HÃY
NÂNG TÂM HỒN LÊN THÁNG
TÁM
1
THÁNG TÁM
Tại
Sao Thiên Chúa
Cho Phép Sự Dữ Xảy Ra?
Thánh
Kinh đảm bảo rằng “sự ác không lướt thắng được
sự khôn ngoan” (Kn 7,30). Điều đó khích lệ chúng ta xác
tín rằng trong kế hoạch quan phòng của Đấng Tạo Hóa,
rốt cục sự dữ cũng ‘chịu thua’ sự thiện. Trong ánh
sáng của sự quan phòng thần linh, chúng ta bắt đầu hiểu
hai sự thật này: một là, “Thiên Chúa không muốn sự
dữ vì chính nó”; hai là, “Thiên Chúa cho phép điều dữ
xảy ra”.
Để
hiểu tại sao “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính
nó”, chúng ta cần nhớ lại những lời trong Sách Khôn
Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết; Ngài cũng chẳng
vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Ngài đã sáng tạo muôn loài
cho chúng hiện hữu” (Kn 1,13-14).
Để
hiểu tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra giữa
những sự vật thể lý, rất cần nhớ lại rằng vật
chất thể lý – trong đó có thân xác con người – là
những thứ dễ hư nát và tiêu vong. Chúng ta cần nhấn
mạnh rằng điều này ảnh hưởng đến chính cơ cấu của
bản tính vật chất của các tạo vật này. Nhưng điều
này hoàn toàn lô-gíc. Thật khó mà hình dung rằng các thụ
tạo vật chất có thể tồn tại mà không bị giới hạn
trong tình trạng hiện hữu của thế giới vật chất
chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng nếu “Thiên
Chúa không làm ra cái chết” – như Sách Khôn Ngoan khẳng
định – thì đồng thời Ngài vẫn cho phép cái chết xảy
ra, trong viễn tượng của sự tốt lành phổ quát của
toàn vũ trụ vật chất.
2
THÁNG TÁM
Mầu
Nhiệm Của Sự Dữ Luân Lý
Bây
giờ chúng ta hãy xét đến sự dữ luân lý. Nói “sự dữ
luân lý”, chúng ta có ý đề cập đến các hình thức
khác nhau của tội lỗi và những hậu quả của nó trên
thế giới vật chất của chúng ta. Thiên Chúa tuyệt đối
không muốn thứ sự dữ này. Sự dữ luân lý hoàn toàn
đi ngược lại với thánh ý Thiên Chúa. Trong cuộc sống
của con người và trong thế giới, nếu sự dữ này xảy
ra – và đôi khi xảy ra một cách hết sức nghiêm trọng
– thì đấy chỉ bởi vì Thiên Chúa quan phòng muốn bảo
đảm duy trì sự tự do của con người trong thế giới
thụ tạo này.
Sự
tồn tại của sự tự do nơi tạo vật đồng nghĩa với
sự tồn tại của con người và các hữu thể tinh thần
thuần túy – chẳng hạn các thiên thần. Sự tự do này
là điều kiện tất yếu để cho con người có thể đạt
đến sự sung mãn của tạo vật và đáp lại kế hoạch
vĩnh cửu của Thiên Chúa. Để có được sự thiện trọn
vẹn và sự sung mãn trong tạo vật, cần phải có những
hữu thể tự do – và đối với Thiên Chúa, điều này
có giá trị hơn nhiều so với tình trạng bi đát do các
hữu thể ấy có thể lạm dụng sự tự do đã được
ban cho mình để chống lại Đấng Tạo Hóa. Như vậy,
chúng ta nhận ra rằng sự tự do của con người có thể
dẫn đến sự dữ luân lý.
Từ
khả năng suy lý của mình cũng như từ mạc khải của
Thiên Chúa, chúng ta chắc chắn nhận hiểu rất nhiều về
mầu nhiệm quan phòng thần linh – trong đó dù sự dữ
không phải là điều được tìm kiếm song cũng là điều
được nhận chịu trong ý hướng tranh thủ một sự thiện
lớn hơn. Tuy nhiên, một sự nhận hiểu đầy đủ về
mầu nhiệm sự dữ luân lý chỉ có thể xảy đến với
chúng ta xuyên qua Thập Giá khải thắng của Đức Kitô.
3
THÁNG TÁM
Sự
Ác
Không Thể Lướt Thắng Được Sự Khôn Ngoan Của Thiên
Chúa
Chúng
ta đã đối diện với những câu hỏi và những tiếng
kêu của con người ở mọi thời liên quan đến sự quan
phòng của Thiên Chúa. Chúng ta đã đối diện với thực
tại sự dữ và đau khổ.
Lời
Chúa tuyên bố rõ ràng rằng “sự ác không thể lướt
thắng được sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (Kn 7,30), và
rằng Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra trong thế giới
vì sự thiện lớn lao hơn, dù Ngài không muốn sự dữ.
Hôm nay chúng ta muốn lắng nghe Đức Giê-su Kitô. Xuyên
qua mầu nhiệm Vượt Qua, Người cung ứng câu trả lời
đầy đủ cho những câu hỏi dày vò này của con người.
Trước
hết, chúng ta hãy suy nghĩ về cách mà Thánh Phaolô loan
báo Đức Kitô chịu đóng đinh như là “sức mạnh và là
sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24), trong Người, ơn
cứu độ được trao ban cho những người tin. Sức mạnh
của Người chắc chắn là một sức mạnh lớn lao kỳ
diệu nếu nó được thể hiện trong sự yếu đuối và
trong sự sỉ nhục của cái chết thập giá. Và đó là sự
khôn ngoan cao vời mà con người không thể biết được
nếu không được Thiên Chúa mạc khải cho.
Trong
kế hoạch đời đời của Thiên Chúa và trong hoạt động
quan phòng cứu độ của Ngài, mọi sự dữ – nhất là
sự dữ luân lý tức tội lỗi – trở thành phụ thuộc
đối với sự thiện lớn lao hơn gấp bội là ơn cứu
chuộc xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức
Kitô.
Có
thể nói rằng trong Đức Kitô, Thiên Chúa “rút sự lành
ra từ sự dữ”, sự dữ ấy từng gây nên nỗi đau khổ
của Con Chiên hiền lành bị thí bỏ vì tội lỗi thế
gian. Phụng vụ của Giáo Hội không ngần ngại nói thẳng
về “tội hồng phúc” của chúng ta, tội đã đem lại
cho chúng ta ơn cứu độ vô cùng cao cả. Đó là ‘Exultet’-
bài ca loan báo tin vui Phục Sinh vĩ đại mà chúng ta hát
lên trong phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh.
