông lên một thuyền đi từ Macao đến châu
Âu, nhưng trên đường đi ông bị người Hà Lan bắt, mất đồ đạc (kể cả danh sách
những người Việt Nam mà ông đã cải sang đạo Công giáo), du hành ở châu Á trong
vài năm, và cuối cùng đến được Rome vào tháng 6 năm 1649[6].
3. Bản đồ được công bố trong sách của de Rhodes
Trong phần này, tôi sẽ mô tả ngắn gọn hai bản đồ nói trên được công bố
trong sách của de Rhodes và so sánh chúng với các bản đồ về Đông Nam Á có ở
Châu Âu vào cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII.
Tác giả của bản đồ A thường được qui cho de Rhodes, vì ông đã công bố nó
trong cuốn sách của mình (1650) mà không nêu rõ tác giả của nó, trong khi bản
đồ B được ghi rõ ràng cho một số “Giáo sĩ Dòng Tên” không xác định; lời ghi
trong hình ô van (cartouche) cho biết rằng nó do Pierre Mariette (1603-1657)
vẽ. Phân tích của tôi gợi ý rằng có một mối liên hệ nhất định giữa các địa
danh đặc trưng trong hai bản đồ này cũng như vị trí của chúng; không thể loại
trừ rằng mặc dù có sự xuất hiện khác nhau, các bản đồ A và B có thể được dựa
trên cùng một bộ dữ liệu bản đồ. Hơn nữa, khá ngạc nhiên, có thể chứng minh
rằng thông tin bản đồ được trình bày trong bản đồ A trong một số trường hợp
chính xác hơn so với bản đồ được tìm thấy trong bản đồ B, có lẽ được biên soạn
sau đó và dường như cung cấp thông tin bản đồ chi tiết và cụ thể hơn.
3.1. Mô tả bản đồ A và B
Bản đồ A mô tả lãnh thổ bờ biển Việt Nam từ vĩ tuyến 12°N đến 24°N
(các chữ “N” là viết tắt của “North-Bắc”, “W” là “West-Tây”, “E” là
“East-Đông” – chú thích của người dịch). Cả đường vĩ tuyến và đường kinh
tuyến đều được vẽ nhưng giá trị của kinh độ không được đánh dấu, vì vậy bản đồ
này không cung cấp thông tin liên quan đến kinh độ của các vị trí mà nó mô tả.
Đây có thể được coi là sự thiếu sót đơn thuần của một người sao chép, tuy nhiên
lý do cũng có thể khác. Vào thời gian các bản đồ của de Rhodes được công bố,
một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với người vẽ bản đồ là xác định kinh
độ (các vĩ độ có thể được xác định tương đối dễ dàng dựa trên quan sát độ cao
của mặt trời buổi trưa), và các kinh độ của Việt Nam được cung cấp bởi các bản
đồ cùng thời khác nhau đáng kể; xem phần 3.2 ở dưới. Do đó, có thể những
người chuẩn bị bản đồ để xuất bản trong sách của de Rhodes (1650) (bao gồm
cả chính de Rhodes) không chắc chắn về các giá trị của kinh độ tương ứng với
lãnh thổ được mô tả, và quyết định không đưa chúng lên bản đồ.
Bản đồ B hiển thị một lãnh thổ lớn hơn một chút với Việt Nam chiếm phần
trung tâm của nó. Các vĩ tuyến và kinh tuyến được vẽ và các giá trị của
chúng được ghi; theo đó, lãnh thổ hiển thị trên bản đồ nằm trong khoảng từ
10° đến 24° N (vĩ tuyến Bắc) và từ 139° đến 149° E (kinh độ Đông). Các kinh
tuyến trong bản đồ B dường như được tính toán tương đối với một số “kinh tuyến
gốc” không xác định; Tôi sẽ trở lại vấn đề vị trí của “kinh tuyến gốc” được sử
dụng trong bản đồ B trong phần 3.2 dưới đây.
Các toponyms (địa danh) được viết theo nhiều hướng khác nhau trong bản đồ
A: một số đi từ dưới lên, một số từ trên xuống và một số được viết theo chiều
ngang. Còn trong bản đồ B, tất cả các tên đều được viết theo chiều ngang, trừ
hai chú giải dài chạy dọc từ dưới lên[7]. Điều này có thể gợi ý rằng bản đồ B do một người vẽ bản đồ chuyên
nghiệp vẽ, người đã đặt các lời ghi chú trên đó một cách có hệ thống và theo
cách thường thấy, trong khi bản đồ A là một bản nháp trong đó các lời chú
được viết hơi hỗn loạn.
Góc trên bên trái của Bản đồ B có đề cập đến nhà truyền giáo Dòng Tên
người Ý Giovanni Battista Bonelli (1589-1638), người qua đời tại Lào. Nội
dung viết: “Ce fut en ce desert que tangut le Pere Lean Lean Baptiste Bonel de
la Compagnie de Iesus, allant porter la Foy aux Lào ou Layes”, nghĩa
là, “Chính trong sa mạc này, Cha Jean Baptiste Bonel của Dòng Chúa Giêsu đã
chết, khi Người đi truyền bá Đức Tin cho Người Lào hay Giáo dân”. Bản đồ A
không chứa bất kỳ thông tin nào về nhà truyền giáo người Ý này, và điều hơi
ngạc nhiên là tên của ông ấy không được nhắc đến trên bản đồ này được in trong
ấn bản tiếng Ý của cuốn sách Rhodes năm 1650, nhưng lại xuất hiện trên bản đồ
được tìm thấy trong cuốn sách năm 1653 xuất bản ở Pháp của ông[8].
