CHÚA NHẬT 4 MÙA
CHAY C
Lời
Chúa: Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
MỤC
LỤC
1.
Tấm lòng người cha.
2.
Ba cha con.
3.
Trở về
4.
Người cha nhân hậu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5.
Sống trong tình trạng ơn thánh – Radio Veritas Asia
6.
Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người
7.
Trở thành thụ tạo mới – Radio Veritas Asia.
8.
Hai người con, hai cuộc trở về – Radio Veritas Asia.
9.
Biết dứt khoát đứng dậy và trở về.
10.
Cha nhân lành vòng tay rộng mở - Achille Degeest
11.
Trở về trong tình thương.
12.
Người con hoang đàng - McCarthy
13.
Người con trai đi hoang
14.
Người con hoang đàng - R. Gutzwiller
15.
Mọi sự.
16.
Đôi mắt cha
17.
Được yêu
18.
Bộc lộ
19.
Người anh cả
20.
Chú giải của Noel Quesson.
21.
Chú giải của Fiches Dominicales
1. Tấm lòng người cha.
Dụ ngôn đứa con phung phá hay
nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người
cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của
bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại
và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.
Dụ ngôn này, câu chuyện này
được chia làm hai phần. Phần thứ nhất nói đến lòng
nhân từ vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha
mòn mỏi trông chờ đứa con trở về. Và khi cậu trở về
thì đã mở tiệc ăn mừng, và trao lại cho cậy đầy đủ
quyền làm con như khi trước.
Phần thứ hai có tính cách biện
hộ khi diễn tả sự phản đối với cách cư xử của
người cha lúc đứa em tội lỗi trở về. Đó cũng chính
là tình trạng cụ thể mà Chúa Giêsu gặp phải trong cuộc
đời rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Câu chuyện được kể lại bằng
những chi tiết rất sống động. Thực vậy, tội của
đứa con hoang đàng quả là rất lớn. Nó đã sử dụng
tiền của làm ra với bao công lao khó nhọc vào cuộc truy
hoan trác táng, để rồi kết thúc trong nghèo đói và túng
quẫn. Đối với người Do Thái heo hay lợn là một con
vật nhơ bẩn. Chăn heo hay chăn lợn là một việc làm
nhờm tởm. Tình cảnh khốn quẫn đã đưa đứa con đến
tột cùng của sự thảm hại, bị loại ra khỏi cộng
đồng dân Chúa đã đành, mà còn bị loại ra khỏi cộng
đồng con người, bởi vì trong cơn đói khát, nó đã thầm
ước được ăn chút cám bã dành cho súc vật mà cũng
chẳng được.
Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta
xúc động vẫn là thái độ của người cha. Câu chuyện
kể lại rằng: Ông đã thấy đứa con từ đàng xa. Chi
tiết này chứng tỏ ông hằng trông mong và đợi chờ. Và
khi đã nhận ra con, ông vội chạy đến ôm chầm lấy
con, hôn con một cách nồng nhiệt, đặt đứa con hối cải
vào đúng vị trí của nó trong gia đình, rồi mở tiệc
ăn mừng.
Thái độ của người con cả
cũng được trình bày một cách sống động. Anh là người
con chí thú làm ăn, nhưng xem ra quan hệ với người cha
không được đằm thắm cho lắm. Tuy ở nhà với cha,
nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả là anh đã không hiểu
nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa
trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người
cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại ở cửa, tự
mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp.
Đoạn Phúc Âm hôm nay quả là
một tin mừng cho người trở lại, nhưng đồng thời cũng
là một lời cảnh cáo đối với những người ở trong
nhà. Thực vậy, câu chuyện cho thấy người cần phải
trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người
con vẫn ở nhà với cha, nhưng cõi lòng thì không ở cùng
cha.
2. Ba cha con.
Câu chuyện về đứa con phung
phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng
của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về
ba cha con.
Thực vậy
người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải
chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn
khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà
cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở
về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông
già.
Nhưng người
cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ
đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra
tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa
con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa
và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ
cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó
vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó,
xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng
của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ
để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị
người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông
lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng
đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện
là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần
cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích
kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một
người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng
hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được
làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm
công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ.
Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên
anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết
chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách
móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện
này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm
tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là
chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và
kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính
là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt
khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi.
Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức,
chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại
thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như
vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên
Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của
lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn
này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là
những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình
hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy
nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người
ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người
được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe
với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh
sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có
tội.
Những thái độ trên hoàn toàn
đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến
để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua
đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình
huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm
thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết
chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận
những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.
Để kết luận,
là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy
trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ
khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái
độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.
3. Trở về
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Người cha không đi tìm đứa con
út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết
định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó.
Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng
nhen nhúm. Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy
cha. Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa
tránh. Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội
vã. Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo
tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để
thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn
là con vì chưa bao giờ không là con.
Nhưng người cha không chỉ thương
con út. Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.
Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.
Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực. Nhưng biến cố
đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng
anh lại ở ngoài tim cha. Anh không hiểu được tại sao
cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công
với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con
hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè
cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể
vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị
xâm phạm. Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!
Hoá ra cả hai
người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau. Cả hai
đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói. Con út không
thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ
được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình
cha. Cả hai người con đều cần trở về, trở vào. Sám
hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng. Chẳng ai
muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả
cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út
cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng
thân tàn ma dại.
Để trở về cần đứng lên hay
bỏ chỗ mình đang đứng. Từ bỏ thì đớn đau nhưng
hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải
là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ
trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất
trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được
việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất
một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay
đón lấy người em. Đó không phải là "thằng con của
cha", nhưng là "em của con".
Trở về với Cha, với tha nhân
cũng là trở về với mình. Tôi chợt nhận ra mình quá ư
giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?
- Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người
con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng
con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như
người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm
được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự
do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế
gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con
bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và
bị cái chết đe doạ.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin
kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con
điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con
đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội
chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng
con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại
thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.
4. Người cha nhân hậu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ta thường gọi là dụ ngôn
“Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được
chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con
không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối
cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý
đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của
người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các
Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những
kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một
chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất
và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một
vở kịch 2 màn.
MÀN 1: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON
ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến
bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ
trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ
nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn
rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự
ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó
dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương
đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời.
Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong
cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt
đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ
của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ
hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả
mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản
thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết
tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn
túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong
toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó
không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái
bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì
con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông
đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó
khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ
mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm
thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội
nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không
phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm
vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ
biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến
tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan
chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút
giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương
của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông
thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy
con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ
đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã
nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng
nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh
tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim
con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái
tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà.
Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn
thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương”. Trái
tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của
đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không
phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải
là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là
chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn
thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu
quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ
nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có
tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn
ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại
một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng
lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu
thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người
cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao
quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được
quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như
một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao
chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình
yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không
sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng
sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay
bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để”.
Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi
gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói
lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như
để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con
chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động
tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn
bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động
tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông
đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con
trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một
cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới,
nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê
béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi
hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói
tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương
quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải
nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới
giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON
CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm
hồn. Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có
thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu.
Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về
gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một
người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của
con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh
thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con
“bê nhỏ”, đến “bạn bè”
riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa
tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những
tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình
thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con
chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm
hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong
khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con. Một lần nữa,
người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để
tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ
dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn
với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố
gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc
trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về
với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu
vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù
tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu
tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất
nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành
động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên
Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm
trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi
tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước
khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm
Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm
tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
- Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
- Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
- Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
5. Sống trong tình trạng ơn thánh – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời
Chúa’)
Leonard da Vinci là một họa sĩ
tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm
của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc Italia,
ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức tranh vì
không tìm ra những người mẫu thích hợp. Một hôm nọ,
ông gặp trong công viên Castellô một thanh niên tên là
Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với phần trán
an hòa và quý phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc
vàng hoe có dợn sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú
ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau bức họa vẫn chưa
xong. Ông ngày đêm gãi đầu bứt tai vì không sao tìm ra
được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để
ông vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa
Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy một người
đàn ông có gương mặt xấu xa dữ dằn đang nhìn các
người khác đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng.
Leonard vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông đang
cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với hắn
nhận làm người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng
nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và cùng họa sĩ vào
tu viện Đức Bà Ban Ơn. Trong lúc họa sĩ đang chăm chú
nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ
tợn, tai dựng đứng và dường như đang nhớ đến một
kỷ niệm nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn ngào.
Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người
không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc
thầy còn nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc
ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn
ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở
dài nói: Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và tội
lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này.
Mẩu chuyện liên quan tới cuộc
đời Francisco kể trên, giúp chúng ta cảm nhận thấm thía
ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng của Chúa nhật hôm
nay. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca
là một trong các dụ ngôn hay và cảm động nhất, chứng
minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu. Có ba nhân
tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
- Thứ nhất là động từ
"lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh,
nó là động từ diễn tả thái độ của dân Do Thái phản
đối ơn Chúa và khước từ kiểu cách cứu độ của
Ngài. Nó là động từ mà chúng ta thường gặp trong các
sách Xuất Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề cập đến
40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc, và thường xuyên
nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản đối các ơn
của Ngài. "Lẩm bẩm" cũng là động từ diễn tả
thái độ người tội lỗi bé nhỏ, tối tăm ngu muội,
nhưng lại yêu sách muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết
phải hành xử như thế nào để cứu rỗi nhân loại. Đây
cũng là thái độ mà người Biệt phái và luật sĩ có
đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ ngày
xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du nói chuyện
và ăn uống với người tội lỗi, bọn thu thuế, đĩ
điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người con hoang đàng,
Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết rằng Thiên Chúa không
suy tư và hành động như vậy. Trước lời phản kháng
của người con cả, muốn cho cha mình đập thằng em hư
đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra
khỏi nhà, nhưng người cha hiền từ trả lời: "Em
con hư mất và nay lại tìm thấy".
- Động từ "hư mất"
là nhân tố thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của
dụ ngôn trong Phúc Âm. Từ "hư mất" không có
nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ
ngày nay. "Hư mất" ở đây có nghĩa là hoàn toàn
thất bại trong ơn nghĩa làm người và làm con cái Chúa
của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ trở về trong
vòng tay yêu thương của Thiên Chúa tạo hóa, trở về
trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên con người như Thiên
Chúa. Đấng đã sáng tạo nên con người, cho con người
được sống tràn đầy hạnh phúc, đã có thể ngồi yên
để nhìn sự thất bại hoàn toàn đó của con người, và
đây là một lý do khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi
người nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác
Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, ơn cứu độ mà Thiên
Chúa ban cho con người là một sự kiện, là một thực
tại cụ thể, con người tiếp nhận ơn cứu độ khi trở
về trong vòng tay yêu thương ấp ủ, nhân từ của Thiên
Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp chúng ta
hiểu dụ ngôn một cách sâu xa, đó là
- sự hiện diện của người
anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và hành
xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả
mọi người không hiểu và không chấp nhận thái độ
hành xử của Thiên Chúa đối với con người. Người anh
cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người
có công và phạt kẻ có tội thế thôi, mà không hiểu
rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người
do chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý
mến, nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư
mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm con
cái Chúa của mình. Và chính để cứu rỗi loài người
khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy
mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha,
làm mẹ để đem con người trở về với vòng tay yêu
thương của Ngài. Khi rộng mở vòng tay ôm đứa con hoang
đàng vào lòng, là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo dựng,
khi nâng niu con người trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền
năng của Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp
vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về với Chúa.
Chính vì thế nên phải mở tiệc mừng.
Chúng ta không biết câu chuyện
kết thúc ra sao. Không hiểu sau khi tha thứ và phục hồi
phẩm giá cho người con đã hư mất ấy, người cha già
có thành công trong việc thuyết phục người con cả để
vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em sống lại hay không?
Nhưng chúng ta biết một điều chắc chắn, đó là đa số
trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách
hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi
hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống
với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản
ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa
và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất, cũng giống
như người con cả trong dụ ngôn. Cho đến nay, chúng ta
chưa quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ
nhất quyết bước vào nhà sống với Chúa thật sự. "Con
ơi, mọi sự của Cha là của con". Chính lời nói đó
của người cha già khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì
có một con tim, như con tim dịu hiền quảng đại vô bờ
của cha. Anh sợ hãi phải có cái nhìn yêu thương đại
đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống
mà không hề nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác
trong lòng.
Cũng như anh con cả của dụ
ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở nên giống Chúa, hoàn
toàn phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như
Chúa. Do đó chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có
thể chúng ta thường xuyên đi xem lễ mỗi ngày Chúa nhật
hay cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh nhận các bí
tích nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà
thờ, chúng ta ăn nói chua ngoa và hành xử gian dối như
những người không hề biết Tin Mừng của Chúa. Và đạo
đó, quả thật là đạo nhà thờ, như người ta thường
gọi. Nếu sống như thế là chúng ta khước từ chấp
nhận mầu nhiệm nhập thể của Chúa và như thế cũng là
đi hoang rồi.
Trong thư thứ hai gởi tín hữu
Côrintô 5,17-21, thánh Phaolô kêu gọi mọi người sống
tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã trao ban cho mọi
người qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nghĩa là
sống như một thụ tạo mới, với một con tim mới và
một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia đã khẳng định
trong chương 31 và tiên tri Êdêkiel loan báo trong chương
36. Ơn hòa giải mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua
cái chết của Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là ơn tha thứ và
ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả lại cho
con người các liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với
tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách Giosuê nhắc cho
dân Do Thái biết lời hứa cứu độ hiện thực qua biến
cố Thiên Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ
bên Ai Cập, đã dẫn đưa họ trở về Đất Hứa. Cuộc
sống khổ nhục buồn thương không tự do, không phẩm giá
xưa kia không còn nữa, giờ đây dân Do Thái bước vào
đất Hứa và bắt đầu cuộc sống mới với các buổi
lễ vui, với công việc phụng tự, và các cơ cấu đánh
dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử của họ. Lịch sử
của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương che
chở và mời gọi bước theo Ngài.
6. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’
– Radio Veritas Asia)
Có một người đàn ông nọ
khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ
giáo những bậc thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách,
nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa. Ngày nọ,
ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông nhìn dòng
nước trôi lững lờ, ông nhìn thấy một con vịt mẹ và
một đàn con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch muốn
rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng. Để tìm con này đến
con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không
hề tỏ dấu giận dữ hay thất vọng. Nhìn thấy cảnh
vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm
cười và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám
phá ra một chân lý và ông thốt lên: Tôi đã đi tìm Chúa
và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa
đang đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng đi tìm
kiếm con của mình, đó là hình ảnh nói lên chính tình
yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm
con người. Qua bài dụ ngôn "người con hoang đàng"
quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này,
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy
của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có
tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một
con người trưởng thành. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn
nói lên qua hình ảnh một người cha không muốn khăng
khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó,
để nó được tự do sử dụng tất cả những gì thuộc
về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi tạo lập
một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng
ngóng trông, theo dõi và chờ đợi đứa con. Ông khắc
khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước ngõ
để ngóng trông. Và khi người con vừa xuất hiện từ
đằng xa, người cha đã chạy đến ôm chầm lấy con và
hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp
cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn
mừng. Có lẽ trong văn chương nhân loại từ cổ chí kim
chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh trên
đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng
trông con người từng giây từng phút, Thiên Chúa yêu
thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm
của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân
phận cao quý của một con người.
Đó là tất cả Tin Mừng của
Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả chân lý ấy
bằng câu nói: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên
Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận
biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên
Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của
Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người
con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại
là người con cả, hiện thân của những người biệt
phái. Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu
mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ
thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả
trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: "Đã bao năm con hầu hạ
cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không
bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với
chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết
tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì
cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Quả thật,
những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả
mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề
luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình,
bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên
Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người
anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con
người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận
được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không
muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay
quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản
trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người.
Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Mùa Chay qua bí tích hòa giải,
Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc
tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng
cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng
ta. Và tình yêu vô bờ của Người Cha ấy chờ đợi gì
nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân,
người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và
tha thứ không ngừng.
Nguyện xin Đấng đã chết để
mạc khải cho chúng ta bộ mặt tình yêu của Chúa, giúp
chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút
của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người
anh em chúng ta.
7. Trở thành thụ tạo mới – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời
Chúa’)
Ngày nay báo chí và các hãng du
lịch ở Tây phương thường đăng quảng cáo, không những
các danh lam thắng cảnh nhưng cả những chương trình hồi
phục sức khỏe, giảm trọng lượng cơ thể, thể dục,
tắm hơi nóng, tập Yoga, hoặc theo các phương pháp đông
phương. Các bài quảng cáo đó nói rằng: Sau một vài
tuần, các tham dự viên sẽ trở thành con người mới ăn
ngon, ngủ kỹ hơn, hạnh phúc và trẻ đẹp hơn, họ tìm
lại được an bình nội tâm. Những địa điểm hoặc
chương trình phục hồi sức khỏe có lẽ là một điều
tốt đối với một số người, cũng có thể là đắt
đỏ. Nhưng cũng có thể là làm cho người tham dự được
trở thành một con người mới, ít nhất là trong một
thời gian.
Điều mà những địa điểm và
chương trình phục hồi sức khỏe đó có thể làm cho tâm
lý và thể lý của con người như vừa nói, cũng có thể
tương ứng phần nào với điều mà Chúa có thể làm cho
chúng ta, để trong việc thiêng liêng, như thánh Phaolô đã
nói với các tín hữu thành Côrintô trong đoạn sau đây:
"Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người
đó sẽ là một thụ tạo mới. Những gì là cũ đã qua
đi, nay đây tất cả mọi sự đã trở thành mới".
Câu nói này của thánh Phaolô có hai ý nghĩa.
Một đàng thánh Phaolô nói về
trật tự cũ của nhân loại bắt đầu từ tổ phụ
Adong, đó là tội lỗi và xa lìa Thiên Chúa. Trật tự này
đã qua đi và được thay thế bằng trật tự mới, bắt
đầu với Adong thứ hai là Chúa Giêsu Kitô. Đây là trật
tự của ơn thánh và hòa giải với Thiên Chúa,
nhưng nay nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, nhân loại được
hòa giải với Thiên Chúa và sống trong ơn nghĩa của
Chúa.
Ý nghĩa thứ hai trong câu nói của
thánh Phaolô là ngài nói về trật tự cũ và Do Thái giáo
theo Cựu Ước, trật tự này cũng qua đi và được thay
thế bằng trật tự của niềm tin đối với Chúa
Giêsu Kitô. Trong lịch sử Giáo Hội không thiếu
những cuộc trở lại ngoạn mục của nhiều người, từ
tình trạng tội lỗi ngập tràn trở thành thánh nhân như
Augustinô. Tuy nhiên tất cả mọi tín hữu đều được
mời gọi trở thành thụ tạo mới hằng ngày trong Chúa
Kitô dưới nhiều hình thức. Trở thành thụ tạo mới có
thể là biết tự chủ mình, không để cho sự đam mê
hướng dẫn hành động. Thụ tạo mới cũng có nghĩa là
có một cái nhìn mới về cuộc sống lạc quan hơn, ít
than thân trách phận và bớt phê bình chỉ trích hơn, can
đảm sống liêm chính mặc dù những người xung quanh rơi
vào cám dỗ muốn làm giàu một cách dễ dàng bằng mọi
phương thế, kể cả những phương thế không hợp với
luật Chúa, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh
giác các giáo hữu thuộc tổng giáo phận Turinô (Nước
Ý), trong cuộc viếng thăm mục vụ ngày lễ thánh Giuse
19/03/1992. Trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô có thể
là kiến tạo những mối quan hệ mới mẻ với tha nhân,
thay thế xu hướng ích kỷ bằng sự quan tâm đến những
người khác và những nhu cầu của họ. Mùa Chay là mùa
đổi mới con người, là mùa xuân, trong đó Giáo Hội mời
gọi các tín hữu ra khỏi mùa đông của tâm hồn, để
can đảm bắt đầu cuộc sống mới với chương trình
sống cầu nguyện, tiết độ và chia sẻ với tha nhân.
Chương trình này sẽ đưa tới lễ Phục sinh để họ có
thể hát lên Alleluia.
8. Hai người con, hai cuộc trở về – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời
Chúa’)
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời
điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái
mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm
hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực
tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống
được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa
thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng
và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh
thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc
bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ
chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất
buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo
là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự
vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân
nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của
những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.
Đó là trong những năm vừa qua,
thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là
thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ
kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại,
nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế
thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó
còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự
nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái
Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời
đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu
của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng
vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở
về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó,
sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.
Bài đọc thứ nhất hôm nay cho
chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau
khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt
chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô
lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những
ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô,
nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những
người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái
kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ
bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân
mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một
thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi". Nói
chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta
đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình
và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ
ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của
Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng,
muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong
niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người
phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó
là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của
mình, cùng những người chung sống với mình.