4
THÁNG TÁM
Chúng
Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối
với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ
trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên
Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy
đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một đàng, qua
cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và
nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người –
Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi
người trong đau khổ của họ.
Hơn
th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi chính Người
tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người
trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc
khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng lực
cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một
gia tài không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề
cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài
được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như
vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được ý nghĩa cánh
chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn
ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ
cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng bởi
mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức
Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi
của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức
tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây
là câu trả lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho
chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập
Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
5
THÁNG TÁM
Những
Đường Lối Khôn Dò Của Thiên Chúa
Bây
giờ chúng ta có thể nhận ra bằng cách nào mọi sự –
ngay cả sự dữ và đau khổ hiện diện trong thế giới
thụ tạo – hoàn toàn được kiểm soát bởi sự khôn
ngoan kỳ diệu mà Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Ôi,
sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu
thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai dò cho thấu!”
(Rm 11,33).
Thật
vậy, chính trong bối cảnh của ơn cứu độ chúng ta, “sự
dữ không thể lướt thắng được sự khôn ngoan” (Kn
7,30). Đó là một sự khôn ngoan đầy tình yêu, bởi vì
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban chính
Con Một Ngài …” (Ga 3,16).
6
THÁNG TÁM
Sự
Trợ Giúp Trong Những Lúc Khó Khăn
Thánh
Phêrô đặc biệt quan tâm đến sự khôn ngoan này – sự
khôn ngoan đầy cảm thông và yêu thương đối với đau
khổ của con người. Ngài nhận ra trong sự khôn ngoan này
có ơn trợ giúp mà những ai gặp khó khăn sẽ cần đến
để vượt qua các thử thách với ơn sủng cứu độ của
Thiên Chúa.
Thánh
Phêrô đã viết cho thế hệ các tín hữu đầu tiên: “Anh
em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dù còn phải ưu
phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách” (1Pr 1,6). Rồi
ngài thêm: “Những thử thách đó chằm tinh luyện đức
tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội, – vàng là
của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi
Đức Giê-su Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện
đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang,
danh dự” (1Pr 1,7).
Trong
bản văn vừa trích dẫn trên, Thánh Phêrô qui chiếu đến
Cựu Ước, nhất là Sách Huấn Ca. Trong Huấn Ca, chúng ta
đọc thấy: “Vì vàng được thử trong lửa, còn những
người sáng giá thì được thử trong lò ô nhục” (Hc
2,5). Sau đó, trong bức thư, Thánh Phêrô vẫn qui chiếu
đến vấn đề “thử luyện” này khi viết: “Được
chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em
hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ
hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỉ” (1Pr 4,13).
Thật
vậy, Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi
chết là niềm hy vọng vinh quang của chúng ta! Đây là sự
khôn ngoan của tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
7
THÁNG TÁM
Không
Gì Có Thể Tách Chúng Ta
Ra Khỏi Tình Yêu Thiên Chúa
Thánh
Tông Đồ Gia-cô-bê cũng diễn tả tương tự khi ngài dạy
các Kitôhữu thái độ đương đầu các thử thách với
niềm vui và kiên nhẫn: “Anh em hãy tự cho mình là được
chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như
anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra
lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn
đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn
hảo, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Cuối
cùng, trong Thư gửi các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô so sánh
những đau khổ của con người và của vũ trụ với ‘cơn
đau sinh nở’ của mọi tạo vật. Ngài nhấn mạnh rằng
đây là ’những tiếng rên siết’ của những ai lãnh
nhận Thần Khí như ‘ơn huệ mở đầu’ nhưng còn trông
đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là ‘cứu
chuộc thân xác chúng ta nữa’(Rm 8,22-23).
Rồi,
Thánh Phaolô ghi nhận về đau khổ: “Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu
mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi
theo như ý Ngài định…” (Rm 8,28). Cũng trong văn mạch
này, ngài tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm
8,35).
Với
cảm nhận sâu xa ấy về tình yêu và sự tốt lành của
Thiên Chúa trong Đức Kitô, Thánh Phaolô kết luận: “Tôi
tin chắc rằng: dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần
hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất
cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ
một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi
Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Ở
đây Thiên Chúa, Cha chúng ta đang yêu thương chúng ta đời
đời trong Đức Kitô. Ngài là người Cha dạy bảo chúng
ta trong sự quan phòng yêu thương của Ngài: “Con hãy kiên
trì để cho Ta sửa dạy; Ta đối xử với con như con cái.
Thật vậy, có đứa con nào mà người Cha không sửa dạy?…
Ta sửa dạy con vì lợi ích của con, để con được thông
phần vào sự thánh thiện của Ta” (Dt 12,7.10).
8
THÁNG TÁM
Tìm
Kiếm Câu Trả Lời
Bằng Con Mắt Đức Tin
Sự
đau khổ được nhìn qua con mắt đức tin – ngay cả dù
vẫn có vẻ thật ảm đạm – sẽ cho phép chúng ta nhận
ra mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Mầu nhiệm này
được tóm kết trong mạc khải Đức Kitô, nhất là trong
cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người. Con
người vẫn không ngừng đặt ra những vấn nạn về sự
dữ và đau khổ trong thế giới thụ tạo, song chắc chắn
con người không thể nào tìm thấy những lời giải đáp
trực tiếp được. Không thể tìm thấy sự giải đáp
trực tiếp nếu không có một đức tin sống động vào
Đức Giê-su Kitô.
Nhưng
dần dần, với sự giúp đỡ của đức tin được nuôi
duỡng bằng cầu nguyện, chúng ta có thể khám phá ra ý
nghĩa đích thực của những nỗi thống khổ mà mọi con
người kinh nghiệm trong đời. Sự khám phá này phụ thuộc
vào lời mạc khải thần linh và vào “lời của thập
giá” Đức Kitô (1Cr 1,18) – thập giá chính là “sức
mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24).
Công
Đồng Vatican II dạy chúng ta: “Nhờ Đức Kitô và trong
Đức Kitô, chúng ta được soi sáng về bí ẩn của sự
đau khổ và sự chết, bí ẩn này sẽ đè bẹp chúng ta
nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm” (MV 22). Nếu nhờ
đức tin, chúng ta khám phá ra sức mạnh và “sự khôn
ngoan” này, thì đấy là chúng ta đang bước đi trên con
đường cứu độ của sự quan phòng của Thiên Chúa. Ý
nghĩa của lời Thánh Vịnh bấy giờ sẽ thành hiện thực
hoàn toàn đối với chúng ta:
“Chúa
là mục tử chăn dắt tôi …
Dù
tôi đi trong thung lũng tối tăm,
tôi
vẫn không lo sợ gì,
vì
có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23,1-4).