3.2. Kinh tuyến gốc trong bản đồ B
Để tìm vị trí của kinh tuyến “gốc”
(hoặc “không”) mà các nhà thiết kế bản đồ B có lẽ đã sử dụng, tôi đã sử dụng
phương pháp sau. Tôi đã xem xét sáu vị trí sau đây của “kinh tuyến gốc” (dưới
đây viết tắt là PM, tức “Prime
Meridian – Kinh tuyến gốc” – chú thích của người dịch) được sử dụng
trong bản đồ thế giới của thế kỷ XVI và XVII:
PM1 = 46°37′ W, được thiết lập theo Hiệp ước Tordesillas (1494)[9];
PM2 = 34°54′ W, điểm Cực Đông của Brazil (được gọi là đường phân chia
của Giáo hoàng Alexander VI);
PM3 = 14°01′ W, đảo Fuertaventura của Canaries (ví dụ, được sử dụng
trong quả địa cầu của Mercator năm 1541);
PM4 = 25°40′ W, Đảo São Miguel của Azores;
PM5 = 43°10’19” W, vị trí của Rio de Janeiro;
PM6 = 23°30′ W, Cape Verde.
Đối với bất cứ bản đồ nào mô tả Việt Nam nằm giữa các kinh độ A và B, A <B, tôi đã
kiểm tra xem cự ly (A – PMi, B – PMi) cắt với cự ly (103°, 109°30′) có
tương ứng với Tọa độ thực tế của Việt Nam theo Greenwich cho i = 1,…,6 không. Nếu chỗ cắt trống, có nghĩa là
kinh tuyến gốc PMi, rất có thể không được sử dụng để vẽ
bản đồ này; nếu chỗ cắt không trống, tôi tính cho bản đồ này hệ số di = max {pi/m0, pi/m} trong đó pi là kích thước góc của giao điểm (tính bằng độ), mo = 6° 30 ‘là kích thước góc của Việt Nam theo tọa độ thực của nó
(103° đến 109°30’ E), và m là kích thước
góc của Việt Nam theo bản đồ đang xét. Nếu hệ số di bằng hoặc đủ gần với 1, sẽ hợp lý để phỏng đoán rằng kinh tuyến mà
người vẽ bản đồ sử dụng có thể giống hệt với PMi; nếu nó tương đối nhỏ, tức là gần
bằng 0, những người vẽ bản đồ có thể đã sử dụng một số giá trị khác cho “kinh
tuyến gốc” của họ. Để kiểm tra các bản đồ cuối thế kỷ 16 và 17 gửi lại Việt Nam
và xác định trong số đó có “tổ tiên” và “hậu duệ” trên lý thuyết của bản đồ B,
tôi đã tính toán các giá trị di, cho một lựa chọn các bản đồ được tạo
ra trước và sau khi xuất bản (1653). Các bản đồ được kiểm tra gồm:
M1 – “Asiae Nova Descriptio” [Mô tả mới về Châu Á], của Abraham Ortelius
(1527-1598), Antwerp, 1601 (xuất bản lần đầu vào năm 1570-1573);[10]
M2 – “Inde” [Ấn Độ], của Abraham Ortelius, từ bản sửa đổi tiếng Pháp
(1587) tập Atlas Theater de 1’Univers của ông[11];
M3 – “Asia”, của Fausto Rughesi (fl.1593-1606), Rome, 1597[12];
M4a-b – Bản đồ thế giới của Matteo Ricci (1552-1610) năm 1602 và bản sao
tiếng Nhật của nó năm 1604[13];
M5 – “Trung Quốc”, của Jodocus Hondius (1563-1612), Amsterdam, 1606[14];
M6 – “Vương quốc Trung Hoa” của John Speed (1551? -1629), 1626;
M7 – “India quae Orientalis dicituret Insulae Adiacentes” [Ấn Độ và các
đảo lân cận phía Đông], của Willem Janszoon Bleau (1571-1638), Amsterdam, 1635[15];
M8 – “Carte de 1’Asie” [Bản đồ Châu Á], do Pierre Bertius (1565-1629),
Melchior Tavernier (1594-1665) biên tập, Paris, 1639[16] và 1640[17];
M9 – “Asie” [Châu Á], của Nicolas Sanson d’Abbeville (1600-1667), Paris,
Pierre Mariette, 1650;
M10 – “Partie meridionale de 1’Inde” [Phần phía nam của Ấn Độ], của
Nicolas Sanson d’Abbeville, Paris, Pierre Mariette, 1654;[18]
M11 – “Imperii Sinarum Nova Descriptio” [Mô tả mới về Đế chế của người
Trung Quốc], của Martino Martini (1614-1661), 1654;[19]
M12 – “Imperium Sinicum” [Đế chế Trung Hoa], của Athanasius Kircher
(1602-1680), 1667;[20]
M13 – “Cataium”, của Athanasius Kircher, 1667;[21]
M14 – “Penisola Dell India” [Bán đảo của Ấn Độ], do Giacomo Cantelli da
Vignola (1643-1695) vẽ trên cơ sở bản đồ của Tavernier “và những người du hành
khác” và được xuất bản bởi Giovanni Giacomo de Rossi (1627-1691), Rome, Năm
1683;
M15 – “Carte du Royaume de Siam et des Pays circonvoisins” [Bản đồ Vương
quốc Xiêm và các nước láng giềng], của Placide de Sainte-Helene (1649-1734),
Paris, Du-Val, 1686.[22]
Kết quả phân tích của tôi được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Kinh tuyến gốc trong các bản đồ thế kỷ XVII
Theo Bảng 1, bản đồ B thuộc cùng nhóm với các bản đồ của Ortelius năm
1578, Hondius năm 1606, Speed năm 1626, Bertius năm 1639 và 1640, Tavemier năm
1679, và G.C. da Vignola và G.G. de Rossi năm 1683 (bản đồ sau thực sự rất gần
với bản đồ B và tác giả của nó có lẽ đã dựa khá nhiều vào bản đồ của de
Rhodes; tuy nhiên, hãy xem phần 3.5 và 3.6 bên dưới). Quan sát này cho phép gợi
ý một số mẫu tiềm năng của bản đồ de Rhodes và loại trừ những mẫu khác, nhưng
vì bối cảnh làm nên bản đồ B chưa được biết, nên có thể có nhiều khả năng
khác nhau; Tôi sẽ thảo luận ngắn gọn về chúng trong phần kết luận của bài báo
này.