Hai người con trong bài Phúc Âm
là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng
nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời
này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha
thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc
cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của
người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với
người con phung phá trở về ông bảo: "Con ta đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Với người
con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở
với cha, mọi sự của cha đều là của con". Như thế
trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước
sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không
rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha
thứ để tạo lại niềm vui gia đình.
Kế đó, sự trở về của đứa
con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm
vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha,
nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo
đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái
ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối
với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần
chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là
được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn
khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người
con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì
cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng
một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để
cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại
sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có
chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được
niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra,
giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt
phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu
tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào
ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ
và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp
tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi"
tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định
đứng ngoài cuộc.
Trong Mùa Chay, để chuẩn bị
sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà
phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi
người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một
đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất
vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô
cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được.
Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người
con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà
để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và
tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày
buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã
qua.
9. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’
– Radio Veritas Asia)
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi
chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong
niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một
hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống
trong một thực tế an toàn và thanh thản. Có bao giờ
chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa? Đó là kinh
nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang
chờ chết, nhưng sau khi đi khám bác sĩ bảo không có gì
đáng ngại, sẽ khỏi. Đó là kinh nghiệm của hai vợ
chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến
chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ,
sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Đó là kinh
nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn
kinh hoàng, trong những trường hợp đó, chúng ta sẽ thấy
thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: "Hồn tôi như
cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy
đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã
thoát".
Bài đọc thứ nhất trích từ
sách Giosuê kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do
Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi
đặt chân đến miền Đất Hứa. Không còn nữa những
ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Dân Chúa đã về
đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp,
nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã
sống. Họ đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm
mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản
quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng
ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong
tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh
vịnh 33 dùng làm đáp ca "Hãy nhìn về Chúa để các
bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa
người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã
cứu họ khỏi mọi điều tai nạn".
Nơi bài đọc thứ hai thánh
Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành Côrintô một hạnh phúc
to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so
sánh được. Đó là hạnh phúc của con người trở thành
tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện
nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho
con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng
Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành
vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón.
Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo:
"Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao
hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì
Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong
Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa".
Không còn niềm vui nào bằng, từ
tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở
thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở
thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương.
Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Đất Hứa
của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất
không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của
con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên
Chúa.
Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa
ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi
tiếng, ai cũng biết cả. Để an ủi để khích lệ người
tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng
dậy và mạnh dạn tuyên bố: "Tôi muốn ra đi trở về
với Cha tôi", Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu
biểu cho hai cuộc trở về. Người con phung phá trở về
trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người
con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết
tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của
gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một
tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con.
Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với
Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là
người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng
hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính
là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa
nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc
trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều
kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh
chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với
nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu
thương. Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ
kêu mời "Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả
về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang
sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm
an ủi chứa chan".
Để có việc làm cụ thể trong
tuần này, tôi noi gương người em trong gia đình nơi bài
dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tôi phải làm một hành động
chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở
về nhà cha tôi, để sống lại trong hạnh phúc của tình
yêu thương nồng thắm của Người. Hành động đó có
thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã
từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi
hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi
phải khổ. Và kế đó học lấy bài học của người
anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Tôi
hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm
vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên
Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi trở về
nhà Cha.
10. Cha nhân lành vòng tay rộng mở - Achille Degeest
Trả lời những câu nói xa nói
gần ác ý của những người Biệt phái, Đức Giêsu nêu
ra những dụ ngôn đẹp lạ lùng về lòng từ ái, nhất
là dụ ngôn đứa con phá gia. Biệt phái và Ký lục là
những kẻ có “môn bài” giải thích Lề Luật, tự cho
quyền xét đoán kẻ khác về phạm vi Lề Luật. Họ rất
bất bình thấy Chúa nói chuyện, hơn nữa, tỏ ra thân mật
với những kẻ tội lỗi. Chúa công khai ghét sự tội vô
cùng, lên án sự tội dù nó mai phục trong những chốn
hiểm hóc nhất là tâm và trí con người. Vậy mà Chúa
lại dễ tính để người ta gọi Người là bạn của
những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi. Thật ra Chúa
có làm bạn với hạng người ấy, vì bản thân Chúa hoàn
toàn trong sạch cho nên Chúa có thể thương yêu trong sự
thật hạng người tội lỗi. Bài dụ ngôn được thánh
chép sử thuật lại theo một mạch lạc trong sáng, chẳng
cần giải thích thêm. Chúng ta nhặt ra mấy đoạn có giá
trị gợi cảm.
1) Hồi tâm lại, nó tự nhủ…
Anh thanh niên khinh bạc và ích kỷ
nhận ra hơi muộn, nhưng không quá muộn, là những hành
vi của anh đưa đến những hệ luỵ. Trước đây anh
không muốn nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ những hệ
luỵ tai hại xiết chặt lấy anh. Anh nhận thấy, hưởng
thụ bằng cách chỉ vung tiền mà không lao động tiết
kiệm tất đưa đến khốn khổ. Tuy nhiên còn có điểm
đáng khen là anh không tuyệt vọng về cha anh. Nguyên tắc
hồi tâm trở lại là không được tuyệt vọng về Thiên
Chúa. Hơn nữa trong thâm tâm phải nhìn nhận mình bất
xứng và chỉ trông cậy vào tình yêu của Cha.
2) Người con cả liền nổi
giận và không thèm vào nhà…
Trên bình diện con người, phản
ứng như người anh cả rất dễ hiểu. Nhưng Đức Giêsu
dạy rằng trong Nước Trời, phản ứng như vậy không
được. Những kẻ lành ăn ở ngay thẳng là đúng bổn
phận, phải quyết chí trung kiên trong kinh nguyện và cố
gắng đạo đức. Tuy nhiên họ không có quyền đặt một
giới hạn cho lòng từ bi của Thiên Chúa. Hơn nữa, phải
độ lượng theo lượng cả khoan dung của Người. Giả sử
Thiên Chúa vui mừng thấy một đứa con hư trở về nhà
Cha, thì những kẻ xưa nay vẫn hiếu thảo được mời
gọi chung vui đón mừng kẻ sám hối.
3) Truyền thống Kitô giáo từ
xưa đã cảm thấy điểm trung tâm của dụ ngôn này là
lòng độ lượng của Cha.
Tất nhiên, điều cần thiết
tuyệt đối phải có, là kẻ tội lỗi phải ăn năn hối
hận. Dẫu sao, thực tại trước hết là Thiên Chúa dành
cho kẻ có tội một sự quan tâm âu yếm thương xót. Đứa
con hư khỏi mất công gõ cửa vì cửa mở sẵn chờ ý.
Người cha chạy vội ra xa đón chờ con. Tới đây chúng
ta thấy Thiên Chúa nhân lành không biết đến những hạn
chế con người đặt cho sự tử tế của mình, những hạn
chế có tên là tự ái, tự trọng, công bằng, v.v… Điều
chắc là Thiên Chúa cầm cân nảy mực, duy trì trật tự
trong mọi sự mọi việc, và chẳng thấy chỗ nào trong
Phúc Âm nói rằng đứa con lãng tử khỏi phải tạ tội,
khỏi phải làm điều gì để hàn gắn thiệt hại y đã
gây ra cho gia đình –nhưng một vòng tay rộng mở chờ y.
