LẼ
SỐNG THÁNG 8
01
Tháng Tám
Bài
Giảng Của Vị Giáo Trưởng
Trong
một thị trấn nhỏ bên Liên Xô. Một số người Do Thái
đang chờ đón vị giáo trưởng của họ. Đã lâu lắm
cộng đoàn của họ không có người lãnh đạo. Vị giáo
trưởng lại cư ngụ trong một thành phố khác. Ông chỉ
đến thăm cộng đoàn nhỏ bé này mỗi năm một lần. Ai
ai cũng náo nức được gặp con người thánh thiện nổi
tiếng này. Mọi người chuẩn bị những câu hỏi mà họ
sẽ lần lượt nêu lên để xin vị giáo trưởng giải
đáp.
Khi
ông đến nơi, sự căng thẳng càng hiện lên trên nét mặt
của nhiều người. Ai cũng đang trong tư thế giơ tay để
đặt câu hỏi. Nhưng khi mọi người đã an tọa trong
phòng họp, vị giáo trưởng không nói lời nào. Ông đưa
mắt nhìn mọi người. Một hồi lâu, ông bỗng ngân nga
một điệu nhạc. Mọi người đều bắt chước làm theo.
Vị giáo trưởng lại cất tiếng hát lên một bài ca quen
thuộc. Mọi người cũng hát theo ông... Mọi người tưởng
nghi thức mở đầu ấy sẽ chấm dứt và vị giáo trưởng
sẽ nói lên những lời vàng ngọc.
Nhưng
không, trái với sự chờ đợi của mọi người, hết bài
ca này đến bài ca khác, ông không ngừng bắt lên những
bài ca mới. Khi các bài ca vừa dứt, ông bước xuống
khỏi bục giảng và bắt đầu nhảy múa. Ông vừa nhảy
vừa vỗ tay, không mấy chốc cả cử tọa cũng bước ra
khỏi ghế và nhảy theo ông. Tiếng vỗ tay, tiếng hát,
tiếng nhịp chân lôi kéo mọi người vào điệu múa khiến
họ không còn nhớ đến những câu hỏi mà họ đã chuẩn
bị từ mấy hôm trước. Cả cộng đoàn hòa nhịp với
nhau trong đôi chân, cùng nắm tay nhau, cùng khăng khít với
nhau trong phấn khởi, vui tươi, cảm thông, hiệp nhất...
Khi
các điệu vũ đã chấm dứt, mọi người trở về chỗ
ngồi của mình. Lúc bấy giờ, vị giáo trưởng mới lên
tiếng nói và ông chỉ nói có vỏn vẹn một câu ngắn
ngủi như sau: "Tôi tin chắc rằng tôi đã trả lời
cho mọi thắc mắc của anh chị em".
Cô
đơn là nguyên nhân gây ra mọi thứ xáo trộn, bệnh tật
trong chúng ta. Cô đơn đưa chúng ta đến sầu muộn. Sầu
muộn đưa chúng ta đến nổi loạn. Nổi loạn đưa chúng
ta đến tội ác...
Có
những người bị người khác đày đọa cô đơn, nhưng
cũng không thiếu những người tự giam hãm vào cô đơn.
Nhưng đày đọa kẻ khác vào cô đơn cũng có nghĩa là
cắt bớt đi một sợi dây liên kết, là tiến dần đến
chỗ cô đơn.
Để
ra khỏi cô đơn, liều thuốc duy nhất chính là làm cho
người khác bớt cô đơn. Một tiếng hát vui tươi cất
lên để mời gọi mọi người cùng hát với mình, một
tiếng vỗ tay tung ra để mời gọi mọi người cùng phấn
khởi với mình, một nhịp bước đưa ra để mời gọi
mọi người cùng nhảy múa với mình: khi hòa nhịp với
nhau trong một niềm vui chung, người ta sẽ xóa đi được
bao nhiêu vấn đề vướng mắc trong tâm tư.
Có
ra khỏi chính mình để chia vui sẻ buồn với người, có
ra khỏi chính mình để chỉ nghĩ đến những ưu tư phiền
muộn của người, có ra khỏi chính mình để lo lắng cho
người, để giúp đỡ người, chúng ta mới làm vơi đi
được nỗi cô đơn của mình và cũng giúp người bớt
cô đơn.
Cho
thì có phúc hơn nhận lãnh: càng trao ban, càng ra khỏi
chính mình, chúng ta mới cảm thấy vơi nhẹ đi những ưu
tư, lo lắng của mình...
02
Tháng Tám
Nghệ
Thuật Làm Lửa
Thời
xa xưa, tìm được cách làm ra lửa là cả một phát minh
vĩ đại...
Có
một nhà phát minh nọ, sau khi đã tìm được nghệ thuật
làm ra lửa đã đi từ bộ lạc này sang bộ lạc khác để
quảng bá phương pháp của mình. Có nhiều bộ lạc tiếp
thu phương pháp của ông mà không hề bày tỏ một dấu
hiệu nào của lòng biết ơn. Nhưng con người quảng đại
này không màng đến chuyện người ta biết ơn hay phản
bội. Niềm hạnh phúc của ông là thấy được mỗi ngày
càng có được nhiều người hưởng được sự phát minh
của ông.
Cũng
giống như những bộ lạc trước, bộ lạc cuối cùng mà
ông mang đến nghệ thuật làm ra lửa cũng hồ hởi đón
tiếp ông. Nhưng không mấy chốc, các tư tế trong bộ lạc
tỏ lòng ghen tức, họ âm mưu sát hại ông để xóa bỏ
mọi ảnh hưởng của ông. Sau khi mưu sát ông, để đánh
tan mọi nghi ngờ, các tư tế cho vẽ một bức chân dung
của ông và đặt trên bàn thờ. Trong mọi nghi thức tế
tự, tên của ông được thành kính nhắc đến như một
đại ân nhân của bộ lạc. Các dụng cụ ông làm ra lửa
cũng được các tư tế cho đặt vào trong một chiếc hộp
quý. Họ cũng rêu rao rằng bất cứ ai lấy lòng tin mà
chạm đến các báu vật ấy sẽ được chữa mọi bệnh
tật.
Vị
Thượng tế của bộ lạc cũng nhận trách nhiệm biên
soạn một tiểu sử của vị phát minh ra lửa. Quyển tiểu
sử ấy cũng trở thành một thứ sách Thánh trong đó
gương sáng, đời sống gương mẫu của vị đại ân nhân
được ca tụng và đề ra như lý tưởng cho mọi người
noi theo. Các tư tế cũng tự nhận cho họ quyền được
giải thích về cuộc đời và các lời răn dạy của vị
phát minh.
Để
đảm bảo tính cách tinh ròng của những lời răn dạy
của vị phát minh, các tư tế ra vạ tuyệt thông hoặc tử
hình cho tất cả những ai không chấp nhận những lời
giải thích của họ. Dân chúng sợ hãi đến độ dần dà
họ chỉ còn biết có những lưòi giải thích của các vị
tư tế và quên hẳn cả chính nghệ thuật làm ra lửa.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên đây đã được một vị linh đạo
nổi tiếng của Ấn Độ là linh mục Anthony De Mello ghi
lại trong các câu chuyện có nội dung giáo lý của cha.
Qua câu chuyện này, cha De Mello như muốn nhắn nhủ với
chúng ta rằng cái khuynh hướng chung của những người có
tôn giáo là dễ dàng quên đi chính cái cốt lõi của tôn
giáo. Con người dẽ bám vào những nghi thức bên ngoài
của tôn giáo mà quên đi sứ điệp thiết yếu của nó.
Chiến tranh tôn giáo, sự bất khoan dung của các tín đồ
đều bắt nguồn từ khuynh hướng trên.