Vâng,
trong sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy
rằng Thiên Chúa luôn sóng bước cùng với con người.
9
THÁNG TÁM
Sự
Quan Phòng Của Thiên Chúa
Trong Ánh Sáng Của Mạc Khải
Chân
lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, vốn nối kết chặt
chẽ với mầu nhiệm sáng tạo, phải được hiểu trong
bối cảnh của toàn bộ mạc khải, toàn bộ những tín
điều mà chúng ta tuyên xưng trong tư cách là Kitô
hữu. Bằng cách này, chúng ta nhận ra một mối liên kết
hữu cơ giữa sự quan phòng và mạc khải. Trong chân lý
về sự quan phòng có chứa đựng mạc khải về sự tiền
định đối với con người và thế giới trong Đức Kitô.
Trong đó cũng có mạc khải về toàn bộ nhiệm cục cứu
rỗi và sự hoàn thành của nhiệm cục ấy xuyên qua lịch
sử.
Chân
lý về sự quan phòng của Thiên Chúa cũng gắn kết chặt
chẽ với chân lý về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đó là
lý do tại sao những lời giáo huấn của Đức Kitô về
sự quan phòng có một tầm quan trọng nền tảng cho đời
sống chúng ta: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi sự khác cũng
sẽ được ban cho anh em” (Mt 6,33; Lc 12,13).
Vâng,
chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa được mạc
khải trong sự cai quản của Thiên Chúa trên toàn thể thế
giới thụ tạo. Chân lý ấy trở thành hoàn toàn có thể
nhận hiểu được đối với con người xuyên qua chân lý
về Nước Thiên Chúa. Xuyên qua Nước ấy – ngay cả
trong thế giới thụ tạo của chúng ta – Thiên Chúa thiết
lập vĩnh viễn “sự tiền định trong Đức Kitô”, Đấng
là “Trưởng Tử của mọi loài thọ sinh” (Cl 1,15).
10
THÁNG TÁM
Giáo
Hội Trong Thế Giới Ngày Nay
Chân
lý về sự quan phòng của Thiên Chúa được mạc khải
trong những dòng mở đầu của Kinh Tin Kính, rất sâu sắc
và rất xác thực: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha
Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất”.
Chân
lý lớn lao ấy được đề cập đến một cách tuyệt
vời trong giáo huấn của Công Đồng Vatican II. Thật vậy,
trong nhiều văn kiện Công Đồng, chúng ta tìm thấy những
qui chiếu rất hữu ích đến chân lý đức tin này, đặc
biệt trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng.
Như
chúng ta đều biết, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mang
chủ đề Giáo Hội Trong Thế Giới Hôm Nay. Tuy nhiên, ngay
từ những đoạn đầu tiên, rõ ràng các Nghị Phụ của
Công Đồng không thể làm việc về chủ đề này mà
không trở lại với chân lý mạc khải về mối quan hệ
giữa Thiên Chúa với thế giới, nhất là trở lại với
chân lý về sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa.
11
THÁNG TÁM
Thiên
Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …
“Thế
giới ở đây là thế giới của con người, thế giới
ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng
Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi
vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng
đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã
được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định
của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).
Định
nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan
phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong
công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung
cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với
thế giới con người theo như “được tiền định trong
Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của
mọi sự.
Bằng
cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của
Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển
mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài,
từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả
đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt
4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do
của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).
Ngay
từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến
một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta
ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng
cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát
triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?
12
THÁNG TÁM
Đưa
Vũ Trụ Về Với Thiên Chúa
Trong
thế giới hữu hình, nguyên động lực chính của lịch
sử và văn hóa là con người. Con người được tạo dựng
theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài và được
Ngài bảo vệ để hiện hữu. Con người được Thiên
Chúa hướng dẫn trong tình từ phụ để thực hiện vai
trò làm chủ trên các tạo vật khác. Như chúng ta nhớ
lại, một cách nào đó, con người là một “sự quan
phòng của Thiên Chúa”.
Công
Đồng Vatican II diễn tả điều này một cách chính xác
như sau: “Đối với các tín hữu, chắc chắn hoạt động
cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, hoặc nỗ lực
vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ nhằm
cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp với
ý định của Thiên Chúa. Thực vậy, được tạo dựng
giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh
lệnh chinh phuc trái đất cùng tất cả những gì chứa
đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh
thiện – và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng
muôn loài, họ qui hướng về Ngài chính bản thân mình
cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất
cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp cả địa cầu”
(MV 34).
Cũng
trong Hiến Chế trên, Công Đồng tuyên bố: “Thật vậy,
con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả
hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một
mảnh vụn của thiên nhiên hay như một phần tử vô danh
trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con
người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với
lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu
này, ở đó, Thiên Chúa Đấng thấu suốt tâm hồn, đang
chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định
đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của
Thiên Chúa” (MV 14).
13
THÁNG TÁM
Xây
Dựng Một Nơi Cư Ngụ Xứng Đáng Cho Con Người
Con
người được mời gọi phát triển thế giới, làm việc
hướng về việc phát triển tốt hơn các hệ thống kinh
tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn gọi
con người, vì con người được mời gọi làm chủ trái
đất. Đó là lý do tại sao sự suy nghĩ khoa học và kỹ
thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của
mọi thời phải được định hình bởi con người để
phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đối với tạo
vật của Ngài.
Công
Đồng Vatican II nhìn nhận giá trị và chức năng của
công việc và văn hóa trong thời đại chúng ta. Thật vậy,
Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình hình xã hội
và văn hóa mới của chúng ta với những khả năng thay
đổi và tiến bộ nhanh chóng của nó. Những khả năng
này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm hy
vọng cho nhiều người khác. (MV 53-54).
Công
Đồng không ngần ngại nhìn nhận những thành tựu ngoạn
mục của con người. Công Đồng đặt những thành tựu
này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của Thiên
Chúa cho con người. Công Đồng liên hệ những thành tựu
ấy với Phúc Âm về tình huynh đệ được rao giảng bởi
Đức Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với
phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả
và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia
đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể
xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa
được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải
chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng,
đồng thời con người phát triển được chính bản thân;
và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng
của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
14
THÁNG
TÁM
Mục
Đích Phổ Quát Của Con Người
Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Tuy
nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những vấn đề
ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái
đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn
đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu
thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy,
sẽ là một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một
cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không
qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.
Công
Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước những khám
phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng
thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về
chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về
ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể,
và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài”
(MV 3).
