LỄ
LÁ – Năm C
Lời
Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56
MỤC
LỤC
1.
Cô đơn và im lặng.
2.
Con lừa.
3.
Tình yêu đáp lại hận thù – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4.
Chúc tụng Đức Vua
5.
Tính chất hiện tại của Bí Tích Thánh Thể
6.
Rước Lá: Lc 19,28-40
7.
Người tôi tớ khổ đau của Giavê
8.
Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa
9.
Bài Giảng của ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
10.
Giờ chiến thắng vinh quang – Lm Ignatio Trần Ngà
11.
Giờ cứu độ – Lm Jos. Trần Ngà
12.
Chiến thắng của tình yêu - McCarthy
13.
Vua vào thành: Lc 19,28-40
14.
Baraba và Đức Giêsu.
15.
Suy niệm của Noel Quesson.
16.
Một vài ý suy niệm
17.
Lễ lá.
18.
Hoan hô- Đả đảo.
19.
Trung thành với lời tung hô.
20.
Vụ án.
21.
Cuộc Thương Khó
22.
Suy niệm của R. Gutzwiller (Lc 23, 26-49)
23.
Ông này là ai vậy?
24.
Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
25.
Cám dỗ
26.
Đón tiếp
27.
Chúc tụng
28.
Làm chứng
29.
Yêu cho đến cùng – Thiên Phúc
30.
Suy niệm của Lm Jos. Phạm Thanh Liêm
1. Cô đơn và im lặng.
Qua bài
thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi
cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước
hết là nỗi cô đơn.
Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn.
Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ
đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô
đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa
trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy.
Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai
để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài.
Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay
cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại
mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng
tự đàng xa.
Tiếp
đến là sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị
thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa
Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây
thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu
cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế
nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa
tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên
xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này
là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc
mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất
vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải
cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ
chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu
mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời.
Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và
những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những
công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến
cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức
Kitô.
Không.
Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những
tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần
phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để
rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó
chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này.
Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói,
chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài
miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm
hồn và trong cuộc đời chúng ta.
Điều
đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức
tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận
phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta
phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc
đời chúng ta.
2. Con lừa.
Hôm
nay, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng một con lừa để tiến
vào thành Giêrusalem giữa những tiếng tung hô vạn tuế.
Chính vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh con
lừa.
Đối
với nhiều người, hình ảnh con lừa chẳng phải là một
hình ảnh hấp dẫn, bởi vì lừa là một con vật đần
độn và ưa nặng. Tuy nhiên, trong một bài thơ, Chesterton
diễn tả một chú lừa đã quan sát vẻ xấu xí của mình
và tự nhủ:
“Chắc
hẳn tôi đã được sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi
cá lượn trên không, lúc cây rừng cất bước và cây vả
trổ gai. Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm,
đôi tai khác nào cặp cánh lạc loài và dáng đi kỳ cục
nhất trong các loài động vật bốn chân. Thế nhưng, tôi
cũng có giờ của tôi chứ. Một giờ thật oanh liệt và
êm dịu, khi bên tai tôi văng vẳng tiếng reo hò và ngành
thiên tuế chập chờn dưới bước chân tôi đấy”.
Và chú
lừa đã thốt lên: “Quí
vị cứ cười nhạo tôi đi, nhưng nên nhớ rằng tôi đã
được chọn trong tất cả thú vật trần gian, để cõng
trên mình Đấng Cứu Độ nhân loại”.
Mặc dù
chúng ta thường nhạo báng giống lừa, nhưng các nhân vật
trong Kinh Thánh lại ngợi khen chúng. Lừa là một giống
vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa, là giống vật
dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo: Đấng
Messia, tức là Đấng Thiên Sai, sẽ cưỡi trên lưng lừa
mà tiến vào thánh Giêrusalem.
Và hôm
nay, Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên báo ấy. Làm như
thế, Ngài đã chu toàn hai điều xác quyết sau đây: Điều
xác quyết thứ nhất, Ngài xác nhận mình là Đấng Thiên
Sai, Đấng Messia của dân Do Thái. Điều xác quyết thứ
hai, Ngài mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng thiên sai
của Ngài là gì?
Vào
thời Chúa Giêsu, việc mạc khải này có thể dẫn tới
những hiểu lầm tai hại. Thực vậy, có nhiều người
nghĩ rằng sứ mạng của Đấng Thiên Sai hệ tại việc
đoàn kết dân chúng lại, để đánh đuổi quân xâm lược
Rôma ra khỏi đất nước họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu cưỡi
trên lưng con vật hiền lành mà tiến vào thành Giêrusalem.
Hành động này đi ngược lại với ý tưởng trên. Đồng
thời còn cho thấy Đấng Thiên Sai không phải là một ông
vua chinh chiến, bắt kẻ thù phải làm nô lệ cho mình.
Ngài
đến và đã quỳ gối rửa chân cho thần dân của Ngài,
chứ không phải là để ngồi trên ngai vàng, rồi bắt
mọi người phải hầu hạ mình. Ngài đoàn kết dân chúng
sau lưng mình, không phải là để đi giao tranh với các
dân tộc khác, nhưng liên kết họ để chiến đấu chống
lại nghèo khổ, đói khát, thu hận và mọi hình thức bất
công.
Ngài
đến không phải để kết án, nhưng để tha thứ. Ngài
đến không phải để phá đổ những giấc mơ của dân
chúng, nhưng để làm cho những giấc mơ ấy trở thành
hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất. Ngài
không cưỡng bức, nhưng kêu mời chúng ta bước theo Ngài.
Thế nhưng, chúng ta có đáp trả lời mời gọi ấy hay
không, thì đó là việc làm riêng tư của mỗi người
chúng ta. Còn giờ đây, chúng ta hãy vui mừng và cùng với
các tín hữu ở khắp mọi nơi, hãy tung hô Chúa: Vạn tuế
Đấng Nhân Danh Chúa mà đến.
3. Tình yêu đáp lại hận thù – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ngày Lễ
Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc
đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan
cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó
kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành
như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô
như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống
chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy.
Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã
bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên
Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những
biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ
dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu.
Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh
thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu
thương.
Trước
hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào
cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy
ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước
cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết
thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về
cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp
với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ
nạn để được về cùng Cha.
Quân
lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền
hoà không kháng cự. Bị
vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với
lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân,
giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân
ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị
thượng tế.
Khi
Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một
cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày
trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh
thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến
phản bội.
Lúc
đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người
vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các
môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm
thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt
trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt
nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên
đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng
nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn
còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an
ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên
thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương
tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm
lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn
thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh
lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu
nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính
líu vào việc xử án Người.
Tình
yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm
thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu
thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả
hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen).
Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy
lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh
thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền
không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên
tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội.
Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương.
Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của
Người đã thắng.
Lạy
Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
- Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
- Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
4. Chúc tụng Đức Vua
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Con
Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài
còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi
chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu,
chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên
thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất
công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối
xử tàn tệ cho đến chết.
Đức
Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác
thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng
ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức
Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn
một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy
cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có
trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên
toàn cầu.
Đức
Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người.
Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem
lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận
tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở
hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi
chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng
phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi
thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn,
được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã
chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả
vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi
thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu
của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy
trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt
tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà
khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời
tôi...
Tôi
thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi
nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất
tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ
bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi
cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức,
trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng
thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không
gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng
cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
- Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc
- Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
- Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
- Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
- Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
- Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
- Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
- Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
- Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
- Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
5. Tính chất hiện tại của Bí Tích Thánh Thể
(Suy
niệm của Achille Degeest: Lc 22,14-23,56)
Bài
tường thuật của thánh Luca về Tiệc Ly cho thấy ở
khoảnh khắc quan trọng nhất lịch sử Đức Kitô, diễn
ra một biến cố rất quan trọng: Giao Ước cũ kết thúc,
Giao Ước mới bắt đầu. Đức Giêsu ăn mừng lễ Vượt
Qua theo luật Do Thái quy định, và nói rõ lần này là lần
cuối cùng Người mừng lễ đó. Tới khi nào Chúa lại ăn
mừng lễ, lúc đó sẽ là lễ Vượt Qua mới. Người khởi
sự bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngôn từ
sử dụng ở đây dễ hiểu: bánh và rượu trở nên Mình
và Máu Đức Kitô. Này là Mình Ta… Các tông đồ không
có một ý niệm gì về Lời Chúa, Chúa nói sao các ông
nghe và nhớ đúng thế, lúc đó các ông không hiểu gì về
ý nghĩa tượng trưng. Các ông không hiểu cũng như chúng
ta ngày nay không hiểu, các ông ghi nhớ rằng, Đức Giêsu
đưa ra bánh và rượu, Chúa nói đó là Mình và Máu Người,
Chúa bảo các ông sau này hãy làm lại việc ấy để nhớ
đến Người. Các ông chỉ biết nghe và hiểu theo nghĩa
đen. Niềm tuân phục của các tông đồ đối với lệnh
truyền của Đức Kitô sẽ làm phát sinh thực tại kỳ
diệu là Thánh Lễ của chúng ta. Đoạn Phúc Âm vượt lên
trên bất cứ chú giải nào. Chúng ta nêu ra hai điểm:
1)
Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.
Nhớ,
theo một nghĩa Cựu Ước, là tưởng niệm một biến cố
làm đổi mới và hiện tại hoá tương quan Thiên Chúa với
nhân loại. Thiên Chúa vượt khỏi tầm thời gian. Người
hiện hữu và hành động trong hiện tại cũng như hằng
có và hành động trong quá khứ. Tương quan giữa Giao Ước
Thiên Chúa với nhân loại luôn mãi có tính chất hiện
tại. Chỉ con người mới có quá khứ và hiện tại. Khi
con người cử hành nghi lễ để nhớ đến một hành vi
của Thiên Chúa, con người hiệp thông với một hành vi
thần linh trong hiện tại của mình. Đức Giêsu đã muốn
rằng bí tích Thánh Thể phải hiện thực trong hiện tại
của mỗi người để nhớ đến Chúa.
2)
Tay kẻ nộp Ta… Chúa loan báo sự phản bội của Giuđa
trong tiệc Vượt qua Do Thái hay trong bừa Tiệc Ly?
Người
ta nghiêng về thuyết Chúa loan tin ấy trong tiệc Vượt
qua. Dẫu sao, ở đây chúng ta đứng trước một trong
những vực thẳm tâm lý con người. Sự thiết lập bí
tích Thánh Thể là một hành vi thần diệu, nhưng kèm theo
một sự phản Thày của Giuđa và một cuộc cãi vã giữa
các môn đệ, vì sau khi tranh luận để nhận diện ai là
kẻ bán Thày, các ông xoay ra cãi nhau để biết trong anh
em ai là người đáng được coi là lớn nhất. Tất cả
chúng ta dễ sinh ra nhỏ nhen hèn hạ. Chúng ta cố gắng
dẹp bỏ những chuyện ti tiện, nhất là trong những Thánh
Lễ của chúng ta.
6. Rước Lá: Lc 19,28-40
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Với
Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu.
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm
Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề
ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô
của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan
hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang
dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương
Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương
nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng
trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất
chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt
Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay
nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập
giá!”
Thưa
anh chị em,
Rước
lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một
điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị
mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn
nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên
tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy
lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà
thôi.
Nếu
Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa
Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy
nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến.
Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta
phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành
và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên
thập giá.
Thử
hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến
vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào?
Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ
gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã
vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội
quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần
chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa,
hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên
án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và
đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho
thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ
mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ
trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự
đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong
hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa.
Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của
con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận
thế.
Anh chị
em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy,
chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ
nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng
đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại
thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người
lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là
vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói
và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi
chúng ta.
Trong
cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều
tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản
bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi,
cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp
được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa
Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu
mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy
chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và
tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình
yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước
gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc
đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về
cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá
của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng
thánh giá của người khác hơn.
Bài
Thương Khó: Lc 22,14-23,56.
ĐÁM
ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
Một trong những bức tranh nổi
tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống
vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”.
Nhìn
vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa
thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa
Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập
giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu
lộ hận thù oán ghét… tác giả như muốn nói rằng:
không chừa một người nào mà không dính líu vào việc
đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn
kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt
gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng
đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó
chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của
bức tranh).
Tại
sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí
khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại
chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà
người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện
diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý
thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận
rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc
treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông,
tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được
dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá…
Thưa
anh chị em,
Dưới
cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những
người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối
bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm
của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào
đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh
đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy
nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái
chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm.
Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại
sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận
đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó,
người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự
tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng
Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi
chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài
đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày
nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một
tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng
vào thân thể Ngài…
Nhưng
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài
đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập
giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi.
Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu
bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội
lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình
yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ,
một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu
chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn
lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh
nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được
hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn
khởi, tin yêu hơn…
Nhìn
lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của
Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm
thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng
ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng
ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha
thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha
thứ của Chúa hơn.