Người
tín hữu Kitô chúng ta có lẽ cũng không thoát khỏi khuynh
hướng ấy. Chúng ta dễ bị cám dỗ nhìn vào đạo của
chúng ta như một hệ thống của những cơ cấu, của
những nghi thức, của những điều phải tin, phải giữ,
nhưng lại quên đi cái cốt lõi của đạo chúng ta chính
là tình yêu. Chúng ta sẵn sàng nhân danh Chúa, nhân danh
đạo lý để loại trừ, để bách hại người anh em bằng
cách này hay cách khác. Rốt cục cũng giống như bộ lạc
cuối cùng trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây, lửa của
yêu thương mà Chúa Giêsu đã mang đến, chúng ta đã dập
tắt đi để thay vào đó bằng những nghi thức thừa thãi
trống rỗng. Chúng ta dễ dàng thay thế đạo của yêu
thương, đạo của Tin Mừng bằng đạo của hình thức,
đạo của giả hình...
Quên
đi cốt lõi của Tin Mừng là Yêu Thương, chúng ta cũng
loại bỏ chính Chúa Kitô ra khỏi cuộc sống của chúng
ta. Không chừng chúng ta cũng đang đóng đinh Ngài một lần
thứ hai. Lời Kinh của chúng ta sẽ chỉ là những tiếng
kêu trống rỗng, các nghi thức của chúng ta sẽ chỉ là
những trò hề, nếu cuộc sống của chúng ta chưa được
thấm nhuần, tưới gội bằng Lửa của Yêu Thương mà
Chúa Giêsu đã mang đến cho chúng ta
03
Tháng Tám
Dòng
Nước Từ Sa Mạc
Có
một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc
trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt
gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn,
ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào
khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp
tục cuộc hành trình.
Sau
nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm
đủ mọi cách để tiếp kiến với quan đầu tỉnh, ông
dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu
tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào
trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng
thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
Những
người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ
nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng
quan đầu tỉnh nhất mực từ chối... Chờ cho người Ả
Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của
mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên rất bẩn
vàhôi thối. Quan nghĩ rằng, nếu tất cả mọi người
đều uống nước đó và đều tỏ ra khó chịu trước
mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương...
Quà
tặng cao quý nhất mà người Ả Rập đã biếu cho quan
đầu tỉnh chính là những giọt nước đa cứu sống
mình. Quan đầu tỉnh đã tặng cho ông món quà quý giá
nhất bằng cách uống lấy nước ông dâng biếu... Cuộc
đời sẽ đẹp biết bao nếu con người chỉ biết đối
xử với nhau bằng những cử chỉ tế nhị và thân ái.
Một cử chỉ nhỏ mọn đến đâu, nhưng nếu được làm
với tất cả yêu mến sẽ không bao giờ qua đi.
04
Tháng Tám
Sức
mạnh Của Thiên Chúa
Được
biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha
Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính
hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời
thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những
người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh
mẽ".
Năm
1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau
ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha
Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi
nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ
mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng
đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên
Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối
cho cha.
Ngày
nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài
để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng
diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với
cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ
lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn
của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường
đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về
Thiên Đàng".
Thực
ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ
đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng
cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp
nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được
hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý
thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho
đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương
trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém
vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy
sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ
qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Để
thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ
của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ
ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và
giải tội.
Quỳ
lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại
trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu
trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của
mỗi người.
Ngoài
ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội
trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè,
có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối
nhân lại với Thiên Chúa.
Cha
Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là
"Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ,
cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người,
những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Để xoa
dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha
mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi
yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên
Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở
nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến
múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
05
Tháng Tám
Tha
Nhân Không Là Hỏa Ngục
Có
một chàng thanh niên khao khát trở thành một thánh nhân.
Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy chốc, chàng khám phá
ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn
nguyên nơi mình, chàng quy trách cho những người xung
quanh. Tha nhân đã trở thành hỏa ngục đối với chàng.
Sau
cùng, không còn chịu nổi đời sống tập thể nữa,
chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa mạc.
Thế là chàng đã lên đường tìm đến một nơi hoang vu
vắng vẻ để cắm lều sống đời ẩn sĩ. Mà thật thế,
chàng đã tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn...
Tuy
nhiên, sự bình an trong cô quạnh ấy không kéo dài được.
Ma quỷ đã kéo đến và chúng đã gây xáo trộn trong căn
lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh,
chàng đã nổi tam bành và đạp đổ tất cả...
Sau
cơn giận dữ, trở lại trạng thái bình thường, chàng
mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện các anh
em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc.
Không phải anh em tôi là căn nguyên của đau khổ của
tôi, nhưng tính tình của tôi mới là đầu mối của mọi
đổ vỡ...
Chúng
ta được sinh ra trong một gia đình, chúng ta được mời
gọi để sống trong xã hội. Tha nhân không phải là một
trở ngại, nhưng chính là một trợ giúp để chúng ta
phát triển nhân cách và thành toàn.
Tất
cả mọi căn nguyên chính của thất bại và thành công
đều nằm trong ta. Cuộc chiến cam go nhất và liên lỉ
nhất của chúng ta, chính là chiến đấu chống lại bản
thân chúng ta. Xã hội có thể thay đổi, cuộc sống có
thể tốt đẹp hơn nếu chúng ta biết cải thiện con
người của chúng ta trước.
06
Tháng Tám
Bảng
kết tội nhau
Tạp
chí Reader's Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng
một chuyện ngắn, nhưng đầy ý nghĩa về gia đình: Đôi
vợ chồng đã nhiều lần cãi nhau và lần này, đang lúc
hai người cãi nhau hăng say, thì người chồng đề nghị
với vợ: "Này, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Mỗi
người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm,
những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau".
Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy,
nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu. Người
vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, liền hối hả viết
liên hồi, dường như cố ý tranh với chồng, để kể ra
nhiều tật xấu hơn. Người chồng chỉ viết một câu
rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của
người vợ đầy những dòng chữ kể ra tật xấu của
người chồng và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết
nhiều hơn.
Đến
lúc không còn gì để viết nữa, họ trao cho nhau bảng kể
tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét
mặt người vợ bỗng đổi vì xúc động. Bà vội vã đòi
lại tờ giấy đã đưa cho chồng và có thái độ làm hòa
ngay. Trong tờ giấy của người chồng bà chỉ đọc được
có một câu duy nhất: Anh yêu em!
Nếu
tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa
con người với Thiên Chúa, thì con người không bao giờ
dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình
yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với
con người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột,
hận thù lẫn nhau nữa.
07
Tháng Tám
Con
Bọ Cạp Giữa Dòng Sông
Một
tín đồ Ấn giáo nọ xuống dòng sông Gange để thanh tẩy
và cầu nguyện...
Ông
đang trầm mình giữa dòng sông thì bỗng đâu rác rưởi
tấp lại dày đặc xung quanh ông. Trong đống rác, một
con bọ cạp đang chao đảo chới với giữa dòng nước.
Sẵn lòng khoan dung đối với thú vật, người tín đồ
Ấn giáo mới chìa cánh tay ra để cứu vớt con vật.
Nhưng cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật dùng chiếc
vòi độc của nó đốt lấy. Người đàn ông không mất
kiên nhẫn, con vật càng hung hãn, ông càng chịu đựng để
nó dùng nọc độc chích liên hồi, miễn là cứu sống nó
thoát khỏi dòng nước đang cuốn trôi.
Có
người theo dõi cảnh tượng, mới trách người tín đồ
như sau: "Ông mất giờ vô ích. Nó là con bọ cạp,
bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích mà
thôi".
Người
tín đồ Ấn giáo mới điềm nhiên trả lời: "Bản
chất của con bọ cạp là dùng nọc độc để chích,
nhưng bản chất của con người là cứu vớt".
Chúng
ta dễ có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại
người: xấu và tốt, bạn và thù... Kẻ xấu là người
đáng xa lánh, người thù thì phải oán căm sâu sắc...
Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc "biệt phái".
Những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài
biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã
không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn, mà chỉ
bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy,
hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được
tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả
mọi người đều có chung một danh xưng; đó là anh em của
nhau...
08
Tháng Tám
Vị
Thánh Của Kinh Mân Côi
Đaminh,
vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời
năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng
ngay từ nhỏ, Đaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài
ra, Đaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ
thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.
Khi
làm linh mục, rồi kinh sĩ, Đaminh nổi bật về lòng ngay
thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như
được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc
bên nước Nga, nhưng Đức Innocentê thứ 3 lại cử ngài
đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn
sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Đaminh
xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc
sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các
tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể
rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc
sống của mình. Chính Đaminh đã là người đầu tiên làm
gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ
dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.