Một lưu ý liên quan đến việc phục dựng lại này chắc chắn là theo thứ
tự. Việc đặt một mốc đáng tin cậy (ví dụ, một thị trấn) trên bản đồ phải là kết
quả của sự kết hợp của một số thao tác bao gồm: tính toán vĩ độ và kinh độ của
mốc (có lẽ dựa trên các quan sát thiên văn, ví dụ như quan sát độ cao của mặt
trời vào buổi trưa đối với vĩ độ và thời gian của nguyệt thực đối với kinh độ)
và tính toán vị trí của mốc so với hệ tọa độ đã thông qua, tức là đến “kinh
tuyến gốc”. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XVII, không có quan sát lịch sử nào được
chứng thực về mặt lịch sử trên quy mô lớn về nguyệt thực được thực hiện trong
lãnh thổ được thể hiện trong bản đồ A và B, và tọa độ của các điểm mốc, có thể
chỉ với một số lượng rất nhỏ ngoại lệ, do không xác định được các thủ tục ngoại
suy và/hoặc dựa trên các tọa độ được tìm thấy trong các bản đồ cũ hơn.
Hơn nữa, không chắc liệu bản thân vị trí của “kinh tuyến gốc” đã được xác
định với độ chính xác đầy đủ hay chưa; ví dụ, như bản đồ năm 1602 của Ricci cho
thấy, Kinh tuyến gốc của ông ta đi qua một hòn đảo không xác định có lẽ thuộc
quần đảo Canary[23]. Trong những trường hợp này, việc xác định các vị trí trên bản đồ phụ
thuộc đáng kể vào một số biến mà phạm vi của chúng vẫn chưa được xác định; Hơn
nữa, việc phục dựng lại của tôi liên quan đến các lỗi bổ sung được tạo ra khi
ước tính, hơi gần đúng, các phạm vi được liệt kê trong cột thứ tư của Bảng 1.
Việc đánh giá tốt hơn các khoảng này chắc chắn sẽ dẫn đến các giá trị chính xác
hơn trong cột cuối cùng của Bảng. Tuy nhiên, ngay cả những ước tính sơ bộ nêu
trong Bảng 1 cũng có thể gợi ý một số giả thuyết liên quan đến nguồn thông tin
mà người lập bản đồ sử dụng và những mối liên hệ có thể có giữa các bản đồ của
họ.
3.3. So sánh các địa danh và vị trí của chúng trên bản đồ A và B
Tôi đã lập danh sách tên của các thị trấn được tìm thấy trong bản đồ A
và B, và xác định vị trí vĩ tuyến của mỗi tên trên bản đồ A và B. Dĩ nhiên,
vị trí của một tên nào đó nhất định không được phép trùng với vị trí của thị
trấn tương ứng; tuy nhiên việc xác định vị trí của các thị trấn trên bản đồ A
là không thể, vì trên bản đồ này tên của các thị trấn chỉ hiển thị một địa
danh thủ đô duy nhất của miền Bắc Việt Nam, Kecio (Kẻ chợ – Hà Nội hiện nay) được đánh dấu bằng
biểu tượng đại diện một bức tường thành phố và một tháp. Vì nhiều từ địa danh
trong bản đồ A được viết theo chiều ngang, tôi đã gán cho chúng những khoảng
tương ứng với “vĩ độ” của điểm đầu và điểm cuối của chúng; ví dụ, tên “Dinh pho
an” trên bản đồ A chiếm một cự ly từ 12°10′ đến 12°50′.
Một phân tích sơ bộ về các tên cho kết quả sau: hầu như tất cả các tên
tìm thấy trong bản đồ A đều bị dịch chuyển xuống một mức có hệ thống trong bản
đồ B; Ví dụ, thủ đô của miền Bắc Việt Nam, Kecio (Hà Nội),
trên bản đồ A có vĩ độ 21°N, và đảo Hải Nam trải dài từ khoảng 18°N đến 19°10′
N, trong khi trên bản đồ B vĩ độ của Hà Nội là 20°N, và vĩ độ của cực Nam và
cực Bắc của Hải Nam lần lượt là 17°10′ N và 18°10′ N.
