CÁC BÀI SUY NIỆM VỀ THÁNH GIU-SE
Nguồn ảnh:http://www.cdmedongcong.net |
LỄ
THÁNHGIUSE 19-3-2009
Mt
1: 16-18, 21-24
Lc
2: 41-51a
Mẫu
đối thoại với thánh Giuse ………… Lm. Nguyễn Ngọc
Long
Thánh
Giuse, vị thánh khiêm nhường và Ngô Suốt CTS
Thánh
Giuse gương mẫu của đời sống Quang Huyền
Vị
gia trưởng gương mẫu ………………. Lm. Vũ Tiến Tặng
Thánh
Giuse, vị thánh thầm
lặng…………. Lm. Vũ Tiến Tặng
Giuse,
nhà đào tạo người công chính.…. Lm. Dương Văn Nghĩa
Giuse,
mẫu gương vâng phục………...…. Lm. Jos. Tạ Duy Tuyên
Ơn
khôn ngoan nơi thánh Giuse………… Gm. JB Bùi Tuần
Thánh
Giuse con người
khôn ngoan …… Gm. JB Bùi Tuần
Thánh
Giuse, người công chính…………. Tgm. Giuse Ngô Quang
Kiệt
MẪU ĐỐI THOẠI VỚI THÁNH GIU-SE
Lm.
Nguyễn Ngọc Long
Một tâm hồn có lòng
kính mến Thánh Giuse đến trước tượng ngài trong thánh
đường và tâm sự với Ngài về những thắc mắc tò mò
của mình như sau:
1. Con xin chào Thánh cả
Giuse. Ông Bà Cha mẹ con thường nói với con về Thánh cả,
nhưng chẳng ai rõ về Thánh cả bao nhiêu, ngoài hình tượng
của Thánh cả trong hang đá ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh
và tượng trong nhà thờ…Con Thấy người ta làm hình
tượng Thánh cả sao có nhiều râu ria và chống gậy già
quá vậy?
Thánh Giuse: Phải
chính là ta đây. Và đúng như vậy, không có sử sách nào
ghi lại cuộc đời của ta cả. Trong phúc âm có ghi lại
vài dòng như quê quán nơi sinh ở Bethlehem, nơi Chúa Giêsu
giáng sinh trên cánh đồng; rồi sống lưu lạc với Đức
Mẹ Maria và Chúa Giêsu bên Ai-cập sau cùng trở về sinh
sống nơi làng quê miền Na-da-rét đất nước Do Thái. Về
nghề nghiệp ta làm nghề thợ mộc đóng bàn ghề, tủ
đựng thức ăn chén bát, xây nhà cửa có khi lát gạch cả
lối đi ngoài cổng nữa, làm kế sinh sống nuôi gia đình.
Và trẻ Giêsu cũng học làm nghề này với ta cả.
Có lẽ vì thế mà
xưa nay người ta tạc khắc vẽ hình tượng ta với cái
cưa, cái đục, cái búa, cái bay thợ nề. Điều đó không
có gì sai cả. Trái lại tốt thôi. Ta vui mùng vì người
ta đã biết quý trọng công việc làm ăn tay chân.
2. Vâng con nghe nói
Thánh cả trong thời gian thành lập gia đình với Đức Mẹ
Maria và cả sau khi Chúa Giêsu chào đời, thánh nhân đã
trải qua những giai đoạn phức tạp khó khăn hầu như
ngoài ý muốn của mình. Có phải như vậy không?
Thánh
Giuse: Đúng vậy. Maria, người, ta muốn cùng xây dựng một
tổ ấm uyên ương, lại có thai trước đó! Điều đó
làm ta bối rối khó xử. Ta đã hằng đêm suy nghĩ mất
ăn ngủ về việc này. Nhưng bỗng dưng ta có một giấc
mơ lạ lùng!
3. Một giấc mơ ư?
Thánh Giuse: Phải,
Thiên Chúa đã gửi đến cho ta một giấc mơ. Trong giấc
mơ đó ta cảm thấy càng khó xử hơn!
4. Tại sao vậy?
Thánh Giuse: Trong giấc
mơ, ta được tỏ cho biết hài nhi trong cung lòng Maria là
Con Thiên Chúa và ngưòi cha con trẻ là Thiên Chúa, Cha
chúng ta trên trời!
Ta tỉnh dậy và
càng thêm bối rối sợ hãi. Nhiều thắc mắc càng đến
dồn dập: Như thế nghĩa là gì? Không thể được, ta
không thể là cha của hài nhi trong bụng Maria được? Ta
có nên cưới Maria làm người bạn đường nữa không? Ta
có cần thiết giữ vai trò gì trong việc này nữa không?…
Dẫu vậy, trong cơn
bối rối lo âu ta vẫn giữ lòng trông cậy nơi Thiên
Chúa. Ta hằng cầu nguyện cùng Ngài, xin ơn soi sáng giúp
sức.
5. Trong Kinh thánh
ghi lại: Thiên Thần Chúa hiện ra trong giấc ngủ với
thánh nhân, báo tin cắt nghĩa cho thánh nhân và khuyên nhủ
thánh nhân nên xử sự như thế nào rồi mà?
Thánh Giuse:Phải,
đúng như vậy. Ta được Thiên Thần nói cho biết ý của
Thiên Chúa về hài nhi là con Thiên Chúa trong bụng Maria và
ta là cha nuôi là của hài nhi này, như chương trình của
Thiên Chúa đã sắp đặt. Nhưng dẫu vậy lúc đó ta không
hiểu nổi chương trình ý định của Thiên Chúa, nên ta
sinh ra bối rối lo âu…
6. Sau này Thánh nhân,
Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu sống trong một gia đình ở
miền quê Na-da-rét. Thánh nhân có thể kể cho con nghe về
đời sống của gia đình thánh nhân khi xưa thế nào?
Thánh Giuse: Con trẻ
Giêsu lớn lên như bao con trẻ khác trong làng xóm. Gia đình
nghèo, nên ngài phải giúp ta trong công việc làm ăn sinh
sống, lúc ngài còn còn trẻ. Lẽ tất nhiên ngài cũng
được cắp sách đi học ở trường làng như các trẻ em
khác. Trẻ Giêsu ham đọc sách kinh thánh, sách kề luật
trong đạo, sách các Tiên tri, sách Thánh vịnh. Và càng
ngày chúng ta càng nhận ra ngài siêng năng cầu nguyện
cùng Thiên Chúa.
Maria và ta cắt
nghĩa cho Ngài về thiên nhiên về con người, về phong tục
cuộc sống ở đời. Trẻ Giêsu chăm chú nghe và yêu thích
cảnh vật thiên nhiên, yêu thích cuộc sống liên đới
tình người. Chúng ta, bậc cha mẹ lẽ tất nhiên vui mừng
hãnh diện về Ngài lắm.
7. Chúa Giêsu khi
sống còn sống bên cha mẹ ở nhà, có luôn luôn vâng lời
cha mẹ không?
Thánh Giuse: Có,
Ngài hằng sống ngoan ngoãn vâng lời chúng ta. Nhưng có
một lần ngài làm cho chúng ta lo âu sợ hãi. Ta không biết
có phải ngài không vâng lời chúng ta lần này không?
Số là gia đình
chúng ta cùng đi hành hương lên đền thánh Chúa ở
Giêrusalem, lúc đó trẻ Giêsu lên 12 tuổi. Bỗng dưng ngài
biến mất khỏi đoàn hành hương. Chúng ta lo lắng đi tìm
ngài khắp nơi. Sau cùng tìm thấy ngài còn lưu lại nơi
đền thánh đang ngồi tranh cãi với các thầy cả, các
bậc thông thái về luật lệ, về Lời Chúa sôi nổi…
Là cha me, chúng ta vui
mừng vui tìm thấy lại con mình, nhưng cũng buồn giận.
Chúng ta trách ngài: tại sao con không cùng đi về với cha
mẹ và để cha mẹ lo lắng tìm con như vậy?
Ngài nhìn chúng ta
và trả lời: Cha mẹ tìm con. Con cám ơn lòng cha mẹ
thương con, lo lắng cho con. Nhưng con muốn tìm hiểu học
biết nhà Cha con ở trên Trời. Điều đó cha mẹ phải
biết chứ!
8. Nhưng sau thời
gian chung sống ở nhà với Đức Mẹ Maria và thánh cả,
Chúa Giêsu lại bỏ nhà ra đi?
Thánh Giuse: Phải,
đúng như vậy. Khi ngài được ba mươi tuổi, Ngài nói
với chúng ta: Ngài muốn đi đây đó rao giảng về tình
yêu nước Thiên Chúa cho mọi người. Từ đó cuộc đời
Ngài nay đây mai đó, không chỉ rao giảng mà Ngài còn làm
phép lạ chữa bệnh cho nhiều người và đem lại cho tâm
hồn họ niềm vui hạnh phúc.
9. Nhưng trong kinh
thánh sau này không nói gì về Thánh Cả nữa?
Thánh Giuse: Đúng như
vậy. Những người viết sách phúc âm sau này chỉ chú
trọng ghi chép lại Lời rao giảng, đời sống cùng việc
làm của Chúa Giêsu thôi. Ta đã hoàn thành nhiệm vụ được
Thiên Chúa trao ban ủy thác cho: Nuôi nấng dậy dỗ Chúa
Giêsu thành người khôn lớn. Và từ lúc đó, ta càng cảm
nghiệm nhận ra lòng tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa
là thế nào cho đời sống.
10. Có phải vì thế
mà Ngài được tôn vinh là Thánh Cả và được mọi người
tôn sùng yêu mến hay còn có điều gì khác hơn nữa?