Rồi
Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng như trong bất
cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi
này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như
đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình,
không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục
vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con
người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình.
Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống
xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt
hướng đi cho mình” (MV 4).
Một
cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những mâu
thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi
“nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế
xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy nghĩ và
trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối
quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng
đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ
vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ
mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV
8-10).
Cuối
cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn đề nói trên
khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày
nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất
từ đáy lòng con người” (MV 10).
15
THÁNG TÁM
Chúng
Ta Chúc Tụng Mẹ Trên Trời
Kính
chào Đức Maria! Mẹ đã được đưa về trời.
Chúng con hiệp với thần sứ dâng lời chào Mẹ đầy ơn
phúc. Chúa ở cùng Mẹ (Lc 1,28).
Cùng
với Ê-li-da-bét, chúng con kính chào Mẹ: Mẹ thật có
phúc giữa mọi người phụ nữ; Và hoa quả của cung lòng
Mẹ cũng thật có phúc! Mẹ thật có phúc vì đã tin vào
lời hứa của Thiên Chúa! (Lc 1,42.45).
Chúng
con kính chào Mẹ bằng lời của Tin Mừng: “Mẹ thật có
phúc vì Mẹ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa “
(Lc 12,28). Mẹ đầy ơn phúc!
Chúng
con ngợi khen Mẹ, ái nữ của Chúa Cha.
Chúng
con chúc tụng Mẹ, là Mẹ của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Chúng
con tôn vinh Mẹ, đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng
con cầu khẩn Mẹ, là Mẹ và là gương mẫu của toàn thể
Giáo Hội.
Chúng
con nhìn ngắm Mẹ, sự viên mãn của mọi niềm hy vọng
của con người trong tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế. Chúa
ở cùng Mẹ!
Mẹ
là Trinh Nữ của ngày Truyền Tin, là tiếng “Xin Vâng”
của mọi con người đối với mầu nhiệm cứu độ.
Mẹ
là nữ tử Sion, là hòm bia của giao ước mới trong mầu
nhiệm thăm viếng.
Mẹ
là Mẹ của Đức Giêsu sinh tại Bê-lem, là Đấng đã
giới thiệu Đức Giêsu cho các mục đồng chất phác, và
cho các nhà thông thái từ phương Đông.
Mẹ
là người Mẹ đã dâng Con trong Đền Thờ, đã đưa Con
sang Ai-cập, và mang Con về Na-da-rét.
Lạy
Đức Trinh Nữ hiện diện trên các nẻo đường của Đức
Giêsu. Hiện diện trong đời sống ẩn dật của Ngài và
tại phép lạ ở Ca-na.
Lạy
Mẹ sầu bi trên đồi Can-vê, và là Trinh Nữ vui mừng
trong biến cố Phục Sinh.Mẹ là Mẹ của các môn đệ Đức
Giêsu trong niềm mong đợi và niềm hân hoan của Lễ Hiện
Xuống.
Mẹ
đầy ơn phúc!
Vì Mẹ đã tin vào Lời Chúa, vì Mẹ đã hy vọng vào lời
hứa của Ngài, vì Mẹ đã trọn hảo trong tình yêu, vì
tình yêu đầy quan tâm của Mẹ đối với Ê-li-da-bét, vì
tấm lòng hiền mẫu của Mẹ ở Bê-lem, vì nghị lực của
Mẹ khi bị bách hại, vì sự kiên trì của Mẹ trong cuộc
tìm kiếm Con trong Đền Thờ, vì đời sống mộc mạc của
Mẹ ở Na-da-rét, vì sự cầu bàu của Mẹ ở Ca-na, vì sự
hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá, vì Mẹ trung
thành đón chờ mầu nhiệm Phục Sinh, vì Mẹ chuyên chăm
cầu nguyện trong biến cố Hiện Xuống.
Mẹ
thật có phúc, vì vinh quang của ngày Mẹ lên trời, vì Mẹ
hằng chở che Giáo Hội trong tấm lòng từ mẫu, vì Mẹ
không ngừng chuyển cầu cho mọi người.
Lạy
Đức Nữ Trinh, chúng con tôn vinh Mẹ vì tất cả những
điều ấy!
16
THÁNG TÁM
Cám
Dỗ Tự Mãn
Nhìn
con người trong thế giới hôm nay, ta thấy dường như
hoàn toàn phi lý việc nghĩ rằng con người làm chủ tuyệt
đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng vai trò làm chủ
ấy sẽ được triển khai với sự giúp đỡ của sự
quan phòng thần linh. Thật là một ảo tưởng hão huyền
và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc sống
mình và biến thế giới này thành một vương quốc chỉ
phục vụ cho hạnh phúc của riêng mình và chỉ dựa vào
sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ
lớn mà con người hiện đại đang lún vào. Người ta
quên rằng các qui luật tự nhiên đặt điều kiện ngay
cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp
của chúng ta (MV 26-27).
Nhưng
thật dễ ngã vào cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước
chứng tỏ quyền làm chủ của mình trên các sức mạnh
của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến mức quên
Thiên Chúa và thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng
của Ngài. Trong thời đại chúng ta, sự táo tợn như thế
xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi mà có những
lúc xảy ra những hình thức khác nhau của sự lạm dụng
về mặt sinh học, di truyền học và tâm lý học. Hãy coi
chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật luân lý của
Nước Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị
tàn nhẫn của con người trên con người với những hậu
quả vô cùng bi thảm.
Công
Đồng nhìn nhận sự cao cả của con người hiện đại,
nhưng Công Đồng cũng nhận ra những giới hạn của con
người trong việc dàn xếp sự tự trị chính đáng của
mọi vật thụ tạo (MV 36). Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc
chúng ta nhớ đến chân lý về sự quan phòng của Thiên
Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người trong công cuộc
xây dựng thế giới và phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan
hệ này với Thiên Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng,
con người có thể không ngừng khám phá lại căn nguồn
ơn cứu độ của mình. Chúng ta hãy đến với Cha và đừng
mù quáng cậy dựa vào sức mạnh và sáng kiến của riêng
mình.
17
THÁNG TÁM
Sử
Dụng Năng Lực Một Cách Đúng Đắn
Chúng
ta sẽ thường xuyên tham chiếu đến những suy tư của
Công Đồng Vatican II về tình trạng của con người trong
thế giới hôm nay. Con người có một địa vị độc đáo
trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Một đàng, con
người được Thiên Chúa ủy trao nhiệm vụ làm chủ thế
giới tạo vật. Đàng khác, trong tư cách là một thụ
tạo, con người qui phục Thiên Chúa là Cha và là Đấng
sáng tạo nên mình.