Tôi cho rằng một nhận định như vậy đúng với hầu như tất cả các tên
được tìm thấy trong hai bản đồ này, nghĩa là, một từ liên kết nằm ở k° N trong bản đồ A sẽ được tìm thấy ở (k-1)° N trong bản đồ B. Để chứng minh nhận định này,
tôi đã chia mỗi bản đồ thành các dải với vĩ độ (k° N, (k+1)° N) và so sánh các từ liên kết nằm trong dải (k° N, (k+1)° N) trên bản đồ
B với các từ liên kết trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A. Kết quả so sánh vị trí của các
tên được thể hiện trong Bảng 2.
Bảng 2. Vị trí của các tên trong bản đồ A và B
Trong bảng này, “i + j*” ở cột thứ ba trong
dải “(k+1)° – (k+2)°/k°- (k+1)°” có nghĩa là tôi
tìm thấy từ trái nghĩa trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A nằm trong dải (k°N, (k +1)° N) trên bản đồ B, và các tên j được tìm thấy trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ
A được đặt ở một trong hai dải liền kề ((k-1)° N, k° N) và ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ B. Tương tự, “i+j*” ở cột thứ sáu trong dải “(k+1)° – (k+2)°/k° – (k+1)°)” có nghĩa là tên i tìm
thấy trong dải (k° N, (k+1)° N) trên bản đồ
B nằm trong dải ((k+1)° N, (k+2)° N) trên bản đồ A, và các tên j được tìm thấy trong dải (k° N, (k+1)o N) trên bản đồ B được đặt ở một
trong hai dải liền kề (k° N, (k+1)° N) và ((k+2)° N, (k+3)° N ) trên bản đồ A.
Theo Bảng 2, đối với khu vực trải dài từ 11°N đến 19°N, tất cả các tên
được tìm thấy trong bản đồ A có thể được tìm thấy trong bản đồ B đang bị dịch
chuyển một cách có hệ thống về phía nam với 1° (trừ một tên đã được chuyển
sang một dải liền kề); các tên được tìm thấy trong các dải 10°N-12°N,
18°N-19°N và 20°N-23°N trên bản đồ B có thể được tìm thấy trong bản đồ A đang
được dịch chuyển một cách có hệ thống về phía bắc với 1° (với một số ngoại lệ
được đánh dấu với “*”). Có thể diễn giải những dữ liệu này như sau. Về phần
phía nam của bản đồ, các tên được tìm thấy trong bản đồ B từ 10°N đến 18°N, về
mặt lý thuyết, có thể được lấy từ bản đồ A sau khi dịch chuyển 1° về phía nam
và được bổ sung thêm các tên. Đối với phần phía Bắc của bản đồ B (18°N-19°N và
20°N-23°N), các tên của nó tạo thành một tập hợp con thích hợp của các tên của
các khu vực tương ứng của bản đồ A, cũng dịch chuyển 1° về phía nam. Trở ngại
duy nhất đối với việc dựng lại hình ảnh trực tiếp của bản đồ B từ bản đồ A là
ở dải 20°-21°/19°-20°, có thể gợi ý một mối quan hệ phức tạp hơn.
3.4. Vị trí Hà Nội và Hải Nam
Như tôi đã đề cập ở trên, thành phố Hà Nội và đảo Hải Nam được hiển thị
trong bản đồ A lần lượt là 21°N và 18°-19°10′. Các tọa độ này tương ứng với tọa
độ thực của chúng (21°N và 18°-20°10′). Vị trí của hai địa danh này trên các
bản đồ vào cuối thế kỷ XVI và XVII được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3. Vị trí của Hà Nội và đảo Hải Nam
Dữ liệu được trình bày trong Bảng 3 cho thấy rằng mặc dù các tọa độ tương
đối chính xác của Hải Nam đã có vào cuối thế kỷ XVI (M2) và đầu thế kỷ XVII
(M5), giá trị chính xác của vĩ độ Hà Nội (21°) xuất hiện cho lần đầu tiên chỉ
có trong bản đồ A. Thật thú vị, giá trị chính xác đã được thay đổi trong bản đồ
B thành 20° do sự dịch chuyển nói trên về phía nam đối với 1° của hầu hết các
điểm mốc.