Thánh Giuse: Ta không
biết nhiều hơn con đâu. Vì ý Chúa nhiệm mầu. Nhưng ta
nghĩ, càng ngày những người tín hữu nhận ra giá trị
một đời sống đơn giản âm thầm, sống làm việc tay
làm hàm nhai và có lòng tin tưởng trông cậy vào Thiên
Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Đó là đời sống
của gia đình ta khi xưa với Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Có lẽ vì thế mà ta được tôn vinh yêu mến và chọn
làm quan thầy cho người lao động thợ thuyền, cho các
gia đình, cho mọi người trong Hội Thánh Chúa Giêsu ở
trần gian.
11. Sao thánh nhân
lại có bông hoa trên tay vậy?
Thánh Giuse: Đó là
ông hoa huệ đó con. Bông hoa huệ mầu trắng biểu hiệu
cho tâm hồn thanh sạch có lòng yêu mến, trông cậy phó
thác nơi Thiên Chúa là Cha cuộc đời mình.
12. Thưa Thánh Cả
Giuse. Kinh thánh chỉ ghi lại rất ít về đời sống của
Thánh Cả, nhưng không ghi chép một lời nào của Thánh Cả
đã nói hết.
Thánh Giuse: Con biết
đấy: người ta có thể không cần nói gì, mà cũng vẫn
là một người tốt lành thánh thiện được, và có thể
là thánh nữa. Nói hay, nhiều người có thể làm được.
Nhưng sống thực hành theo ý Chúa muốn, đó là điều
quan trọng hơn.
Con cám ơn Thánh Cả
đã cho con được hầu truyện Thánh Cả. Con xin đốt cây
nến trước tòa Thánh Cả. Con ra trở về nhà không quên
ơn Thánh Cả và xin Thánh cả đừng bỏ con. Vì con cần
Thánh Cả cầu bầu cùng Chúa cho đời sống con.
Lm.
Nguyễn Ngọc Long
THÁNH
GIUSE,
VỊ
THÁNH KHIÊM NHƯỜNG VÀ BÁC ÁI
Ngô
Suốt, CTS
Thánh Frances de Sales viết rằng:
“Thật không cần thiết để luôn luôn lúc nào cũng
chăm chú đến tất cả mọi nhân đức để diễn tập;
có thể làm gãy gập và lúng túng ý tưởng và cảm giác
của bạn rất nhiều. Khiêm tốn và bác ái là những sợi
dây chủ chốt; tất cả các nhân đức khác đều gắn
liền vào. Chúng ta chỉ cần nắm giữ hai sợi dây này:
một ở dưới đáy và một ở trên đỉnh. Sự đứng
vững của tòa nhà tùy thuộc vào móng và mái của nó.
Chỉ cần tập trung tâm hồn để diễn tập hai nhân đức
này chúng ta sẽ không bị khó khăn đối với các nhân
đức khác. Đây là những nhân đức mẹ và những nhân
đức khác theo sau giống như gà con theo gà mẹ”.
Dường như hầu hết các thánh của Giáo hội đều chuyển
tải hai nhân đức chủ chốt này, nhưng vượt trội hơn
cả phải nói đến vị đại thánh đáng kính và đáng
yêu của chúng ta là thánh cả Giuse.
Thánh Giuse đáng kính vì Ngài có
quá nhiều nhân đức siêu phàm, người bình thường không
thể có được, điều này cũng dễ hiểu vì Ngài được
tiền định chăm lo gia đình Thánh, Ngài được những ân
sủng đặc biệt thiết tưởng không có gì lạ cả. Đến
nổi người ta cho rằng Ngài không hiểu, không biết, cũng
không hỏi, chỉ tin và làm theo lời Chúa. Thí dụ khi
Thiên thần báo mộng cho Ngài: ”Đừng ngại đón bà
Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền
năng Chúa Thánh Thần...”, tôi không nghĩ rằng Ngài hiểu
được vấn đề, kể cả Chúa Thánh Thần là gì. Khi được
mộng báo đem con trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập
cũng vậy, Ngài không biết gì về ý định cũng như kế
hoạch của Chúa, chỉ làm theo -một cách liều lĩnh- không
thắc mắc, thật mạo hiểm vì không những đưa con trẻ
đi trốn trong lúc mới sinh ra, còn đưa đi đến một xứ
sở xa lạ không người quen biết.
Ngài đáng kính vì khiêm
nhường và bác ái đến độ chỉ thi hành không nói. Ngày
xưa ở Do Thái người ta rất trọng nam khinh nữ. Tuy vậy
sau khi lạc Chúa 3 ngày, tìm thấy Chúa, đáng lý Thánh
Giuse lên tiếng. Nhưng không, Ngài im lặng để vợ mình
nói. Trong bốn cuốn Tin Mừng, đều có thấp thoáng bóng
dáng Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Giuse chỉ được nhắc đến
trong Tin Mừng của Mathiêu và Luca mà thôi. Đức Mẹ lên
tiếng tại tiệc cước Cana (Tin Mừng của Gioan), lên
tiếng bốn lần trong Tin Mừng của Luca nói về thời thơ
ấu của Chúa Giêsu. Còn Thánh Giuse hoàn toàn không nói
lời nào trong toàn bộ Thánh kinh. Ngài đúng là con người
kỳ diệu.
Sống trong ơn gọi gia đình,
chúng ta phải công nhận ơn gọi độc thân vì nước trời
của các tu sĩ nam nữ là điều hết sức khó khăn. Thế
nhưng thánh Giuse lại sống chung đụng –dù trên nguyên
tắc pháp lý là vợ chồng- với cô thôn nữ xinh xắn,
nhưng giữ mãi nhân đức trong sạch là điều làm cho
nhiều người nghi ngờ, vì họ nghĩ rằng điều đó không
thể làm được đối với bản tính tự nhiên của con
người. Người ta suy luận hợp lý, đúng nếu không có
sự can thiệp của Đấng Toàn Năng thì rõ ràng vô phương.
Theo các nhà tâm lý học con người có hai bản năng mạnh
mẽ nhất là tôn giáo (Religion) và tình dục (Sex). Kết
luận này cho chúng ta biết được rằng khi bản năng tôn
giáo thắng thế người ta có thể khống chế nhu cầu
tính dục mặc dù không hoàn toàn dễ dàng. Điều này
cũng giải thích được lý do khi tôn giáo mất đi sự thu
hút, trân trọng trong xã hội, tình dục sẽ thắng thế,
thống trị, do đó tội lỗi lan tràn. Riêng thánh cả
Giuse còn khác thường, tuyệt vời hơn nữa. Trong Tin Mừng
thánh Mathiêu kể chuyện người đàn bà bị bịnh băng
huyết 12 năm, chỉ lén đụng vào gấu áo Chúa Giêsu tức
khắc được lành bệnh. Theo Do Tháí Giáo thì việc gì
liên quan đến máu huyết là ô uế (cụ thể phụ nữ
sinh con 40 ngày phải đem lễ vật lên đền thờ để tẩy
uế), Người đàn bà bịnh hoạn ấy chỉ lén đụng vào
gấu áo tức thì sự ô uế kinh niên của bà biến mất,
phương chi Thánh Giuse trực tiếp ẵm bồng, chăm sóc, nuôi
nấng và dạy dỗ Đấng Toàn Năng.
Các tu sĩ Công Giáo của chúng
ta (đáng được trân quý cùng động viên và nâng đỡ vì
ơn gọi độc thân), dĩ nhiên nhờ sự trợ lực của
Thiên Chúa, họ còn có thể đè bẹp được bản năng
tình dục, nhu cầu đòi hỏi của thân xác, huống chi
thánh Giuse, người công chính (công chính là kính sợ
Thiên Chúa; hiểu biết điều tốt lành rồi đem thực
hành những điều tốt lành đó cả đời).Thử hỏi, giả
như Thánh Giuse có một lúc nào đó thoáng vấn vương ý
tưởng không trong sáng nào đó trong đầu chẳng hạn, ý
tưởng mờ ảm ấy làm sao tồn tại được dù chỉ một
giây–dù chỉ trong ý nghĩ- khi đụng chạm trực tiếp
thân thể tinh tuyền, trong suốt hơn pha lê Đấng Chí
Thánh Chí Tôn, cùng hít thở chung không khí với Mặt Trời
Công Chính. Chúng ta có thể xác quyết bản năng tình dục
trong thánh Giuse đã bị khống chế đến tận cùng hay có
thể nói bị triệt tiêu hoàn toàn, nhường chỗ cho bản
năng tôn giáo được phát huy đến tột đỉnh. Đây chúng
ta không muốn nói đến yêu tố Ngài đã được Thiên
Chúa chuẩn bị, tin tưởng trao phó Con Một mình. Vật gì
của Chúa đều thánh thiêng, Cha Mẹ của Thiên Chúa –dù
nuôi- dĩ nhiên các Đấng Thánh, phải được Thiên Chúa
gìn giữ, bảo toàn cách đặc biệt nguyên tuyền hẳn
chuyện đương nhiên.
Nếu chúng ta cho rằng thánh
Gioan Tiền Hô vị ngôn sứ sau cùng của thời Cựu Ước,
Đức Trinh Nữ Maria là người tín hữu đầu tiên thời
kỳ Tân Ước, thì chúng ta cũng có thể nói rằng Thánh
Giuse là vị Linh mục Công Giáo đầu tiên thời Tân Ước.
Ngài có đủ phẩm cách, đức độ của người Linh Mục.