7. Người tôi tớ khổ đau của Giavê
(Trích
trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Trong
một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ
được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá
tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải
rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể
rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội
lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi
với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự
không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm
quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: "Tôi
ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì
phải để ý". Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố
gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu
đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội,
Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: "Tôi
ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối
cùng đó nghe". Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến
cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: "Thưa cha, con
thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng
nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin
cha tha tội cho con một lần nữa". Cha xứ đáp: "Đâu
có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép
giải tội cho ông nữa". Khi đó cha nghe có tiếng nấc
nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa
Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín
hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục:
"Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ
không phải con". Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của
Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá
giải.
"Chính
Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con".
Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong
chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải
hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng
đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới
cho chúng ta.
Chương
50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả
người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống
Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người
hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa
và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa
cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó
trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ
đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là
Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân
Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương
từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon
của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách
sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả
cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn
tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày:
Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành
cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật;
giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và
lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho
người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và
khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống
của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả
cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do
Thái phải chịu trong thời lưu đày.
Tuy
nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái
vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi
vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi
được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối
nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên
Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn
sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu
đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi
mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm
được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và
dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con
người.
Trong
thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh
của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và
đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ
và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung
thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên
Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết
khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết
ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Trong
chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng
tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô.
Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại
lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh
diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo
của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy
chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong
thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa,
Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y
như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho
loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường
Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của
khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và
thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu
độ.
Thật
vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được
kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên
Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình.
Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và
đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt
để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi
danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới
được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được
ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần
nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được
các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của
mình.
Trong
chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như
một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là
phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi
Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết
thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc,
thánh Luca viết trong chương 4,13: "ma quỷ rời bỏ
Ngài để trở lại vào thời điểm đã định". Cuộc
khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào
giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong
nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn
cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh
con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu
từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem.
Cuộc
khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc
thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca,
trước hết là tinh
thần cầu nguyện.
Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày
và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp
hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị
bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu
với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín
thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có
cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài.
Tiếp
đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô
đối với những người tội lỗi.
Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm
bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô
đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô
nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng
đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn
trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ
ở cùng Ta trên Thiên Đàng".
Sau cùng
thánh sử Luca nêu bật thái
độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh
ý của Thiên Chúa Cha.
Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con
người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của
Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo
Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được
thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học,
Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do
Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái
chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu
phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt
khe, cũng không phải do quyết định của một người trần
gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương
trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ
ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến
dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ
đau của Giavê Thiên Chúa.
8. Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa
(Trích
trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Với Lễ
Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất
của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh,
chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là
sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho
với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người
đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ
Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị,
vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua.
Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước
mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua
nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy
Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa.
Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc
tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của
Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết.
Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ
của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và
Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu
độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống
mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của
Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do
Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá
Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không
làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và
cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong
Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi
khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý
hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính
Chúa Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế
của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô
vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời".
Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế
vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người
đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được
viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp,
"Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho
Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man
và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng
trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét
vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc
mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc
của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt
Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để
làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe
tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một
cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào
Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi
lòng.
Với ý
nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc
cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau
khổ, vì lễ Lá dẫn
đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn
bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người
trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá
mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ
gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập
giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong
than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và
chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn
đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay
trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến
lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã
xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những
ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả
những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người
vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất
cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là
niềm hy vọng của chúng ta.
Để có
việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế
nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất
hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm
hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi
Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được,
xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con
một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho
chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm
khi chúng ta không hiểu được tại sao.
9. Bài Giảng của ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
(Thánh
Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải
nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha
đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều
nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết
tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc
sống kitô hữu của chúng ta: hãy
chọn Chúa Giêsu giữa
nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù
Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù
Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa
Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa
Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương
mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng
bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai
có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong
vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng
ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời
khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của
lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng
và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con
đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã
cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái
và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói
như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình
yêu của Người đi bước trước: Chúa Giêsu yêu chúng ta
trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như
lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu
rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể
trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã
chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã
chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời
thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên
công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí
Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của
Người...
Khi nói
với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa
Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy,
đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo
Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy.
Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà
theo Người.
Đứng
trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng
là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ
Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này
chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã
hỏi nhóm Mười Hai: “các con cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm Mười
Hai: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai?
Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời”
(Ga 6, 67-69).
Các con
sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ
Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có
những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa
Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của
Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người
vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo
huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo
thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con
phải lội ngược dòng sông!
Theo bài
tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám
đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba,
và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị
lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói
ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn
Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ
Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu
không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ
Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất
vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại.
Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài
người.
10. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm Ignatio Trần Ngà
Đức
Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh,
được vinh quang.
Vinh
quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu
cáo đủ điều, rồi bị kết án, bị đòn vọt, đinh
sắt, lưỡi đồng, gai nhọn và cuối cùng là cái chết
thảm thương trên thập giá.
Nhìn
lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương,
thất bại cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở
đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh?
Nghe có vẻ ngược đời.
Đối
với người không suy xét, thì cái chết của Chúa Giêsu
trên thập giá là một thất bại, một thất bại rất
chua chát đắng cay; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một
chiến thắng oanh liệt vô cùng.
Đây
là chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ
bến. Đối diện
với cuộc kết án bất công, đối diện với đám đông
cuồng nộ đòi đóng đinh Ngài, đứng trước những vị
lãnh đạo tôn giáo muốn diệt mình cho bằng được, đứng
trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời
thách thức, đứng trước đội quân hành quyết hung dữ
bạo tàn... Chúa Giêsu vẫn không mảy may oán hận! Ngài
chiến thắng sự hận thù lẽ ra phải có bằng lòng bao
dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy thương
xót, vẫn yêu thương họ bằng trái tim nhân hậu... Rồi
Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời
của họ, nên trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài tha
thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ
và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì
họ không biết việc họ làm".
Đây
là sự chiến thắng tính khiếp nhược, chiến thắng lòng
tham sinh uý tử bằng một sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã
trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái
chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn
Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết.
Ngài đã đứng dậy để dũng cảm đương đầu với nó.
Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ
diệt sự chết để hồi sinh.
Đây
là chiến thắng trên sự đau đớn thể xác và đau khổ
trong tinh thần. Là
người ai cũng sợ khổ, sợ đau. Ai cũng tìm cách lánh
thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực
hình đau thương khủng khiếp một cách can đảm phi
thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng
nỗi sợ hãi đau đớn của kiếp người.
Qua cách
thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy
không một thách thức nào làm cho Ngài nao núng; không một
đau khổ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục
nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không một khó
khăn nào làm cho Ngài lùi bước... Cả cái chết cũng
không làm Ngài khiếp sợ mà thoái thác sứ mạng Chúa Cha
trao cho Ngài. Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử;
Ngài chiến thắng bản năng sợ khổ, sợ khó, sợ đớn
đau; Ngài thắng được bản năng muốn được an toàn,
muốn được sung sướng hạnh phúc; Ngài thắng được
lòng thù hận lẽ ra phải có khi người ta bị sỉ nhục
và đối xử tàn ác và rất dã man... Trong cuộc khổ nạn
của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân
mình, vượt qua mọi thách thức từ mọi phía để hoàn
thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến
thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản
thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân
mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác
phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Đó là chiến
thắng vĩ đại nhất không còn chiến thắng nào lớn lao
hơn.
Lạy
Chúa Giêsu Ki-tô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên
đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn
công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu
hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội
lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời
của Chúa.
11. Giờ cứu độ – Lm Jos. Trần Ngà
Cuộc
đời Chúa Giêsu dường như luôn chuẩn bị cho Giờ của
Thiên Chúa. Giờ cứu độ. Giờ mà chính Chúa sẽ hiến
mình làm của lễ dâng mình cho Chúa Cha và để cứu độ
trần gian. Chúa đã từng nói "chính vì Giờ này mà
Ta đến trong thế gian". Và cuộc đời của Chúa Giêsu
dường như lúc nào cũng có bóng thập giá. Thập giá đã
thấp thoáng ngay từ ngày Chúa sinh ra. Hêrôđê đã kết
án tử cho Chúa. Trong suốt ba năm rao giảng tin mừng, bóng
thập giá luôn lấp ló trên mọi hành trình Chúa đi qua.
Nét đẹp
nơi Chúa Giêsu khi phải đối diện với Giờ cứu độ
chính là thái độ cương quyết dấn thân của Chúa Giêsu.
Ngài không chùn bước. Ngài không sờn lòng. Ngài vẫn
mạnh dạn tiến về phía trước. Ngài đã từng nhiều
lần mời gọi các môn đệ: "nào chúng ta cùng lên
Giêrusalem". Ngài biết rằng ở đó có thập giá, có
khó khăn, có đau khổ đến với Ngài. Nhưng Ngài vẫn
tiến bước, vì đó là sứ vụ của Ngài. Đó cũng là
điều đẹp lòng Chúa Cha. Dầu trên hành trình này, Ngài
đã tiến bước trong cô đơn. Dầu chẳng ai đủ can đảm
theo Ngài, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải uống chén đắng để
vui lòng Chúa Cha.
Trong
tin mừng hôm nay, thánh Luca đã miêu tả Chúa Giêsu thật
sự cô đơn trong 12 giờ cuối cùng của cuộc đời. Các
môn đệ ngủ vùi trong vườn cây Dầu và bỏ chạy khi
đối diện với gian nguy. Các thành viên của thượng hội
đồng Do Thái chống đối, âm mưu làm hại, môn đệ
Giuđa phản bội, và cố gắng của Phêrô đã cố đi cho
tới bên trong dinh thượng tế, nhưng đáng tiếc, ông
không bênh vực Thầy mà đã chối bỏ Thầy mình, không
chỉ một lần mà là 3 lần, dù rằng ông đã được nhắc
trước về những gì sẽ đến với ông. "Ngay trong
đêm nay khi gà chưa kịp gáy con đã chối Thầy 3 lần".
Nhưng
vượt lên trên sự bỏ rơi của các môn đệ, sự cô lập
của các thế lực thù địch đó là thái độ bình thản
của Chúa Giêsu trước các biến cố. Ngài hoàn toàn tự
do để có thể lẩn tránh hay đón nhận. Ngài có thể
khước từ chén đắng, nhưng Ngài đã đón nhận trong
tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Tuy nhiên khi giờ đã
đến, Ngài vẫn cảm thấy hãi hùng, xao xuyến. Ngài sợ
hãi, vì viễn tượng chết vẫn vượt qúa những dự
phóng của con người nên Ngài đã phải cầu nguyện. Cầu
nguyện trong cô đơn, sợ hãi đến nỗi mồ hôi máu bịn
rịn nơi thân thể Ngài. Qua đây ta thấy rõ hơn nhân tính
của Ngài. Vì con người là yếu tố bất định trong lịch
sử. Do đó Chúa Giêsu cũng không thể biết được ngày
mai ra sao. Dòng đời sẽ xô đẩy Ngài đi đến đâu. Thực
vậy, nếu Ngài biết thì không còn là con người nữa.
Tất cả những gì đang diễn ra, Ngài đều phải cầu
nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Đây quả là giờ
của đau khổ, giờ của hãi hùng, giờ bị mọi người
khước từ. Đây quả là chén đắng của cuộc đời.
Chén chua chát bị ruồng bỏ, của nhạo báng, của cái
chết, đến nỗi Ngài đã nại đến quyền năng vô biên
của Cha: "Cha có thể làm mọi sự, xin cho con khỏi
uống chén này", nhưng khi hiểu được đâu là thiên
ý Ngài lại tiếp tục bình thản "xin đừng theo ý
con, một xin vâng ý Cha".
Cuộc
đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng
người, khi chúng ta nuôi dưỡng hận thù, tìm cách hãm
hại anh em. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người
công chính, lương thiện bị trù dập và cô lập giữa xã
hội mà công bình bác ái đã không còn công minh. Đồng
tiền và quyền lực đã làm cán cân công lý bị bẻ gẫy.
Người công chính, kẻ lương thiện vẫn là nạn nhân của
bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để
cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi chà đạp
lương tri và nhân phẩm của bản thân và đồng loại.
Con người ngày nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng
mình để kết án tử hình người khác, nhất là các thai
nhi vô tội. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để
loại trừ những đứa con trong lòng mình một cách dửng
dưng đáng sợ. Con người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính
ghen tỵ, chỉ vì thói kiêu căng giả hình vẫn đang tìm
cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn
nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn
gian tham, những ích kỷ nho nhen là bấy lâu vẫn còn đó
những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ
và loại trừ. Và như thế, Đức Kitô vẫn lại phải
chịu những bản án bất công mà con người dành cho Chúa.
Đức Kitô vẫn tiếp tục bị cô đơn và khước từ giữa
dòng đời này.
Hôm nay
ngày khởi đầu tuần thương khó, mỗi người chúng ta
hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống
hối về lời nói việc làm của mình, dù là vô tình hay
hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện
xin Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban
ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống
của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Amen.
12. Chiến thắng của tình yêu - McCarthy
Suy
Niệm 1. NỖI ĐAU CỦA
ĐỨC GIÊSU VÀ CỦA CHÚNG TA
Một
buổi tối, một người đi làm bằng xe tháng ở Luân Đôn
vội vã trở về nhà. Khi nhìn thấy Vương Cung Thánh Đường
Wesminter, tự nhiên anh ta được lôi kéo đi vào trong đó.