3.5. Các địa điểm miền Bắc Việt Nam và thủ đô Việt Nam
Một số tên được sử dụng trong bản đồ rất đáng để nghiên cứu. Ví dụ, bản
đồ A chứa tên “Cocincina” chỉ được tìm thấy
(theo cách viết này) chỉ trong một số ấn phẩm của thế kỷ XVII bằng tiếng Ý và
tiếng Latin[24] . Quan sát này phù hợp với thực tế là từ “Cocincina” xuất hiện trên bản đồ A được xuất bản lần
đầu tiên trong phiên bản tiếng Ý của cuốn sách của de Rhodes, trong khi bản đồ
B xuất bản ở Pháp, nó được thay thế bằng “Cocinchine”. Sự hiện
diện của các tên Latinh (ví dụ: “Mare Sinicum”, “Laorum pars”) trong bản đồ A gợi ý rằng bản đồ này
vốn được cho là chỉ chứa (1) các tên Latinh và (2) các tên tiếng Việt được
phiên âm theo ngữ âm học, trong khi hầu như tất cả các lời ghi chú trong
bản đồ B đều được viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Tuy nhiên, bản đồ B cũng
chứa tên tiếng Bồ Đào Nha “Ponta da Varella”
chỉ Cape Varella. Cùng một lời ghi chú, hầu như không rõ ràng trong bản sao
tôi có, có thể được tìm thấy ở cuối bản đồ A. Sự hiện diện của lời ghi này có
thể gợi ý rằng cả hai bản đồ, ít nhất một phần, dựa trên một mẫu với các ghi
chú tiếng Bồ Đào Nha có lẽ do các nhà truyền giáo và/hoặc nhà thám hiểm Bồ
Đào Nha thực hiện.
Các tên được sử dụng trong các bản đồ
nghiên cứu về Đông Nam Á vẽ vào cuối thế kỷ 16 và thế kỷ 17 để chỉ phần phía
Bắc của Việt Nam và thủ đô được liệt kê trong Bảng 4.
Bảng 4. Các từ chỉ Đàng Ngoài và thủ
đô của Việt Nam
Người ta có thể nhận thấy rằng tên “Kecio” (cũng được viết là Keccio trong một trường hợp) chỉ Hà Nội xuất hiện
tương đối muộn; những bản đồ sớm nhất (trong số những bản đồ đã được nghiên
cứu) trong đó nó được tìm thấy là bản đồ A của de Rhodes (1650) và bản đồ của
Nicolas Sanson d’Abbeville cũng có niên đại 1650 và được sản xuất bởi cùng một
nhà biên tập/nhà xuất bản (Pierre Mariette) dưới dạng bản đồ B của de Rhodes
năm 1653. Hơn nữa, tên “Tvmkin”, tức “Thủ
đô phía Đông”, chỉ Hà Nội, thủ đô của Đàng Ngoài, chỉ xuất hiện trên các bản
đồ phương Tây được nghiên cứu trong bản đồ B của de Rhodes (1653) và M14
(1683), trong khi trong bản đồ A của de Rhodes (1650) cũng như trong bản đồ
M9-12, 15 (xuất bản năm 1650 hoặc muộn hơn), nó được dùng để chỉ toàn bộ lãnh
thổ Đàng Ngoài. do họ Trịnh kiểm soát.
3.6. Mạng lưới sông trong bản đồ A và
B
Có một yếu tố trong bản đồ A và B
khiến chúng khác biệt đáng kể so với tất cả các bản đồ phương Tây cùng thời và
trước đó: đó là rất nhiều con sông được mô tả trong đó. Bảng 5 cho thấy số
lượng sông được mô tả ở mỗi tỉnh trên bản đồ A và B, chỉ có một ngoại lệ (ở
tỉnh Thinh Hoa/ThinHoa) là giống nhau.
Thực tế là số lượng các con sông trong
hai bản đồ là giống nhau cho tất cả các tỉnh ngoại trừ một sông có thể xuất
hiện hoàn toàn ngẫu nhiên; tuy nhiên, so sánh của tôi về số lượng sông ở các
tỉnh được mô tả trong bản đồ A với số lượng sông ở các tỉnh tương ứng được thể
hiện trong bản đồ M10 (của N. Sanson d’Abbeville, 1654) và M14 (của GC da
Vignola và GG de Rossi, 1683) chứng minh rằng những con số này khác nhau đáng
kể, như được thể hiện trong Bảng 6.
Có thể thấy rằng số lượng sông trong
bản đồ A và M10 khác nhau ở tám tỉnh (trong số 10 tỉnh), và trong bản đồ A và
M14, ở sáu tỉnh. Những khác biệt này, nếu so sánh với số lượng sông gần như
hoàn toàn giống nhau ở các tỉnh tương ứng được trình bày trong bản đồ A và B
có thể gợi ý rằng những người lập bản đồ A và B đã đặc biệt chú ý đến các con
sông được mô tả trên các bản đồ này. Sự chú ý này đối với các tuyến đường thủy
được thể hiện trong hai bản đồ này trái ngược hẳn với những mô tả về các con sông
được tìm thấy trong các bản đồ trước bản đồ của de Rhodes; một số trong số
chúng (ví dụ M5, M8) hoàn toàn không hiển thị sông, trong khi một số khác (ví
dụ M7) thể hiện chúng là các tuyến đường thủy thô sơ ngắn được mô tả trên bờ
biển Việt Nam với các khoảng cách gần như bằng nhau. Do đó, các mô tả của
nhiều con sông trên bản đồ A và B cũng như sự tương đương hoàn toàn về số lượng
của chúng cho tất cả các tỉnh được thể hiện trong các bản đồ này có thể cho
thấy rằng các mô tả của chúng dựa trên dữ liệu trực tiếp thu được từ các cuộc
khám phá thực tế lãnh thổ của cả miền Trung và Miền Bắc Việt Nam do chính de
Rhodes và/hoặc các thành viên khác của cả hai phái bộ tiến hành. Các bản đồ cho
thấy các yếu tố địa hình như núi và đặc biệt là sông chắc chắn rất quan trọng
đối với những người truyền giáo, những người, như ghi chép của de Rhodes cho
thấy, họ phải di chuyển từ nơi này sang nơi khác tương đối thường xuyên.