Vào
năm 1216, Đức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha
Đaminh sámg lập mang tên "Dòng anh em giảng thuyết"
thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Đaminh
ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Đaminh 5 năm vắn vỏi
để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời
gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây
Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo
trở về với Giáo Hội.
Trong
suốt cuộc sống, Đaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu
nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Đức
Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một
dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha
Đaminh qua đời tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ
13 năm sau, vào năm 1234, Đức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài
lên bậc hiển thánh.
Có
một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Đaminh:
Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên
Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu
bàu của Đức Maria. Đức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình
ảnh: một hình ảnh là chính Đaminh và hình ảnh kia là
một người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày
hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Đaminh thấy
người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm
chầm Đaminh và nói: "Anh là người đồng hành với
tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không
quyền lực nào có thể thắng chúng ta". Nhìn kỹ,
Đaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành
Assisi.
Cuộc
gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các
tu sĩ Đaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính
hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi
vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những
lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong
việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý
tưởng mà dòng Đaminh cũng như của các dòng khác không
phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để
chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện
sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời
khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Đó cũng là ba nhân
đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức,
tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.
09
Tháng Tám
Xin
Hãy Dùng Con Như Khí Cụ Bình An!
Ngày
09/8 hàng năm, hàng ngàn người Nhật Bản và nhiều du
khách tập trung về Đài Hòa Bình tại Nagasaki để tưởng
niệm quả bom nguyên tử đầu tiên được ném xuống Nhật
Bản.
Đúng
11 giờ 03 phút, giờ định mệnh của thành phố Nagasaki,
từng đám đông dừng lại trong thinh lặng, trong khi đó
từ các tháp chuông trên khắp nước, từng hồi chuông
ngân vang để tưởng niệm giây phút đau thương của
Nagasaki.
Ngày
09/8/1945, quả bom nguyên tử đầy tiên đã giết hại
khoảng 70 ngàn người và tiêu hủy gần như trọn vẹn
thành phố Nagasaki. Ba ngày sau đó, quả bom thứ hai cũng
được trút xuống trên Hiroshima nâng tổng số những
người thiệt mạng lên đến gần 140,000 người. Và gần
đây, hơn hai người còn sống sót từ dạo đó cũng vừa
qua đời vì ảnh hưởng của phóng xạ.
Lên
tiếng trong một tuần lễ tưởng niệm, ông Motoshima, thị
trưởng Nagasaki đã phát biểu như sau: "Qua kinh nghiệm
đau thương này, những người công dân của thành phố
Nagasaki đều nhận thấy rằng: bom nguyên tử có thể hủy
diệt toàn thể nhân loại. Do đó, chúng tôi đã không
ngừng kêu gọi hủy bỏ các vũ khí hạt nhân". Bài
diễn văn trên đây của ông thị trưởng Nagasaki đã được
sao gửi đến các vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới.
Cũng
trong bài diễn văn này, ông Motoshima đã tha thiết kêu gọi
Liên Xô và Hoa Kỳ hãy ngồi vào bàn hội nghị với nhau
và hãy quyết tâm cam kết thực hiện sự chung sống hòa
bình giữa Đông và Tây cũng như làm mọi cố gắng để
giải trừ vũ khí hạt nhân...
Đoạn
trường ai có qua cầu mới hay. Có một lần trải qua đau
thương như người Nhật Bản, cách riêng những người
Nagasaki và Hiroshima, con người mới thấy được thế nào
là sự tàn phá của bom nguyên tử và sự khao khát hòa
bình.
Lời
kêu gọi trên đây của ông thị trưởng thành phố
Nagasaki có lẽ không chỉ được ngỏ với các vị nguyên
thủ quốc gia, hoặc hai cường quốc Hoa Kỳ và Liên Xô.
Lời kêu gọi đó cũng phải được truyền đến tận tai
của từng người. Bởi vì hòa bình không phải chỉ là
vấn đề của một số người, hoặc của một số quốc
gia. Hòa bình là vấn đề của từng người. Nó là cố
gắng xây dựng của từng ngày và của từng người.
Nhưng
hòa bình không chỉ là thành quả của những cố gắng.
Nó còn là một ân ban mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể
trao tặng cho con người... Ngày 27/10/1986, cuộc gặp gỡ
cầu nguyện cho hòa bình của các vị đại diện các tôn
giáo trên thế giới đã nói lên được chiều kích đích
thực của hòa bình: hòa bình phải xuất phát từ tâm hồn
con người.
Con
người cần phải cầu nguyện cho hòa bình. Chính trong
cuộc gặp gỡ thâm sâu trong tâm hồn giữa con người và
Thiên Chúa mà hòa bình đích thực mới phát sinh. Cho dù
có hủy bỏ mọi vũ khí hạt nhân, cho dù có ký mọi hòa
ước, nếu con người chưa dẹp bỏ mọi thứ vũ khí khác
trong tâm hồn, mầm mống của chiến tranh vẫn còn đó...
10
Tháng Tám
Tài
Sản Của Giáo Hội
Hôm nay,
Giáo Hộ kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất
nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó
là thánh Lôrenxô. Thật ra, người ta biết rất ít về vị
thánh này...
Theo tương
truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục
vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có
lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của
Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể
lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi
của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản
lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo.
Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo
Hội.
Sau khi Ðức
Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay
đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải
qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các
bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của
Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho
số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các
chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động
bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên
thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất
nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để
cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế
khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp
đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội.
Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn
tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng
trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên
bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị
trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức
ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên
một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình
thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như
một con thú...
Câu chuyện
trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn
kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một
vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này,
chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết
vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng
được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối
với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và
chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người
Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những
sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế
tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều
hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ
cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng
như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người
Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn
vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử
đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng
nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ
của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của
lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí
trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt
đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng
là một cuộc tử đạo dai dằng
11
Tháng Tám
Cô
Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi
Một
trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời
của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện
cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị
thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Đạo diễn của cuốn
phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử
trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy
nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút
mắt.
Trong
thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến
nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu
để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối
kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt
qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho
đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một
người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc
lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ
đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm
y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải
thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây
thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc
óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi
một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả
Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã
bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn
dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và
giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Đó là những dấu
hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn
sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Đức Giêsu đã
dạy.
Đế
sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước
từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả
với tính cách là của chung.
Nhu
cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của
bố thí. Khi Đức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực
hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng
khái trả lời: "Thưa Đức Thánh Cha, chúng con cần
cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con
khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo
chân Chúa Giêsu".
Trong
bốn bức tường tu viện tại San Đamianô gần Assisi,
Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu
bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực
trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu
trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng:
Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói
mắt mọi người.
Trong
27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã
thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo
chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.
12
Tháng Tám
Món
Quà Vô Giá
Một
người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh.
Trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi
người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà.
Tuyệt nhiên, bà không hề đá động đến cô gái nghèo
và trung thành hầu hạ bà từng giây từng phút. Quà tặng
duy nhất mà bà tặng cho cô đó là một thánh giá được
bọc thạch cao.
Cô
gái nhận lấy món quà nhưng lòng cô đầy cay đắng buồn
phiền. Cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu
hạ sớm hôm để rồi chỉ được món quà không ra gì.
Không
còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt cay đắng,
cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném tung trên
nền nhà. Cây thập giá vỡ tung và kìa, trước sự ngạc
nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi
lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng
ánh...
Cô
gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ
khi cô nhận ra giá trị của món quà... Lắm khi Thiên Chúa
cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc
bằng hình thù của thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ
thê thảm của thập giá làm ta không thể hiểu được
lòng tốt của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta,
Thiên Chúa không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta. Tất
cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa
chúng ta đến nguồn hạnh phúc cao cả hơn.