11. Trở về trong tình thương.
Có một
chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn
lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng…
Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma
dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và
nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về.
Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không
biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi
nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú
nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng
thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không
những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong
nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ
đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng
đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi,
chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ
đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt
lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi
ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của
chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được
đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người
cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ
nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở
tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và
tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng
thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm
gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi
trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả
chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối
cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi
nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh
niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ,
thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có
vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt
trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh
túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông
xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử.
Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy
anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người
cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha,
chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh
vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh.
Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha
đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã
mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người
tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào
chỗ chế, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở
lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không
có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc
cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới
tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa
đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có
tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên
Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường
trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương,
phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt
trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không
mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng
cho ta.
Tấm lòng của người cha thật
nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một
chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha
anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với
niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho
con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn
tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ
ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng
ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài
biết hết mọi sự” (Rm 5,20).
Trở về là gặp lại niềm vui
xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống
lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích
thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui
sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không
phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc
nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ
được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật
là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người
cha bao dung, nhân hậu.
Trong khi người cha tràn đầy
niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất
cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại
sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ
chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con
của cha kia…”
Con của cha chứ không phải em
của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công
với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi
tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao
nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh
cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra
đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa
con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt
mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em, chúng ta là những
người con bướng bỉnh, những người con bụi đời,
những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người
cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một
lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người
cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài.
Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi
người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ
muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta
biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở
về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu
Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu
chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ
không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng
Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ
lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở
lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ
xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện
cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay
giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa
như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta
sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng
ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó:
ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con
đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ.
Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với
Ngài và với anh em một nhà.
12. Người con hoang đàng - McCarthy
Suy Niệm 1. THIÊN CHÚA ĐỐI
VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi,
ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của
ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu
xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông.
Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được
tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái
phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt
giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi
ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông
nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội.
Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống
chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức
giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa
con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm
rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội
đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói:
“Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu
này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người
con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không
có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy
nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha
anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón
tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn
học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với
tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người
con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy
thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu
chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là
tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không
phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều
này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được
yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần
được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng
ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối
với người em trai phản ánh lại thái độ của người
Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người
rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi
xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo
đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta
trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã?
Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người
anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách
người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc
hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho
người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng
mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta
đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên
Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử
theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng
ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội
lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái
và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ
phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được
ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ
cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng
ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội
nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung
tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình
yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở
rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì
ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa”
(Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM
HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn
của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con
trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn
phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là
một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng
nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta,
lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ
nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người
nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã
ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau
khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông
thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những
thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi
tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình
không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống
rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những
việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm
ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã
giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những
người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở
về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy
nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và
hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá
lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì
ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của
mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới
hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy
nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng
ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em
chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn
nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn
người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai
của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh
cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã
tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua
bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn,
dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người
của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi,
thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng
thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn
cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp
ai.
Câu chuyện về đứa con hoang
đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ
và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn
cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm
hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết
hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết
tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và
tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho
chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm
hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự
rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người
ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là
cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con
người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là
đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của
tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm
hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm
hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính
cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến
thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng
và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với
bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có
thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ
làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có
thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng
lượng.
13. Người con trai đi hoang
Dụ ngôn “Người con trai đi
hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi
lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh
thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý
do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại
nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những
gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình
rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu
của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái,
người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ
ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba,
đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc
lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu
ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh
doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ
khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã
nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước
sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi
ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông
hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó
phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý
nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ
nhà ra đi…
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng
việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người
Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào
chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời
khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính
mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn
xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không
thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là
chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có
một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng
con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng
ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con
người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được
thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà
với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về
nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con,
nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên
đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà
cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử
của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị
đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc
về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha
chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ.
Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho
việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho
quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín
của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế
mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì
con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không.
Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng
đứa con đi hoang trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử
nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ
về tính chất và hậu quả của tội lỗi: Tội
lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn
hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy
ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng;
về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái
cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi,
nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải
ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng
được no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải
gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng,
vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về
tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt
trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con
từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con
và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có
sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn
nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ
cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe
rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia,
Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân
phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên
hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ
báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ
đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng
ta”.
“Khi được yêu bằng thứ tình
yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ
không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm
thấy lại và “thêm giá trị”.
Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của
ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống
lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn
được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang,
vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này
là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại,
trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc
trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô
II, DM6).
Nhưng câu
truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả
bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã
trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do
Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị
tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật
nơi người anh cả.
Tất cả thái
độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời
cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không
phải là công việc của tình yêu.
Thái độ của
anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về
người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ
“thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn
sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng
ngã sâu hơn nữa.
Tâm địa của
chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm
cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi
ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn
làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ
chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của
nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho
nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng
tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào
bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và
khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và
giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể
hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và
tái ngộ.
Sự mô tả
chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu
một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên
Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn
sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình
mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử
của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông
biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa
con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung
thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con
ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản
thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa
con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy
nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến
triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện
cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con
ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người
của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm
thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con
đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm
thấy” (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta
lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với
Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa
đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu
của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người,
Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ.
Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể
không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài
hơn.
14. Người con hoang đàng - R. Gutzwiller
Xét theo tâm lý, phải là bậc
thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế
nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng,
về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta.
Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh
Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý
nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát
những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con
hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể,
hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần
gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản
văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã
chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con,
chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc
đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống
ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì
muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính
hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người
hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội
lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc
bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào
cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự
do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và
khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của
Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách
tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực
sự để cho con người làm chủ những quyết định của
mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên
để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng
mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người
làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực
của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc
dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại
dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến
lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn
và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của
người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt
chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để
mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để
họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng
mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ
để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý
muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với
việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với
bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện
tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người
ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả
và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi
của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa
con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở
về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó
mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của
mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không
còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân
hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám
thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu
sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức
giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự
sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng
của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa
vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó
là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên
Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như
một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ
nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ
đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha
thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông
đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ…
Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một
thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết
trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân
sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi
lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là
ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón
nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một
cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người
tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả
và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân
không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng
Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là
Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ
tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển
cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi
quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy
bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của
tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều
đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan
khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội
hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để
chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi
chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu
độ và vinh quang của Thiên Chúa.