Kết luận
Trong các cuốn sách của mình, de
Rhodes không bao giờ đề cập đến bất kỳ hoạt động vẽ bản đồ nào; mục đích của
ông trong việc công bố bản đồ A và B có lẽ là để thông báo cho người đọc về
khu vực diễn ra các sự kiện liên quan. Tác giả của các bản đồ là không rõ ràng;
bản thân bản đồ B nói rằng nó được vẽ bởi “Các giáo sĩ Dòng Tên”, nhưng vẫn
chưa rõ liệu các “Giáo sĩ” này làm việc ở Việt Nam hay ở Châu Âu, hay cả hai.
Sự lựa chọn cụ thể của Kinh tuyến gốc trong bản đồ B (hay nói cách khác, các
kinh độ được phân bổ cho Việt Nam) được sử dụng trước đó trong các bản đồ của
Ortelius, Hondius, Speed và Bertius gợi ý rằng các phiên bản của một số bản
đồ này (hầu hết có thể là, của Ortelius và Hondius) có thể đã được cung cấp cho
các nhà truyền giáo làm việc tại Việt Nam, những người đã sử dụng các bản đồ
này và bổ sung chúng bằng cách thêm một số địa danh và các yếu tố của cảnh
quan, đặc biệt là đường thủy và núi. Tuy nhiên, không thể loại trừ việc de
Rhodes đã đánh mất các bản phác thảo địa hình và bản đồ cùng với các tài liệu
khác mà ông thu thập được ở Việt Nam trên đường về châu Âu trong thời gian
1645-1649 (cùng với danh sách những người cải đạo, như chính ông đã khẳng
định), và thay vào đó, dựa trên những bản đồ phương Tây không rõ nguồn gốc có
sẵn về Việt Nam trong thời gian ông ở Rome năm 1649-1650. Điều này làm cho giả
thuyết sau hợp lý: các bản đồ của de Rhodes kết hợp dữ liệu bản đồ được vẽ dựa
trên các bản đồ phổ biến của đầu thế kỷ XVII, chẳng hạn như của Ortelius và
Hondius (do đó sự lựa chọn của kinh tuyến chính trong bản đồ B), với thông tin
chi tiết về địa hình, đặc biệt là sông và núi, được truyền tải giữa các
thành viên của phái bộ Truyền giáo Dòng Tên ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam
dưới dạng bản đồ, phác thảo và mô tả bằng lời nói.
Tài liệu tham khảo
1.
Anon. (1628). Advis certain d’une plus ample descouverte du Royaume
de Catat, avec quelques autres particularitez notables de la coste de
Cocincina et de 1 ‘antiquite de la foy chrestienne dans la Chine, tirées
des lettres des PP. de la Compagnie de Jesus, de I ‘annee 1626, Paris:
S. Chappelet.
2.
Bernard, Henri (1935). “Les étapes de
la cartographie scientifique pour la Chine et les pays voisins: depuis le XVIIe
jusqu’à la fin du XVIIIe siècle”, Monumenta Serica, 1,
no.2, pp.428-477.
3.
Bernard, Henri (1939). Pour la compréhension de 1 ‘Indochine et de l’Occident, Hanoi:
G. Taupin & Cie.
4.
Boni, Christoforo (1631). Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di
Giesù al regno della Cocincina, Roma: F. Corbelletti.
5.
Cadiere, Leopold (1915). “Les
européens qui ont vu le vieux Hue. Le P. de Rhodes”, BAVH, 2, no.3, pp.231-249.
6.
De Rhodes, Alexandre (1650). Relazione
de ‘fend successi della Santa Fede predicata da’ Padri della Compagnia di Giesu
nel regno di Tunchino: alla santita’ di n.s. pp. Innocenzio Decimo, Roma:
Giuseppe Luna.
7.
De Rhodes, Alexandre (1651). Histoire
du royaume de Tunquin, et des grands progrez que la prédication de 1 ‘Evangile
y a faits en la conversion des infidelles. Depuis l’anne 1627 jusques à
I’annee 1646. Composée en latin par le R.P. Alexandre de Rhodes, de la
Compagnie de Jesus, et traduite en francois par le R.P. Henry Albi, de la mesme
Compagnie, Lyon: Jean Baptiste Devenet.
8.
De Rhodes, Alexandre (1652).
Tunchinensis Historiae libri duo, quorum altero status temporalis huisu regni.
Altero mirabiles Evangelicae praedicationis progressus referuntur. Coeptae per
patres Societatis Jesu ab anno 1627, ad annum 1646, Lugdunum: Devenet.
9.
De Rhodes, Alexandre (1653). Divers
voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royames
de I’Orient, avec son retour en Europe par la Perse & 1 ‘Armenie, Paris:
Sebastien Cramoisy et Gabriel Cramoisy.
10.
Fiorini, Matteo (1891). “11 mappamondo
di Fausto Rughesi”, Bollettino della Società Geografica Italiana, serie III,
vol.IV, pp.956-9’72.
11.
Henrion, Mathieu-Richard-Auguste
(1847). Histoire générale des missions catholiques, depuis le XIlle siècle
jusqu’a nos fours, Paris: Gaume Freres, t.2, pt. 1.