Anh không thể giải thích được nguyên nhân tại sao, bởi
vì anh đã bỏ đạo từ lâu. Vừa bước vào toà nhà, anh
hoảng hốt khi nhận thấy cây thánh giá treo từ trên mái
vòm. Anh sửng sốt khi nhìn vào người đàn ông ở trên
thánh giá, bị tra tấn, bỏ rơi, và đã chết. Anh đã
từng nhìn thấy những bức hình khủng khiếp của những
người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em bị giết chết ở
Bosnia, họ cũng đã bị bỏ rơi. Ở những nơi khác, anh
đã được xem bức hình của những người dân bị đói
lả, hốc hác, với từng đàn ruồi bò trên mặt họ, với
những đôi mắt nhìn trừng trừng, không còn chờ đợi
sự giúp đỡ nào nữa, mà chỉ còn chờ đợi cái chết.
Người
đàn ông này ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào cây
thánh giá trong một lúc. Dần dần, ý nghĩa nội tại của
cây thánh giá đã tự mặc khải cho anh ta. Qua nhân vật
bị tra tấn và đã chết trên cây thánh giá, anh bắt đầu
nhận ra được sự chịu đựng nỗi đau đớn về tâm lý
và thể lý của một bà mẹ đang than khóc cái chết của
những đứa con trai bà ở Bosnia, của một đứa trẻ đang
đói lả ở Châu Phi, của những ông bố bà mẹ đau khổ
vì đứa con thân yêu của họ bị chết vì tai nạn. Dường
như tất cả nỗi đau của nhân loại đều tập họp ở
đây, và đã được người đàn ông trên cây thánh giá
biến thành của mình.
Thế
rồi anh ta nhìn ra xung quanh, và thấy những người đàn
ông và phụ nữ đang im lặng cầu nguyện. Dường như họ
chứa đựng một điều bí mật quý giá nào đó. Trong
Vương Cung Thánh Đường này, họ cảm thấy thoải mái
với chính mình như ở trong nhà. Thế rồi anh nhìn thấy
một bà cụ già tiến lại gần một cây thánh giá được
đặt gần gian cung thánh. Lúc hôn xong những vết thương
của Đức Kitô, bà cụ quay trở ra, sau khi đã được
khích lệ và an ủi nhờ tình yêu vĩ đại đó.
Trong
lúc quan sát, dường như tâm trí và cõi lòng của anh được
nâng lên cao, để đưa vào một thực tại khác. Lần đầu
tiên trong cuộc đời, anh biết cầu nguyện. Cây thánh giá
không nói nhiều về cái chết, cho bằng ca ngợi tình yêu
thương, sự sống và niềm hy vọng. Cây thánh giá của sự
khủng khiếp đã trở thành cây thánh giá của niềm hy
vọng, thân thể bị tra tấn trở thành thân thể của sự
sống mới, những vết thương rộng toang hoác trở thành
nguồn gốc của ơn tha thứ, chữa lành và hoà giải. Cuối
cùng, khi anh rời khỏi ngôi thánh đường, và hoà mình
vào dòng xe cộ đang lưu thông buổi tối, anh cảm thấy
được bình an với chính mình và với thế giới.
Cuộc
Thương Khó của Đức Giêsu không phải là một vở kịch,
mà có thật, và được Người tự do chọn lựa. Người
đã phải chịu đựng nỗi đau bị các bạn hữu của
mình bỏ rơi. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị
Giuđa –một người trong số họ phản bội. Người đã
phải chịu đựng nỗi sợ hãi và cơn hấp hối trong vườn
cây dầu, và Người không hề được một ai nâng đỡ
trong suốt cơn hấp hối của Người.
Người
là đối tượng của một hàng rào gồm những lời tố
cáo gian ác. Người đã phải chịu đựng những lời xỉ
vả, những trận đòn, khạc nhổ, chế nhạo, những trận
đòn roi, mạo gai và những cây đinh xuyên thấu da thịt.
Người đã phải chịu đựng nỗi ô nhục vì bị kết án
đến chết, giống như một tên tội phạm. Khi sắp chết,
Người vẫn còn phải chịu đựng thêm những lời chế
nhạo, xỉ vả, và giễu cợt. Ai có thể thăm dò được
hết chiều sâu của những điều mà Người đã phải
chịu đựng?
Chúng
ta có thể tìm được sự bình an, bằng cách liên kết
nỗi đau khổ của Đức Giêsu. Không có nỗi cô đơn, đói
khát, bị áp bức, khai thác, tra tấn, tù tội, bạo lực
hoặc đe doạ nào mà Đức Giêsu đã không phải chịu
đựng. Bởi vì Thiên Chúa đã trở thành Emmanuen, Thiên
Chúa ở cùng chúng ta, trong và thông qua Đức Giêsu, nên
không một người nào có thể phải hoàn toàn bị cô độc
trong nỗi đau khổ của mình.
Cuộc
Thương Khó của Đức Giêsu đem lại lòng can đảm, sức
mạnh và niềm hy vọng cho tất cả những người đau khổ.
Điều này có nghĩa là chúng ta không còn cô độc nữa.
Suy
Niệm 2. LÀM CHỨNG
CHO ĐỨC KITÔ
Trong
ngày Chúa Nhật Lễ Lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã
hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và
lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày
tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó
là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến
răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một
số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người
phán rằng: “Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi
đá cũng sẽ kêu lên”.
Có
những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây
là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp
duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó
tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị
anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có
quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin
của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về
lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta
nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một
sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo
như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có
chiều sâu.
Thật
dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây,
trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng
vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ
dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững
hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có
những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình
nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn
cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những
viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới
có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im
lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải
nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào
đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng; hoặc
lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình
nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ
im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều.
Như
vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin
của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao
cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại
nơi công cộng. Đức Giêsu nói với chúng ta “Bất cứ
kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác,
thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta,
Đấng ngự trên trời”.
Chúng
ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ
đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được
biết đến như là những người không e ngại trong việc
thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng
tin của mình.
Tuy
nhiên, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đầu tiên, họ đã
mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu.
Xin Chúa
rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn
đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho
chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có
thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
13. Vua vào thành: Lc 19,28-40
Thành
Giêrusalem chỉ cách Giêrikhô khoảng 27km, giờ đây Chúa
Giêsu đã gần tới đích của Ngài. Giêrusalem điểm cuối
cùng của hành trình đang ở trước mặt Ngài. Các ngôn
sứ có thói quen mà họ vẫn thường áp dụng, là khi lời
nói không đủ tác động, khi dân chúng không muốn tiếp
nhận, không muốn hiểu sứ điệp đã được công bố,
thì các vị có hành động đặc biệt để đặt sứ điệp
của mình vào một bức tranh mà ai cũng nhìn thấy. Chúng
ta gặp những hành động ngôn sứ đặc biệt như thế ở
1Vua 11,29-31; Giêrêmia 13,1-11; Êdêkien 4,1-3; 5,1-4. Giờ đây
Chúa Giêsu đang dự định vào thành Giêrusalem một cách
đặc biệt, đến nỗi chính hành động đó sẽ là lời
tuyên bố không thể lầm lẫn rằng Ngài chính là Đấng
Mêsia, là vị vua được Thiên Chúa xức dầu. Chúng ta ghi
nhận một số điểm cụ thể về việc vào thành
Giêrusalem.
1.
Công việc được chuẩn bị kỹ càng.
Đó không phải là hành động tức thời, đột xuất.
Chúa Giêsu không để mọi sự cho đến phút cuối. Ngài
đã thương lượng trước với chủ của con lừa: “Chúa
cần dùng nó”, đó là một mật khẩu đã chọn từ
trước.
2.
Đó là một hành động thách thức đầy vinh hiển, đầy
can đảm. Vào thời
điểm này, người ta đã treo giá cái đầu của Chúa
Giêsu rồi (Ga 11,57). Theo lẽ thường tình, nếu Ngài có
lên Giêrusalem, Ngài cũng nên đi kín đáo và ẩn mình
trong chỗ bí mật nào đó ở ngoại thành. Nhưng không thế
Ngài vào thành một cách long trọng, công khai, khiến toàn
dân phải chú ý và Ngài trở nên trung tâm của sân khấu.
Chúng ta phải nín thở khi nghĩ đến một con người mà
đầu đã bị treo giá, bị đặt ngoài vòng pháp luật,
lại hiên ngang cỡi lừa vào trong thành khiến mọi người
phải chú ý vào mình, quả thật không thể mô tả hết
được mức độ can đảm của Chúa Giêsu.
3.
Đó là cách quả quyết xưng vương,
là việc làm ứng nghiệm hoàn toàn bức hoạ tiên tri
trong Dacaria. Trong việc này Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến
vương quyền đặc biệt của Ngài. Ở Palestine, con lừa
không phải là con vật hèn hạ như ở các nước khác,
nhưng là một con vật sang trọng. Các vua cỡi ngựa khi đi
đánh giặc, còn trong lúc thái bình thì các người cỡi
lừa. Như vậy, bằng hành động này, Chúa Giêsu đã ngự
giá như một vị vua đến với dân mình trong hoà bình và
yêu thương. Ngài không đến như một anh hùng chiến thắng
như dân chúng từng trông mong chờ đợi.
4.
Đó là một lời kêu gọi sau cùng.
Chúa Giêsu đến trong hành động này, khác nào với hai
tay giơ ra, nài xin dân Ngài rằng “Ngay cả trong lúc này
các ngươi cũng không muốn nhận Ta làm vua các ngươi
sao?”. Trước khi sự ghen ghét của loài người vùi dập
Ngài, một lần nữa, Ngài vẫn cứ kêu mời nhân loại
tiếp nhận tình yêu của Ngài.
14. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ
Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn
chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có
tựa đề là “Baraba”. Baraba
là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của
Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một
tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới
pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng
trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói
quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô
đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và
hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba
và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa
vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng
tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở
nên một con người quyền thế được mọi người biết
đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu
đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc
đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do
khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương
là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung
đích thực của con người. Baraba chính là con người được
cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại
sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là
muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với
những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con
người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của
Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của
chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi
chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng
mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ
nào.
Thưa
anh chị em,
Dưới
cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những
người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những
người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa
Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập,
hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng
dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết
của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu
nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng
cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh
ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì
chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội
lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn
là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc
chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử
hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến
vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và
với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì
làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá
đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng
tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo
Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn
đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội,
hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa.
Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi
rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không
dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với
Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy,
nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ
thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị
em thân mến,
Với
Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu
vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua
đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc
tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám
đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít”
có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là
một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ
cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó.
Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của
dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ
dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu
gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo!
Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước
là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một
điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được
tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi
theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án,
điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến
một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó,
mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc
Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi
theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm
thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn
đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn.
Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi
vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp
hối trên thập giá.
Trong
những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc
lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo
Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động
của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong
cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều
tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản
bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi,
cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt
gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu
đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới
làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng
đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói
với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy
mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai
vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn
còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng
theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ
mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi
đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ
thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của
mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
15. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC
KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái
chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động
bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ
sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ
đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa
Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa
là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của
những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang
tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa
sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng
đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần
phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân
xác của Chúa.
Để
tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón
nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng
những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn
bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối
khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân
thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó
cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự
sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa
Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái
chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con
người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong
vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với
ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi
một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người
cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ
ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn
toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài
phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng,
vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng
than van: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!”.
Chúa
Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa
đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái
giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong
khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử
Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì
chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản
quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai
danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố
giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người
đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự
bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị
Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là
Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì
người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn
bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình
yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới
hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng
sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi
đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
16. Một vài ý suy niệm
Về
cuộc THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU
Ý
CHA ĐƯỢC NÊN TRỌN (Lc 22,39-46)
Khu vực
nội thành Giêrusalem rất nhỏ nên không có những khu vườn
rộng rãi. Nhiều người giàu sang có những khu vườn
riêng ở ngoại thành, trên sườn núi Ôliu. Có người bạn
nào đó đã cho Chúa Giêsu sử dụng một khu vườn như
vậy và nay Chúa Giêsu đi tới đó để một mình chiến
đấu trận quyết liệt. Chúa Giêsu chỉ mới 33 tuổi và
không ai muốn chết ở tuổi này. Ngài hiểu rõ tử hình
đóng đinh trên thập tự là thế nào. Ngài đã từng
chứng kiến việc đó. Ngài ở trong cơn hấp hối. Danh từ
Hy Lạp dùng ở đây chỉ về một người nào phải chiến
đấu với tâm hồn đầy kính sợ. Đây chính là điểm
mấu chốt và là chỗ ngoặt trong đời sống Chúa Giêsu.
Ngài vẫn còn có thể tháo lui. Ngài có thể từ chối
thập giá. Sự cứu rỗi nhân loại đang treo trên cán cân
khi Con Thiên Chúa kịch liệt chiến đấu trong vườn
Giệtsimani và Ngài đã chiến thắng.