13
Tháng Tám
Bức
Tường Ô Nhục
Ngày
13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa
Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh
lạnh giữa hai khối Đông và Tây, Kruschev, chủ tịch nhà
nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường
ngăn cách Đông và Tây Bá Linh. Bức tường này được
dựng lên không những để đánh dấu sự đọan tuyệt
giữa Đông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng
những người Đông Đức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại
Tây Bá Linh. Khối Đông Âu thì giải thích rằng bức
tường này được dựng lên là để ngăn chặn những
người Tây Phương có thể đến Đông Đức để làm gián
điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó
là bức tường ô nhục... Nhưng dù được gọi dưới
danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào,
bức tường ngăn cách giữa Đông và Tây Bá Linh vẫn mãi
mãi là biểu trưng của những chia cách giữa con người
mà chính con người đã tạo nên...
Có
những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị,
chủng tộc, văn hóa do con người dựng lên... Nhưng cũng
có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có
thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.
Bức
tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi
kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở bằng
kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm
ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những
ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn giam hãm
chính mình trong cô đơn...
Bức
tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người
ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt,
bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
Bức
tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm
thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn
nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
Nhưng
bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong
sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con người càng mất
mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến
với tha nhân càng triển nở trong nhân cách...
14
Tháng Tám
Còn
Tình Nào Cao Quý Hơn
Vào
khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi
trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người
Đức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân
đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.
Duyệt
qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào
các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị
tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước
mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha
Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: "Vợ tôi, con
tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con
tôi". Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ
mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh...
Sau
này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha
Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong
trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn
tượng cao đẹp vàsâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó
không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh,
vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để
chuộc mạng cho người khác...
Liên
tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn
đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài
quá lâu khiến những người Đức quốc xã không thể chờ
đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc
đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân
xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được
rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu
thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao
được hóa thành tro bụi vì Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm
nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi
trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn
sót lại...".
Nhà
tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của
hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều
người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã
man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại
tập trung thời Đức quốc xã...
Nhà
tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên
Đàng: Thiên Đàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương,
tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm
nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy
sinh càng cao.
"Không
có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí
mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên
bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài.
Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là
sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người,
nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã
yêu và yêu cho đến cùng...
Cái
chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được
tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Đã có rất
nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch
sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người
vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng
ngày của mình...
Hôm
nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã
chết thay cho một người bạn tù. Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt
ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm
của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã
hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được
mời gọi để quên mình và sống cho người khác.
15
Tháng Tám
Marilyn,
Chúng Tôi Thông Cảm Với Cô
"Marilyn,
chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà
hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi
đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn
Monroe tại nghĩa trang Westwood, nằm ở phía Tây thành phố
Los Angeles.
Hiện
nay, từng giây, từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du
khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ
minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh
với mái tóc bạch kim óng ả lặng lẽ ra đi không một
lời dã biệt. Cuộc quên sinh của cô, cho đến nay vẫn
còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa
lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy
cái chết...
Randall
Reise, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã
nhận định như sau: "Marilyn không còn là một con
người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô
không còn là một nhân vật của Holywood nữa. Cô đã trở
thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
Marilyn
đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh
tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành
một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con
người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Đâu
là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm
cho con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là
hiện thân của những câu hỏi ngàn đời ấy...
"Marilyn,
chúng tôi thông cảm với cô", bởi vì cô đã không
ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về
cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu
một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa
nào hơn là cái chết...
Hôm
nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời...
Ngày
22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn
nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn
Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm
thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Đức Mẹ. Đức Mẹ
đã chết. Đó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà
các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
Chết
là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa
Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có
nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Đức
Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về
trời. Với Chúa Giêsu và Đức Mẹ, cái chết là khởi
đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống,
bởi vì có chết mới được sống đời đời...
Nếu
cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt
ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ
Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất
nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý
nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở
thành chính niềm hy vọng của chúng ta.
Trong
một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã
từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của
cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành
khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Đức Maria
đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm
tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin
cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là
đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của
cuộc sống.
16
Tháng Tám
Anh
Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng Thành
Ngày
16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được
xem như là thần tượng của nhạc Rock tại Hoa Kỳ trong
thập niên 70.
Xuất
thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát,
Elvis thường trở thành trò cười cho bạn bè trong lớp.
Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ trở thành ca sĩ,
Elvis đã thắng được tính nhút nhát của mình để trở
thành một ngôi sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ
quốc...
Danh
vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp
chuẩn bị cho mình một triết lý sống vững chắc. Anh
mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy xa hoa.
Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết
bao nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã
đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn phiền...
Sự
ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy
khoảng trống vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và
các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực để
xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh...
Buổi
sáng ngày 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc
sách, Elvis đã được tìm thấy trong phòng tắm của anh,
mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả mãnh liệt
với tử thần... Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở
vào bệnh viện.
Priscilla,
người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau:
"Cái chết của Elvis khiến tôi nghĩ nhiều về chính
cái chết của tôi... Tôi chợt nhận ra rằng tôi cần
phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành
một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để
có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang đến
với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi
chính những người ái mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của
chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ
sống như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng
thành, anh chưa bao giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của
anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài".
Bảo
rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh
phúc có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã
đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời này,
rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề...
Thánh Augustinô đã được coi như là một hiện thân của
một cuộc tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc
trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc
v.v..., tất cả chỉ để lại trong tâm hồn ngài nỗi
trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý:
"Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn
con chỉ ngơi nghỉ khi được yên nghỉ trong Chúa...".
Phải,
chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh
phúc trong lòng người... Người Kitô chúng ta luôn được
mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái chóng qua ở
đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi
không phải là tiền của, danh vọng, nhưng chính là Chúa
và những giá trị của Nước Trời.
17
Tháng Tám
Tiếng
Thì Thầm Của Sa Mạc
Một
nhà thám hiểm nọ lạc mất giữa sa mạc. Đi từ dụm
cát này đến cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang
hướng kia, nơi đâu ông cũng thấy toàn là cát với cát.
Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một
gốc cây khô. Ông vấp ngã và nằm vùi bên gốc cây. Ông
không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ
sức để chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng
sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm
bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề
chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên. Trong
sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe
được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên
tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận
thức đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ
xa vọng lại.
Như
sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát
của tiếng suối. Rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại,
ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối...
Cuộc
sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào khiến chúng ta
không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện
của Chúa.
Có
những ồn ào của những bận tâm thái quá cho danh vọng,
cho tiền của, cho tương lai. Có những ồn ào của tham
lam giành giật không đếm xỉa đến người khác. Có
những ồn ào của sôi sục cừu hận, báo thù...
Có
thinh lặng trong cõi lòng, chúng ta mới nghe được tiếng
thì thầm mời gọi của Chúa trong từng phút giây của
cuộc sống. Có thinh lặng, chúng ta mới nhận ra được
tiếng Ngài qua những khóc than của không biết bao nhiêu
người bất hạnh xung quanh. Có thinh lặng, chúng ta mới
nghe được lời an ủi, đỡ nâng của Ngài giữa gánh
nặng chồng chất của cuộc sống...
18
Tháng Tám
Ngài
Là Sự Bình An Của Chúng Ta
Năm
1899, cuộc xung đột biên giới giữa hai nước Chile và
Argentina suýt đưa tới một cuộc chiến tranh khốc liệt...
Mùa Phục Sinh năm 1900, quân đội của hai bên đã sẵn
sàng giao tranh với nhau.
Trong
suốt tuần thánh năm đó, vị tổng giám mục Buenos Aires
của Argentina đã đưa ra một lời kêu gọi tha thiết về
Hòa Bình. Sứ điệp của ngài đã không mấy chốc được
truyền sang Chile. Các giám mục của nước này cũng hưởng
ứng nhiệt liệt lời kêu gọi. Giáo hội của hai bên đã
làm áp lực để hai chính phủ ngồi vào bàn hội nghị
với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.
Không
mấy chốc, một hòa ước đã được hai nước ký kết.
Để nói lên thiện chí xây dựng hòa bình, quân đội
Argentina đã gom góp lại một số khí giới và nung lên để
rồi đúc thành một tượng Chúa Giêsu. Bức tượng đã
được đặt tên là "Đức Kitô của dãy núi Andes".