Ngày
nay, hơn bất cứ thời nào khác, con người ý thức về
tầm quan trọng của sứ mạng mình trong tư cách là người
quản lý thiên nhiên. Con người phải chế ngự thiên
nhiên và sử dụng thiên nhiên một cách khôn ngoan và một
cách có trách nhiệm.
Tuy
nhiên, có một trở lực nghiêm trọng đối với việc
phát triển thế giới. Đó là tội lỗi và hậu quả xáo
trộn đầy tai hại của tội lỗi. Hiến Chế Vui Mừng và
Hy Vọng của Công Đồng Vatican II nêu rõ tình trạng bi
đát này: “Được Thiên Chúa thiết lập trong sự công
chính, tuy nhiên, ngay từ đầu lịch sử, con người nghe
theo Thần Dữ nên đã lạm dụng tự do của mình khi nổi
dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh
của mình ngoài Thiên Chúa” (MC 13).
Hậu
quả tất nhiên của sự lạm dụng tự do này là “sự
tiến bộ – tuy là một lợi ích lớn lao của con người
– nhưng cũng đem theo một cám dỗ mãnh liệt. Thực vậy,
khi bậc thang giá trị bị đảo lộn, khi ác và thiện lẫn
lộn, thì cá nhân cũng như tập thể chỉ xét quyền lợi
của mình chứ không để ý đến quyền lợi kẻ khác. Do
đó, thế giới chưa phải là nơi có tình huynh đệ thật,
và sự gia tăng quyền lực của con người lại đe dọa
hủy diệt chính nhân loại” (MV 37).
18
THÁNG TÁM
Thiên
Chúa Sử Dụng Chúng Ta
Để Xây Dựng Công Cuộc Sáng Tạo Mới
Con
người hiện đại chắc chắn ý thức về
vai trò của mình. Nhưng “nếu sự độc lập của các
thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật không lệ
thuộc Thiên Chúa và con người có thể sử dụng chúng mà
không cần qui hướng về Đấng Tạo Hóa thì không một
ai nhìn nhận Thiên Chúa lại không thấy rằng lập trường
đó hết sức sai lầm. Thực vậy, không có Tạo Hóa, tạo
vật đều tiêu tan… Quên mất Thiên Chúa, mọi tạo vật
đều trở nên mờ tối” (MV 36).
Chúng
ta nhớ lại một bản văn cho phép chúng ta nắm bắt khía
cạnh khác của sự phát triển thế giới bởi con người.
Công Đồng nói: “Thánh Thần Chúa, Đấng điều khiển
những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái
đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong
cuộc tiến hóa này” (MV 26). Thánh Thần sử dụng chúng
ta để xây dựng cuộc sáng tạo mới bằng cách giúp
chúng ta vượt qua tội lỗi và những sự dữ khác trong
cuộc sống chúng ta. Rồi chúng ta có thể tái tạo bộ
mặt trái đất và hoàn thành định mệnh của chúng ta.
Nhờ Thánh Thần Chúa để vượt qua sự dữ, điều đó
có nghĩa là chọn lựa sự tiến bộ luân lý của con
người, chứ không chỉ là những tiến bộ vật chất và
thể lý. Khi ấy phẩm giá của con người có thể được
bảo vệ. Con người có thể đưa ra một câu trả lời
cho những đòi hỏi thiết yếu nhất của một thế giới
đích thực có nhân tính. Bằng cách này, Nước Thiên Chúa
sẽ dần dần lớn lên trong lịch sử của con người, tìm
thấy bản sắc tâm linh của mình và cho con người thấy
những dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa.
19
THÁNG TÁM
Tiến
Tới Một Thế Giới Có Tính Người Hơn
Công
Đồng Vatican II đã nhấn mạnh rất rõ ràng ý nghĩa đạo
đức của sự phát triển và tiến bộ của con người
trong thế giới này. Công Đồng cho thấy lý tưởng đạo
đức của một thế giới có tính người hơn gắn chặt
với giáo huấn của Tin Mừng như thế nào.
Trong
khi phân biệt rõ ràng giữa sự phát triển của thế giới
và lịch sử cứu độ, các Nghị Phụ Công Đồng khảo
sát mối tương quan giữa hai lãnh vực ấy: “Tuy phải
phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự
bành trướng Vương Quyền của Chúa Kitô, nhưng những
tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên
Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc
tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn. Thực
vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh
Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân
phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi
thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người
đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại
sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được
chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn
lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương
Quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện
và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình
an”. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở
trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến”
(MV 39).
20
THÁNG TÁM
Hiệp
Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của Giáo Hội
Công
Đồng xác nhận những xác tín của các tín hữu khi tuyên
bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều thiện
hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày
nay: nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự phát triển của
công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và
một sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân
sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp nhất tương
ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong
Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở thành một bí tích
và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và
của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà
Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện đại là
năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ
không phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên
qua duy chỉ những phương tiện của con người” (MV 42).
Vì
những lý do này, một mối gắn kết sâu sắc và thậm
chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa
-một đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người
trong xã hội và – đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế
hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước
vọng thực và trong những mối quan tâm sâu thẳm nhất
của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc
không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới.
Vì Giáo Hội luôn luôn đứng trước thế giới khi Giáo
Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư
của con người.
Vâng,
lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch sử thế
giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của
chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại
cũng đúng. Những thành tựu vĩ đại của con người và
những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là
nền móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này.
Hiệp nhất chính là mục đích của kế hoạch Thiên Chúa,
Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự.
21
THÁNG TÁM
Chuẩn
Mực Của Hoạt Động Con Người
Chúng
ta đọc thấy trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của
Công Đồng Vatican II: “Hoạt động của con người phát
xuất từ con người nên qui hướng về con người… Nếu
được hiểu cho đúng, thì sự phát triển đáng giá hơn
mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị con người
hệ tại ở “cái mình là” hơn hệ tại ở “cái mình
có”. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt
tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ
rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các
tương quan xã hội, đều quí trọng hơn các tiến bộ kỹ
thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp
chất liệu cho sự thăng tiến con người, nhưng tự chúng
mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng
tiến ấy…
“Đây
là tiêu chuẩn của hoạt động con người: mọi hoạt
động con người phải phù hợp với lợi ích đích thực
của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên
Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng tập thể,
trau dồi và thực hiện ơn gọi phổ quát của mình” (MV
35; 59).
Cũng
chính Hiến Chế trên tuyên bố: “Trật tự xã hội và
tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các
nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc
vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại.