Một
nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng đã nói về nhạc phẩm
“Đêm Xưa” của Chopin rằng: “Tôi phải nói cho anh về
điều đó. Chopin đã bảo Liszt và Liszt đã bảo tôi.
Trong bản nhạc này tất cả là u sầu và khổ não, ôi
biết bao u sầu khổ não, cho tới khi người ta bắt đầu
nói với Chúa, bắt đầu cầu nguyện, bấy giờ mọi sự
đều tốt đẹp”. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài vào vườn
Giệtsimani trong tối tăm. Ngài ra khỏi vườn trong ánh
sáng bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Ngài vào vườn
Giệtsimani trong cơn hấp hối, Ngài trở ra trong chiến
thắng, với sự bình an trong tâm hồn, bởi Ngài đã nói
chuyện với Chúa Cha. Thật hoàn toàn có sự khác biệt
được thể hiện qua âm điệu của một người khi nói:
“Ý Cha được nên trọn”.
1. Người
đó có thể nói bằng một giọng hoàn toàn khuất phục
như một kẻ đã nằm bất lực dưới một sức mạnh phi
thường. Mấy lời đó nghe như tiếng chuông báo tử cho
hy vọng.
2. Người
đó có thể nói bằng giọng của một kẻ bại trận, đầu
hàng. Mấy lời đó nghe như tiếng của kẻ thú nhận thất
bại.
3. Người
đó có thể nói bằng giọng của kẻ bị thất vọng hoàn
toàn khi thấy giấc mộng của mình không thể thành sự
thật. Đó là những lời tiếc xót và cũng chất chứa
uất hận, tệ hơn nữa là biết mình không thể làm gì
trong tình trạng đó.
4. Người
đó có thể nói bằng giọng hoàn toàn tin cậy. Đó là
điều Chúa Giêsu đã làm. Ngài đang nói với một Đấng
là Cha. Ngài đang nói với Chúa Cha là Đấng hằng bao bọc
nâng đỡ Ngài dù Ngài đang trên thập tự. Ngài chịu
khuất phục, nhưng là khuất phục một tình yêu không rời
bỏ Ngài. Việc khó nhất của đời sống là chấp nhận
điều mà chúng ta không thể hiểu, nhưng chúng ta cũng có
thể làm điều đó nếu chúng ta tin chắc vào tình yêu
Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu đã nói như vậy, và khi chúng ta có thể nói như
vậy, chúng ta có thể nhìn lên và hoàn toàn tin cậy mà
thưa rằng “Lạy Chúa, xin cho ý Ngài được nên trọn”.
CÁI
HÔN CỦA KẺ PHẢN BỘI (Lc 22,47-53)
Giuđa đã tìm ra cách nộp Chúa
để các nhà cầm quyền bắt Ngài khi dân chúng vắng mặt.
Hắn biết rằng ban đêm Chúa thường đến khu vườn trên
đồi và hắn dẫn các tay sai của Toà Công Luận tới đó.
Viên đội trưởng của Đền Thờ cũng gọi là sagan, là
một sĩ quan có trách nhiệm giữ an ninh trật tự cho Đền
Thờ, còn các thầy đội coi Đền Thờ được đề cập
đây là những sĩ quan có trách nhiệm thi hành lệnh bắt
Chúa Giêsu. Khi một môn đệ gặp rabbi quý mến thì chàng
đặt tay phải mình lên vai trái của thầy và hôn thầy.
Cái hôn giữa môn đệ với thầy yêu quý này là cái hôn
mà Giuđa đã dùng làm dấu hiệu để phản thầy mình. Có
bốn thành phần khác nhau liên hệ trong việc truy bắt
này. Hành động và phản ứng của họ rất có ý nghĩa.
1.
Giuđa, kẻ phản bội. Hắn là con người đã bỏ Thiên
Chúa và đi liên hiệp với Satan. Chỉ khi nào người ta bỏ
Chúa ra ngoài đời sống và rước Satan vào lòng mình thì
người đó mới có thể bán Chúa Giêsu.
2.
Những người Do Thái đến bắt Chúa Giêsu. Họ là những
người mù loà đối với Thiên Chúa. Khi Chúa nhập thể,
đến thế gian thì họ chỉ có một ý nghĩ là làm thế
nào để mau treo Ngài lên cây thập tự. Từ lâu họ đã
chọn con đường riêng của họ, bịt tai trước tiếng
gọi của Chúa, nhắm mắt trước sự dẫn dắt của Ngài,
đến nỗi sau cùng khi Ngài ngự đến thì họ không thể
nhận biết. Thật đáng sợ khi người ta trở nên mù và
điếc đối với Chúa.
3.
Các môn đệ. Họ là những người bỏ Chúa. Thế giới
của họ đã sụp đổ, họ tin chắc thôi thế là hết.
Điều sau cùng mà họ còn nhớ được lúc đó là Thiên
Chúa, trí óc họ chỉ còn suy nghĩ đến một điều là
tình trạng khủng khiếp đang vây bủa họ. Hai điều xảy
ra cho người quên Chúa và bỏ Chúa ra ngoài cuộc sống
của mình. Một là người ấy rất sợ hãi và hoàn toàn
rối loạn tâm thần; hai là người ấy mất năng lực đối
diện với đời sống và thích nghi với cuộc sống. Trong
giờ thử thách, đời sống sẽ bị tiêu huỷ nếu thiếu
Chúa.
Chỉ
khi nào con người biết cúi đầu xuống trước mặt Chúa,
bấy giờ người ấy mới có thể nói năng và hành động
như người chiến thắng được.
ĐƯỜNG
LÊN ĐỒI GÔNGÔTHA (Lc 23,26-31)
Khi một tên tù đã bị kết án
đóng đinh trên thập tự, thì hắn bị lôi ra khỏi toà
án và giao cho bốn người lính Rôma. Cây thập hình của
hắn được đặt lên vai hắn, hắn phải vác nó đến
pháp trường bằng con đường dài nhất trong lúc một tên
lính đi trước hắn mang tấm bảng ghi rõ tội trạng để
điều đó trở thành một sự khủng khiếp cho người nào
còn có ý muốn phạm thứ tội tương tự như hắn. Họ
đã làm điều đó cho Chúa Giêsu, Ngài bắt đầu vác thập
tự của mình (Ga 19,17), nhưng sức nặng của nó vượt
quá sức lực của Ngài nên Ngài không thể vác đi được
nữa. Palestine là một xứ bị chiếm đóng, nên mọi người
dân đều có thể tức khắc bị xung vào công tác phục
dịch chính phủ Rôma. Dấu hiệu của sự ép buộc đó là
khi thấy có lưỡi giáo Rôma đặt nhẹ lên vai người nào
thì người đó phải phục dịch. Khi Chúa Giêsu đã ngã
quỵ dưới sức nặng của cây thập tự thì viên đội
trưởng Rôma nhìn quanh tìm kiếm một người để vác
thập giá đó. Bấy giờ có một người tên là Simon quê
ở Kyrênê xa xôi, đang từ vùng quê đi vào thành. Chắc
chắn ông là người Do Thái đã suốt đời chắt chiu dành
dụm để có thể dự một Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem.
Lưỡi giáo Rôma đã chạm vai ông, tức khắc, dù muốn
hay không, ông cũng đành vác cây thập tự của người tử
tù. Chúng ta thử tưởng tượng lúc bấy giờ Simon đã
nghĩ gì? Ông đã đến Giêrusalem để thực hiện hoài bão
của đời mình, thế mà ông phải vác cây thập tự lên
đồi Gôngôtha. Lòng ông hẳn chứa đầy cay đắng đối
với quân Rôma và đối với tên tử tù ngày là kẻ khiến
ông bỗng dưng phải liên luỵ vào tội của hắn. Nhưng
nếu chúng ta đọc thêm một số chi tiết, thì sẽ biệt
câu chuyện không chấm dứt ở đây. J.A.Robertson coi đó
là một trong những chuyện cảm động nhất của Tân Ước,
Máccô tả rõ Simon là cha của Alecxandơ và của Ruphô (Mc
15,21). Bạn không thể nhận diện một người bằng tên
các con của người đó trừ khi các con đó rất được
quen thuộc trong cộng đồng của người mà bạn viết thư
cho. Mọi người đều công nhận rằng Máccô đã viết
Phúc Âm của ông cho Hội Thánh tại Rôma. Giữa ác lời
chào ở cuối thư, ông viết rằng “Xin hãy chào thăm
Ruphô, người được chọn của Chúa, và chào thăm mẹ
người cũng là mẹ tôi” (Rm 16,13). Như vậy trong Hội
Thánh Rôma có Ruphô, một Kitô hữu quý báu đến nỗi
Phaolô gọi người đó là một trong những kẻ được
chọn của Chúa, với một bà mẹ rất yêu dấu đối với
Phaolô, đến nỗi ông gọi bà là mẹ của ông trong đức
tin. Rất có thể Ruphô này là Ruphô con của Simon ở
Kyrênê, mẹ chàng là vợ ông Simon ấy. Rất có thể khi
Simon nhìn thấy Chúa Giêsu, bao nhiêu cay đắng của ông đã
biến thành ngạc nhiên và
sau cùng ông đã tin, đã trở thành Kitô hữu và gia đình
ông đã cung cấp cho Hội Thánh những tâm hồn quý giá
nhất. Có thể Simon nghĩ rằng ông đến đó để thực
hiện một ước vọng của đời sống, ông đang chuẩn bị
mọi sự để mừng Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, nhưng
ông đã phải vác thập giá cho một phạm nhân, thật hoàn
toàn trái ngược với ý muốn của mình, nhưng khi ông
nhìn xem Ngài, thì nỗi buồn bực của ông đã trở thành
nỗi ngạc nhiên và niềm tin, và trong sự việc mà thoạt
đầu ông coi như một điều sỉ nhục đó đã cho ông gặp
được chính Cứu Chúa của đời ông.
Theo sau
Chúa Giêsu là một đám phụ nữ khóc thương Ngài. Ngài
quay lại bảo họ đừng khóc vì Ngài, nhưng hãy khóc cho
chính mình. Những ngày khủng khiếp sắp xảy đến. Trong
gia đình người Do Thái không có thảm kịch nào cho người
vợ bằng cuộc hôn nhân không con, vì không con là lý do
đủ mạnh để ly dị. Nhưng sẽ đến một ngày mà người
đàn bà son sẻ lại vui mừng vì không con. Một lần nữa
Chúa Giêsu lại nhìn thấy trước sự tàn phá thành này
là thành đã nhiều phen và hiện giờ vẫn còn đang từ
chối lời mời gọi của Chúa. Câu 31 là câu châm ngôn,
có thể dùng trong nhiều trường hợp. Ở đây nó có
nghĩa là nếu họ làm điều này cho một người vô tội
thì một ngày kia, họ sẽ còn làm gì nữa cho những kẻ
có tội?
TẠI
ĐÓ CHÚNG ĐÓNG ĐINH NGÀI (23,32-38)
Khi đã
tới chỗ đóng đinh, tội nhân đặt thập giá nằm xuống
đất. Thường thì thập giá giống hình chữ T, không có
phần nhô lên trên để có thể dựa đầu. Nó khá thấp,
đến nỗi chân của tội nhân chỉ cách xa mặt đất độ
6-8 tấc. Có một nhóm phụ nữ nhân đức ở Giêrusalem
thường tới chỗ tội nhân và tặng một chén rượu pha
thuốc mê có tác dụng làm tê liệt những cảm giác đau
đớn ghê gớm đó. Họ đến tặng Chúa Giêsu chén rượu
và Ngài từ chối (Mt 27,34). Ngài quyết định nếm tới
tận cùng vị cay đắng nhất của sự chết, với một
tâm trí minh mẫn và giác quan tinh tường. Hai tay phạm
nhân bị căng ra trên đà ngang của thập giá, đinh đóng
xiên qua hai bàn tay. Thường hai bàn chân thì không đóng
đinh, nhưng được buộc sơ vào thập giá. Ở lưng chừng
có một miếng gỗ nhô ra để đỡ sức nặng thân thế
phạm nhân, kẻo các đinh xé rách toạc hai bàn tay. Rồi
thập giá được dựng thẳng đứng, cắm vào lỗ sâu. Sự
khủng khiếp của tử hình đóng đinh nằm ở chỗ cơn
đau đớn rất dữ dội, nhưng lại không giết chết ngay,
phạm nhân bị để cho chết đói, chết khát dần dưới
sức nóng của mặt trời ban trưa và giá lạnh của đêm
trường. Có nhiều phạm nhân bị đóng đinh sống ngắc
ngoải đến cả một tuần lễ trên thập giá, sau cùng
chết trong cơn điên cuồng.
Quần
áo của tử tù thuộc về bốn tên lính áp giải phạm
nhân ra pháp trường. Mỗi người Do Thái có năm loại
trang phục: áo trong, áo ngoài, dây thắt lưng, khăn đội
đầu và giầy dép. Bốn thứ chia cho bốn tên, còn lại
chiếc áo choàng bên ngoài, áo đó dệt thành một tấm
không có đường nối (Ga 19,23-24). Nếu cắt nó ra để
chia thì làm hỏng cả áo, vì thế bọn lính ngồi ngay
dưới chân thập giá gieo súc sắc, bắt thăm chiếc áo
đó. Tên tử tù có hấp hối bao lâu cũng chẳng có nghĩa
lý gì với bọn này.