Người Linh Mục Công Giáo đưọc kính trọng, quý mến vì
sự hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa qua việc trung
thành với ba lời khấn, thử hỏi còn ai sống trong sạch,
khó nghèo và vâng lời hơn Thánh cả Giuse; còn ai yêu mến,
tận tụy phục vụ Thiên Chúa bằng Thánh Giuse đáng kính
đáng yêu, còn ai khiêm tốn và bác ái hơn Ngài. Ngài đáng
kính vì không phải ngày xưa, hôm nay chúng ta vẫn chạy
đến xin Ngài bảo bọc, phù trì. Đức Giáo Hoàng Benedict
XV, ngày 25-07-1920 công bố: ”...Khi chúng ta quan tâm đến
sự bao vây, tấn công nhân loại của ma quỷ hôm nay.
Chúng ta thấy dường như tất cả các bằng chứng cho
thấy lòng sùng kính thánh Giuse gia tăng vô cùng mạnh mẽ,
nó được lan truyền rộng rãi trong các tín hữu...”
Hai nhân đức khiêm tốn và
bác ái đúng là nhân đức mẹ. Nó khó khăn vô vàn, phải
phấn đấu, vật lộn từ trong bản ngã thẳm sâu con
người. Nhân đức trong sạch cũng khó, nhưng còn dễ kềm
hãm hay khống chế, bởi đa phần nó kích thích hoặc cám
dỗ do yếu tố khách quan. Còn nhân đức khiêm tốn luôn
luôn bị lòng kiêu ngạo chèn ép đến ngộp thở, tuy nói
dễ lắm nhưng làm không dễ, cái tôi con người quá lớn,
ít khi chịu hạ mình, chấp nhận nhường thua kẻ khác.
Nhân đức khiêm tốn khó đến nỗi tự mình chúng ta
không thể làm được, do đó thánh St. Anthony Mary Claret
phát biểu: ”“Để một móng tay trên tấm ván, Tự nó
có thể di chuyển xuyên sâu vào ván cho dù nó sắc bén
đến mấy không ? Không thể. Bạn chỉ làm cho nó xuyên
sâu vào ván bằng cách dùng cái búa đập vào nó. Chúng
ta cũng giống y như vậy, chỉ có cách bằng những nhát
búa Thiên Chúa làm cho chúng ta trở nên khiêm tốn, bất
luận bản chất tính khí chúng ta tốt lành cỡ nào.”
Thánh Giuse là nhân vật thánh
thiện thứ hai, chỉ sau vợ Ngài. Thiêt nghĩ Thánh Giuse là
Đấng bảo trợ xứng đáng nhất, quyền thế nhất, chúng
ta có thể nói Ngài đi đầu trong tất cả các nhân đức,
nên xin Ngài cầu bầu và học tập những nhân đức tuyệt
vời của Ngài là hết sức khôn ngoan, đúng đắn. Ngài ở
vị trí, uy thế cao trọng trên thiên đáng, lời chuyển
cầu của Ngài vô cùng thần thế, hiệu nghiệm. Chúng ta
thử tưởng tượng: tất cả các thánh đến trước ngai
của Đức Mẹ như những đứa con lệ thuộc vào Bà, còn
Thánh Giuse hiện diện trong vị thế người chồng. Tất
cả các thánh đến trước Ngai Tòa Chúa Giêsu như những
đầy tớ, trong khi thánh Giuse xuất hiện trước mặt Chúa
như một người cha. Thử hỏi còn ai mạnh thế hơn nữa
! Bởi đó nên vào năm 1870 Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố
là Thánh Bản Mệnh của Giáo Hội Hoàn Vũ. Còn Giáo Hội
Việt Nam sau đó nhận Ngài làm Thánh Quan Thầy.
Tóm lại, Giáo hội đã chuẩn
bị cho chúng ta rất nhiều gương nhân đức của các
thánh để chúng ta noi theo, đặc biệt nhất có Đức
Trinh Nữ Maria và Thánh cả Giuse, vì hai Ngài với những
nhân đức vượt trội tất cả các thánh, được thưởng
công xứng đáng trên thiên quốc. Học tập cũng như chạy
đến hai Ngài là con đường an toàn, ngắn nhất để đến
với Con các Ngài. Chúng ta có thể ví hai Ngài như chiếc
cầu hay con thuyền đưa chúng ta đến vương quốc của
Con các Ngài cách bảo đảm và nhanh chóng nhất. Tha thiết
xin các Ngài chuyển cầu cùng dạy dỗ, trợ sức để
chúng ta có thể học và diễn tập nhất là nhân đức
khiêm tốn và bác ái. Giáo hội cũng mong muốn chúng ta
sùng kính các Ngài, học tập nơi các Ngài và nhờ các
Ngài chuyển cầu. Xin mở ngoặc: mặc dù biết rằng nhận
thức đức tin của người Tín Hữu hôm nay phần lớn đã
trưởng thành, tuy vậy ngày nay thời đại đối thoại,
đại kết, nhất là với các hệ phái anh em - tôi nghĩ
rằng tìm cách đưa những anh em sai lạc trở về với
Giáo Hội đích thực là đòi hỏi của nhân đức bác ái
-, do đó Giáo hội vẫn khôn khéo, cẩn thận nhắc nhở
qua Tông Huấn Marialis Cultus của Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ
Lục ngày 02-02-1974: ”Mục đích tận cùng của lòng sùng
kính Đức Trinh Nữ Maria là để tôn vinh Thiên Chúa và
đưa người Kitô hữu đến chỗ tự ký thác cuộc đời,
điều chỉnh cuộc sống họ cho phù hợp với Thánh ý của
Chúa.”. Để kết thúc xin mượn ý tưởng sau đây:
”Chúng ta hãy chạy đến Thánh Cả Giuse trong mỗi nhu cầu
và ánh sáng rực rỡ trong nụ cười của Đấng Cứu Độ
sẽ dừng lại trên chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện bên
cạnh Ngài, Ngài linh hứng tất cả chúng ta dâng lời tạ
ơn lên Đấng Cứu Chuộc Yêu Thương, vì những mầu nhiệm
ẩn dấu của ân sủng trong cuộc sống chúng ta và vì mọi
lời chúc lành của Thiên Chúa Tình Yêu ”.
Ngô
Suốt, CTS
THÁNH GIUSE GƯƠNG MẪU CỦA ĐỜI SỐNG LAO ĐỘNG
Quang
Huyền
Dọc theo dòng lịch sử truyền
giáo và hình thành Giáo Hội Việt Nam, chúng ta nhận thấy
thánh Giuse có một vị trí rất đặc biệt trong lòng tôn
kính của các kitô hữu Việt Nam, nhất là dưới bình
dân. Phải chăng tinh thần lao động cần mẫn của Thánh
Giuse trong vai trò là người cha của gia đình Nazaret đã
đánh động nhiều người? Người viết xuất thân từ
miền quê nên từ rất sớm đã được hấp thụ được
một lòng tôn kính thánh Giuse từ gia đình. Và từ đó,
Thánh Giuse đã trở thành một mẫu gương cho tôi trong các
chiều kích của cuộc sống, nhưng tinh thần lao động
trong âm thầm và hy sinh của ngài đã để lại cho tôi
nhiều ấn tượng nhất. Sắp tới ngày lễ kính Thánh
nhân, tôi lại nhớ đến ngài trong đời sống cần lao.
Nghề Nghiệp của Thánh Giuse.
Lần giở các sách Tin Mừng,
chúng ta nhận thấy, kể từ sau sự kiện tìm gặp Chúa
Giêsu trong đền thánh Gierasalem (x. Lc 2,46), thì các tác
giả Tin Mừng chỉ nhắc đến thánh Giuse một hoặc hai
lần mà thôi. Thánh Mátthêu kể rằng: “Khi Chúa Giêsu
giảng dạy trong hội đường, người ta sửng sốt trước
tài năng của Chúa và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn
ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông ta không
phải là con bác thợ mộc sao?”(Mt 13,55). Còn thánh Luca
thì cho biết rằng trước mặt mọi người, Chúa Giêsu là
con ông Giuse: “Đức Giêsu khởi sự rao giảng khi Người
trạc 30 tuổi, thiên hạ coi người là con ông Giuse”(Lc
3. 55). Thánh Gioan cũng vài lần đề cập đến đến thánh
Giuse.
Từ các chứng từ Kinh Thánh
ít ỏi, chúng ta biết về được rằng, thánh Giuse là Cha
nuôi của Chúa Giêsu, người làm nghề thợ mộc. Nghề
của Thánh Giuse là một nghề rất bình thường trong xã
hội Do thái lúc bấy giờ. Nhưng trong nghề nghiệp khiêm
tốn của bác thợ mộc, Giuse có tinh thần lao động cần
cù trong âm thầm và cầu nguyện. Tinh thần đó được tô
điểm thêm xinh nhờ thánh Giuse hướng lao động tới mục
đích cao cả là cộng tác vào trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa và thăng tiến đời sống đạo đức của
mình. Chính vì thế, Thánh Giuse xứng đáng là mẫu gương
về đời sống lao động cho người kitô hữu chúng ta nói
riêng và cho con người thời đại hôm nay nói chung.
Thánh Giuse lao động để
cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Nhìn ngắm hình ảnh đẹp của
Chúa Giêsu thời niên thiếu, Ngài sống bên Đức Mẹ và
thánh Giuse: “Con trẻ càng ngày càng khôn ngoan…” (Lc
2,52), chúng ta được phép nghĩ về một gia đình hạnh
phúc, một tổ ấm yêu thương nơi gia đình Thánh Gia. Cột
trụ, bức nền của đời sống hạnh phúc yêu thương
trong gia đình Thánh Gia là sự cộng tác của Thánh Giuse
và Đức Mẹ. Các ngài với tình yêu và khả năng của
mình đã làm lan tỏa đời sống hạnh phúc yêu thương và
thánh thiện lên Trẻ Giêsu “nhìn quả biết cây”. Hơn
nữa, chứng quá trình khôn lớn, đạo đức và thánh
thiện của Chúa Giêsu, chúng ta biết được sự chăm sóc
và giáo dục của cha mẹ Ngài là thánh Giuse và Mẹ Maria
biết là dường nào.