Andes là dãy núi nơi đã có cuộc xung đột giữa hai quốc
gia. Cánh tay phải của bức tượng được mở rộng để
ban phép lành, còn cánh tay trái cầm thánh giá.
Chính
phủ Argentina đã quyết định đưa bức tượng lên đỉnh
núi ở cao độ gần 4 ngàn thước. Xe lửa di chuyển bức
tượng đến chân núi. Sau đó, người ta dùng chính các
chiến xa do lừa kéo để đưa bức tượng lên núi. Và
cuối cùng, khi đến gần đỉnh núi, chính các quân nhân
là những người hoàn thành công tác còn lại.
Sau
khi đã dựng bức tượng, người ta viết dưới bệ của
bức tượng như sau: "Những ngọn núi này sẽ sụp
xuống và biến thành cát bụi nếu nhân dân của Chile và
Argentina quên đi lời giao hòa mà họ đã long trọng ký
kết dưới chân Đức Kitô". Trên mặt khác của chân
tượng, người ta cũng đọc thấy câu trích từ thư của
thánh Ephesô như sau: "Chính Ngài là sự bình an của
chúng ta. Ngài đã làm cho đôi bên bị chia rẽ nên một".
Giải
thưởng Nobel Hòa Bình năm 1990 đã được quyết định
trao tặng cho tổng thống Gorbachov của Liên Xô. Cả thế
giới đã nhìn nhận vai trò của ông trong việc đạp đổ
bức tường ô nhục Bá Linh và các chế độ cộng sản
tại Đông Âu, cũng như góp phần dập tắt cuộc chiến
tranh giữa hai khối cộng sản và tư bản.
Hòa
bình mà tổng thống Gorbachov góp phần kiến tạo phải
chăng không là kết quả của một sự "đạp đổ":
chỉ khi nào những bức tường của kỳ thị, của bách
hại, của hận thù, của độc tôn bị đạp đổ thì Hòa
Bình mới thực sự chớm nở...
Người
La Mã ngày xưa thường nói: Nếu muốn Hòa Bình, hãy chuẩn
bị chiến tranh. Còn cuộc chiến nào gay go, khốc liệt
cho bằng cuộc chiến để đạp đổ những bức tường
của hận thù, của bạo động, của bất khoan dung trong
tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự
có bình an trong tâm hồn và người người mới thực sự
có Hòa Bình khi những bức tường ấy được đạp đổ
trong chúng ta.
19
Tháng Tám
Hãy
Nhìn Lên Cao
Dạo
cuối tháng 4/1990, ở cao độ 620 cây số trên biển Thái
Bình Dương, cánh tay dài 12 thước của người máy từ
phi thuyền con thoi Discover đã đưa ống thiên văn Hubble
rời xa phi thuyền để đi vào quỹ đạo không gian, bắt
đầu một cuộc hành trình quan sát vũ trụ được dự
trù kéo dài trong suốt 15 năm, mở đầu cho một kỷ
nguyên mới trong ngành thiên văn học.
Do
nhu cầu tìm hiểu vũ trụ, kính thiên văn đã được ra
đời cách đây khoảng 380 năm. Nhờ kính thiên văn, các
nhà thiên văn học mới có thể quan sát một cách chi tiết
những thiên thể ở gần trái đất và từ đó đưa ra
những định lý căn bản cho ngành thiên văn học. Ngày
nay, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là những
máy điện toán, những kính thiên văn ngày càng được
cải tiến về kỹ thuật cũng như kích thước để gia
tăng khả năng quan sát. Hai kính thiên văn có đường kính
lớn nhất hiện nay được đặt trên đỉnh núi Palomar và
Caucasus. Nhưng dù được cải tiến cách mấy đi nữa,
khoảng cách quan sát và mức độ phân giải của kính
thiên văn đặt trên mặt đất vẫn còn bị giới hạn,
vì ánh sáng từ các thiên thể trước khi đến mặt đất
đã bị ngăn cản và tản xạ nhiều bởi lớp khí quyển
bao quanh trái đất.
Ý
tưởng về kính thiên văn đặt ngoài không gian đã được
đề cập đến năm 1923, nhưng mãi đến năm 1981, ý tưởng
này mới được thực hiện với một kinh phí khổng lồ
là 1 tỷ rưỡi Mỹ kim. Kính thiên văn đặt ngoài không
gian trái đất này mang tên khoa học gia Hoa Kỳ Edwin
Hubble, một trong những tài năng lỗi lạc nhất trong ngành
thiên văn học.
Sự
ra đời của kính thiên văn Hubble có thể so sánh với sự
ra đời của kính thiên văn đầu tiên của Galilêô vào
năm 1609: đây là bước tiến quan trọng trong ngành thiên
văn học, nó giúp con người tiến đến gần chân lý hơn
trên con đường tìm hiểu vũ trụ.
Càng
lên cao, con người mới nhìn xa thấy rộng. Càng ra khỏi
mặt đất, càng lên cao trên không gian, nhãn giới của
chúng ta càng mở rộng. Cũng giống như ống kính thiên
văn Hubble, người Kitô hữu cũng được trang bị bằng
cái nhìn từ trên cao. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta nhìn
thấy được ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta biết được
đâu là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Nhờ cái
nhìn ấy, chúng ta có thể nhìn thấy dấu vết của một
tình yêu luôn hiện diện và tác động trong lịch sử
nhân loại và của từng người.
Khi
Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, Phêrô
kéo Ngài lại và can gián Ngài. Chúa Giêsu đã quở trách
ông: "Hãy lui ra đằng sau ta hỡi Satan. Ngươi là cớ
vấp phạm cho Ta, bởi vì cái nhìn của ngươi không phải
là cái nhìn của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Lắm
lúc chúng ta cũng khước từ cái nhìn trên cao của Thiên
Chúa để chỉ nhìn vào cái biến cố bằng cái nhìn trần
tục của chúng ta. Với cái nhìn trần tục, chúng ta chỉ
thấy màu đen của thất bại, chết chóc, thất vọng,
buồn thảm. Nhưng với cái nhìn của Chúa, sự yếu đuối
sẽ trở thành sức mạnh, mất mát sẽ trở thành lợi
lộc, khờ dại sẽ trở thành khôn ngoan. Trong cái nhìn
của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy ánh sáng, hy vọng, tin
tưởng, lạc quan.
Thánh
Phaolô đã khuyên chúng ta: "Hãy yêu thích những sự
trên trời". Hãy mặc lấy cái nhìn từ trên cao. Hãy
luôn sống và hành động bằng những tâm tình của chính
Chúa Giêsu.
20
Tháng Tám
Hai
Vì Sao Mỉm Cười
Một
vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày
không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh
núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa
ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ
hy sinh của ông.
Ngày
nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn
vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương
leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo.
Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô
bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không
mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn
sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn
sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng
ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không
ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời
thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ
càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc, vị ẩn
sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại
trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông
cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé
gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống
nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông
cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng
giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến
mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông,
khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai
vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.
Để
mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu
thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần ngại
đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những
kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn
thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô. Ngài đã chọn ông
vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô
khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn
với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã
tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau:
"Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy
thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học
hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của
lễ".
Qua
thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn
cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi
của Đạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc
ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà
con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một
vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ
chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một
hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là
một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người
phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để
đến với người khác. Một hành động bác ái đích thực
phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản
thân.
Nói
như mẹ Têrêxa Calcutta: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao
ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát,
đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi
không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao
ban chính tôi.
Khi
tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét
đắng, đó mới thật sự là một hành động bác ái. Khi
tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo
của người khác, đó mới là một hành động bác ái.
Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến
tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi
đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên
Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích
thực".
21
Tháng Tám
Kẻ
Thù Trong Mơ
Đời
Trang Công, nước Tề, có một người đàn ông nọ đêm
nằm cứ thấy chiêm bao có một người to lớn, mặc áo
vải quần gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng chửi,
rồi lại nhổ vào mặt mà đi... Ông ta giật mình tỉnh
dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không tài nào ngủ lại
được.