Trật tự xã hội phải phát triển mỗi ngày một hơn,
phải đặt nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công
bình, nuôi sống nhờ tình yêu. Thánh Thần Chúa, Đấng
điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ
mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện
diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26).
22
THÁNG TÁM
Hãy
Nhạy Bén Với Tiếng Nói Lương Tâm
Chúng
ta cần sự hướng dẫn và tác động của Thánh Thần
trong công cuộc phát triển xã hội. Điều này chỉ có
thể xảy ra khi chúng ta thường xuyên lắng nghe tiếng nói
của lương tâm và trung thành đáp lại tiếng nói ấy.
Giáo
huấn của Công Đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta: “Trung
thành với lương tâm, người Kitôhữu liên kết với
những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết
trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra
trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội.
Bởi vậy, lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những
cá nhân và cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù
quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách
quan của hành vi luân lý” (MV 16).
Một
cách thực tiễn, Công Đồng kêu gọi chúng ta chú ý tới
chướng ngại rắc rối nhất ngăn cản sự tiến bộ đích
thực của con người – đó là sự dữ luân lý tức tội
lỗi. Do tội lỗi, “con người bị phân rẽ nơi chính
mình. Vì thế, tất cả cuộc sống của con người, hoặc
riêng rẽ, hoặc tập thể, đều biểu hiện như một cuộc
chiến, dĩ nhiên là bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh
sáng và tối tăm. Hơn nữa, con người thấy mình không đủ
sức khi phải tự mình chiến thắng hữu hiệu những tấn
công của sự dữ, đến nỗi mọi người cảm thấy dường
như bị xiềng xích trói buộc” (MV 13).
23
THÁNG TÁM
Chúng
Ta Đang Ở Giữa Một Trận Chiến
“Như
lời Chúa phán (Mt 24,13), cả lịch sử nhân loại là một
trận chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối, khời
đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến
ngày cuối cùng. Dấn thân vào cuộc chiến này, con người
phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện
và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình sau
khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa”
(MV 37).
Chúng
ta có thể kết luận rằng mặc dù không được đồng
hóa sự phát triển của Nước Thiên Chúa với sự phát
triển và tiến bộ thế tục, song quả thực rằng Nước
Thiên Chúa có mặt ngay nơi thế giới và, nhất là, nơi
con người sống và hoạt động trong thế giới. Người
Kitôhữu biết rằng xuyên qua những nỗ lực của chính
mình cùng với sự giúp đỡ của ơn Chúa, mình đang làm
cho Nước Thiên Chúa trở thành hiện thực. Công việc của
mọi Kitôhữu dẫn đến sự hoàn thành của mọi sự
trong Đức Kitô, theo kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.
24
THÁNG TÁM
Ngụp
Lặn Trong Tình Yêu Của Đức Kitô
Chúng
ta nên cùng nhau suy tư về ý nghĩa của Thượng Hội Đồng
bất thường được tổ chức năm 1985. Biến cố này nhắc
chúng ta nhớ Giáo Hội phải dấn bước theo tinh thần của
Công Đồng Vatican II như thế nào.
Đó
là tinh thần gì? Đức Phaolô VI đề cập đến tinh thần
này trong Ecclesiam tuam, thông điệp đầu tiên của ngài.
Một đàng, “đây là thời gian mà Giáo Hội phải đào
sâu ý thức về chính mình, phải suy tư về mầu nhiệm
nơi chính mình, phải khám phá … giáo lý … về các căn
nguyên của mình, về bản chất và sứ mạng của mình,
về định mệnh cuối cùng của mình.” Đàng khác, Đức
Phaolô VI nói tiếp: “Giáo Hội phải đi vào trong cuộc
đối thoại với thế giới mà mình đang sống với. Giáo
Hội phải trở thành một tiếng nói, một sứ điệp. Đây
là hai định hướng được đặt ra cho Giáo Hội: Giáo
Hội phải đồng thời chu toàn sứ mạng của mình within
and without. Giáo Hội phải nhận thức và đào sâu cảm
thức về căn tính của mình, trong khi đồng thời làm cho
sứ điệp của Đức Kitô thấm nhập và hoạt động nơi
anh chị em chung quanh mình.”
Vâng,
Công Đồng Vatican II đã đáp ứng những kỳ vọng này.
Với một sự đồng tâm nhất trí cao độ, Giáo Hội cảm
nhận sâu sắc mối gắn kết với các nguồn căn tông đồ
của mình. Giáo Hội cũng hiểu mình phải theo con đường
nào để trung thành với Đức Kitô trong thế giới hôm
nay. Nói tóm, Giáo Hội cảm thấy ngụp lặn trong tình yêu
của Đức Kitô – tình yêu mà Giáo Hội đưa ra để chia
sẻ cho những người khác: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy
thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở
lại trong tình thương của Thầy… Điều Thầy truyền
dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,9.17).
25
THÁNG TÁM
Một
Kế Hoạch Hoạt Động Mục Vụ
Đâu
là ý nghĩa của cuộc họp Thượng Hội Đồng bất thường
1985? Hai mươi năm sau ngày bế mạc Công Đồng, thật hữu
ích – hay đúng hơn, thật cần thiết – việc nhìn lại
chiều hướng của Giáo Hội. Điều này càng đặc biệt
đúng bởi vì chúng ta đã chứng kiến một số xu hướng
hay những giải thích về Vatican II có thể dẫn chúng ta
đi lạc ra khỏi con đường đã được Công Đồng hoạch
định cho chúng ta.
Và
đó chính là chỉ nam căn bản cho kỳ Thượng Hội Đồng,
một biến cố thu hút rất nhiều sự chú ý của giới
truyền thông và chiếm được sự quan tâm lớn lao của
công luận. Như tôi đã nhấn mạnh vào dịp bế mạc kỳ
Thượng Hội Đồng, tinh thần tập thể của các giám mục
được biểu lộ một cách đặc biệt đậm nét trong tiến
trình của kỳ Thượng Hội Đồng.
Trong
biến cố quan trọng này, chúng ta đã trông thấy Giáo Hội
– qua các giám mục – đã qui tụ lại để tái xác nhận
công cuộc to lớn của Công Đồng Vatcan II. Hai mươi năm
sau khi Vatican II bế mạc, các giám mục tụ họp lại để
xem xét các kết quả của Công Đồng, để xem Giáo Hội
đã triển khai những sáng kiến và những chỉ dẫn của
Vatican II như thế nào suốt hai thập kỷ qua. Chúng ta nhận
thấy cần phải dừng lại để suy tư – nhờ đó có thể
đánh giá một cách khách quan tình trạng của Giáo Hội
trong ánh sáng của Lời Chúa và với sự giúp đỡ của
ơn Chúa.
