Khi nhắc đến một giáo xứ, nhiều người thường quan tâm đến các thông số liên quan. Thời điểm thành lập thường là một thông số quan trọng nói lên sự trưởng thành và phát triển của giáo xứ đó. Nói về Cẩm Trường thuộc giáo hạt Thuận Nghĩa, giáo xứ có quyền tự hào trước những trang sử vẻ vang và chói lọi của thế hệ cha anh trong suốt hàng trăm năm qua, nhất là thời điểm giáo xứ kỷ niệm 145 năm danh xưng Cẩm Trường và tuần chầu đền tạ Thánh Thể diễn ra ngày 1/8/2010 vừa qua.

Xứ đạo giàu truyền thống nhất Quỳnh - Đàn
Theo nhiều tư liệu lịch sử tin cậy, sau chuyến đổ bộ vào cửa Bạng - Ba Làng (Thanh Hóa) vào ngày 19.3.1627, phái đoàn dòng Tên do thừa sai Đắc Lộ đã rửa tội cho rất nhiều người dân tại đây. Mảnh đất Quỳnh Lưu với hai lạch biển lớn là lạch Quèn và lạch Cờn cũng được đón nhận Tin Mừng dịp này.
Thực ra, lịch sử không dừng lại ở đó. Theo lưu truyền, trên đất Quỳnh Lưu trước năm 1627 đã hiện diện những người Công giáo. Đó là nhánh chi tộc ông Nguyễn Bé đã từ Trà Lũ (Nam Định) trốn chạy cơn bách hại của Chúa Trịnh vào cư trú tại vùng đất Đồng Ngói - Cẩm Trường quãng năm 1621.
Kẻ Quát (tiền thân họ trị sở Cẩm Trường ngày nay) được thành lập năm 1732, sau đó là Hạ Lăng (Đồng Lăng) thành lập 1750. Do nằm ở địa thế đẹp nên mảnh đất này được các vị thừa sai đặc biệt quan tâm để xây dựng nên trung tâm truyền giáo vùng Bắc Nghệ, bên cạnh Ba Làng của Thanh Hóa. Năm 1676, Kẻ Quát đã có tên trong bản phúc trình các xóm giáo phủ Diễn Châu của thừa sai E. Ferreyra.
Gần 200 năm sau, vào khoảng 1863, thừa sai Nicolas Barbie Tâm coi sóc xứ hạt Gấm Dài - Quỳnh Lưu đã gửi một bản phúc trình khác về Tòa Giám mục Xã Đoài để chuẩn bị lập họ, phân xứ. Giáo xứ đầu tiên trên đất Quỳnh Lưu chính thức thành lập với tên gọi là Cẩm Trường (1865), thay cho tên gọi vùng truyền giáo Gấm Dài - Quỳnh Lưu trước đây.
Có những quãng thời gian, giáo xứ tưởng chừng như phải co cụm trước sự bách hại của các triều đại phong kiến và đặc biệt là sự tàn phá của giới Văn thân sĩ phu các làng lân cận như Quỳnh Đôi, Thạch Động, làng Vọng, Ngọc Đoài, Ngọc Lâm… Tuy nhiên, nhờ sự tin tưởng vào Thiên Chúa và Mẹ nhân lành mà giáo xứ đã vượt qua và chiến thắng tất cả.
Trải qua quá trình phát triển thăng trầm, từ Cẩm Trường lần lượt tách ra các giáo xứ: Yên Hòa (1884), Thuận Nghĩa (1914), Thanh Dã (1914), Mành Sơn (1914), Phú Yên (1920), Song Ngọc (1923).
Sau khi thành lập Thuận Nghĩa, nơi này đã dần thay thế vị trí vốn có của Cẩm Trường. Nhiều người vẫn còn thuộc lòng bài thơ lịch sử giáo xứ trong đó có đoạn chép về việc di dời này: “Gấm Dài xứ mẹ Quỳnh Đàn, bởi danh Kẻ Gấm chuyển sang Gấm Dài. Tên gọi do Hội Thừa sai, nhìn trong thực tại hai nơi Quỳnh – Đàn. Đến năm Tự Đức mười lăm (1865-1867), Gấm Dài định nghĩa ra danh Cẩm Trường. Sau ngày phân xứ hoàn thành, cố Khanh dời hạt về trên Trang Cầu (Thuận Nghĩa). Từ đây (1938) về thời gian sau, trung tâm mục vụ Trang Cầu mà thôi”.
Cẩm Trường được xem là mảnh đất mà các thừa sai F.L Leberton, Jean Buox, L.F Colombert, A. Murier, Nicolas Barbier Tâm, Valentin Gassos Nhơn, Charles Nhàn, Marcel Laktrade Lạng, Abgrall Đoài, A. Lambert Lâm, Paul Bost Bổn và cuối cùng là thừa sai H. Kerbaol Khanh để lại dấu ấn khá đậm nét. Tính đến hôm nay, kể từ khi mang tên chính thức là Cẩm Trường, giáo xứ vừa tròn 145 tuổi với 21 Linh mục quản nhiệm. Cha xứ đương nhiệm là linh mục Antôn Nguyễn Văn Thanh, quê xứ Mẫu Lâm, quản xứ từ 2006.
Tiếp bước tiền nhân: Giáo xứ Cẩm Trường hôm nay……
Đăng nhận xét