Sáng
hôm sau, ông nói chuyện với một người bạn với lời
lẽ như sau: "Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi vốn là
một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa
hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua, có người đã
đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ được kẻ ấy
để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc
tôi phải chết mất".
Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.
Kể từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.
Đã
tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, nay lại hậm hực
thêm vì không tìm thấy kẻ thù, ông ta trở về nhà uất
người lên và chết.
Nhà
diễn giả hùng biện nhất của đế quốc La Mã là Cicero
có nói: "Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của
chính mình". Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ
thù, để rồi đi tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy
hoại chính mình phải chăng không là một minh họa cho câu
nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất
của chính mình, bởi vì con người tự tạo cho mình kẻ
thù để tự tiêu diệt chính mình.
Chúa
Giêsu không đến để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái
lại bày tỏ bộ mặt thực của nó và đánh bại nó. Thù
hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù đúng
nghĩa nhất. Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người
và đặt con người vào thế chống đối và tiêu diệt
nhau.
Chúa
Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu
thương tha thứ của Ngài. Chỉ có yêu thương và tha thứ
mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ thù.
Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã
không ngừng nói với chúng ta: "Hãy yêu thương kẻ
thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi".
Nếu
con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình,
thì quả thực chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt nó ngay
chính trong chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang cừu hận là
lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính
mình. Chính khi chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho
những kẻ thù ghét hãm hại chúng ta, là chính lúc chúng
ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại
chính mình.
22
Tháng Tám
Trinh
Nữ Vương
Hiện
nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh
Quốc, Hòa Lan, Thụy Điển, Thái Lan, chức nữ hoàng và
quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai
trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.
Giữa
trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức
chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh:
"Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được
sống, được vui, được cậy..." lượt dịch bài
bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: "Salve Regina..."
vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ
Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn
con cái đối với mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc
cho thế sự đổi thay.
Trong
tông huấn mang tựa đề: "Lòmg sùng kính Đức Mẹ
Maria", Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa
về Đức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm
nay đại khái như sau: "Lễ này là tiếp diễn lễ Đức
Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Đức Mẹ Hồn
Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ
Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi
của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân
loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ
Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ
bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là
người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân
hiền".
Lời
giải thích của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây
giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của Mẹ Maria theo tinh
thần của cộng đồng Vatican II. Đó là liên kết vai trò
của Đức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu
rỗi của Ngài.
Theo
dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân
chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững
trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ
ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá
làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh
sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của tình
yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại
đang khao khát tình yêu chân thật, làm động lực để
biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa
Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá,
trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu tình yêu của
Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống
trị với con Mẹ trong Nước Trời.
23
Tháng Tám
Hoa
Đầu Mùa Của Mỹ Châu
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên
của Châu Mỹ. Thánh nữ có hai đặc điểm mà dường như
vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống
khắc khổ.
Chọn
thánh nữ Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn
vẹn cho Thiên Chúa. Sợ nhan sắc của mình có thể quyến
rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho chính
mình, Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến mình thành
một người xấu xí. Cô cũng lấy thép cuốn thành vòng
gai nhọn đội trên đầu.
Nhưng
Rosa không phải là một con người mơ mộng viển vông.
Khi thấy gia đình gặp khó khăn về kinh tế, Rosa đã hy
sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá
suốt đêm để kiếm tiền đắp đổi cho gia đình. Sống
cho cha mẹ, lo cho gia đình, nhưng Rosa vẫn quyết tâm dâng
hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để
chống lại ý định của cha mẹ nhằm cưỡng bách cô
phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì cha mẹ cũng không
chấp nhận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba
thánh Đa Minh. Như thế cô vừa sống được lý tưởng tu
dòng vừa sống thánh giữa đời.
Trong
những năm cuối đời, Rosa dành một phòng trong nhà để
đón tiếp trẻ em không nhà không cửa và những người
già cả bệnh tật. Đây là một trong những hình thức
hoạt động xã hội đầu tiên tại Pêru.
Rosa qua đời năm 31 tuổi. Cả thành phố
Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết hợp
tinh thần chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.
Thánh Rosa kể lại rằng trong một giấc mơ,
ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc dành
cho những người muốn nên thánh. Thánh nhân chứng kiến
cảnh không biết bao nhiêu người đang ngồi trước các
khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong một
tác phẩm nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục
đẽo trên một phiến đá sần sù, cứng nhắc. Thánh nữ
cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và
đặt ngồi trước một phiến đá lớn. Người mẫu của
tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên Chúa đã đặt để
từ đời đời trong thánh nữ.
Mỗi ngày chúng ta kính nhớ một vị thánh. Mỗi
một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta về ơn gọi nên
thánh của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào
giống vị thánh nào. Không ai bắt buộc phải sống khuôn
dập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi người là một
vị thánh cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số
chung: đó là họa lại hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc
đời của mình.
Và hình ảnh mà Thiên Chúa muốn mỗi người
chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính mình là Đức
Giêsu Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Đức
Kitô, mà còn sống bằng chính Đức Kitô. Họa lại Đức
Kitô cũng có nghĩa là để cho Đức Kitô uốn nắn, tạc
vẽ cho đến khi nào chúng ta đạt được tầm mức của
Ngài.
24 Tháng Tám
Tách Nước Tràn Đầy
Để đả phá sự kiêu ngạo, người Nhật
Bản thường kể câu chuyện sau: Có một nhà hiền triết
nọ nổi tiếng về sự khôn ngoan và kiến thức. Ai ai
cũng tìm đến vấn kế.
Để kiểm chứng điều đó, một hôm có một giáo sư đại học đến xin tiếp kiến nhà hiền triết. Ông trang bị cho mình không biết bao lý lẽ và kiến thức.
Để kiểm chứng điều đó, một hôm có một giáo sư đại học đến xin tiếp kiến nhà hiền triết. Ông trang bị cho mình không biết bao lý lẽ và kiến thức.
Khi ông giáo sư đại học an tọa trong phòng
khách, nhàhiền triết mới đưa một bình trà thật nóng
ra tiếp khách .Ông bắt đầu rót nước vào tách của ông
giáo sư . Những giọt nước trà nóng hổi không mấy chốc
đã tràn ra tách, nhưng nhà hiền triết vẫn điềm nhiên
rót tiếp. Nước tràn ra cả khay... Ông giáo sư nhìn nước
tràn ra khay rồi nghĩ thầm trong lòng: thì ra con người mà
thiên hạ tôn thờ như bậc thánh hiền chỉ là một con
người lơ đễnh, bất chấp... Không còn đủ kiên nhẫn
nữa, vị giáo sư mới nói lớn: "Thưa ngài tách trà
đã đầy tràn, nước đang chảy lai láng ra bên ngoài cả
khay kìa".
Lúc bấy giờ nhà hiền triết mới dừng tay
lại và nói: "Cũng giống như tách này, đầu óc của
ông tràn đầy văn hóa, kiến thức, tư tưởng và những
định kiến. Nếu ông không dốc cạn tách trà của ông,
thì làm sao tôi có thể nói với ông về triết thuyết
của tôi, bởi vì triết thuyết của tôi chỉ dành cho
những con người đơn sơ và cởi mở".
Có dốc cạn tâm hồn, có trở nên nghèo nàn,
con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy. Cái
nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người
tìm cách lấp đầy tâm hồn mình bằng những của cải
chóng qua ở đời này, thì đó cũng là lúc con người cảm
thấy trống vắng nhất trong tâm hồn. Trái lại, càng dốc
cạn chính mình, càng trở nên nghèo nàn, con người càng
được Thiên Chúa lấp đầy, con người càng tìm thấy
bình an và hạnh phúc đích thực.