12.
Jacques, Roland (2002). Portuguese
pioneers of Vietnamese linguistics prior to 1650. L ‘ceuvre de quelques
pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en
1650, Bangkok: Orchid Press.
13.
Jonkers, Art R.T. (2005). “Parallel
meridians: Diffusion and change in early-modern oceanic reckoning”, in J.
Parmentier (ed.), Noord-Zuid in Oostindisch perspectief, The Hague: Walburg,
pp.17-42.
14.
Kircher, Athanasius (1667). China
Monument’s Qua Sacris Qua Profanis […], Amstelodami [= Amsterdam].
15.
Lach, Donald F. (1994). Asia in the
making of Europe, vol.2, book 3, Chicago: The University of Chicago Press.
16.
Lach, Donald F. and Van Kley, Edwin J.
(1993). Asia in the making of Europe, vol.3, book 3, Chicago: The University of
Chicago Press.
17.
Maggs, Barbara Widenor (2000).
“Science, Mathematics, and Reason: The Missionary Methods of the Jesuit
Alexandre de Rhodes in Seventeenth-Century Vietnam”, The Catholic Historical
Review, vol.86, no.3, pp.439-458.
18.
Manguin, Pierre-Yves (1972). Les
Portugais sur les côtes du Viet-Nam et du Camp& Etude sur les routes
maritimes et les relations commerciales, d’après les sources portugaises
XVIle, XVIIIe siecles), Paris: EFEO.
19.
Marini, Giovanni Filippo de (1663).
Delle missioni de’ padre della Compagnia di Giesu nella provincia del Giappone
e particolarmente di quella di Tumkino libri cinque, Roma: Nicolo Angelo
Tinassi.
20.
Nebenzahl, Kenneth (2005). Exploration
des routes de la soie et au-delà: 2000 ans de cartographie, Paris: Phaidon.
21.
Ortelius, Abraham (1587). Theatre de l
‘Univers, Contenant les Cartes de Tout le Monde.
22.
Semans, Cheryl Ann (1987). Mapping the
unknown: Jesuit cartography in China, 1583-1773, Dissertation […] for the
degree of Doctor of Philosophy in Geography, University of California,
Berkeley.
23.
Taylor, Keith W. (2013). A history of
the Vietnamese, Cambridge etc.: Cambridge University Press.
24.
Teixeira, Manuel (1964). Missionarios
Jesuitas no Vietnão, Macau: Edição do Centro de Informacão e Turismo de
Macau.
25.
Teixeira, Manuel (1977). Macau e a sua
diocese. vol. XIV As Missões Portuguesas no Vietnam, Macau: Imprensa Nacional.
26.
Torralba, Eduardo, S.J. (1960). “La
Date de naissance du Père de Rhodes 15 mars 1591, est-elle exacte?”, Bulletin
de la Société des Etudes Indochinoises, n.s., vol.35, pp.683-689.
27.
Vickery, Michael (2005). “Champa
revised”, ARI Working Paper Series, no.37, Singapore: Asia Research Institute
of the National University of Singapore.
28.
Volkov, Alexei (2008). “Traditional
Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries”, in L. Saraiva and C.
Jami (eds.), History of mathematical sciences, Portugal and East Asia III: The
Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc.: World
Scientific, pp.161-185.
29.
Woodward, David (2007). “The Italian
Map Trade, 1480-1650”, in D. Woodward (ed.), History of Cartography, vol.3,
pt.2, pp.773-803.
Võ Xuân Quế (dịch)
Nguồn: https://www.researchgate.net/publication/325717787_On_two_maps_of_vietnam_by_alexandre_de_rhodes
[1] Năm sinh của de Rhodes là một vấn đề còn tranh cãi; xem thêm
chi tiết ở dưới.
[2] Dịch thuật ở đây và dưới là của tôi, còn của người khác
được nêu ra.
[3] Nhà nước kiểu Ấn Độ của Champa nằm ở phía nam của Việt
Nam ngày nay và tồn tại từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau Thiên Chúa;
nhiều lần bị các triều đình Việt Nam đánh bại, và mỗi lần biên
giới giữa Champa và Việt Nam mở rộng về phía nam hơn. Sự sáp nhập
cuối cùng của Champa vào nhà nước Việt Nam diễn ra vào đầu thế hỷ
XIX. Một tóm tắt về tư liệu lịch sử của Champa, xem, chẳng hạn,
Vickery (2005). Hai bản đồ thảo luận trong bài này cho thấy biên giới
giữa Việt Nam và Champa (viết là “Ciampa”) vượt qua khoảng vĩ tuyến 12
bắc trên bản đồ A và vĩ tuyến 11 trên bản đồ B.
[4] Kinh tuyến “gốc” (hoặc “không”) là kinh tuyến được sử dụng làm
tham chiếu để xác định kinh độ của các vị trí nhất định; năm 1884 kinh tuyến
Greenwich được quốc tế chấp nhận là kinh tuyến gốc, nhưng trước đó, vị trí của
“kinh tuyến gốc” đã thay đổi đáng kể. Sơ lược lịch sử về “kinh tuyến gốc” và
các tài liệu tham khảo hữu ích được tìm thấy trong Jonkers (2005).