Riêng thánh Giuse, với nghề
thợ mộc, ngài đã phải lao động chăm chỉ và vất vả,
để đảm bảo đời sống vật chất cho gia đình. Những
giọt mồ hôi, những đường cưa, những sự tính toán
của thánh Giuse trong công việc, như làm tăng thêm vị
đượm đà và thi vị cho đời sống hạnh phúc cuả gia
đình Nazaret. Quá trình lao động miệt mài để xây dựng
tổ ấm yêu thương của Thánh Giuse, làm toát lên tinh thần
cao đẹp của ngài trong việc thực hiện thánh ý Chúa là
nuôi dưỡng và bảo vệ Chúa Giêsu. Đó cũng là cách
thánh nhân cộng tác đắc lực vào trong chương trình cứu
độ của thiên Chúa.
Hơn thế nữa, chúng ta sẽ tỏ
tường hơn mục đích cao đẹp này của Thánh Giuse, khi
chiêm ngắm những bước chân thăng trầm của ngài trong
suốt cuộc đời bên Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Thánh Giuse đã từng đặt
những bước chân mệt mỏi và lo lắng của ngài trên
đường Bêlem, khi chưa tìm được chỗ trọ cho hai mẹ
con trú ngụ trong lúc Mẹ Maria sắp tới giờ mãn nguyệt
khai hoa. Có lẽ ngài đã khóc và an ủi Mẹ rất nhiều
trong cảnh thê lương của đêm đông Belem giá buốt năm
ấy.
Những bước chân gấp gáp,
hoang mang lo sợ của thánh Giuse trên đường đưa Chúa
Giêsu và Đức Mẹ trốn sang ai cập. Ngài những mong cho
cả hai mẹ con được an toàn và quên đi sự cực nhọc
của chính mình.
Những bước chân khắc khoải
kiếm tìm con trên đường Girusalem. Sự lo lắng vì sợ
mất con xâm chiếm và làm nặng trịu con tim ngài, nhưng
không thấy một lời than van từ miệng ngài.
Những bước chân âm thầm,
lao nhọc suốt 30 năm ở làng Nazaret, để xây dựng và
bảo vệ cuộc sống ấm êm cho Gia đình Thánh Gia.
Hành trình cuộc đời của
thánh Giuse là những bước chân thăng trầm không mệt
mỏi, nhưng luôn chất chứa niềm vui, hạnh phúc và hy
vọng, vì đó là sự cộng tác hết mình vào công trình
cứu độ của thiên Chúa. Người ta vẫn thường có lý
rằng “Lời vô ngôn bất tận ý”, vì có những điều
mà ngôn ngữ bất lực, không thể diễn tả và truyền
đạt hết tất cả tư tưởng tình cảm con người. Đó
là sự hữu hạn của ngôn ngữ. Đó là lúc mà con người
phải dùng đến vô ngôn, đối diện với vô ngôn. Lúc mà
con người làm cuộc trò chuyện trong im lặng, đối thoại
trong im lặng. Điều này rất hay để nói về sự âm thầm
của thánh Giuse trong các Tin Mừng.
Thánh Giuse lao động trong
thinh lặng và cầu nguyện
Các tác giả Tin Mừng không ghi
lại lời nói nào của Thánh Giuse. Đây có lẽ là một sự
lựa chọn đúng của các ngài, với mục tiêu làm mổi
bật sự thing lặng và chuyên cần lao động của thánh
Giuse là một vẽ đẹp thánh thiện. Đây là mẫu gương
sáng đẹp của thánh Giuse về đời sống lao động và
thing lặng cho nhiều người.
Lao động trong thing lặng giúp
con người hoàn thiện chính mình. Người ta thường xem
đây là một hình thức tu thân. Thánh Giuse đi theo con
đường này, hằng ngày thánh nhân vun tưới, chăm sóc
những hạt giống tình yêu thiên Chúa đã gieo trong lòng
ngài. Ngài đã không ngừng luyện tập để biết tự do
chọn lựa những điều tốt lành và xa xa lánh những điều
xấu. Trong công việc thơ mộc, thánh Giuse phải tiếp xúc
với nhiều người, làm những việc khác nhau tại xưởng
cũng như tại nhà người ta. Vì thế ngài không ngừng
luyện tập để sống tốt, chọn những điều có ích cho
người khác và nhất là làm gương cho Chúa Giêsu. Hình
ảnh của một Chúa Giêsu yêu thương đám dân đói khát
và hoá bánh nuôi họ, luôn bênh đỡ và bảo vệ người
yếu thế trong xã hội, luôn dạy người ta ăn ngay ở
lành…là những biểu hiện rõ nhất sự ảnh hưởng của
thánh Giuse đối với Ngài.
Thánh Giuse đã sống một cuộc
đời thầm lặng của một gia trưởng, nuôi sống gia đình
bằng nhề lao động chân tay, Ngài đã nên thánh trong hoàn
cảnh đó bắng cách tu tâm dưỡng tính và rèn nhân cách
mỗi ngày. Nhờ đó, ngài luôn sẵn sàng thực hiện thánh
ý Thiên Chúa, luôn sẵn sàng hoàn thành nghĩa vụ người
chồng, người cha trong gia đình Nazaret, với sự lựa chọn
căn bản là hiến thân phục vụ Thiên Chúa và mọi người.
Gương sáng này của thánh Giuse vẫn đúng cho mọi người
và mọi thời, nếu con người khao khát tìm kiếm thực
hiện thánh ý Thiên Chúa trong lao động.
Cuộc đời của con người
vẫn sẽ mãi gắn liền với lao động, nhưng ngày nay con
người có xu hướng lao động với mục tiêu kiếm tiền,
kiếm lợi nhuận để thoả mãn các nhu cầu hưởng thụ
cá nhân ích kỷ. Hậu quả của nó là hàng triệu trái
tim đang mỏi mệt và đói khát của ăn vật chất lẫn
tinh thần, ngôi nhà chung của thế giới đang bị tàn phá
một cách không thương tiếc mỗi ngày. Và như thế, con
người đang dần đánh mất đi những ý nghĩa cao quý của
lao động là làm thăng tiến con người và xây dựng xã
hội loài người ngày càng tươi đẹp hơn.
Là những người Kitô hữu, thiết
nghĩ mỗi người hãy chiêm ngắm gương lao động của
thánh cả Giuse, nhằm hướng dẫn đời sống lao động
chân tay và trí thức của mình vào đúng quỹ đạo của
nó là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên
Chúa, phục vụ sự thăng tiến bền vững của xã hội và
con người. Hy vọng rằng dưới sự dẫn dắt của thánh
Giuse, chúng ta sẽ thể nghiệm đời sống lao động của
mình phù hợp thánh ý Chúa, ngõ hầu mỗi người chúng ta
trở thành những người khôn ngoan và đầy ân sủng của
Chúa trong hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu cho
mình và cho anh em mình.
Quang
Huyền
VỊ GIA TRƯỞNG GƯƠNG MẪU
Lm.
Giuse Vũ Tiến Tặng
Gia đình truyền thống của Việt
Nam bao gồm ông bà, cha mẹ và con cái cùng chung sống.
Trong nếp sống này, ông bà nhận được sự kính trọng
và hiếu thảo từ nơi con cháu; vợ chồng yêu thương
nhau; cha mẹ là chỗ dựa vững chắc về vật chất và
tinh thần cho con cái; còn con cái là tương lai và niềm hy
vọng của gia đình và xã hội.
Thế nhưng các giá trị quý
báu đó đang bị mai một dần, mái ấm gia đình có nguy
cơ biến thành nhà trọ, để vợ chồng và con cái nghỉ
chân mỗi khi đêm về. Là Kitô hữu và nhất là với tư
cách gia trưởng trong gia đình, bạn nghĩ gì về thực
trạng này?
Sẽ có nhiều lý do để biện
minh, nhưng dù sao đi chăng nữa, người gia trưởng là
người có trách nhiệm lớn nhất trong gia đình.
Nhân ngày đại lễ kính thánh
Giuse, bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta cùng
nhau học hỏi về đời sống gương mẫu của vị gia
trưởng. Ta thấy, thánh nhân là người Do thái đạo đức,
giữ luật một cách nhiệm nhặt. Ngài cũng là người
chồng, người cha mẫu mực. Nhưng trên hết mọi sự,
thánh Giuse đã biết kết hiệp mật thiết với Chúa cả
trong đời sống cầu nguyện cũng như đời sống lao động.
1. Thánh Giuse, một mẫu
gương cầu nguyện
Cả đời thánh nhân là một lời
cầu nguyện liên lỉ. Ngài luôn kết hiệp mật thiết với
Chúa, nhờ đó ngài luôn nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn
thực hành. Phúc Âm kể:
- Khi Đức Mẹ mang thai trước khi về chung sống, chắc chắn lòng Giuse lúc đó rối như tơ vò. Nhưng khi đã nhận ra thánh ý Chúa và biết được Đức Mẹ chịu thai bởi Chúa Thánh Thần, ngay lập tức, Giuse đón nhận Maria về sum họp.