25 Tháng Tám
Giấc Mơ Của Một Thi Sĩ
Thi sĩ Sully Prudhomme, người Pháp đã có lần
tưởng tượng ra một giấc mơ như sau:
Ông mơ thấy một nhà nông bảo ông hãy cầm
cày lấy đất, trồng lấy lúa, gặt lấy thóc, làm lấy
gạo mà ăn. Ông mơ thấy người thợ dệt bảo ông hãy
đánh lấy chỉ, dệt lấy áo mà mặc. Ông mơ thấy người
thợ nề bảo ông hòa lấy vữa, xây lấy nhà mà ở. Còn
gì nữa? Ông đã thấy mọi người bỏ ông, xa lánh ông,
để ông trơ trọi với cảnh vật. Ông kinh hãi. Ông kêu
cầu, khẩn hứa nhưng chỉ thấy mãnh thú xuất hiện trên
đường.
Có lẽ không có bao nhiêu người đã mơ giấc
mơ nói trên. Nhưng chắc chắn nhiều người chỉ nghĩ đến
mình, tưởng rằng một mình có thể sống giữa vũ trụ,
không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ.
Không ai là một hòn đảo. Chúng ta đều bị
ràng buộc với mọi người, chúng ta đổi công việc của
chúng ta với công việc của người khác, chúng ta phụng
sự người vì người đã phụng sự chúng ta.
Nhưng chúng ta không chỉ sống trong tình liên
đới về mặt vật chất. Con người còn liên đới nhau
về mặt hạnh phúc và đau khổ. Không ai hạnh phúc một
mình và không ai một mình có thể chịu nổi sự đau khổ.
Nhờ người, ta mới vui và nhờ người, ta mới trút bớt
những cơ cực của ta. Thế giới này quá nặng khiến một
người có thể mang nổi và sự khổ cực của vũ trụ
quá lớn cho một trái tim.
26 Tháng Tám
Gia Đình Là Nền Tảng Của
Vũ Trụ
Án Tử, người nước Tề, nổi tiếng là
một người thanh liêm và thủy chung. Xuất thân từ một
gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh buôn tảo bán
tần để nuôi ăn học. Đỗ đạt làm quan, Án Tử không
bao giờ quên ơn ấy của vợ. Cuộc sống đầy cạm bẫy,
ông vẫn một mực trung thành với vợ.
Một hôm vua Cảnh Công đến thăm ở lại
dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà đã già xuất
hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người
đàn bà đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng
sốt. Ông đề nghị với Án Tử: "Ôi vợ khanh trông
vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái
vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu, khanh
nghĩ sao?".
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát,
không chút do dự: "Nội tử của tôi nay thật già và
xấu. Nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao
lâu nay, kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà
lấy chồng lúc còn trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lấy
chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nội tử tôi
thường nhờ cậy tôi cũng như tôi đã từng nhận sự
giúp đỡ của nội tử tôi. Nay, bệ hạ muốn ban ơn mưa
móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi phải
mang tiếng là ăn ở bội bạc với nội tử của tôi".
Nói xong Án Tử lạy hai lạy, xin từ chối
không lấy con gái của nhà vua.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Con người
chỉ có thể sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Trong
cái nhìn Kitô, thì gia đình là một Giáo Hội nhỏ trong
đó đức tin được thông ban và trưởng thành.
Nền tảng để gia đình được đứng vững đó
là Tình Yêu. Nhưng Tình Yêu không là một cái có sẵn, mà
là một giá trị luôn đòi hỏi sự xây dựng và vun xới
của con người... Một gia đình hạnh phúc hay không, tất
cả đều tùy thuộc ở sự phấn đấu xây dựng từng
ngày của con người.
Hai cử chỉ dường như được gắn liền với
nhau trong chuyến viếng thăm quê hương dạo tháng 5/1987
của Đức Gioan Phaolii II, đó là: viếng mộ song thân và
cử hành Thánh Lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng.
Cây tốt thường sinh trái tốt: con người của
Đức Gioan Phaolô II là hoa trái Tình Yêu của cha mẹ ngài.
Viếng mộ của song thân, Đức Thánh Cha không những nói
lên niềm tri ân của ngài đối với bậc sinh thành, nhưng
ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân.
Giữa đời thời đại mà đời sống hôn nhân
và gia đình bị lay động đến tận gốc rễ, Đức Thánh
Cha muốn gióng lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết:
hãy trung thành với nhau.
Trong Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình, qua đó
các đôi vợ chồng hiện diện được mời gọi lập lại
lời thề hứa trong hôn phối, Đức Thánh Cha đã lập lại
ý nghĩa và giá trị của Bí Tích Hôn Phối. Ngài nói như
sau: "Khi quỳ gối trước bàn thờ trong ngày cưới,
các đôi vợ chồng đã thề hứa với nhau cho đến cùng.
Họ thề hứa với nhau như thế trước mặt Thiên Chúa.
Lời cam kết này phản ánh chính lời hứa của Chúa Giêsu
rằng Ngài yêu họ và yêu cho đến cùng".
"Tôi hứa sẽ giữ trung thủy với em khi
thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng
như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em mọi
ngày suốt đời tôi".
Khi tuyên hứa với nhau như thế, hai người đã
lập lại chính cam kết của Chúa Giêsu, Đấng đã yêu
thương và yêu thương cho đến cùng.
Yêu cho đến cùng nghĩa là chấp nhận cái chết
từng ngày. Tình yêu hôn nhân là một hạt giống: có được
chôn vùi, có mục nát đi mới sinh hoa kết trái. Luật của
đời sống hôn nhân chính là luật của hy sinh, của chiến
đấu, của chính sự chết. Nhưng cũng chính khi con người
biết chối bỏ chính mình bằng hy sinh, con người sẽ gặp
lại chính mình trong người khác... Đó là lẽ sống mà
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.
27 Tháng Tám
Ăn Cắp Lửa Trời
Thần thoại Hy Lạp có kể lại câu chuyện
của thần Prométhée ăn cắp lửu trời để sáng tạo con
người.
Theo óc tưởng tượng của người Hy Lạp,
Thiên Triều do thần Zeus cai trị gồm có hai loại thần:
các đại thần và tiểu thần. Tiểu thần là các vị
thần đã bị nhóm các vị thần trung thành với Ngọc
Hoàng Zeus đánh đổ... Trong số các tiểu thần thất sủng
ấy, Prométhée là vị thần duy nhất vẫn còn được Ngọc
Hoàng Zeus tín nhiệm nên ban cho quyền tạo dựng con người
và súc vật trên mặt đất.
Ngày nọ, Prométhée và em của mình đã thí
nghiệm khảt năng sáng tạo của họ. Họ dùng mọi yếu
tố trên trần gian để nhào nặn nên con người... Thế
nhưng, giống người mà họ tạo nên vẫn chết cứng bởi
vì còn thiếu lửa. Nhưng lửa thì chỉ có các vị đại
thần trên thiên triều mới nắm giữ. Thế là Prométhée
đã lén đến lò rèn của thần Hephetus để đánh cắp
lửa thiêng. Lửa ăn cắp từ thiên triều đx lan tràn khắp
mặt đất làm cho con người được sưởi ấm và hân
hoan.
Ngọc Hoàng Zeus đã hay biết mọi chuyện.
Ông nổi giận lôi đình và cho sấm sét đến lay chuyển
cả mặt đất... Vì tội ăn cắp lửa trời, nên Prométhée
đã bị Zeus cho trói vào một ngọn núi cao, mỗi ngày diều
hâu đến mổ vào gan của ông.
Huyền thoại Prométhée trên đây như muốn
nói lên sự khao khát vô tận và khả năng khoa học gần
như không giới hạn của con người... Khả năng đó là
một thể hiện của chính hình ảnh Thiên Chúa khắc ghi
vào con người... Khả năng sáng tạo đó cũng nói lên
phẩm giá siêu việt của con người... Khả năng sáng tạo
đó, Thiên Chúa phú bẩm cho con người là để phục vụ
phẩm giá con người hay để hủy hoại nó? Đó là câu
hỏi đang được đặt ra cho con người của thời đại
chúng ta.
Có nhiều người chủ trương rằng do tiến
hóa, con người bởi loài khỉ mà ra. Đứng trên phương
diện khoa học thì giả thuyết đó không phải là một
điều tưởng tượng... Tuy nhiên, một thách đố có thể
đặt ra cho con người là: liệu có thể có một tiến
trình ngược lại theo đó con người có trở thành khỉ
không?