[5] Một số tác giả (chẳng hạn như C. Sommervogel) đã lấy năm 1591 làm
năm sinh của de Rhodes. Nghiên cứu toàn diện nhất về vấn đề này được thực hiện
bởi Eduardo Torralba, S.J., trong bài báo của ông năm 1960. Torralba đã tìm
thấy hai tài liệu trong kho lưu trữ của Dòng Tên ở Rome cho rằng de Rhodes sinh
năm 1593; ông cho rằng một số tác giả đã lấy năm “1591” một cách không cân
nhắc được công bố năm 1884 trong một chú thích biên tập của H. Gourdin,
Si., trong ấn bản mới của ông về các sứ mệnh của de Rhodes ‘Voyages và các sứ
mệnh. Gourdin, như Torralba phỏng đoán (p.686), có thể đã theo năm sinh được
gợi ý trong các tác phẩm của C. Sommervogel (1834-1902). Torralba không đề cập
rằng năm sinh này của de Rhodes đã được các tác giả khác gợi ý thậm chí sớm
hơn, ví dụ, bởi M.-R.-A. Henrion (1805-1862) trong (1847, tr.388). Tôi rất cám
ơn Phùng Minh Hiếu đã gửi cho tôi bài viết của Torralba.
[6] Tư liệu này về các chuyến đi của de Rhodes dựa trên cuốn sách của
ông (1653); xem thêm Cadiere (1915, tr.233-235), Taylor (2013, tr.288).
[7] Một trong số đó có nội dung “Les Kemoys Peuples Barbare
livesent dans ces Montagnes” (Những người Kemoy man rợ sống ở những dãy núi này), và ghi
chú khác, “Grande Riviere qui arouse le Royaume de Camboge” (Con
sông lớn chảy ra Vương quốc Campuchia).
[8] Về các hoạt động và cái chết của
Bonelli, xem de Rhodes (1651, chương.42; đặc biệt, xem trang.284-286); xem thêm
Marini (1663, tr.492-503); Việc Marini đề cập đến Bonelli được trích dẫn trong
Lach và Van Kley (1993, tr.1159).
[9] Hiệp ước quy định đường phân
chia là kinh tuyến đi qua 370 leagues (2.193 km?) phía Tây của các đảo Cape
Verde (Cộng hoà Cabo Verde, theo tiếng Bồ Đào Nha)
[10] Từ Ortelius ‘Theatrum Orbis
Terrarum. Hernando de Solis ‘Asiae Nova Descriptio (Valladolid, 1603) dựa trên
bản đồ của Ortelius’.
[11] Ortelius (1587, p.94).
[12] Fiorini (1891). Lach thông báo
rằng bản đồ Rughesi dựa trên bản đồ của Giacomo Gastaldi (năm 1536; năm 1566)
nhưng phần châu Á của nó đã được sửa đổi đáng kể (Lach 1994, tr.464); về
Gastaldi xem Woodward (2007, trang.781-787).
[13] Bản đồ của Ricci cho thấy kinh
tuyến chính đi qua một trong các quần đảo Canary, được mô tả như ba vùng đất có
cùng địa danh Fu dao của Trung Quốc (rõ ràng là bản dịch của từ địa danh “Quần
đảo may mắn” được Ricci sử dụng trong Tạp chí của mình).
[14] Nebenzahl (2005, tr.133); chỉ
phần Việt Nam trên vĩ tuyến 15 được hiển thị. Nebenzahl (2005, tr.9’7).
[15] Bibliotheque Nationale de
France, GE D-11850.
[16] Bibliotheque Nationale de
France, GE D-11852.
[17] Nebenzahl (2005, tr.101).
[18] Nebenzahl (2005, tr.101).
[19] Nebenzahl (2005, tr.137); chỉ
phần Việt Nam nằm trên vĩ tuyến 15 được hiển thị.
[20] Kircher (1667). Bản đồ được chèn
vào giữa trang 2 và 3 của cuốn sách của Kircher; nó chỉ hiển thị phần trên của
Việt Nam. Trong Bảng 2 dưới đây, nó được ghi là “1667a”.
[21] Kircher (1667, tr.48-49). Trong
Bảng 2, nó được ghi chú là “1667b”.
[22] Nebenzahl (2005, tr.109).
[23] Các nhà sử học hiện đại đôi khi
không chú ý đầy đủ đến loại dữ liệu này; Ví dụ, trong luận án của mình, Semans
(1987) đã chấp nhận giá trị 16°W cho Kinh tuyến gốc được M. Ricci sử dụng
(tr.92, 101-102, n.30) mà không chỉ rõ Ricci đã tham chiếu đến một trong những
quần đảo Canary nào.
[24] Thư mục của Thư viện Quốc gia Pháp (Paris) chỉ gồm có 6
cuốn bằng tiếng Latin, Ý và Pháp với tiêu đề dùng tên này; trong đó
có Borri (1631) và các phiên bản tiếng Ý sách của de Rhodes in năm
1652. Cuốn sớm nhất là của Anon (1628). Về Borri và các hoạt động ở
Cochinchina xem Volkov (2008).
[25] Ở đây và trong các mục khác của bảng này, chữ “v” có thể thay bằng
chữ “u”. Ở đây và bên dưới nếu một từ ghép đầu được viết bằng chữ in hoa, tôi
giữ nguyên chúng trong bảng.
Đăng nhận xét