- Khi được thiên thần báo cho biết vua Hêrôđê tìm giết Hài Nhi Giêsu, tức thì thánh nhân đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập.
- Rồi khi thiên thần bảo đem Hài Nhi về, ngài liền thi hành ngay.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào,
Giusecũng đều chạy đến với Chúa để đón nhận thánh
ý của Người. Bầu khí cầu nguyện bao trùm lên cuộc
sống của ông và tiếp cho ông một sinh khí: thánh ý Chúa
trở nên lương thực của thánh nhân.
2. Thánh Giuse, một mẫu
gương lao động
Phúc Âm cho chúng ta biết thánh
Giuse làm nghề thợ mộc. Ngài đã chọn nghề này làm kế
sinh nhai và để nuôi sống gia đình Nazareth. Vẫn biết
rằng nghề thợ mộc chẳng nhàn hạ chút nào, càng không
thể làm giầu được, thế nhưng thánh nhân vẫn làm nghề
này với tất cả lòng yêu mến trong suốt thời gian dài
(ít là khoảng thời gian Chúa Giêsu sống ẩn dật tại
gia đình Nazareth).
Lao động không đơn thuần vì
mưu sinh, cao hơn thế, thánh Giuse dùng đó làm phương tiện
để nên thánh. Ngài đã thánh hoá công việc, biến lao
động thành lời cầu nguyện, biến xưởng mộc thành
nguyện đường. Ngài đã khoác cho lao động một ý nghĩa:
lao động là để cộng tác với Chúa trong công trình sáng
tạo và là phương thế để nên thánh. Với mẫu gương
này, thánh Giuse đã được Giáo Hội tôn làm quan thầy
giới lao động.
Lao động và cầu nguyện là
hai thứ không thể tách rời và không thể thiếu trong đời
sống Kitô hữu. Nếu lao động nuôi sống thân xác, thì
cầu nguyện giúp ta gặp gỡ Chúa và nhận ra thánh ý của
Người. Thế nhưng việc cầu nguyện và lao động của
chúng ta còn mang tính vụ lợi.
- Xưa thánh Giuse cầu nguyện để nhận ra thánh ý Chúa và đón nhận cách mau mắn, thì nay chúng ta cầu nguyện thường để bắt Chúa làm theo ý ta.
- Xưa thánh Giuse lao động với tất cả lòng yêu mến và dùng nó để nên thánh, thì nay chúng ta lao động một cách chẳng đặng đừng: lao động chỉ vì đồng tiền bát gạo.
3. Bài học áp dụng
3.1 Vậy ngay từ hôm nay, khi bắt
tay vào bất cứ công việc gì bạn hãy thử làm với tất
cả lòng yêu mến và ý thức đó là phương tiện giúp
bạn phục vụ Chúa và tha nhân.
3.2 Và mỗi khi đứng trước
một biến cố trong cuộc đời, bạn thử tìm đến Chúa
và xin Người chỉ bảo, xem kết quả ra sao?
3.3 Đồng
thời bạn hãy tin rẵng xưa kia thánh Giuse đã dùng tài
trí, sức lực, lòng dũng cảm và can đảm để bảo vệ
gia đình Thánh Gia qua mọi cơn thử thách, thì nay làm sao
ngài có thể làm ngơ không cầu bầu trước mặt Chúa cho
chúng ta, mỗi khi chúng ta gặp thử thách?
Vâng, ngài thật gần gũi với
mọi gia đình của chúng ta, thật xứng đáng là quan thầy
mọi gia đình. Vậy mỗi khi gia đình chúng ta gặp thử
thách, hãy đến với thánh Giuse.
Lm.
Giuse Vũ Tiến Tặng
THÁNH GIUSE-VỊ THÁNH THẦM LẶNG
Lm.
Giuse Vũ Tiến Tặng
Phụng vụ dành ngày 19 tháng
3 hàng năm để tôn kính một vị thánh vốn dĩ ưa thích
sự thinh lặng. Đó chính là thánh cả Giuse, Người công
chính và là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria. Trong
các sách Tin Mừng, Giuse được nhắc đến khoảng chục
lần trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu và Luca, một lần
duy nhất nơi Tin Mừng theo thánh Gioan và không hề được
nhắc đến trong Tin Mừng theo thánh Máccô. Liệu có phải
thánh Giuse chỉ được người ta biết tới là nhờ sự
nổi tiếng của Đức Maria và Đức Giêsu ? Có phải thánh
nhân chỉ là một nhân vật phụ ?
Câu trả lời hoàn toàn theo
chiều hướng ngược lại. Thánh Giuse giữ một vai trò
rất quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa như lời
nguyện đầu lễ có nhắc đến: « Lạy Chúa, Chúa đã
giao phó Đức Giêsu cho thánh cả Giuse và thánh nhân đã
trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình
cứu độ ». Vâng, sứ mạng quan trọng này hoàn toàn cần
được thực hiện trong bầu khí tĩnh lặng. Điều đó
giúp chúng ta nhận ra rằng thánh cả Giuse đã được
Thiên Chúa « chọn mặt để gửi vàng ». Sự thinh lặng
bao trùm nơi thánh nhân nói lên đời sống đức tin mãnh
liệt được hun đúc bằng đời sống chiêm niệm và được
thể hiện qua những việc làm cụ thể. Đó là bức thông
điệp của thánh Giuse muốn nhắn gửi cho mỗi Kitô hữu
trong lòng đời hôm nay.
Thánh sử Mátthêu đã đề
cập đến nét vàng son về đời sống đức tin này. Thật
vậy, nơi thánh cả Giuse không hề có sự tách biệt giữa
đời sống chiêm niệm và đời sống thi hành sứ vụ.
Nhờ đắm mình vào chiều sâu của đời sống chiêm niệm,
thánh Giuse đã đọc được thánh ý Chúa và thực hiện
một cách tức khắc không chần chừ. Ngài không hề nghi
hoặc về sứ mệnh cùng với cách thức cần phải tiến
hành làm sao. Đức Maria, người bạn trăm năm của ngài,
trước khi thưa « xin vâng » thì đã băn khoăn hỏi lại
sứ thần truyền tin về cách thức thực hiện. Thánh
Giuse không dùng lời để đáp trả lời mời gọi của sứ
thần nhưng ngài biết thi hành công việc mà sứ thần chỉ
dạy. Những điều chỉ dạy đó hoàn toàn liên quan đến
cơn chiêm bao trong đêm
tối. Trong chiêm bao, Giuse nhận
được lời mời gọi của sứ thần đề nghị đón nhận
và nâng đỡ Maria trong sứ vụ cưu mang Ngôi Lời Nhập
thể. Trong đêm tối lạnh giá, thánh nhân chiêm ngắm Con
Chúa giáng trần. Cũng trong đêm tối, sứ thần nói với
Giuse trong mộng về việc đưa Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người
trốn sang Ai Cập để tránh sự sát hại từ bàn tay khát
máu của bạo chúa Hêrôđê. Lại một lần nữa, Giuse đã
thi hành sứ mệnh hồi hương Hài Nhi Giêsu và Đức Maria
sau khi được sứ thần cho biết trong chiêm bao. Giuse đưa
gia đình Thánh Gia trở về « an cư lạc nghiệp » tại
Nazareth và nên gương mẫu về đời sống lao động và
cầu nguyện.
Suốt khoảng thời gian dài trong đời
sống ẩn dật của Đức Giêse tại Nazareth, thánh cả
Giuse ngày qua ngày có dịp tiếp xúc và chiêm ngắm Màu
Nhiệm Ngôi lời Nhập Thế và Cứu Chuộc qua lao động,
qua cầu nguyện và qua tất cả các chiều kích của cuộc
sống. Nazareth trở nên ngôi trường dạy đức tin. Tại
đây giữa lao động và chiêm niệm chỉ hai hai khía cạnh
của một vấn đề duy nhất là đức tin. Đời sống lao
động cũng là một lời cầu nguyện thật cụ thể và
sống động. Đời sống chiêm niệm là suối nguồn ân
sủng thánh hóa toàn diện mọi chiều kích của gia đình
Nazareth. Cuộc sống diễn ra một cách âm thầm đầy nhịp
nhàng trong sự kết hợp hài hòa của chiêm niệm và lao
động mà không hề có một chút tiếng động của sự
đao to búa lớn. Trong bầu khí ấy,
Giuse lắng nghe tiếng Con Một Thiên Chúa. Trong bầu khí
thực thi thánh ý Chúa, Giuse muốn gửi gắm trọn vẹn
điều mình muốn nói.
Mừng lễ thánh Giuse, chúng ta
hãy xin thánh nhân bầu cử ngõ hầu đáng được hưởng
kho tàng của ơn cứu độ mà ngài đã có công cưu mang
ngay trong buổi bình mình. Nguyện xin thánh cả Giuse dạy
dỗ mọi gia đình biết noi gương gia đình Nazareth. Trong
đó mọi người biết đắm mình trong đời sống chiêm
niệm để kiếm thánh ý Chúa, biết suy đi nghĩ lại trong
lòng với thứ lương thực bổ dưỡng này và biết thực
thi ngay tức khắc trong tâm tình tín thác và cậy trông.
Lm.
Giuse Vũ Tiến Tặng
GIUSE- NHÀ ĐÀO TẠO NGƯỜI CÔNG CHÍNH
Lm.
Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cụm từ: Giuse là người công
chính rất thân quen với Kitô hữu. Người ta cũng quen với
những hình ảnh nói về thánh cả Giuse như người cha
nuôi, Đấng bảo trợ Con Thiên Chúa làm người, khuôn mẫu
của người lao động… Thế nhưng, chúng ta cần thú nhận
rằng thật thiếu sót khi bỏ qua chân dung nhà giáo dục
Giuse. Chính Thiên Chúa qua lời sứ thần báo mộng đã
truyền rằng chính Giuse là người phải đặt tên cho Con
Trẻ tức là giao phó trách nhiệm đào tạo, giáo dục Con
Trẻ Giêsu cho Thánh Cả. Ý nghĩa của việc đặt tên theo
Thánh Kinh cho ta xác tín chân lý này ( x. Mt 1,21 ).
NGƯỜI CÔNG CHÍNH:
Dưới nhãn quan nhân loại thì
người công chính là người chính trực trong tâm tình và
suy nghĩ, công minh trong lời nói và hành động. Người
công chính theo Thánh Kinh thì vượt lên trên đức công
chính nhân bản. Đó là người không chỉ công minh, chính
trực trong tư tuởng, lời nói và hành động mà còn là
người luôn tín trung trong tình yêu. Chúng ta hiểu được
điều này khi Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa bày tỏ sự
công chính của Người khi tín trung với lời Người đã
hứa là yêu thương con người đến cùng, không muốn bất
cứ ai phải hư mất, nên đã sai Con của Người đến thế
gian thực thi công trình cứu độ (x. Rm 3,25 ).
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI CÔNG
CHÍNH:
Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong
thành có 50 người công chính thì với 50 người chính
chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ? Giavê Thiên Chúa
đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ
kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 thì Giavê cũng
chấp nhận ( x. St 18,16-33 ). Sau khi ra khỏi đời này khá
lâu, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với
một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa
cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại ( x. Ga 8,56 ). Người
công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân
trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là
người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và
là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với
Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
KHÔNG AI CÓ THỂ TRAO BAN
ĐIỀU MÌNH KHÔNG CÓ:
Đã yêu Maria thì dù cho không
hiểu sự kiện người mình yêu thụ thai, Giuse vẫn tín
trung, trước sau như một, không thay dạ, đổi lòng. Ngài
dự tính chọn con đường rút lui trong âm thầm là vì yêu
Maria, không muốn làm hại Maria, cho dù bản thân sẽ phải
hứng chịu nhiều tai tiếng như hàng sở khanh. Khi được
sứ thần báo mộng, Giuse đã mau mắn đón nhận Maria với
đầy đủ bổn phận người chồng, người cha, nhưng
quyền lợi thì nguyện hy sinh rất nhiều. “Bất hiếu
hữu tam, vô hậu chi đại”. Tự nguyện cắt đứt việc
lưu truyền nguồn sống tự nhiên ( không có con nối dõi
tông đường ) vì tình yêu và nhất là vì niềm tin, thật
là một lễ hy sinh cao quý. Sống đức tin và thể hiện
tình yêu cho đến cùng trong sự âm thầm không chút danh
phận trước mặt người đời quả là sự tự hiến, sự
tự hủy cao độ. Chúng ta nhận ra điều này khi xóm
giềng, người đồng hương kinh ngạc về sự khôn ngoan
của Chúa Giêsu và những sự phi thường được thể hiện
do bởi tay Người: Ông ta không phải là con bác thợ sao ?
( Mc 6,3 )
MỘT NGƯỜI CÔNG CHÍNH XỨNG
DANH ĐƯỢC NHÌN NHẬN:
Con người, nhân cách và có thể
nói là cả niềm tin của Chúa Giêsu mang đậm dấu ấn
của Thánh Giuse. Ở đây chúng ta không một chiều theo
nghĩ suy thường tình: “cha nào con nấy”, nhưng chính
cung cách ứng xử của Chúa Giêsu, những lời giảng dạy
của Người và cả cuộc đời của Người minh chứng cho
sự thật này. Khi khẳng định mình không làm điều gì
mà không trông xem cha đã làm thì dù Chúa Giêsu có ý nói
về Cha trên trời nhưng hẳn có sự góp phần của người
cha nuôi Giuse. Thánh Giuse không chỉ tập tành cho Chúa
Giêsu ngành nghề thợ mộc mà nhất là dìu dắt Con Trẻ
sống đức tin, sống yêu thương đến cùng trong sự thủy
chung.
Một cách nào đó, chính nhờ
gương mẫu của Giuse và sự giáo dục của Ngài mà nhân
loại đã hưởng nhận một Người Công Chính xứng danh
là Giêsu. Người đã yêu thương những kẻ thuộc về
Người, những kẻ mà Cha trên trời đã ban cho Người và
yêu thương họ đến cùng, đồng thời tìm mọi cách thế
để chẳng một ai bị hư mất. Phải nói chắc chắn rằng
chẳng có một ai mà Chúa Cha lại không trao ban cho Con Một
Người. Chính vì thế phút giây hấp hối trên thập giá
Chúa Giêsu đã khẩn xin Chúa Cha tha cho cả kẻ giết Người
vì họ lầm chẳng biết ( x.Lc 23,34 ). Một điều chắc
chắn không kém đó là tông đồ Giuđa, kẻ phản bội
cũng ở trong số đó. Trước tình yêu kiên vững và tín
trung của người tử tội trên đồi Can-vê, “viên đại
đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: Người
này đích thực là người công chính !” ( Lc 23,47 ).
Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho
đời một Người Công chính xứng hiệu, cám ơn Thánh Cả
Giuse đã góp phần đáng kể trong việc dệt xây cho loài
người một Người Công Chính chính danh. Vì một Người
Công Chính này, Giêsu-Kitô, cả vũ hoàn mừng rỡ hân
hoan, toàn thể nhân loại cất tiếng reo vui vì được ơn
giao hòa.
Lm.
Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
GIUSE - GƯƠNG MẪU CỦA VÂNG PHỤC
Lm
Jos Tạ Duy Tuyền
Lịch sử là một chuỗi những
biến cố xảy ra trong quá khứ. Lịch sử cứu độ là sự
can thiệp cách khôn ngoan và lạ lùng của Thiên Chúa trong
từng biến cố của dòng đời. Thiên Chúa luôn can thiệp
vào những thăng trầm của dòng đời để ghi dấu sự
hiện diện của Ngài trong lịch sử. Ngài đã can thiệp
vào việc thành hình một dân riêng của Ngài qua việc
tuyển chọn Abraham. Ngài đã chọn Mô-sê để giải thoát
dân khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Ngài đã tuyển chọn các
ngôn sứ để dẫn dắt dân Thiên Chúa đi trong đường
lối những huấn lệnh của Ngài.
Hôm nay lễ Thánh Giuse phù hộ
là bổn mạng của Giáo hội Việt Nam. Thánh Giuse đã được
chọn để làm cha nuôi của Chúa Giê-su và là bạn trăm
năm của Đức trinh nữ Maria. Thánh Giuse đã dấn thân một
cách quảng đại và không hề so đo tính toán. Ngài đã
hành động dứt khoát và mau lẹ. Bởi vì ngài biết rằng:
Thiên Chúa đang cần một người cha để bảo vệ sự
sống cho một hài nhi. Thiên Chúa đang cần một người
bạn trăm năm để bảo vệ danh tiết cho một người phụ
nữ. Ngài không thể chần chờ. Vì nếu chần chờ thì
tính mạng của một người mẹ, của một thai nhi sẽ gặp
nguy hiểm. Ngài không thể so đo tính toán, bởi vì Thiên
Chúa là Chúa của ngài, ngài phải hết lòng phụng sự
cho chương trình của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã trở thành mẫu
gương cho sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã gác
bỏ mọi toan tính của bản thân để chu toàn bổn phận
Thiên Chúa trao. Ngài đã vượt qua mọi trở ngại để
hoàn thành sứ vụ được trao. Ngài đã dám quên đi bản
thân để cho chương trình của Chúa được thực hiện.
Thánh Kinh không để lại một lời nào của ngài, nhưng
sự im lặng của ngài là để cho ý Chúa được thực
hiện. Đó là sự im lặng trong sự tuân phục. Đó là sự
im lặng biểu lộ một tâm hồn thanh thoát bình an.
Cuộc đời hôm nay vẫn rất
cần những con người như Cha Thánh Giuse. Một người cha
để bảo vệ gia đình khỏi những sự tấn công của tục
hoá đang làm băng hoại luân lý gia đình và xã hội. Một
người cha có trách nhiệm để mang lại cho vợ con điểm
tựa của cuộc sống. Một người cha dám quên đi hạnh
phúc riêng của mình để mang lại an cư lạc nghiệp cho
gia đình. Một người cha biết tuân phục thánh ý Chúa để
nêu gương sống đạo cho gia đình.
Song le, Chúa Giê-su cũng đang
cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của
Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giê-su
cần đến sự cộng tác của thánh Giuse để Ngài có một
vị trí trong xã hội được sinh ra trong một gia đình,
một dòng tộc vua Đavit, thì ngày nay, Ngài cũng cần lòng
quảng đại của chúng ta để Ngài lại tiếp tục được
sinh ra giữa lòng đời hôm nay. Chính Ngài cũng tự đồng
hoá mình với những mảnh đời khổ đau, bất hạnh trên
đường đời. Chính Ngài đang hiện diện trong những
người nghèo đói, tật nguyền, trong người bị ngược
đãi, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài
những toan tính trần thế, những nghi nan, những khó khăn
để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn
yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Chính Ngài cũng hứa trả công bội hậu cho những ai đã
đón nhận và giúp đỡ Ngài. Ngài đã từng nói rằng:
“Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng
Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì
khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù
đầy, bị ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và
tiếp rước.