15. Mọi sự.
Câu chuyện được kể lại trong
bài Tin mừng hôm nay theo thánh Luca có thể coi là tấm
thảm kịch vẫn xảy ra trong mối tương quan giữa Thiên
Chúa với con người và giữa con người với nhau. Có một
lúc nào đó trong tiến trình trưởng thành và tự lập,
đứa con chợt thấy mình cần đòi lấy quyền tự do để
quyết tách ra khỏi sự giám hộ của cha mẹ. Con người
cũng đã từng muốn được bộc lộ tư thế độc lập
tự chủ như vậy trong tương quan với Thiên Chúa. Con
người đã xây dựng tháp Babel, biểu tượng của tiến
bộ khoa học kỹ thuật để khẳng định với Đấng tạo
dựng của mình. Con người gần như nắm trọn quyền kiểm
soát sử dụng mọi tài nguyên thiên nhiên để phục vụ
cho nhu cầu đời sống của mình: “Thưa cha, xin chia cho
con phần gia tài con được hưởng”.
Đối với người cha, lời cầu
xin của con là chính đáng, vì những gì ông đã gầy dựng
nên như nhà cửa, ruộng vườn và tất cả tài sản vật
chất, tinh thần cốt là chỉ dành cho con. Không thể có
cách đáp ứng nào khác hơn đối với người cha tốt
lành yêu thương con cái đã vui lòng trao cho con tất cả
gia sản của mình. Và đây cũng chính là cách hành xử
của Thiên Chúa khi Người đáp ứng vô cùng rộng lượng
hào phóng quá sức muôn đời của con người. Mọi diễn
tiến có lẽ đã êm xuôi tốt đẹp, đã như không có một
chi tiết tai hại xảy ra. Ít ngày sau khi con thứ thu góp
tất cả rồi trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống phóng
đãng phung phí tài sản của mình.
Vậy, một khi đã rời khỏi nhà
cha, rời khỏi tình thương của cha, khỏi sự che chở
hướng dẫn của cha thì đứa con dẫu đã lớn khôn, song
một mặt nào đó vẫn còn là con, vẫn có mối thương
tình phụ tử ràng buộc “sinh tử bất khả phân ly”
tất sẽ phải đương đầu với bao hậu quả không lường
được. Tấm thảm kịch bắt đầu ở đây, ở chỗ con
người tách ra khỏi quyền năng yêu thương quan phòng của
Thiên Chúa, ở chỗ con người làm ngơ hoặc phủ nhận sự
hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời như nguồn
mạch và sự cảm hứng của con người, ở chỗ con người
gạt bỏ mọi dấu ấn của luật pháp Thiên Chúa trong bản
chất, trong lương tri con người. Chính lúc đó con người
phung phí hết mọi gia sản, phung phí tài năng, sức lực,
phung phí luôn cả phẩm giá của mình là con người được
tác tạo giống dấu ấn của Thiên Chúa.
Tách rời Thiên
Chúa, phủ nhận Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa rút cuộc
sẽ đẩy con người xuống tận đáy của mọi thảm hoạ,
xuống ngang tầm với cầm thú. Anh ta ao ước lấy được
những đồ cho heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Sự giác ngộ
sám hối của con người có vẻ muộn màng, nhưng lại là
điều Thiên Chúa chờ đợi và luôn đưa ra sáng kiến để
đón nhận tội nhân cải tà qui chánh. Anh ta còn ở đàng
xa thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương
chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Có thể có
hoán cải làm lại cuộc đời, nếu như không có chờ đợi
những ngày mở đường sinh phúc, mở rộng vòng tay tha
thứ đón nhận. Đây chính là cốt lõi của ơn trở về.
Nền tảng cảm hứng và sức mạnh của ơn này chính là
tình thương và quyền năng Thiên Chúa, Đấng muốn cứu
vớt tất cả phàm nhân, một khi Người đã tặng ban cho
nhân loại chính Thánh Tử Chí ái của Người.
Tuy nhiên, hệ
luỵ của hành vi con người tách rời và phủ nhận quyền
năng quan phòng của Thiên Chúa không phải là không gây
tác hại nghiêm trọng trong mối tương quan giữa con người
với nhau, nhưng đã có một sự rạn nứt đổ vỡ trong
tình thương huynh đệ, trong nỗ lực chung sức phục vụ
công trình của Thiên Chúa là Cha với tấm lòng hiếu kính
vô vị lợi.
Trái lại,
người con thứ sau khi đã nuốt hết của cải của người
cha nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Thậm
chí đáng buồn hơn nữa còn thương mại hoá mối tương
quan giữa Thiên Chúa, lấy lợi vụ vật chất, lấy công
trạng phục dịch dễ dàng trong nhà cha làm chuẩn mực
cho tình nghĩa phụ tử: “Bao nhiêu năm trời con phục vụ
cha thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con bê để
con ăn mừng với bè bạn”. Ơn hoán cải thực sự và
toàn diện không thể thực hiện, nếu chỉ có nỗ lực
đơn phương của một nhân loại đã bị thương tật tội
lỗi và không ngừng bị ảnh hưởng của ác thần khống
chế. Nhưng ơn hối cải ấy chỉ có thể xuất phát từ
Thiên Chúa, từ cội nguồn trắc ẩn, từ lòng yêu thương
nhân từ luôn rộng mở chờ đón sự trở về của con
người tội lỗi.
16. Đôi mắt cha
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Một cô bé đang ngồi trên gối
mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ: Mẹ ơi, con có thể nhìn
thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp: Mẹ không biết,
nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong
đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm
chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô
bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
Trong đôi mắt
của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên
Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội
lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa:
“Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài,
xin thương che chở”. Vâng, tấm
lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa
Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một
người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của
con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ.
Sau khi anh ta đã “Sống phóng đãng, phung phí hết tài
sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng
nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu
từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn
hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha
thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con
hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng
tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông.
Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm
thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca
múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón
tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của
đứa con.
Người anh đi
làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận,
trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận
cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với
ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã
mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu
rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu
thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa thích
dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên
Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn
còn tình thương”. Chỉ tiếc một điều là người anh
cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh
không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu
vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không
chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu
bao dung của người cha. Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong
nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ
để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh
không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa
con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm
lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất
con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi
của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện
cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời
sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội
lỗi phải chết hơn là được cứu chữa. Vậy cả hai
người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều
phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp
sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim
cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tràn đầy yêu thương.
- Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
- Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
17. Được yêu
Chắc hẳn dụ ngôn đứa con
hoang đàng là nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất
trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Tuy nhiên, một số
người vẫn cứ cho rằng đó là một câu chuyện bất
công. Họ cảm thấy tiếc cho người con cả, họ nhận
thấy là anh ta đã bị cư xử bất công, họ tin rằng
người con thứ ra đi vì đã phạm tội giết người, vì
thế, anh ta cần phải bị trừng phạt, nên dạy cho anh ta
một bài học. Chúng ta hãy nhận xét xem thái độ đó có
đúng đắn hay không.
Người con thứ
đã được xác định là một tay ăn chơi trác táng. Anh
ta đã đi đến một thành phố, mà anh ta có thể thoả
mãn tất cả mọi lạc thú tại đó. Nhưng khi đã hết
nhẵn tiền, những ánh đèn sáng trưng đều lu mờ, và
tất cả những cánh cửa đều đóng lại không cho anh
vào, thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình.
Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau
mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự
nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”.
Đây là một quyết định can đảm, và cần phải có
nhiều can đảm để thực hiện quyết định này. Thật
không dễ dàng nói lời “xin lỗi”, ngay cả đối với
một vấn đề tầm thường.
Cuộc hành trình trở về thật
buồn bã, cô độc và đáng sợ. Thật dễ dàng trở về
nhà, khi bạn là một anh hùng, với đầy chiến công và
vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không hề có một
chiến công nào để đem về cho cha anh, không hề có thành
quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi,
đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi
bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà,
lòng trĩu nặng xấu hổ và nhục nhã.
Tất cả mọi sự đều ở ngoài
tầm tay của anh. Giả thử cha anh không chấp nhận cho anh
trở về. Vậy thì anh sẽ làm gì đây? Anh xứng đáng bị
trừng phạt:
- Anh vẫn biết điều đó, và
thậm chí anh còn yêu cầu điều đó nữa. Tuy nhiên, sự
trừng phạt là điều cuối cùng mà anh cần đến. Trong
bất cứ trường hợp nào, anh đã từng bị trừng phạt
rồi. Anh không hề có lúc nào vui vẻ. Có lẽ anh đã có
lạc thú, nhưng chắc chắn anh không hề có niềm vui. Anh
đã đau khổ rất nhiều.
- Đói khát, cô độc, xuống tinh
thần, nỗi đau đớn vì hối hận, cảm giác bị phản
bội. Mỗi tội lỗi của anh đều mang theo nó thứ hình
phạt mau lẹ, chắc chắn. Phạm tội là đau khổ. Anh
không cần phải chịu đựng thêm hình phạt nào nữa.
Anh cũng không cần phải được
dạy cho một bài học. Anh đã được học hỏi một bài
học:
- Một điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Anh đã học
hỏi một số sự thật đau lòng về bản thân mình, về
những người khác, và về cuộc đời. Anh đã ăn một
thứ trái cấm, và thay vì được thoả mãn, trái cấm đó
đã để lại cho anh một hương vị cay đắng trong miệng.
Nếu anh bị khước từ, thì thái độ này sẽ huỷ hoại
anh.
Điều gì đã xảy ra? Khi người
cha nhìn thấy người con đã bị mất đi của ông đang
đang tiến về phía ông, ông liền chạnh lòng thương, và
một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người
cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà ông còn
đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được
tha thứ.
Phát hiện vĩ
đại nhất mà người con thứ đã nhận ra, đó là anh vẫn
được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh.
Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm
lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được yêu thương,
đó không những là một điều tốt đẹp, nhưng khi vẫn
được yêu thương ngay trong tình trạng tội lội, thì quả
thật đó là một cảm nghiệm tuyệt vời. Loại tình yêu
như vậy giống như một làn gió mát thổi vào ngọn lửa
gây chết chóc, hoặc cơn mưa đổ xuống vùng đất nứt
nẻ. Đây chính là ân sủng. những ai đã từng cảm
nghiệm được loại tình yêu này, sẽ nhận biết được
nét gì đó về tấm lòng của Thiên Chúa.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không
phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự
tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ
tha thứ cho chúng ta; mà Người còn yêu thương chúng ta,
và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu đó. Câu
chuyện này không phải là cho phép chúng ta cứ phạm tội,
nhưng chứng tỏ rằng do bản tính yếu đuối và gian ác
của con người, chúng ta đã phạm tội, nhưng sau đó,
chúng ta có thể vượt qua quá khứ của mình, vẫn có thể
làm lại từ đầu. Đây là bài học vĩ đại của dụ
ngôn này.
“Giấy phút người còn hoang
đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng
phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh
chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành
những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời
của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được
ý tưởng đó. Tôi đáng nói rằng người ta phải chịu
cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu
như vậy,thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng
giá”.
18. Bộc lộ
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn
của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con
trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn
phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là
một con người lạnh lùng. Trái ngược, người con thứ
nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người
của anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách
nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình,
bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một
ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài
thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi
phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông
thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những
thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi
tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình
không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống
rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những
việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm
ghét bản thân mình. Tuy nhiên. Nỗi đau của bản thân đã
giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho
những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha
mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở
về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy
nhất mà anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và
hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá
lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì
ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của
mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới
hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy
nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng
ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em
chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn
nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn
của người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em
trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người
anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta
đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông
qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn,
dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn của
người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì
tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì
được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ
nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp
ai.
Câu chuyện về đứa con hoang
đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ
và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn
cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nàn, tâm
hồn tan nát và tâm hồn vui mừng, tâm hồn không biết
hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết
tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và
tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho
chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm
hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự
rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người
ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là
cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con
người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là
đêm đen tối nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng
trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan
nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn
trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của
Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa
không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao
giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của
Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi
xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở
về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự
đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
19. Người anh cả
Dụ ngôn người con hoang đàng
hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là
một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh
sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật
lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội
nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm
cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả
trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây? Đồng
thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn
cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta
hôm nay?
Khi được biết người em trở
về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi
giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung
vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha
coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha
một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con
bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của
cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn
đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo
ăn mừng nó”.
Trước hết, người anh cả nói
về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối
với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự
cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề
trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng
những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy
ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy
quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến
độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng
khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ
rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh
đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha.
Anh thiếu tâm tình của một người con và một người
anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của
cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất
trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được
tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ
biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán.
Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải
được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông
chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan
huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với
mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn
người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành
người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông
trong gia đình đã biến mất.
Đã đành người con thứ khước
từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất
lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở
nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi
chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong
anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng
của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung
thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh
như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi
đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về
và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của
anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo,
ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che
đậy.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn người
con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là
người con cả, hiện thân của những người Biệt phái
và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái
độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội
lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn
uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt
phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như
Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội
lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối
với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật
lệ Do thái.
Những người
Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo
đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật
của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên
Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền
đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế
là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay
sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn
những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ
không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.
Vì mang hình thức vụ luật nghĩa
là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả
hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương
xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha
nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị
phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm
thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi,
rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi
họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức
Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian
để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ
một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi,
những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra
khước từ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả
lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng:
Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời
mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một
tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc
tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại. Quả thực, dụ
ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ
nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô
hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng:
người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu
không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của
Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là
tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là
môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những
người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?
Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa
Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những
người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích,
khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là
những người mang những lỗi lầm công khai như: những
người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma tuý, rượu chè,
trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước…
Vì thế để hoá giải và sửa chữa những thành kiến,
những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn
cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn
tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội
lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận
hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.
Dụ ngôn người con hoang đàng
làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân
hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng
thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của
những người Kitô hữu chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời
gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng
cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để
thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng
tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con
của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia
sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương
anh em một nhà. Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể,
khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng
ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những
người anh em một cha trên trời.