Tấm
bảng gắn trên đầu thập giá chính là bảng chữ mà
người lính mang đi trước tội nhân qua các đường phố
đến nơi hành hình.
Chúa
Giêsu đã nói nhiều lời tuyệt diệu, nhưng có lẽ câu
tuyệt diệu nhất mà Ngài nói là “Lạy Cha, xin tha cho
họ, vì họ không hiểu việc họ làm. Sự tha thứ trong
Kitô giáo thật sự là một sự lạ lùng. Khi Stephanô bị
ném đá chết, ông cũng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đừng
chấp tội họ” (Cv 7,60). Không có điều gì đáng yêu,
cũng không có gì hiếm cho bằng sự tha thứ của người
Kitô hữu. Khi nào tinh thần thiếu tha thứ đe doạ biến
lòng chúng ta thành cay đắng, hãy nhớ lại lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu, xin tha thứ cho những kẻ đóng
đinh Ngài và lời Phaolô dặn dò các bạn hữu “Hãy ở
lại với nhau cách nhân từ, đầy lòng thương xót, tha
thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô
vậy” (Ep 4,32).
LỜI
HỨA THIÊN ĐÀNG (Lc 23,39-43)
Chủ
ý của nhà cầm quyền là họ đóng đinh Chúa ở giữa
hai tên cướp khét tiếng. Họ làm như vậy để sỉ nhục
Ngài trước mặt cả dân chúng, liệt Ngài vào hạng trộm
cướp. Người ta đã nói nhiều về tên trộm biết hoán
cải. Hắn được gọi bằng những tên khác nhau như
Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ
Robin Hood của Do Thái, ăn trộm của người giàu để phân
phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng
khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai Cập,
dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh
niên là con một thủ lãnh đảng cướp thấy con trẻ
Giêsu dễ thương qua, nên người đó không nỡ ra tay, hắn
tha Ngài và nói “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau
này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến
tôi, đừng quên giây phút này nhé”. Tên cướp đó là
kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay gặp lại Ngài
trên thập giá trên đồi Gôngôtha. Lần này thì Chúa
Giêsu đã cứu anh ta.
Parađi
là từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là “Một khu vườn rào
kín”. Khi vị vua Ba Tư muốn đặc biệt tôn trọng một
bầy tôi nào của ông thì người ấy được cùng dạo
mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa
cho tên trộm cướp ăn năn đó một sự gì quý hơn là sự
bất tử. Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của
Ngài trong vườn thượng uyển trên trời.
Trên
hết mọi điều khác, chắc chắn câu chuyện này cho chúng
ta biết rằng không bao giờ là quá trễ để trở lại
với Chúa. Về các việc khác, chúng ta có thể nói “Thì
giờ để làm việc đó đã qua rồi”. “Bây giờ tôi đã
quá lớn tuổi, không làm được việc đó”. Nhưng không
bao giờ chúng ta có thể nói như thế về sự trở lại
với Chúa. Bao lâu trái tim còn đập, bấy lâu lời kêu
gọi của Chúa Giêsu vẫn còn hiệu lực đối với chúng
ta. Sự thật vẫn chính xác là hơi thở còn thì vẫn còn
hy vọng.
NGÀY
DÀI CHẤM DỨT (Lc 23,44-49)
Trong
đoạn Kinh Thánh này, mỗi câu đều có nhiều ý nghĩa.
1. Có
sự tối tăm khủng khiếp khi Chúa Giêsu tắt thở. Dường
như mặt trời cũng không thể nhìn xem việc gớm ghiếc
mà tay loài người vừa làm ra. Thế giới bao giờ cũng
tối tăm khi con người tìm cách loại bỏ và khai trừ
Chúa Kitô.
2. Màn
trong Đền Thờ xé ra làm đôi. Đây là tấm màn ngăn Nơi
Cực Thánh, là nơi có sự hiện diện đặc biệt của
Thiên Chúa nơi không ai được phép vào trừ vị thượng
tế, và ông chỉ được vào mỗi năm một lần trong ngày
Đại Lễ Chuộc Tội. Chúng ta hạnh phúc mà nói rằng con
đường vào nơi Thiên Chúa hiện diện một cách bí nhiệm,
bấy lâu nay ngăn cách với loài người, thì nay đã được
mở toang cho mọi người. Trái tim của Chúa bấy lâu giữ
kín nay được phơi bày ra cho loài người. Sự Giáng Sinh,
đời sống và sự chết của Chúa Giêsu đã xé đôi bức
màn bấy lâu nay che giấu Chúa khỏi loài người. Chúa
Giêsu đã phán: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Nơi
thập giá, loài người đã được nhìn thấy cao điểm
của tình yêu Thiên Chúa như họ chưa hề thấy trước đó
bao giờ.
3. Chúa
Giêsu đã kêu lên một tiếng lớn. Cả ba sách Phúc Âm
đều nói về tiếng kêu lớn này (Mt 27,50; Mc 15,37). Gioan
thì không nói đến tiếng kêu lớn ấy, nhưng ông cho biết
Chúa Giêsu khi chết đã nói: “Mọi việc đã hoàn tất”.
(Ga 19,30). Trong tiếng Hy Lạp và tiếng Aram thì “mọi
việc đã hoàn tất” chỉ gồm trong một từ mà thôi.
Cho nên mọi việc đã được trọn vẹn và tiếng kêu lớn
cũng là một mà thôi, và Chúa Giêsu thật đã chết với
tiếng kêu chiến thắng trên môi. Ngài đã không nói thì
thầm “Thế là hết” như một người bị hành hạ đến
nỗi phải quỳ gối xuống và bị buộc phải chấp nhận
sự thua bại. Ngài kêu lớn như một người chiến thắng,
đã thắng đối thủ trong trận cuối cùng và đã đưa
một công tác vĩ đại tới chỗ kết thúc tối hậu đầy
vẻ vang. “Đã xong” đó là tiếng kêu của Chúa Cứu
Thế, Đấng chịu đóng đinh, nhưng là Đấng toàn thắng.
4.
Chúa Giêsu chết với lời cầu nguyện trên môi. “Lạy
Cha, con xin trao phó linh hồn con trong tay Cha”. Câu này có
trong Thánh Vịnh 31,5 với tiếng “Cha” được thêm vào.
Câu này là lời cầu nguyện trước nhất mà mỗi bà mẹ
Do Thái dậy cho con mình đọc trước giờ đi ngủ, trước
khi bóng tối ghê rợn đổ xuống: “Con trao phó linh hồn
con trong tay Chúa”. Chúa Giêsu đã nói câu đó tha thiết
hơn nhiều vì Ngài đã bắt đầu với tiếng Cha, dù trên
thập giá Chúa Giêsu đã chết như đứa con nằm ngủ
trong cánh tay Cha mình.
5. Viên
đội trưởng và đám dân chúng đã xúc động sâu xa khi
chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết của Ngài
đã thực hiện điều mà khi sống Ngài đã không thể
làm, tức là làm tan vỡ những tấm lòng sắt đá của
loài người. Lời phán của Ngài trước đó giờ đây
được ứng nghiệm “Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất,
Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”. Ngay lúc Chúa Giêsu
trút hơi thở cuối cùng thì sức thu hút của thập giá
đã bắt đầu thực hiện.
17. Lễ lá.
Lắng
nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng
ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng
như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài
đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch
dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong
ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng
Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng
ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho
mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình
xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta,
Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập
giá.
Chúa
Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên
ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài
không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc
đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát
lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái
lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp
người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời.
Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát,
mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta
mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã
chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn
hữu.
Kể từ
nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những
kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng
hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những
ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con
người chúng ta.
Thực
vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta
không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền
bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa
Giêsu.
Chúng
ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho
thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh
vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên
Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc,
với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó.
Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính
Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng
ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với
Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực
vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương
của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong
ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như
tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong
Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của
chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ
đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là
niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
18. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay
toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành
Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu
kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước
kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương
khó của Chúa.
Trước
hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu
lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt
kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường
vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt
những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua,
tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho
Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ.
Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn
tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người
nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ
đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh
quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân
Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải
phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem
cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ,
đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng
khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài
tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc
khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá,
nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu,
dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la
đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn
đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước
tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết
án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một
tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ
hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của
dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên
ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó
chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ
tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng
ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa
Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản
chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta
hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai
chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh,
hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu
thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân
hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền
hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng,
ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn
giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và
thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh
có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để
làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã
dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng
trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ
lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền
hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu
cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn
phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá
xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối
cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi
có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành
địa ngục.
Chắc
tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều
trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực
hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp
lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất
hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng
ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn
vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi
khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là
chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa
cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn
tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực
hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của
Chúa.
19. Trung thành với lời tung hô.
Chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Với thái độ tung hô
vạn tuế của dân chúng trong ngày hôm nay, chúng ta đã
xác tín Đức Kitô là vị vua phải đến để kiến tạo
hòa bình, để trả lại cho con người sự tự do hầu có
thể phát triển toàn diện nhân phẩm của mình. Ngài là
niềm hy vọng của những kẻ nghèo khó, bất hạnh và khổ
đau, Ngài là niềm an ủi của những kẻ bị bóc lột, bị
bạc đãi, bị xúc phạm và bị ném ra bên ngoài xã hội.
Đồng
thời chúng ta tuyên xưng Ngài là vị lãnh đạo, xử dụng
tình thương làm khí cụ để xây dựng một xã hội loài
người trên công bình.
Nếu
tham dự vào cuộc rước kiệu trong Chúa nhật lễ lá với
lời hoan hô chúc tụng Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Thiên
Chúa mà đến, thì chúng ta có bổn phận phải tiếp tục
bước theo Ngài.
Bởi vì
con đường Ngài đã đi cũng phải là con đường chúng ta
bước theo, mặc dầu chúng ta biết con đường này là con
đường sỏi đá, con đường gai góc, con đường thập
giá. Chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới đỉnh
đồi Canvê, để rồi qua những khổ đau và nhất là qua
cái chết trên thập giá, chúng ta cũng sẽ được tiến
đến cuộc chiến thắng Phục sinh.
Vì thế,
có người đã viết về sự liên quan giữa Chúa nhật lễ
lá và ngày thứ sáu tuần thánh như sau:
- Giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh có một sự phản ảnh cho cuộc đời người Kitô hữu.
Thực
vậy, hôm nay chúng ta tung hô chúc tụng Chúa, nhưng ngày
mai chúng ta có thể sẽ gào thét đóng đinh Chúa vào thập
giá. Hôm nay chúng ta yêu thương Ngài, nhưng ngày mai có
thể chúng ta sẽ ghét bỏ Ngài. Hôm nay chúng ta hân hoan,
nhưng ngày mai chúng ta lại buồn sầu. Hôm nay chúng ta
hiền hòa, nhưng ngày mai chúng ta lại gian ác. Hôm nay
chúng ta tin tưởng, nhưng ngày mai chúng ta lại thất vọng.
- Phải, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu tuần thánh, là cả một đời người tín hữu được phản chiếu.
Để
làm sáng tỏ những tư tưởng này, một diễn giả đã
dùng hình ảnh cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi, tượng
trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ
lá, như hoan hô chúc tụng Chúa, yêu thương, hân hoan, hiền
hòa và tin tưởng. Thế nhưng mỗi lần nêu lên một điểm
tiêu cực của ngày thứ sáu tuần thánh cũng như của
chính cuộc sống như: Oán ghét, hoài nghi, gian ác, buồn
phiền và khước từ Chúa, thì diễn giả ấy liền tước
bỏ phần lá xanh, và chỉ để lại chiếc cọng của nó
mà thôi.
Cuối
cùng, cành lá dừa xanh tươi đã trở thành một bó roi cỏ
để dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa
ngục.
Ước
chi tuần thánh là thời gian chúng ta được hướng dẫn
để tiếp tục bước theo những dấu chân cuối cùng của
Chúa Giêsu nơi dương thế, để chúng ta luôn trung thành
gắn bó với đấng chúng ta tuyên xưng hôm nay: Chúc tụng
đấng nhân danh Chúa mà đến.
20. Vụ án.
Chúa
Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế
mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người
trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như
bối cảnh lịch sử của “vụ án” này. Bài tường
thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ
mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó
này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu.
Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày
trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác
tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái
chết của Chúa Giêsu.
Trước
hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ
năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án
Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại
tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này
để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước
khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu
đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người
rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa
Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách
nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra
Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa
Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức,
ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang
làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà
chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành
viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao
của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng
lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay
quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho
rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên
bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật
ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống
tổ tiên để lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa
Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào.
Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết
định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải
là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” không? Tôn trọng tư
cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: “Đúng
như lời ngài nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là
Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài
từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do
thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là
lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn nói phạm
thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị
vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa”. Theo luật Do
thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng
chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã
được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng
kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không
có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự
đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm
sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một
viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma
tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước
tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của
họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã
đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh
vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết
Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế
quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì
họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên
Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại
giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào
trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ
rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội.
Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu
chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa
vào thập giá.
Thấy
tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra
khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho
Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho
Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ
lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để
thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa
Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa
Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả
thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu
Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô.
Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một
đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố
cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất
công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng
thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho
đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi
dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi
kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát
rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và
ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ
bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và
Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc
lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là
những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều
gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái
muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì
thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới
lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói
theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án
Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là
một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng
mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và
đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa
Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có
ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu
chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói:
“Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ”.
Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng
Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để
chết thay cho chúng ta.
21. Cuộc Thương Khó
Chúa
Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã
làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người
phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho
nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi
nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã
bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh
Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì
đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ
cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực
xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ
ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây
ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại,
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1.
Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của
người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích
tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao
hơn sự thiệt thòi.
Chúa
Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi
theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên
Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài
đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền,
xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ
đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của
Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ
mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên
thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người
hèn nhát.
2.
Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác,
nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến
mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không
ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến
mạng sống mình”.
Thiên
Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng
tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp
tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người
cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài
bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những
đau khổ của mình”.
3.
Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt
chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất
bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá.
Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa,
độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài
rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho
đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ
Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu
chính là con đường của tình yêu.
Sách
Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với
tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong
trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương
họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn
hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu
thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân
tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt
hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt
mọi người”.
Bắt
đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn
vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu
nhiệm tình yêu đó:
Nhìn
vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu
Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống
lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian
và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy
sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm
tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh
vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và
sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự
cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân
tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả
vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về
thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang
trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người
được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”.
22. Suy niệm của R. Gutzwiller (Lc 23, 26-49)
ĐƯỜNG
LÊN CAN VÊ (23, 26-32)
Khi hoạ
lại cho chúng ta con đường khổ giá Thánh Luca không trực
tiếp đả động gì đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô,
như việc Ngài ngã xuống đất, những lăng nhục Ngài
phải chịu… Cái nhìn của ông hướng về những người
chung quanh Chúa.
1.
Simon quê Xyrênê
Ông
Simon quê Xyrênê là một người chúng ta không rõ tông
tích, ông bất ngờ qua đường lúc Đức Giêsu đang vác
thập giá. Không phải ông tự ý vác đỡ thập giá Chúa,
nhưng bị người ta ép buộc. Ấy thế nhưng truyền thống
lại dạy rằng: chính cái cử chỉ bị áp đặt ấy đã
đem lại cho ông ơn cứu độ. Sự kiện ấy vẫn hằng
tái diễn trong cuộc sống của nhân loại. Một sự đau
khổ nào đâu đột nhiên ập tới hoàn toàn bất ngờ, và
phải vác thập giá mà chưa có chuẩn bị chi hết: một
căn bệnh đột nhiên ập đến hoặc là thất bại về
tiền bạc, những vất vả trong gia đình, những khó khăn
trong nghề nghiệp, những khủng hoảng trong cuộc sống
hôn nhân, những thảm hoạ chính trị, những đối xử
bất công… Ban đầu người ta ở thế phòng thủ, thế
nhưng rồi chống cự cũng chẳng ích chi, và dù muốn dù
không người ta vẫn phải đưa vai ra đỡ lấy thập giá.
Nếu người ta tiếp xúc với Đức Kitô như thể đồng
thời những liên hệ thuần tuý bên ngoài sẽ dần đổi
thành sự thâm hiểu bên trong. Như thế, một giáo hữu
bình thường sẽ trở thành một Kitô hữu nhiệt thành,
những xác tín về mặt lý thuyết sẽ biến thành sự
thông dự cụ thể, nguyên tắc sẽ thành thực hành và
khuôn mặt cuộc đời sẽ thay đổi khiến người ta đi
đến chỗ coi giờ phút đáng nguyền rủa là giây phút
đáng mừng rỡ và là lúc phải dâng lời cảm tạ Thiên
Chúa thay vì dấy lên ngỗ nghịch với Người. Những
người theo gót Simon sẽ còn tiếp tục qua bao thế hệ
2.
Những người phụ nữ
Thái
độ của các phụ nữ than khóc Chúa Giêsu coi như đáng
quí hơn, vì các bà công khai đến bên Chúa và bày tỏ
tâm tình chia sẻ sự đau khổ của Người. Thế nhưng
Chúa Kitô đã không khen ngợi lại còn khiển trách các
bà. Ước chi họ đừng than khóc Người, mà hãy than khóc
chính bản thân mình. Không phải Người đáng cho họ khóc
thương, nhưng chính họ mới là kẻ đáng thương khóc.
Thứ thương hại chỉ dựa trên tình cảm mà thôi chẳng
nghĩa lý gì cả.
Nước
mắt cá sấu chẳng giá trị gì. Không nên khóc thương
người phải chịu đau khổ khi mà đau khổ đó đưa đến
hạnh phúc. Kẻ hoang phí đời mình, không lưu tâm chi đến
cùng đích tối hậu, chỉ lo những việc trần thế, đó
mới là kẻ đáng cho chúng ta thương hại. Có khi việc
kết hợp với Đức Kitô có thể coi như thuần tuý là
của cảm giác. Việc đó không có giá trị đối với Đức
Giêsu: thứ thương hại do tình cảm là cái gì mau qua
chóng hết. Người không thèm thứ đó. Đó là những bộ
tịch chẳng báo bổ gì. Kẻ nào chỉ lấy cảm giác mà
suy gẫm sự thương khó Chúa thời sẽ chẳng hiểu được
ý nghĩa bao nhiêu. Qua các thế hệ sẽ mãi mãi còn vô số
phụ nữ theo Chúa trên đường lên núi Canvê. Đối với
những người đó có lẽ người ta không còn nghe thấy
lời ngăm đe của Chúa Kitô: ‘Nếu cây tươi còn bị xử
như vậy thì gỗ khô sẽ ra sao?’.
3.
Chúa Kitô
Đi sâu
vào trong cuộc Khổ nạn, Đức Kitô chẳng còn nghĩ đến
mình nữa. Lúc này đây Người thực sự bị trao nộp cho
những mưu kế thủ đoạn của họ như bất cứ con người
bị khổ đau cùng cực nào, hầu như Người hoàn toàn bị
chìm ngập trong chính bản thân mình. Từ nay tư tưởng
Người vươn cao hơn nữa, vượt khỏi những người thân
cận và phút giây hiện tại. Cái nhìn của Người hướng
về những mục đích sau cùng. Ở đây cũng như bữa tiệc
ly và trước pháp đình của người Do thái Người chiêm
ngưỡng thấy –bên kia cái kết cuộc của riêng mình-
cái kết cuộc của Giêrusalem và của thế giới. Người
nhìn thấy cái hoạ tai cuối cùng: thời mà người ta nói
với núi non: hãy đổ xuống đè chúng tôi và nói với gò
nổng rằng: hãy che lấp chúng tôi đi. Giả như Israel tiếp
nhận Người là Đấng Cứu Thế thì có lẽ lịch sử thế
giới đã diễn biến theo chiều hướng khác hẳn. Nhưng
Israel đã nhất định khai trừ Người, đó là lý do khiến
cho Israel bị diệt vong và Giêrusalem bị phá huỷ, điềm
tiên báo những biến cố vĩ đại khi xảy ra cùng tận
thế giới. Chỉ có ở đó, ý nghĩa của con đường Canvê
mới tỏ lộ, chỉ có ở đó, sức mạnh canh tân tiềm
tàng trong việc huỷ mình và chỉ có ở đó sự sống
Chúa Kitô ban xuống qua cái chết của Người mới được
tỏ hiện. Ở đây thái độ độc nhất của Người là
thái độ của người công chính, chính Người là Đấng
cho chúng ta thấy sự vĩ đại đích thực, Đấng mà người
Xyrênê đã buộc lòng bước theo và những kẻ khác không
hiểu. Chỉ kẻ nào biết lắng nghe các tư tưởng và tâm
tình thâm sâu nhất của Chúa Giêsu mời là người đồng
hành với Người thực sự trong suốt chặng đường thánh
giá của Người.
TRÊN
KHỔ GIÁ (23, 33-43)
Qua
trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những
đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu.
Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như
một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế
thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối
kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh
Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối
xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một
tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ
phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân
Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải
làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng
chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt
thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện
trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo
cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức
dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên
Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết
của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và
đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy
chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động
như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương
quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc
ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ
mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự đối kháng
còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của
Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó
là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu
một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn
luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con
người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ,
hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối
nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn
từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố
đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy
nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu
thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được
hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì
được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và
siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý
nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn
tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập
giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu
Thế.
Giải
đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức
Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi
người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha
thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’.
Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền,
nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời
thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu
Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân
loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người
được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm.
Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu
thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh,
một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian
nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn
họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu
xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn
này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng
bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực
những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nihi
Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình
Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch lại
mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con
Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha
như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức
mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói
thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng
bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài
Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu,
khi Ngài đến trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này
là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ
mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người
bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn
tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như thế này là
đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã
làm’. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô,
‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái’.
Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong
vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh,
kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ
được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả
thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với
tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ
mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt
thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu
trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường.
Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh
dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình
lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường
mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là
yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn
đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố
quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình
phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải
tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô
và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế
qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá,
Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo
ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản
kháng’: Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương
xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp nhận’ Ngài nói
với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ
vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu
chuộc thế gian.
CÁI
CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU (23, 44-49)
Việc
hạ mình thế là hoàn tất. Dẫu vậy Người phải được
đưa lên cao trước khi tắt thở. Với một lối trình bày
thật đơn giản của trình thuật, cái chết ấy được
kể lại như một biến cố chủ chốt, mang một tầm cỡ
vĩ đại chưa từng thấy.
1.
Biến cố xảy ra
Tối
tăm bao trùm toàn cõi đất. Khi Đức Kitô sinh ra, ánh sáng
ngập đánh tan đêm tối; mà khi chết, ánh sáng lại tối
sầm lại, bởi vì ánh sáng đến thế gian giải ánh sáng
trong đêm đen Belem giờ đây tắt ngúm trên đồi Gongôta
u tối. Qua các phép lạ Ngài đã làm chứng tỏ Ngài có
chủ quyền trên thiên nhiên, thì chính thiên nhiên cũng
chứng tỏ chủ quyền ấy của Ngài trong giờ Ngài hấp
hối. Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời và lời sáng tạo
đầu tiên là: ‘Hãy có ánh sáng’. Qua cái chết, Ngôi
Lời đã trở về với im lặng. Đó là lý do tại sao tối
tăm bao trùm trên cõi đất. Israel chiếm hữu được ánh
sáng mạc khải. Họ đã khai trừ ánh sáng mạc khải ấy
khi cho giết chết Đấng Thiên Sai; cái bóng đen bề ngoài
của thiên nhiên chỉ là biểu tượng cho cái u tối của
tinh thần bên trong.
‘Màn
trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa’. Hy tế
của Giacaria trong đền thờ báo trước về Đức Giêsu.
Cái chết của Đức Giêsu, biểu hiệu hy tế duy nhất và
tối cao của nhân loại, nói lên đích đáng cái cùng tận
của những hy tế tôn thờ của Israel. Màn rách làm đôi
có nghĩa là những lễ nghi phụng vụ đó chẳng còn giá
trị nữa, hoàn toàn bị phá bỏ. Bức rèm nặng nề che
đậy Nơi Cực Thánh và tách biệt Nơi Cực Thánh ấy khỏi
đền Thánh. Qua cái chết, Đức Giêsu đích thân về trời,
dâng chén hy tế bằng chính máu Ngài, như thư Do thái chỉ
thấy Đền Thánh; Nơi Cực Thánh ở dưới thế này không
còn lý do tồn tại nữa, bởi vì đền thờ thực sự của
toà nhà thiêng liêng là Giáo Hội cũng như nơi Cực Thánh
chân thực trên trời được Đức Kitô mở ra, từ đây
thay thế cho những biểu trưng rồi. Sự ngăn cách giữa
trời và đất giữa Giáo Hội trần thế với Giáo Hội
trên trời hoàn toàn không còn nữa. Bức màn đã trở
thành vô dụng. Chỉ có một Thánh điện duy nhất của
Chúa không ngăn cách cũng chẳng tách biệt.
Đức
Giêsu kêu lớn tiếng: ‘Lạy Cha, Con phó linh hồn con
trong tay Cha’. Đó không phải là cơn hấp hối dai dẳng
và ghê sợ, cũng không phải là sự suy nhược dần dần
do bất lực hoàn toàn nhưng đó là một tiếng kêu lớn.
Cuộc đời kết thúc bằng một lời cuối, đầy vẻ oai
nghi. Suốt đoạn đường vác cây Thập Giá và khi ở trên
đồi Canvê Chúa đã ngỏ lời với những người chung
quanh, thì những lời sau cùng của Ngài lại thưa với
Chúa Cha. Ngài chết đang khi cầu nguyện. Đó không phải
là lời thốt ra trong cơn tuyệt vọng, cũng không phải là
kêu la thê thảm của kẻ hấp hối nhưng là tiếng nói
trang trọng của Đấng trở về chỗ ngụ cư của mình.