Hôm nay, Chúa vẫn thiết tha mời gọi
chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện
trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc
sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng
sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh
ý Chúa. Hãy đón nhận Chúa qua những người anh em đang
cần sự trợ giúp, nâng đỡ, bác ái và cảm thông của
chúng ta. Hãy chia sẻ nỗi đau của Chúa qua những người
bất hạnh đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Hãy là
một Giuse của thời đại để vì Chúa mà yêu mến anh
em, vì Chúa mà dấn thân phục vụ vì lợi ích của tha
nhân.
Nguyện xin Thánh Cả Giuse cầu
thay nguyện giúp cho chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và
dám thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Ước gì mỗi
người chúng ta biết noi gương thánh Giuse, biết đón nhận
Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành
thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của
Chúa cho anh chị em chung quanh.Amen
Lm
Jos Tạ Duy Tuyền
ƠN KHÔN NGOAN NƠI THÁNH GIUSE
Gm.
J.B.
Bùi Tuần
Thánh Giuse là một vị thánh âm
thầm. Nhưng tại Giáo Hội Việt Nam, Ngài rất được yêu
mến với cái nhìn thân thương. Thực vậy, trong Hội
Thánh Việt Nam, thánh Giuse được tôn kính trong hầu hết
các nhà thờ, trong hầu hết các cộng đoàn, trong hầu
hết các gia đình. Ngài rất gần gũi với các tâm hồn,
đặc biệt là với các thân phận nghèo khổ bệnh tật,
cô đơn.
Khi tình hình trở nên khó khăn,
người công giáo Việt Nam hay chạy đến thánh Giuse. Ngài
luôn đáp trả rộng lượng những ai cậy tin Ngài, sẵn
sàng vâng phục thánh ý Chúa. Nếu cần ca tụng thánh
Giuse, tôi xin dựa vào kinh nghiệm riêng của tôi.
Quả thực, đời tôi đã trải qua nhiều chặng
đường lịch sử phức tạp. Xét về phương diện người
được Chúa sai đi phục vụ Hội Thánh, cuộc đời của
tôi đến nay có thể coi là khá dài. Cuộc đời đó luôn
như trên đường mạo hiểm, với những khúc lầy lội,
tăm tối, hiểm nguy.
Biết mình được sai đi với sứ
mạng phục vụ Tin Mừng, nên trong bất cứ hoàn cảnh
nào, tôi hay cầu xin thánh Giuse thương giúp đỡ tôi. Ơn
tôi thường tha thiết nài van là ơn khôn ngoan. Xưa
thánh Giuse đã bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ một cách
khôn ngoan. Nay xin Ngài cũng thương giúp tôi biết phục vụ
Hội Thánh một cách khôn ngoan.
Thánh Giuse nhậm lời tôi. Ơn
khôn ngoan, mà tôi cảm nhận đã được phần nào nhờ sự
cầu bầu của thánh Giuse, có thể tóm tắt vào một điều.
Điều đó là: Hãy vâng phục thánh ý Chúa. Theo Ngài,
vâng phục thánh ý Chúa là một ơn Chúa ban. Nó không dựa
trên lý luận, nhưng dựa trên một xác tín về liên hệ
thân mật giữa Chúa và kẻ được Chúa thương yêu. Khi
đi vào cụ thể, xác tín đó được nổi bật lên trong
những điểm sau đây:
1/ Nhận biết Chúa Giêsu là
quà tặng lớn nhất không gì sánh được
Thánh Giuse đã nhận thức được
điều đó. Nên Ngài sung sướng phục vụ Chúa Giêsu. Nhất
là khi thánh Giuse được thiên thần cho biết Chúa Giêsu
là Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." (Mt 1,23),
"Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của
họ" (Mt 1,21).
Chúa Giêsu ở giữa dân Người
một cách khiêm nhường và đầy chia sẻ. Như tác giả
thư gởi dân Do Thái sau này đã viết: "Vị thượng
tế (Chúa Giêsu) của chúng ta không phải là không biết
cảm thương nỗi yếu hèn của chúng ta. Vì Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng
không phạm tội." (Dt 4,15).
Không những Chúa Giêsu ở giữa
loài người một cách khiêm nhường, mà còn tự nguyện
chịu mọi đau khổ vì loài người. Về điểm này, thánh
Phaolô nói một cách rất rõ ràng dứt khoát: "Hồi
còn giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì
khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu
đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2,2).
Thánh Giuse còn hơn thánh Phaolô
trong sự gắn bó với Chúa Giêsu là tình yêu Thiên Chúa
cao cả, cho dù thánh Phaolô đã dám nói: "Tôi coi tất
cả là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được
biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi." (Pl 3,8).
Suốt đời tôi, tôi coi sự gắn
bó mật thiết và tuyệt đối với Chúa Giêsu chính là
điều Chúa muốn để nên người khôn ngoan, nhất là
trong lãnh vực tu đức, mục vụ và truyền giáo.
Từ sự gắn bó với Chúa Giêsu, thánh Giuse đưa tôi
đến một sự khôn ngoan khác, đó là hãy theo gương Ngài
biết sống đức ái với mọi chi tiết cao đẹp.
2/ Biết sống đức ái với
mọi chi tiết cao đẹp
Về điểm này, thánh Giuse cũng
chẳng viết gì. Nhưng khi đọc thư thánh Giacôbê, tôi
thấy thánh tông đồ xem như nói thay thánh Giuse. Ngài
viết: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở
nên trước hết là thanh khiết, sau là hiền hoà, khoan
dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái
tốt, không thiên vị cũng không giả hình." (Gc 3,17).
"Nếu trong anh em có sự ghen
tương hay chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự
cao tự đại, nói dối, trái với sự thật. Sự khôn
ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự
khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của
ma quỷ.” (Gc 3,14-15).
Đời sống của thánh Giuse giữa
những người xung quanh không những là hài hoà, khiêm tốn,
mà còn tích cực nâng Ngài lên thế giới các nhân đức
cao cả. Như bài ca đức ái của thánh Phaolô tông đồ đã
diễn tả:
"Đức ái
thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm
điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng
giận, không nuôi hận thù.
Không mừng
khi thấy sự gian các,
nhưng vui khi
thấy điều chân thật.
Đức ái tha
thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất
cả, chịu đựng tất cả." (1 Cr 13,4-7).
Những chi tiết cao đẹp trên đây
nói về đức ái, khi áp dụng vào đời sống của thánh
Giuse, tôi có cảm tưởng là còn chưa đủ. Có được
những tâm tình tốt là điều hay, nhưng biết diễn tả
những tâm tình tốt là một đòi hỏi quan trọng. Thánh
Giuse đã biết diễn tả khôn khéo, tế nhị những tâm
tình tốt đối với đủ mọi thứ người trong suốt cuộc
đời bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Đây là một ơn khôn ngoan, mà
tôi thấy rất cần cho mọi người công giáo nói chung, và
các nhà truyền giáo nói riêng. Nhất là trong những hoàn
cảnh lịch sử phức tạp. Tôi thấy đôi khi chỉ một
vài sơ suất nhỏ đã có thể gây nên đại hoạ. Giống
như một tàn lửa có thể gây nên một đám cháy lớn.
Thời sự hiện nay về nguy cơ nghi kỵ và xung đột tôn
giáo là một nhắc nhở về sự khôn ngoan đối xử trong
việc diễn tả thái độ đối với nhau. Yếu tố sau
cùng của ơn khôn ngoan nơi thánh Giuse là tỉnh thức và
cầu nguyện.
3/ Tỉnh thức và cầu
nguyện
Phúc Âm nói rất ít về thánh
Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu
toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều
đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Ngài biết mình mong manh, hoàn
cảnh đời đạo phức tạp, ý Chúa nhiệm mầu, biết
được ý Chúa là điều không dễ, thực thi ý Chúa càng
không dễ chút nào. Nên Ngài coi việc tỉnh thức và cầu
nguyện là điều cực kỳ quan trọng cho ơn gọi của
Ngài.
Mặc dầu chức cao quyền trọng,
Ngài đã chọn cách sống âm thầm nghèo khó. Sẽ không
thể có lựa chọn đó, nếu Ngài không tỉnh thức và cầu
nguyện. Trong tỉnh thức và cầu nguyện của Ngài luôn có
tạ ơn, xin ơn và phó thác khiêm nhường. Còn đối với
chúng ta, tỉnh thức và cầu nguyện còn đòi phải thêm
sám hối ăn năn.
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh Việt
Nam đang rất cần những vị lãnh đạo khôn ngoan. Chúng
ta tha thiết cầu xin ơn đó, đặc biệt trong tháng Ba này
là tháng kính thánh Giuse, Quan Thầy Hội Thánh Việt Nam.
Gm.
J.B.
Bùi Tuần
THÁNH
GIUSE, CON NGƯỜI KHÔN NGOAN
Gm.
J.B.
Bùi Tuần
Tại Việt Nam, thánh
Giuse được tôn kính đều khắp. Nơi thì đề cao ở Ngài
vai trò gia trưởng. Chỗ thì nhấn mạnh nơi Ngài chức vị
Đấng bảo vệ Hội Thánh.
Dù với xu hướng
nào, hầu như mọi người tôn sùng thánh Giuse đều nhìn
Ngài là một Đấng thánh khôn ngoan. Khôn ngoan trong việc
bảo vệ thánh gia. Khôn ngoan trong việc bảo vệ Hội
Thánh.
Khôn ngoan nói đây là
thứ khôn ngoan được ca ngợi trong sách Khôn Ngoan của
Cựu Ước. Khôn ngoan đó cũng được Chúa Giêsu khuyên
nhủ và khen thưởng nhiều lần trong Tân Ước.