Chúng
ta đã qui tụ lại với sự tỉnh thức mới mẻ trong
Thánh Thần để chúng ta có thể nhận ra “các dấu chỉ
của thời đại” và phác họa một kế hoạch hoạt động
mục vụ dựa theo tinh thần hàm chứa trong các văn kiện
Công Đồng. Chúng ta muốn nhận ra những gì mình đã thực
sự đạt được và những bước nào còn phải được
xúc tiến để thực hiện công cuộc lớn lao này của
Giáo Hội.
26
THÁNG TÁM
Một
Công Trình Của Thánh Thần
Chính
Chúa Thánh Thần chúc lành và bảo vệ công trình của
Thượng Hội Đồng. Cũng như hồi đầu thập niên 60,
chúng ta dạt dào tạ ơn Chúa Thánh Thần vì tặng phẩm
Công Đồng, thì ở đây chúng ta cũng có thể tạ ơn Chúa
Thánh Thần vì tiếng gọi mời Giáo Hội bước tới xuyên
qua biến cố Thượng Hội Đồng này.
Chúng
ta tạ ơn Chúa Thánh Thần vì sự qui tụ này của các chủ
tịch các hội đồng giám mục trên khắp thế giới, các
hồng y tổng trưởng các thánh bộ trong giáo triều Rôma,
các bề trên tổng quyền của các dòng tu khác nhau, các
thành viên của các cơ chế sống đời thánh hiến cũng
như giáo dân – tất cả cùng gặp gỡ nhau dưới sự
hướng dẫn khôn ngoan của vị Tổng Thư Ký và các cộng
sự viên của ngài.
Chúng
ta cũng hết lòng tạ ơn Chúa Thánh Thần vì các cuộc họp
của Thượng Hội Đồng ở mọi cấp đều tỏ ra rất
kiến hiệu, cho thấy rằng việc triệu tập Thượng Hội
Đồng là một phương thế tốt để Giáo Hội tự khảo
sát công việc của mình. Như vậy, toàn thể Giáo Hội
được hiệp nhất “một lòng một trí” trong Chúa Kitô
(Cv 4,32). Một lần nữa, Giáo Hội được mời gọi áp
dụng giáo huấn của Công Đồng vào đời sống mình và
dấn thân trên con đường hoàn thành chính mình trong tình
yêu. Vâng, đây là sứ mạng được Đức Kitô ủy thác
cho Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô và các Tông Đồ
rằng “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga
15,9).
27
THÁNG TÁM
Ánh
Sáng Soi Dẫn Sự Sống
Của Giáo Hội Hôm Nay
Bản
Báo Cáo Chung Kết (tài liệu đúc kết kỳ Thượng Hội
Đồng bất thường này) diễn tả hùng hồn mối quan tâm
của tập thể các giám mục và nỗ lực chung của toàn
thể Giáo Hội nhằm muốn trân trọng hơn đối với Công
Đồng Vatican II. Ở đây chúng ta nhìn các vấn đề của
Giáo Hội hậu Công Đồng với một cái nhìn mới, với
một tinh thần nhận định khách quan và với nhãn giới
ưu tư mục vụ. Chúng ta khảo sát kỹ lưỡng tình hình
của mình sau hai mươi năm, với tất cả những thay đổi
và những cải thiện quan trọng đã xảy ra trong đời
sống Giáo Hội. Trong cuộc khảo sát này, chúng ta nhìn
thấy cả những khó khăn và những thành công.
Bản
Báo Cáo Chung Kết này – được xem xét kỹ – đã trao
cho chúng ta những đề nghị thích hợp để thay đổi và
đã soi sáng cho những vấn đề khẩn cấp trong đời sống
của Giáo Hội hiện nay. Có những nhấn mạnh đặc biệt
về tiếng gọi nên thánh phổ quát. Chúng ta thấy rằng
sự nên thánh này phải phát nguồn từ chính đời sống
và ơn gọi của Giáo Hội. Trước hết, nó phải được
cắm rễ trong sự đáp trả của Giáo Hội đối với Lời
Chúa và đối với tiếng gọi phổ quát Phúc Aâm hóa bằng
việc chia sẻ Tin Mừng. Hết thảy mọi Kitôhữu đều
được mời gọi tiến tới trong tiếng gọi nên thánh
khẩn thiết này, được hướng dẫn bởi quyền giáo huấn
của các giám mục và công việc không ngừng của các nhà
thần học của Giáo Hội.
Thứ
hai, phụng vụ phải dẫn chúng ta vào trong một kinh nghiệm
đích thực về sự thiêng thánh và thái độ tôn kính sự
hiện diện của Thiên Chúa. Thực tại Giáo Hội trong
phụng vụ phải được diễn tả như một sự hiệp thông
với Đức Kitô và Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
Thứ
ba, chúng ta nhận thấy nhu cầu phải đẩy mạnh những
lãnh vực được Công Đồng đề cập đến. Chúng ta nhận
thấy cần phải đối thoại và phát triển mối hiệp
nhất giữa các Giáo Hội Đông phương và Tây phương.
Chúng ta cần phải lưu tâm đến những đóng góp quan
trọng của các hội đồng giám mục. Chúng ta phải tiếp
tục làm cho Giáo Hội liên đới với những nhu cầu và
những vấn đề của con người hiện đại. Chúng ta phải
tăng cường sự hiểu biết và cảm thông đối với các
tôn giáo ngoài Kitô giáo và đối với các anh chị em vô
thần. Chúng ta phải luôn luôn thăng tiến quyền lợi của
người nghèo và những người bị áp bức, và bảo vệ
nhân phẩm của mọi con người bằng cách tuân thủ các
giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Công Đồng Vatican II là
di sản của chúng ta, di sản của Giáo Hội.
28
THÁNG TÁM
Bên
Thềm Thiên Niên Kỷ Thứ Ba
Một
vấn đề quan trọng khác mà các nghị phụ Thượng Hội
Đồng đặc biệt ưu tư, đó là nhu cầu huấn luyện và
đào tạo các linh mục tương lai. Giáo Hội của thiên
niên kỷ thứ ba sẽ được ủy thác trong tay và trong sự
săn sóc mục vụ của những thế hệ linh mục mới. Đời
sống và sứ vụ của họ phải là một sự diễn dịch
sống động các giáo huấn của Công Đồng. Họ phải đảm
nhận trách nhiệm lớn lao – đó là triển khai các giáo
huấn của Công Đồng trong đời sống của dân Thiên
Chúa.