Đó cũng là lời của Thánh-Vịnh-Gia thốt lên đang khi
nép mình nơi Chúa xin thoát khỏi mọi hiểm nguy thế trần
và nhân loại. Đức Giêsu đến từ Cha và lại trở về
cùng Cha. Vòng tròn của đời sống khép kín lại, chu
trình đã hoàn tất. Hơi thở thật êm dịu và trang trọng
chiếu rọi trên sự phân cách và cái chết kia.
2.
Hiệu quả
Ta thấy
có sự phản tỉnh trong số những người đứng chung
quanh chứng kiến. Không còn nhạo báng cười chê nữa.
Trước nhất là Viên bách quản ngoại đạo, ông là chứng
tá hàng đầu. Đó là điều ít nhất người ta trông chờ
được ở ông. Những người cuối hết đã bắt đầu
trở thành người đầu hết và những người đầu hết
đã trở thành những người cuối hết. Giáo Hội của
những người ngoại đạo và những người Do thái khai
mào ngay dưới chân Thập Giá. Người ngoại giáo ca ngợi
Thiên Chúa, xét dưới khía cạnh rất sâu xa, vì ông tuyên
xưng cái chết kia không phải là một việc đầy tội ác
của loài người, nhưng là kỳ công nói lên Thiên Chúa
luôn thi ân giáng phúc. Cái chết đó mang một chiều kích
siêu nhân loại. Nên phải ca khen Thiên Chúa đã sai một
người như thế đến cho nhân loại. Viên bách quản nhận
ra Đức Giêsu là một người công chính. Dầu vậy Ngài
vẫn bị hành xử như một tên gian phi và đầy tội ác.
Phán quyết đã đổi thay. Đứng sau viên bách quản Rôma
là thế giới dân ngoại, họ nhờ vào Đức Kitô mà tìm
được con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dân
chúng tự đấm ngực. Những người đã vây quanh cây Thập
Giá giờ đây quay về nhà mình, lòng ngậm ngùi xúc động,
nửa ngờ nửa tin. Nhưng họ tuyên nhận rằng họ không
phải là những nhân chứng suông mà thôi, mà còn chịu
trách nhiệm về cái chết kia nữa. Họ nhận mình có lỗi.
Họ trở lại Giêrusalem mà tâm hồn cũng quay trở về và
thực tình sám hối, kết quả đầu tiên của thập giá
Chúa Kitô là khơi dậy lòng sám hối. Còn các bà, thánh
ký cho ta biết rất đơn giản: họ là những người đã
đi theo Ngài từ Galilê, họ chứng kiến cuộc hành hình
từ đầu chí cuối. Họ là những chứng nhân câm, im hơi
lặng tiếng. Các bà theo Chúa Kitô không phải chỉ hiểu
theo nghĩa bên ngoài, tức là theo Ngài trong sứ vụ công
khai và phong phú của Ngài trên núi Galilê khi Ngài lâm nạn
thảm sầu tại đồi Gôngôtha nhưng họ theo Ngài với một
lòng trung thành thẳm sâu tức là họ theo Ngài đến phút
chót đời Ngài. Ở đây, Tin mừng khen ngợi lòng kiên
vững của họ. Họ là những chứng nhân trung thành tiên
khởi vì họ đã kể lại những gì họ đã chứng kiến
cho tất cả những ai không được xem thấy.
Trình
thuật về cái chết của Đức Kitô không phải là một
trình thuật đau xót hay than trách đắng cay nhưng là bài
tường thuật một biến cố lớn, đánh dấu một kỷ
nguyên mới thực sự bắt đầu và bài tường thuật này
mang một tầm mức rộng lớn vô cùng. Thiên nhiên và lịch
sử làm chứng và con người phản tỉnh quay đầu trở
lại. Thập giá đứng vững giữa lòng vũ trụ, giữa dòng
lịch sử và số phận nhân loại.
23. Ông này là ai vậy?
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
- Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
- Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
- Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá
là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe
bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những
ngày cuối đời.
Rước
lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa
lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi
người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng
ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ
nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu
có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi
gai góc của cuộc sống.
Cần
cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng
quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất
là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng
lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm
cho khổ đau sinh trái.
Con
Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người.
Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội,
thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết
chết.
Ngài
không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy
đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý
nghĩa.
Bạn có
thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Hãy
đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn
Dầu đến tận Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người
lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là
vì bạn và cho bạn.
Sau khi
đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu
thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và
kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
- Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi
khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy
con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa
ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy
Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà
không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi
sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước
gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm
máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người
một lòng theo Chúa.
24. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
Suy
Niệm
Chúa
Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng
niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai
đám rước trái ngược nhau.
Trong
ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm
liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành
cây xanh mới chặt.
Sau đó
ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung
hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ
có cây thập giá.
Ngày
xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy
mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau
và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl
2,20).
Cần
nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước
theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa
trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô
đơn của Chúa.
Ba môn
đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc
Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài
bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy
trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức
Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích
động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là
tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn,
nay ở đâu?
Đức
Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài
cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi,
tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần
cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn
mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc
nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn
bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ
con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ
đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn
tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím
vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp
nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả
thân mình đang trĩu nặng.
Cần
cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự
và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị
bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm
bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức
Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa
đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc
thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập giá của họ. Ước gì thế
giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
- Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
- Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
- Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
- Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
- Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
- Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
- Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
- Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
- Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
25. Cám dỗ
Nhà đạo
diễn Mỹ Mác-tin Co-sê đã thực hiện một cuốn phim, có
tựa đề là “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”,
dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng một tựa đề của
Ni-kót Ka-gian-da-kít. Cuốn phim này đã gây nhiều phẫn nộ
trong giới Kitô giáo, bởi vì nó đã bóp méo hoàn toàn
khuôn mặt lịch sử của Chúa Giêsu, như người ta có thể
đọc thấy qua các sách Tin Mừng. Nhà đạo diễn Mỹ này
đã bóp méo như thế nào? Ông đã tưởng tượng ra một
cuộc tình vô cùng éo le của Chúa Giêsu, để rồi khi
thoi thóp hấp hối trên thập giá, Ngài còn phải trải
qua cơn cám dỗ cuối cùng, đó là muốn bỏ cuộc để
trở về sống với người tình Mai Đệ Liên.
Sự
thật hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta hãy ôn lại
những giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu như bài Tin Mừng
đã thuật lại, để thấy được đâu là cơn cám dỗ
cuối cùng của Ngài và đâu là tâm tình đích thực của
Ngài.
Sau khi
Philatô tuyên án tử hình Chúa Giêsu, binh lính Rôma đã
bắt Ngài vác thập giá đi đến nơi gọi là Núi Sọ. Tại
đây, chúng đóng đinh và treo Ngài lên giữa hai tên trộm
cướp. Trong ba giờ liền, Ngài đã phải quằn quại trên
thập giá, lãnh nhận tất cả những xỉ nhục, khinh bỉ,
nhạo báng của con người.
Trong
khi đó, Thiên Chúa vẫn giữ thinh lặng. Cơn cám dỗ trong
giờ phút ấy thật là kinh khủng, bởi vì Chúa Giêsu đã
giảng dạy: “Hãy yêu thương thù địch của ngươi”.
Và lúc này đây kẻ thù đã hành hạ Ngài một cách đau
đớn, bỉ ổi, làm sao có thể yêu thương kẻ thù như
thế được? Đàng khác, khi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng
luôn nhấn mạnh đến lòng tín thác vào Thiên Chúa. Nhưng
giờ đây, chính Thiên Chúa lại để kẻ thù giết Ngài
mà không làm gì để giải thoát Ngài. Làm sao có thể tin
tưởng nơi một Thiên Chúa như thế? Đó là cơn cám dỗ
mà Chúa Giêsu phải trải qua trong những giờ phút cuối
đời của Ngài, chứ không phải là cơn cám dỗ về cuộc
tình mà nhà đạo diễn Mỹ đã tưởng tượng ra.
Chúa
Giêsu đã đối phó với cơn cám dỗ ấy thế nào? Sự
đối phó của Ngài vẫn luôn luôn là: “Lạy Cha, xin tha
cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Đó là
lời đầu tiên của Ngài khi vừa bị treo lên thập giá.
Đó là phản ứng của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ
nhất: Ngài vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả những kẻ
phản bội, thù ghét và loại bỏ Ngài.
Rồi để
đáp trả lại cơn cám dỗ thứ hai, Chúa Giêsu hướng về
Cha Ngài và nói: “Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác
hồn con”. Với niềm tín thác trước sau như một, cũng
như sự vâng lời tùng phục tuyệt đối của một người
con hiếu thảo đối với Cha, Chúa Giêsu đã nói lên những
lời đó rồi cúi đầu trút hơi thở cuối cùng.
Như
vậy, chúng ta có thể nói: cả cuộc sống của Chúa Giêsu
là một bản tình ca đối với Thiên Chúa và con người.
Cái chết của Ngài là tột đỉnh của tình yêu ấy. Tình
yêu của một Thiên Chúa yêu thương con người. Viên sĩ
quan điều khiển cuộc hành quyết Ngài, đứng dưới chân
thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài, ông đã cảm
nhận được điều đó và ông đã thốt lên: “Quả
thực, người này là Con Thiên Chúa”.
Qua cuộc
khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã nêu
cao tấm gương xây dựng hòa bình. Ngài đã tha thứ cho
những kẻ hành hạ Ngài. Cũng vậy, con người chỉ có
thể xây dựng hòa bình nếu biết thực sự tha thứ cho
nhau. Nhưng hai ngàn năm qua, nhân loại vẫn chưa hưởng
được hòa bình thực sự, bởi vì nhân loại chưa đón
nhận hay chưa sống đầy đủ Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Đối với chúng ta, nếu chúng ta sống theo Tin Mừng của
Chúa, chúng ta sẽ có được sự bình an đích thực trong
tâm hồn và sống an hòa với mọi người.
Hôm nay
chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần lễ cuối
cùng của cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian, tuần lễ
diễn lại cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của
Chúa. Nếu có ai đó nói rằng: yêu là điên dại, thì
trong số những người điên dại này, điên dại theo ý
nghĩa cao thượng và cao quí, người điên dại nhất chính
là Chúa Giêsu. Ngài chỉ biết yêu thương, yêu thương tất
cả mọi người, kể cả những con người xem ra không
đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến
họ, vẫn yêu thương họ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương,
cả trong những lúc gặp nguy hiểm, và cuối cùng đã hy
sinh đến chết chỉ vì tình yêu thương. Chúa Giêsu quả
thật là một người điên dại của thế giới.
Mỗi
Chúa nhật chúng ta họp nhau để phụng thờ và tôn vinh
Đấng yêu thương điên dại này. Ngài đã chấp nhận mọi
hiểm nguy, Ngài đã bị thương tích, Ngài đã chịu hình
phạt cuối cùng trên thập giá vì yêu thương thế giới,
một thế giới luôn mơ tưởng đến tình yêu, nhưng mãi
sống trong hận thù. Chúng ta phụng thờ Chúa như một
người vì quá yêu thương để chiến bại. Nhưng Ngài vẫn
sống để ban sức mạnh cho tất cả những ai sẵn sàng
chấp nhận đi theo con đường tình yêu điên dại này:
yêu anh, yêu chị, yêu em, yêu quê hương, yêu đồng loại,
và yêu tất cả mọi người. Đó là con đường của tình
yêu, và cuối cùng, tình yêu sẽ thắng.
26. Đón tiếp
Tin Mừng
hôm nay trình bày Đức Giêsu được dân Do thái đón tiếp
vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng, như một vị
vua. Tại sao Ngài lại được đón tiếp như thế? Phải
chăng Ngài là người sẽ mang lại cho họ tự do và hạnh
phúc? Điều gì họ đang mong ước và trông đợi? Nêu ra
những vấn nạn đó để mỗi người rút ra cho chính bản
thân bài học từ nơi Đức Giêsu. Ngài đã được dân
chúng tiếp đón vào thành và cũng chính Ngài đang tiến
vào thành để đón tiếp, đón nhận cuộc khổ nạn. Dẫu
Ngài đã biết trước.
Trong
tâm tình đó chúng ta cùng với Đức Giêsu tiến vào thành
để được đón tiếp và đồng thời cũng đón nhận và
chia sẻ cuộc vượt qua với Ngài.
Đức
Giêsu được người Do thái đón tiếp rất là nồng hậu.
Họ trải áo, bẻ cành lá trải trên đường và dành cho
Ngài những lời tán dương, chúc tụng “hoan hô, tung hô
con vua Đavid”. Vì sao Ngài được vinh dự đó? Thưa, vì
họ hy vọng ông Giêsu là người sẽ giải phóng họ thoát
khỏi ách nô lệ Rôma, mang lại cho họ một cuộc sống
tự do hạnh phúc, giàu sang. Quí ông bà còn nhớ khi ông
Bill Cliton vào thăm Việt Nam? Việt Nam đã đón tiếp ông
ra sao? Oi! Nào là bao nhiêu câu chuyện được bàn cãi,
tranh luận từ giới trí thức cho tới giới bình dân ít
học, từ giới báo chí đến giới làm ăn xem ông đến
để làm gì và sẽ làm gì cho Việt Nam. Mục đích sâu xa
nhất của sự kiện ông đến Việt Nam và được đón
tiếp đặc biệt không có gì khác hơn là Việt Nam mong
ông giúp mình để phát triển đất nước trở nên giàu
mạnh.