20. Chú giải của Noel Quesson.
Các người thu thuế và các
người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe
Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn
xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới
kể cho họ dụ ngôn này
Những câu này dẫn nhập cho "ba
dụ ngôn về lòng thương xót". Con chiên lạc được
tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất
được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được
Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn
ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng
bàn với họ - ôi! Chiếc "bàn" kỳ diệu biết
bao.
Những người tội lỗi đang ngồi
ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với
họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm
bẩm?
Một người kia có hai con
trai
Chúng ta có tập quán không hay
chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người
con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha
mới là nhân vật chính: "Một người kia có hai đứa
con trai". Đó là dụ ngôn "người cha hoang phí”
mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi:
Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của
ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là
một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia
đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian,
đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang
sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu
đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
Người con thứ nói với cha
rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được
hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ
hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều
tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất
cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ
biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực -
khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn
ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ,
cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là
chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu
nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa
như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ
thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta
sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. "Khi
anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng
ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm
cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người
dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh
ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng,
nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ:
‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư
gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng
lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con
thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công
cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh
của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình
dung ra.
- Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải" của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “'Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào". Thái độ này không phải ngày nay mới có.
- Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
Người ta tăng cường sự trang
điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn
lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: "Nhét cho
đầy bụng". Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói
hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn
xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn
đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân
của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói
quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh
của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì
người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy
ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng
thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể
hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa", “ông
chạnh lòng thương", "ông chay đến, ông ôm hôn".
Có lẽ việc "chạy đến" là cử chỉ mạnh nhất
trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề
trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới
lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn
ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở
về của người con này, như một gương "hoán cải".
Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ "ăn năn"
của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã
không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại
Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều
biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết
ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này
đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ
chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng
xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn
mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc
làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn
nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một
người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không
đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với
chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không
phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ
mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng
đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải
trong ngôn sứ Hôsê: "Chúa vẫn trung thành tiếp tục
thương yêu người bất trung". Lạy Chúa, Chúa thương
yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần,
hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn
là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang
né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: "Dù
các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không
bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!"
Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã
chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói
rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với
cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’ Nhưng người
cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất
ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào
chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để
chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người
con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban
cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực
sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà
nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt
đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi
thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy
điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta" thành
"em con". Chết - sống lại -bắt tìm thấy. Đối
với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà
Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa
cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong
tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta
thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang
sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng" của Thiên
Chúa! "Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là
bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó
là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của
người cha đối với người “con cả”.
Lúc ấy người con cả của
ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà,
nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người
đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả
lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê
béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả
liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra
năn nỉ
Đối với người con cả, người
cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: "Ông
bước ra năn nỉ". Kinh Thánh thường trở lại đề
tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt
đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ
người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy,
người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã
chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không
được hưởng. Cũng vậy, "những người thợ giờ
chót" sẽ thay chỗ những người đầu tiên "làm
vườn nho" (Mt 20,18). Cũng như thế, "người hàng
chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy
"dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn:
Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của
Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như
thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu
tất cả mọi người. "Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt
bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?" (Mt 20,15). Lạy
Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ
quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực
sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Cậu trả lời cha: ‘Cha
coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi
nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được
một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng
con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha
với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo
ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng
ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không
nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.
Nhưng người cha nói với
anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả
những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải
ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại
sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng
ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên
Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội
lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của
các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia,
Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây,
khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại
đội trưởng ngoại giáo Conêliô: "Vậy Thiên Chúa đã
ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng
ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu - Kitô, thì tôi là ai mà
dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). "Không dành
đặc ân, cho ai cả". Mọi người đều được thương
yêu.
21. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN NGƯỜI CHA
NHÂN HẬU
CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI
PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn nhắm vào
đám đông bị xúc phạm.
Tình hình ngày
càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên
Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức
Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là
tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận:
"Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham,
Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong
Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ,
thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong
Nước Thiên Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và
các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà
của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức
Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng
ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới:
những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc
cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù"
gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường
đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như
bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã
nói, Người: "Tiếp đón những người tội lỗi".
Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông
phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và
đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt
-Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy, những
người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người"
như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu
trách Chúa.
Chương 15 có giá trị thực sự
là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các
kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là
công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những
người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt
nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên
Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành
cho những người không được thương yêu và không đáng
yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự
nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công
chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi
lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi
lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi
lai tìm thấy".
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được
đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn
gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai
diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người
con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan
trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người
con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.
Khuôn mặt của người con thứ
được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất
của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người
cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống
tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng.
Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất
khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo"
cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công
việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với
Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ
ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở
đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng
những thứ heo ăn" mà không được.
Vừa đói khát,
thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định
trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết
nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa
cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật
không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con
như một người làm công trong nhà thôi".
Nhưng, chưa kịp thốt lên một
lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy
anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu
vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp
đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ!
Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu
hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự
do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình
đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của
người cha.
3. Còn người anh trong tâm
trạng giận dữ
Người anh "từ ngoài đồng"
về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà
có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng
anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại
có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như
phản ánh thái độ của các kinh sư và những người
Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một
lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm
con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái
lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với
bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật
không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình,
xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước
mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha,
mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng
ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh
và phần thưởng. Như các kinh sư và những người
Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách
với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng.
"Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của
cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại
giết bê béo để ăn mừng".
4. Lòng quảng đại phi
thường của người cha
Nếu phải coi chừng để đừng
quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên
chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn
là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu
luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi
chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra
đến hai lần.
Ông chạy ra.
hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người
Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới
tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói,
đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông
nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải
mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ
nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê
béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm
vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay
sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.
Ông lại chạy ra để nài người
anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta
đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ
ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về
tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi
mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời
họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không
nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta
bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người?
Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà
giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức
Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là
những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi
hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng
ta trong tình trạng người anh.
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có
thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng
lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với
người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn
giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có
lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ
cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Huguses Cousin kết luận: "Thính
giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người
anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người
cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa.
Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách
dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị
thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt
chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta
thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc
chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao,
qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên
tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với
từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối
cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó
mà vui được".
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Cả hai người con của dụ
ngôn cùng hiện hữu trong ta
Niềm vui Phục sinh đã gần.
Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và
đón nhận lời mời gọi dự lễ?
Như dân Israel
vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt
qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt
qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai
người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu
chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai
người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận
ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu
lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với
cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát
những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống
lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng
chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã
trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ
ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến,
những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ
là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta
phải mở rộng cửa đón tiếp?
Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta.
Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên
Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà
chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng
nhất của đức tin Kitô giáo.
Trong các từ ngữ chỉ đức tin
Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả.
Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.
Con chiên lạc, người con đi
hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung,
người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà.
Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là
những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên
Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một
điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì.
Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ
cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về
và đừng phạm tội nữa".
Người ta có thể chất vấn: tại
sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại
sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một
tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư
xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ
ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha
hoá"
Chính lúc đó ơn tha thứ đến,
một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống
lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa,
chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu
nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một
bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi
chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói,
liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ
đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ
những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc
phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân
lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với
kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi
thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không
xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc
phạm đến bạn.
Đăng nhận xét