Tiếng
gọi đại kết cũng là một tiếng gọi hết sức thúc
bách. Thực vậy, các nghị phụ nhấn mạnh vai trò của
Công Đồng Vatican II trong việc thúc đẩy phong trào đại
kết. Chúng ta chứng kiến những bước tiến chắc chắn
và đều đặn hướng về hiệp nhất, một số kết quả
đầy triển vọng đã bắt đầu hiện lộ ra. Tôi đã
tham dự buổi cầu nguyện cùng với mười quan sát viên
đến từ các nhóm và các Giáo Hội khác nhau để tham gia
vào cuộc đối thoại thần học với Giáo Hội Công Giáo.
Tất
cả những vấn đề ấy nằm ở trung tâm ưu tư của
Thượng Hội Đồng, và đã dấy lên một sự hưởng ứng
sôi nổi. Một lần nữa, Thánh Thần đã nói với Giáo
Hội với “tiếng nói như nước lũ” (Kh 1,15;
2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Chúng ta hãy chú ý lắng nghe Ngài.
Bản
Báo Cáo Chung Kết của Thượng Hội Đồng là một tổng
hợp quan trọng các suy tư và các điểm nhắm cho tương
lai mà mọi người được kỳ vọng hướng tới. Đây
không phải là những từ ngữ suông. Đây là một nỗ lực
mời gọi cầu nguyện, lắng nghe và áp dụng. Đây là
những hướng dẫn cho hoạt động mục vụ của Giáo Hội
trong những năm cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai.
Chúng ta hãy lắng nghe Thánh Thần.
29
THÁNG TÁM
Một
Số Công Tác Đặc Biệt
Được Phác Họa Bởi Thượng Hội Đồng Giám Mục
Cuối
kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục này, một số công tác
chuyên biệt được đề ra một cách ưu tiên là:
-
Công bố bản giáo luật cho các Giáo Hội thuộc nghi thức
Đông Phương.
-
Soạn thủ bản giáo lý để được sử dụng cho Giáo Hội
Công Giáo toàn cầu.
-
Nghiên cứu sâu xa về bản chất của các hội đồng giám
mục được tổ chức theo cấp quốc gia.
Ủy
Ban thư ký của Thượng Hội Đồng đã được mời gọi
hợp tác trong việc triển khai một kế hoạch thực hiện
các đề nghị của Thượng Hội Đồng. Về giáo luật
cho các Giáo Hội Đông Phương, một ủy ban đặc biệt
đang làm việc để đảm bảo rằng các Giáo Hội Đông
Phương đáng kính sẽ nhận được một bản giáo luật
không chỉ tôn trọng các truyền thống của các Giáo Hội
này mà nhất là nhìn nhận vai trò và sứ mạng của các
Giáo Hội này trong tương lai của Giáo Hội phổ quát.
Chúng
ta hãy cầu nguyện cho tất cả các công việc này được
hoàn thành nhờ sức mạnh và sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần.
30
THÁNG TÁM
Hướng
Tới Một Giáo Lý Sáng Tỏ
Công
việc chuẩn bị cho Sách Giáo Lý Công Giáo toàn cầu phản
ảnh ước muốn của các nghị phụ về việc giải quyết
dứt khoát một số giáo huấn và diễn dịch đức tin
không am hợp với huấn quyền của Giáo Hội. Các nghị
phụ nhận ra nhu cầu thiết yếu phải có sự sáng tỏ và
chắc chắn về giáo lý để bác bỏ các sai lầm như thế.
Nhằm
mục tiêu đó, Thượng Hội Đồng đã đề nghị phải có
một bản tổng lược tất cả các giáo thuyết Công Giáo
cơ yếu liên quan đến đức tin và các vấn đề luân lý.
Mục đích của chúng ta là sao cho bản giáo lý này có thể
phục vụ như một điểm qui chiếu cho mọi sách giáo lý
được biên soạn bởi các địa phương khác nhau trên thế
giới. Đây không phải là lần đầu tiên các mục tử
của Giáo Hội đòi hỏi phải có sự sáng tỏ hơn trong
việc hướng dẫn đức tin. Điều này đã được đề
cập một cách đặc biệt trong Thượng Hội Đồng giám
mục 1977. Trong Tông Huấn Catechesi tradendae, tôi cũng đã
mời gọi các Thượng Hội Đồng giám mục “kiên trì và
quyết liệt đảm nhận công việc rất quan trọng là hình
thành được sách giáo lý có chất lượng và am hợp với
nội dung cốt yếu của mạc khải.”
Chúng
ta mong muốn thế hệ mới của chúng ta có một đức tin
vững chãi đặt nền trên chân lý Đức Kitô. Chúng ta hãy
cầu nguyện cho sách giáo lý quan trọng này sẽ hướng
dẫn tất cả chúng ta trên khắp thế giới đến một sự
hiểu biết sáng tỏ về chân lý. Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy đến và soi trí mở lòng cho chúng con.
31
THÁNG TÁM
Đâu
Là Vai Trò Riêng Của Các
Hội Đồng Giám Mục Cấp Quốc Gia?
Các
hội đồng giám mục quốc gia đã trở thành một thực
tại sống động, cụ thể trên mọi miền thế giới.
Thượng Hội Đồng nhận thấy nhu cầu cần đào sâu sự
hiểu biết thần học nhất là nền tảng tín lý của
những tổ chức này. Các tổ chức này đã có nhiều đóng
góp rất giá trị cho công việc của Giáo Hội tại những
quốc gia khác nhau. Điề này thật đáng khích lệ. Nhưng
sự phát triển và tầm mức ảnh hưởng ngày càng tăng
của các tổ chức này cũng làm bật lên những vấn đề
về tín lý và mục vụ trong Giáo Hội. Chúng ta tự hỏi:
Các hội đồng giám mục nên phát triển như thế nào?
Đâu là vai trò của các tổ chức này trong đời sống
Giáo Hội?
Chính
Công Đồng Vatican II – trong Sắc Lệnh về các giám mục
và về vai trò quan trọng của các giám mục trong đời
sống Giáo Hội – đã thúc đẩy việc đào sâu nhận
hiểu về nền tảng tín lý của các hội đồng giám mục
quốc gia. Trong Bộ Giáo Luật, cũng có đề cập đến các
hội đồng giám mục này. Giáo luật tuyên bố rằng các
giám mục “liên kết với nhau thực hiện một số chức
năng để thăng tiến những thiện ích mà Giáo Hội cung
ứng cho con người. (GL 447).
Chúng
ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ nơi
các hội đồng giám mục quốc gia – để mọi quốc gia
trên trái đất này có thể được chăm sóc mục vụ hữu
hiệu và được lớn lên trong đức tin
************************
Đăng nhận xét