Trong
cuộc sống đời thường của mỗi người cũng thế.
Chúng ta đã tiếp đón biết bao nhiêu người và đón tiếp
bằng nhiều cách. Thế nhưng, tiếp đón không có nghĩa là
giúp người gặp hoàn cảnh khó khăn để họ khỏi làm
phiền mình, tiếp đón cũng không có nghĩa là để giữ
lịch sự với người khác và tiếp đón càng không có
nghĩa người được tiếp đón sẽ mang lại cho mình một
mối lợi gì đó. Vậy, ta nên có một thái độ tiếp đón
không tính toán vụ lợi, không mưu toan ích lợi cá nhân
hẹp hòi, nhưng nên có một con tim luôn cởi mở để có
thể tiếp đón hết mọi người không phân biệt quyền
thế hay hèn yếu, giàu sang hay nghèo khổ. Nếu không tiếp
đón chỉ là cho đi những thứ dư thừa hầu ru ngủ những
đòi hỏi của lương tâm mình mà thôi.
Trang
Tin Mừng không chỉ dừng lại việc mô tả Đức Giêsu
được dân thành Giêrusalem đón tiếp. Nhưng sâu xa hơn,
tiếp tục mời gọi mỗi người cùng với Đức Giêsu
chấp nhận, đón nhận những khổ đau mà Ngài đang tiến
bước vào thành để tiếp nhận. Dẫu Ngài biết trước
sẽ xảy đến với Ngài. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài
tiến bước vào thành một cách trung kiên.
Trong
bối cảnh sống hôm nay, con người đang đánh mất dần
tinh thần đón nhận những thử thách, gian nan, bệnh tật,
đau khổ đến với mình. Nói thế không có nghĩa là đề
cao đau khổ, tâng bốc bệnh tật vì chính nó nhưng nên
biết rằng cuộc sống trần gian không thể nào đáp ứng
được tất cả những khát vọng, và làm thỏa mãn mọi
ước muốn. Chúng ta đón nhận bệnh tật, đau khổ, thử
thách như là một điều phải có không thể thiếu trong
đời sống mình, để làm nảy sinh những giá trị tốt
đẹp hơn. Đức Giêsu phải tiến bước vào thành đón
nhận khổ đau mới đạt tới vinh quang. “Hạt lúa mì
xuống đất không thối đi thì nó vẫn là nó mà thôi”.
Đức
Giêsu trong suốt cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã đón
nhận thử thách, đau khổ… đặc biệt là Ngài đón nhận
cuộc khổ nạn mà đỉnh cao là cái chết thập giá. Ta
không thể cảm nghiệm được nỗi đau của Đức Giêsu ở
mức độ nào khi Ngài bị treo trên thập giá, “Thức đêm
mới biết đêm dài”. Thế nhưng, không phải vì Đức
Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài đón nhận đau khổ một
cách dễ dàng. Chắc chắn nơi Đức Giêsu có một sự đấu
tranh giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa sức sống và sự
chết. Nhưng chính vì tâm tình vâng phục và nhất là vì
tình yêu, nên Ngài đón nhận chúng một cách can đảm và
trung kiên như thế.
Người
Kitô hữu đón nhận thử thách, đau khổ, bệnh tật là
điều cần có, nhưng nếu nhìn dưới ánh mắt quá bi
quan, nó sẽ dồn ta vào chân tường, đẩy ta vào đường
cùng không lối thoát.
Cuộc
đời của mỗi người, ai cũng gặp những thử thách,
bệnh tật, đau khổ. Nhưng hãy nhìn lên thập giá Đức
Giêsu để có thể sẵn sàng đón nhận những trắc trở
khó khăn mà mình gặp. Đành rằng khi ta thức đêm mới
biết đêm dài như thế nào. Xin quí ông bà nhớ cho, người
Kitô hữu đón nhận và sống theo Tin Mừng không phải là
người không bao giờ biết mệt, nhưng dù biết mệt mỏi
vẫn can trường đón nhận, sống theo Tin Mừng. Đó mới
đích thực là người Kitô hữu.
Trước
khi kết thúc bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay. Xin được trao
lại quí ông bà đôi câu hỏi để mỗi người cùng tiếp
tục tự vấn con tim của mình.
Mỗi
người xử sự thế nào khi tiếp một người nghèo, một
người bệnh tật? Hơn thế nữa, trong bối cảnh hôm nay
chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón
nhận những trở ngại, thử thách gian nan để cùng với
Ngài can đảm tiến bước vào thành không chút sợ hãi
được chăng?
Để
kết thúc xin cùng nhìn lên Đức Maria, Ngài đã cùng với
Đức Giêsu tiến bước vào thành đón nhận cuộc khổ
nạn cho đến chân đồi Canvê. Xin Mẹ luôn đồng hành,
để ta có thể can đảm tiến bước vào thành, chấp nhận
và đón nhận những thử thách, bệnh tật, đau khổ mà
mỗi ngày gặp phải.
27. Chúc tụng
Trong
nghi thức của Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo Hội cho
chúng ta nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật
lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với
tư cách là Đấng Messia. Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên
mình lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về
Đấng Messia được ghi lại trong sách Giacaria: “Nào thiếu
nữ Sion hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem
hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang
đến với ngươi, Người là Đấng chính trực, Đấng
Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa
vẫn còn theo mẹ”.
Hình
ảnh dân chúng hò reo tung hô Chúa Giêsu cũng được nhắc
đến trong sách Các Vua quyển I. Qua việc công khai vào
thành cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định
Người là Đấng Messia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên,
Người không xây dựng vương quốc mà họ muốn đánh nam
dẹp bắc, hoặc bằng cách phát triển các sức mạnh kinh
tế mà bằng cách tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa Cha,
một vai trò tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia
miêu tả trong bốn bài ca của ông.
Cuộc
khải hoàn vào thành Giêrusalem chỉ là bước khởi đầu
cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để
chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người
lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa Cha.
Phụng
vụ thánh lễ nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu
trong Chúa nhật hôm nay được ngôn sứ Isaia viết về
người tôi tớ đau khổ trung thành của Thiên Chúa phải
chịu: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ
má cho người ta giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng
nhiếc xỉ nhục”.
Kế đó
là bài trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu
Philipphê nói về sự từ bỏ và cái chết tủi nhục mà
Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho
con người. Chúa Giêsu Kitô không nghĩ mình là Thiên Chúa,
không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với
Chúa Cha, Ngài đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận
nô lệ, trở nên giống như phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại luôn hạ mình vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm
của phần Phụng vụ Lời Chúa là bài thương khó Chúa
Giêsu được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Bài
Tin Mừng hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào
những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu
thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài thương
khó như nghe một câu chuyện bi hùng đã xảy ra trong lịch
sử, nhưng chúng ta nghe và đồng thời cùng với Chúa
Giêsu đi vào cuộc thương khó của Ngài. Chúng ta có mặt
bên cạnh Chúa Giêsu ở mọi diễn tiến đau thương đang
xảy ra. Lịch sử cứu độ đã xảy dài đến chúng ta và
chúng ta đón nhận Tin Mừng ấy ngay tại đây và ngay lúc
này. Chúng ta không là người chứng kiến lịch sử cứu
độ, nhưng chúng ta là người sống và lãnh nhận hiệu
quả của ơn cứu độ.
Con
đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường
dài, khởi đi từ biến cố Nhập thể, ấp ủ và hình
thành trong 30 năm sống ẩn dật được thực hiện từng
bước trong ba năm rao giảng để tiến đến cao điểm của
cuộc khổ nạn và hoàn tất bằng cái chết tủi nhục và
việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp
và đầy gian nan, con đường này không giành cho những ai
lười biếng hoặc nhát đảm, nhưng giành cho những ai
kiên tâm và dám dấn thân.
Hằng
năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho ta sống 40 ngày Mùa Chay để
giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của
mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện chúng ta có dịp rà xét
lại con người của mình, nhận ra những lỗi phạm và
thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng
ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với
Thiên Chúa, với anh em và với chính bản thân chúng ta.
Chúng ta thấy được mình đã xây dựng những mối tương
quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo, chân tình
hay giả dối.
Nhờ
thực hành các việc hy sinh hãm mình chúng ta tập tự chủ,
tập chế ngự các thói quen nuông chiều bản thân, tập
chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Qua đó chúng
ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của
người khác, tập bao dung tha thứ cho những lỗi lầm mà
người khác xúc phạm đến chúng ta. Tập nâng đỡ người
khác vượt qua được những thói hư tật xấu của họ.
Nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ vật chất
và tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là người
nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp
đỡ. Chúng ta cũng cần phải nhận ra gía trị đích thực
của những người khác, dù họ là những con người cần
sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị
của sự chia sẻ qua lại, chúng ta cung cấp cho người
khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những
cái chúng ta còn thiếu.
Bốn
mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường
trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết 40 ngày Mùa Chay
không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để
bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để
vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây
phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần
Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết
liệt của cuộc chiến này. Chúng ta hãy bước vào Tuần
Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40
ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục
dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp thánh ý Chúa Cha.
Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản
thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ
tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh
mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh
Tin Kính.
28. Làm chứng
Trong
ngày Chúa nhật lễ lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã
hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và
lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày
tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó
là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến
răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một
số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người
phán rằng: “Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi
đá cũng sẽ kêu lên”. Có những cơ hội đòi hỏi một
sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường
hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu
chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân
chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng
các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được
công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng
người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ.
Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của
họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và
khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách
ồn ào hơn là có chiều sâu. Thật dễ dàng trong việc
làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ.
Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với
chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm
chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi
khi còn thù địch nữa.
Có
những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình
nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn
cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những
viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới
có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im
lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải
nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào
đó đang bị đối xử bất công ; lời nói khen ngợi một
người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên
lãng ; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người
ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ
dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều.
Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng
tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ,
sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại
nơi công cộng. Đức Kitô nói với chúng ta “Bất cứ kẻ
nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì
Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng
ngự trên trời”. Chúng ta có thể rút ra được nguồn
cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người
không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu
cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày
Chúa nhật lễ lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ
trong việc làm chứng cho Đức Giêsu. Xin Chúa rủ lòng
thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút
nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng
can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời
chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
29. Yêu cho đến cùng – Thiên Phúc
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại
nhà thờ chính tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có
một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trổ vào
khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ
đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương
truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn,
xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn,
quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của
Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng
tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
Trong
suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần,
Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người:
Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật,
xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và
tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước
vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến.
Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ
nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng
trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối
cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: “Quỉ rút lui
để chờ dịp khác”. Dịp ấy hôm nay đã đến. Satan
nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của
này, dùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn
đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối Thầy, còn các
ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là
nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm,
giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu
hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường
như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng
thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi
uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến
nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế
nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu
thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên
thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng
nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành
tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn
Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người
an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa
Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban
thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối
cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để
cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã
nói: “Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh
mạng sống vì bạn hữu”. Người đã yêu thương con
người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết:
“Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn
ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga
13,1b).
Lạy
Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Chúa Cha và cũng vì
yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu
mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết
yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ
không mong phần thưởng nào khác.
Xin
cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ
của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên
đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý
Chúa. Amen.
30. Suy niệm của Lm Jos. Phạm Thanh Liêm
ĐỨC
YÊSU ĐỐI DIỆN CÁI CHẾT
Chúng
ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm
Đức Yêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước
long trọng. Biến cố Đức Yêsu vào thành Yêrusalem như
một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài
vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành
công và thất bại trên đời
Sau ba
mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở
Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất
nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm
nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ
trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng
thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Yêsu cũng
vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm
12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm.
“Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người
am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức
Yêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người
lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu
hỏi!
Trên
đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu
thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”.
Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế
nào đối diện với những thành công và thất bại trên
đời.
Đức
Yêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp
này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas
khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng
ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11,
8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”.
Tại sao Đức Yêsu không “khôn” một chút?
Đức
Yêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh,
Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường
hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới
bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy
không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao,
nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?”
(Mt.26, 53). Đức Yêsu đã không biến đá thành bánh để
ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách
thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến
cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có
sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong
cuộc sống thường ngày không?
Dâng
hiến chính mình
Đức
Yêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động.
Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có
một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất
cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi
tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn
trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những
điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Yêsu
yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống.
“Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước
tình yêu.
Phục
vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận
xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không
còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hòa. Đức
Yêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là
người phục vụ”. Đức Yêsu đã đến như một người
tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên
giống Ngài.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Đâu là thử thách lớn nhất của kiếp người, theo ý riêng bạn?
- Theo bạn, các tông đồ nên thánh qua những việc nào và bằng cách nào?
- Bạn có tuyệt vọng bao giờ chưa? Mong ước nào không thành sự đến nỗi bạn tuyệt vọng? Làm sao bạn vượt qua được?
- Bạn đã yêu và được yêu bao giờ chưa? Làm sao bạn biết người ta yêu bạn?
Đăng nhận xét