Ở đây, suy gẫm
của tôi về sự khôn ngoan nơi thánh Giuse sẽ để ý đến
ba lãnh vực, mà sự khôn ngoan của Ngài được sáng tỏ:
- Khôn ngoan của nghề nghiệp.
- Khôn ngoan của Lời Chúa.
- Khôn ngoan của chiêm niệm.
1/ Khôn ngoan của
nghề nghiệp
Trước hết, thánh
Giuse được Kinh Thánh giới thiệu là ông thợ mộc. Dân
làng gọi Ngài bằng tên một người có nghề.
Có một nghề, đó
là một danh dự. Kẻ được thụ hưởng, mà không có
nghề, vẫn không được kính trọng.
Nghề mộc có nhiều
liên hệ tốt. Như liên hệ trực tiếp với thiên nhiên.
Cây gỗ là một chất liệu của thiên nhiên. Thiên nhiên
có trước nghề mộc. Người thợ mộc đẽo gọt nó
thành dụng cụ, để phục vụ con người.
Khi phục vụ con
người bằng nghề mộc, người ta có những liên hệ trực
tiếp với đủ loại người. Những liên hệ đó không
chỉ trong vấn đề tiền công, mà còn trong những lãnh
vực đòi thăng tiến nghề nghiệp: Làm sao sản phẩm của
mình có những tiến tới về sáng tạo, về mỹ thuật.
Nó chứng tỏ phần nào óc thông minh và ý chí.
Từ những liên hệ
trực tiếp với con người, thánh Giuse đã có những liên
hệ về cuộc đời. Những cuộc đời khát vọng và thất
vọng. Những cuộc đời nụ cười và nước mắt.
Thánh Giuse coi mình
cũng như mọi người. Ngài hoà mình vào cuộc đời. Ngài
ở giữa mọi người, kiếm sống như mọi người. Họ và
Ngài có những liên hệ quen thân.
Từ những kinh
nghiệm đó, thánh Giuse rút ra sự khôn ngoan cần thiết,
để nuôi dưỡng và bảo vệ thánh gia. Những liên hệ
thân thương hài hoà sẽ bảo vệ thánh gia một cách có
hiệu quả.
2/
Khôn ngoan của Lời Chúa
Khi nhận được lời
thiên thần báo mộng, thánh Giuse hiểu đó là ý Chúa.
Chúa muốn trao cho Ngài một nhiệm vụ hết sức quan
trọng. Nhiệm vụ đó là bảo vệ Đức Maria và Hài nhi
Giêsu.
Mặc dù sự việc
coi như có phần nghịch lý, nhưng thánh Giuse vẫn vâng
phục. Ngài giữ luật đời, luật đạo, và vâng phục kế
hoạch Chúa trao cho Ngài.
Ngài
tin chắc Lời Chúa là con đường phải đi.
Sức mạnh xây dựng
niềm tin nơi Ngài là ơn thiêng của Chúa Thánh Thần. Ơn
thiêng ấy tác động từ bên trong tâm hồn, đi đôi với
báo mộng. Ngài đón nhận như ơn gọi, một ơn gọi chỉ
dành riêng cho Ngài.
Ngài sống ơn gọi
đó một cách khiêm nhường. Khiêm nhường nên giữ kín.
Khiêm nhường nên vẫn khó nghèo. Khiêm nhường là môi
trường cho ơn gọi của Ngài được phát triển. Phát
triển một cách sâu rộng, từ ý thức, đến tiềm thức,
vô thức.
Nếu ồn ào, phô
trương, Ngài sẽ không bảo vệ được thánh gia.
Chính vì Lời Chúa
được đón nhận và thực hiện một cách khiêm nhường,
mà thánh Giuse có được sự khôn ngoan. Sau này thánh
Phaolô tông đồ gọi đó là sự khôn ngoan của thánh giá.
Chính sự khôn ngoan này đã giúp thánh Giuse bảo vệ Đức
Mẹ và Chúa Giêsu một cách rất hiệu quả qua biết bao
thử thách.
3/
Khôn ngoan của chiêm niệm
Ngôi Hai xuống thế
làm người, đó là một sự kiện. Sự kiện cao cả đó
đã được Ngài nhìn thấy và chạm tới. Sự kiện ấy
không xuất hiện như một sự kiện, nhưng như là một
mầu nhiệm. Thánh Giuse chiêm niệm mầu nhiệm ấy, một
mầu nhiệm luôn sống động bên Ngài.
Chiêm niệm đã cho
Ngài khám phá thấy sự tự hạ lạ lùng của Đấng Cứu
thế.
Thánh Phaolô viết:
"Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như
người trần thế" (Pl 2,6-7).
Khám phá trên đây của
thánh Phaolô đã là chứng kiến của thánh Giuse. Nếu tìm
lý do tại sao Chúa Giêsu đã có một chọn lựa tự hạ
như vậy, thì câu trả lời vẫn là: mầu nhiệm của tình
yêu Chúa.
Một tình yêu dùng
sự tự hạ và thánh giá, để chiến thắng tội lỗi và
xây dựng Nước Trời là nước tình yêu.
Một tình yêu đơn sơ
và thiết thực, để đưa người ta đi vào cuộc sống
thân mật của Chúa giàu lòng thương xót.
Một khi đã được
nếm sự ngọt ngào của mầu nhiệm tình yêu Chúa, thánh
Giuse chỉ còn biết đi sâu vào thân phận nghèo khó, bé
mọn. Ý nguyện đó được Chúa thực hiện qua đời sống
kín đáo và cái chết thầm lặng của thánh Giuse. Như thế
là để tập trung vào điểm chính là Đức Giêsu Kitô. Đó
là sự khôn ngoan của đời chiêm niệm.
Suy gẫm trên đây
khiến tôi khát khao sự khôn ngoan của thánh Giuse. Khát
khao có nghĩa là chưa có. Khát khao cũng có nghĩa là đi
tìm.
Tôi chưa có, nên tôi
đi tìm. Trên đường đi tìm, tôi luôn cầu nguyện cho tôi
gặp được thánh Giuse. Tôi tin Ngài thương tôi, bây giờ
và suốt đời. Sao cho suốt đời tôi luôn được chia sẻ
phần nào sự khôn ngoan, mà Chúa đã ban cho Ngài.
Chúng ta cần rất
nhiều khôn ngoan để có thể bảo vệ Hội Thánh, nhất
là trong những tình thế phức tạp.
Gm.
J.B.
Bùi Tuần
THÁNH
GIU SE NGƯỜI CÔNG CHÍNH
Mt 1, 16.
18-21. 24a
Tgm.
Giuse Ngô
Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
Giacóp sinh Giuse là bạn của
Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô
giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria
đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau,
đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà
là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm
như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc
mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận
Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép
Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt
tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi
tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời
Thiên thần Chúa truyền.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi mừng lễ thánh Giu se, tôi
thường tự hỏi. Không biết thánh Giu se, người sống
cách đây 2 000 năm có còn thích hợp với thời đại
chúng ta không ? Không biết thánh Giu se, Đấng đã coi sóc
một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm
gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn
những con người phàm trần không?
Tin mừng hôm nay nói thánh Giu
se là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giu se,
ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính.
Công chính trước hết là trả
lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi
công chính là không dám nhận những gì không phải của
mình. Thánh Giu se định trốn đi khi biết Đức Ma ria mang
thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giu se trốn đi
vì nghi ngờ Đức Ma ria. Nhưng theo các nhà chú giải thời
mới thì thánh Giu se định bỏ trốn vì thấy mình không
xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế.
Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá
cao trọng, thánh Giu se thấy mình không phải là Cha Đấng
Cứu Thê, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế,nên
Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm
vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giu se là gìn giữ Đức
Giê su và Đức Ma ria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó
và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần
trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc.
Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu. hãy nhìn
cảnh thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Ma ria bế Đức Giê
su ngồi trên lưng lừa. Thánh Giu se dắt lừa đi trong đêm
tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giu
se trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh
Giu se kính cẩn nâng niu Đức Ma ria và Đức Giê su. ngài
chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hi sinh không
ngại gian khổ. Đang đêm mà chúa bảo thức dậy trốn
sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh
Giu se xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh
Giu se vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm
vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các tông đò được Đức
Giê su sai đi rao giảng, có quyền làm phép lạ, được
mọi người kính phục, thánh Giu se vẫn không ghen tị và
đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Sau cùng, công chính là trung
tín với nhiệm vụ. Thánh Giu se được Chúa trao cho nhiệm
vụ gìn giữ Đức Ma ria và Đức Giê su, gìn giữ gia
đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận
lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với
nhiệm vụ mà thánh Giu se phải lao động vất vả để
nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh
Giu se phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Ma ria
hạ sinh Đức Giê su. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh
Giu se phải vất vả bồng bế Đức Giê su chạy trốn
sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giu se
kiên trì tìm kiếm khi Đức Giê su đi lạc 3 ngày trong đền
thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh,
không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giu
se thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giu se vẫn hợp
thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ
ước của con người.
Vì thế giới ngày nay đang
thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những
gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền
bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu
công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt
tiền của, danh dự của người khác.
Vì thiếu công chính mà người
ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng
giả.
Vì thiếu công chính nên người
ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản,
phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười
biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với
vợ con.
Sự trung tín ngày nay đang là
một vấn đề lớn. người ta bất tín, lừa đảo, gian
dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán.
người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài
thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm
vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giu se vẫn còn là gương
mẫu rất cần thiết cho người thời nay. Những đức
tính của Ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để
chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
Tgm.
Giuse Ngô
Quang Kiệt
Đăng nhận xét