Cách đây không lâu, ông Chiarelli, một giáo
sư nhân chủng học tại đại học Firenze bên Italia đã
đề nghị cho khỉ cái được thụ tinh nhân tạo với
tinh trùng của người nam. Giống sinh vật do sự lai giống
này sinh ra sẽ là một con vật nửa người nửa khỉ. Mục
đích được tạo dựng của giống sinh vật này là để
dùng vào các công tác tạp dịch hoặc để lấy các cơ
phận của nó ghép vào các bệnh nhân.
Vấn đề được đặt ra là: giống sinh vật
nửa người nửa khỉ này nếu dùng được ngôn ngữ của
con người, nó sẽ xưng hô thế nào với người cho tinh
trùng từ đó nó được thụ thai? Dù muốn dù không,
không ai có thể chối bỏ được phụ tính của người
đàn ông cho tinh trùng. Nói một cách nôm na, giống sinh
vật nửa người nửa khỉ này là con của ông, nó có
quyền gọi ông là cha... Vậy thì, có người cha nào muốn
dùng con mình vào những cuộc thử nghiệm không? Có người
cha nào muốn biết con của mình thành một con thú hay
không?
Đặt câu hỏi như thế không phải là xa
vời, bởi vì dưới ánh mặt trời này, khi con người
chối bỏ lẫn nhau, khi con người không còn biết nhìn
nhận phẩm giá siêu việt của người khác, thì chuyện
gì xem ra cũng có thể xảy đến... Hitler đã giết hại 6
triệu người Do Thái, Polpot đã tiêu diệt gần 2 triệu
đồng bào ruột thịt của mình. Cả hai đều xây dựng
trên một lý thuyết: con người chỉ là một con vật!
Câu chuyện khoa học trên đây có quá xa vời
với chúng ta không? Dù trong nghiên cứu khoa học, trong các
hoạt động chính trị hay trong các giao tế hằng ngày:
vấn đề vẫn giống nhau. Mỗi khi con người chối bỏ
phẩm giá của người khác là lúc con người cũng muốn
biến người đó thành một loài khỉ và dĩ nhiên theo một
thứ luận lý rất chặt chẽ, con người cũng tự nhận
mình là khỉ.
28 Tháng Tám
Con Yêu Chúa Quá Muộn Màng
"Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ:
Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa nhưng muôn thuở vẫn còn tươi
mát, trẻ trung.
Con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong
tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ
chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.
Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không
sống ở trong Chúa. Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến
con sống xa Chúa.
Chúa đã gọi tên con, Chúa đã lớn tiếng
kêu gọi con, Chúa đã đâm thủng đôi tai giả điếc làm
ngơ của con.
Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá
tan màn đêm tối dày đặc nơi con.
Chúa thở ra hơi thơm ngào ngạt, con hít vào
và con khao khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con luôn
cảm thấy nung nấu được hưởng sự bình an của Chúa".
Trên đây là một đoạn trong quyển "Tự
Thú" của thánh Augustinô, vị thánh Giáo Hội mừng
kính hôm nay. Sau khi ăn năn trở lại, ngài đã nhận lãnh
Phép Rửa vào năm 33 tuổi, chỉ sau đó 3 năm ngài được
phong chức linh mục, 5 năm sau đó được đề cử làm
giám mục thành Hippone.
Duyệt qua cuộc sống của thánh Augustinô, chúng
ta có thể nói: Ngài là một tội nhân đã trở thành
thánh nhân nhờ được Thiên Chúa đến gõ cửa lòng bằng
câu nói mạnh mẽ của thánh Phaolô: "Đừng sống theo
dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Đức
Giêsu Kitô".
Và kể từ đó, có thể nói được là Tình
Yêu Thiên Chúa không bao giờ buông tha ngài, trái lại tạo
trong tâm hồn ngài một sự khắc khoải và khao khát để
đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.
Ngoài lời mời gọi và thôi thúc của Tình Yêu
Thiên Chúa, quãng đầu cuộc đời của Augustinô, một tội
nhân trở thành thánh nhân, có lẽ được vẽ lại bằng
những nét chấm phá và những bàn tay cộng tác với ơn
Chúa trong việc hoán cải như sau:
Trước tiên, cường độ của sức sống nơi
ngài trên con đường thụt lùi xa lìa Thiên Chúa cũng như
cường độ mãnh liệt hơn của sức sống ấy trên con
đường tiến về Thiên Chúa.
Tiếp đến, những dòng nước mắt sầu đau và
những kinh nguyện thành tâm của mẹ ngài, bà thánh Mônica
dâng lên Thiên Chúa trong kiên tâm, bền chí ròng rã bao
năm trời.
Và sau cùng là sự hướng dẫn tận tình của
thánh Giám Mục Ambrôsiô.
Tất cả những yếu tố trên cộng lại đã
giúp chuyển tình yêu cuộc sống thành một cuộc sống
cho và vì Tình Yêu, như thánh nhân đã tự thú trong đoạn
sách được trích dẫn ở trên: "Lạy Chúa, con yêu
mến Chúa quá trễ, ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, nhưng muôn
thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung".
29 Tháng Tám
Cái Chết Của Một Tiên
Tri
Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một
chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Đó
là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh
Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi
chúng ta tưởng niệm hôm nay.
Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn
ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo
chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn
đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái
chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng
của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau
khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong xa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong xa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói
lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự
thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực
trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình.
Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Đấng Cứu
Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai
trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Đấng Cứu Tinh sẽ đến.
Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để
đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái
diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô
hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn
cảnh mình đang sống. Đó là sứ mệnh làm chứng nhân
cho Chúa Giêsu.
30 Tháng Tám
Ban Phát Không Ngừng
Trong một câu chuyện ngắn, văn hào Tolstoi
của Nga đã ghi lại mẩu đối thoại của 3 người khách
bộ hành như sau:
Mệt mỏi vì đường xa, ba người bộ hành
đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối trong vắt.
Trong những giây phút thoải mái bên cạnh dòng suối, mỗi
người mới phát biểu về lợi ích của nó.
Người thứ nhất lên tiếng: "Còn gì
sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ
đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng
ta được tươi mát, nhưng còn mời gọi chúng ta sống
thành thật với nhau".
Người bộ hành thứ hai góp ý: "Dòng
suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi: Hỡi loài
ngơừi, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm
cho thế giới được tốt đẹp hơn".
Người bộ hành thứ ba, sau một phút trầm
ngâm, mới thốt lên: "Những gì các bạn vừa phát
biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng
hơn nữa mà tôi muốn chia sẻ cho các bạn. Các bạn hãy
nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát
không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không
đòi hỏi một sự đáp trả nào... Mỗi người chúng ta
hãy sống cao thượng như thế".
Sự sống đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta
chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho chúng
ta sức sống của Ngài, Tình Yêu của Ngài, mà không đòi
hỏi một điều kiện nào nơi chúng ta.
Thiên Chúa chỉ muốn thông ban, Thiên Chúa chỉ
muốn san sẻ và Ngài chờ đợi chúng ta cũng sống như
thế. Nguồn suối đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta,
nhờ đó chúng ta được sống một cách tươi mát, luôn
mời gọi chúng ta cũng hãy ban phát không ngừng.
Thánh Thần là ân ban của Thiên Chúa... Người
Kitô nhận lãnh Thánh Thần cũng hãy trở thành ân ban của
Thiên Chúa cho người khác. Càng trao ban, càng phân phát,
người Kitô càng tìm gặp lại chính mình.
31 Tháng Tám
Ốc Đảo Hòa Bình
Cách Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số
người Do Thái và Ả Rập đã tình nguyện sống chung với
nhau trong một ngôi làng mà người Do Thái gọi là Nevé
Shalom, còn người Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả
hai tiếng đều có nghĩa là "Ốc đảo hòa bình".
Năm 1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa
Bình này chỉ có một gia đình. Một năm sau, con số đó
lên đến năm và hiện nay, có tất cả 15 gia đình vừa
Do Thái vừa Ả Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân
số của ngôi làng Hòa Bình này hiện nay là 70 người.
Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung là minh
chứng rằng người Do Thái và người Ả Rập có thể
sống chung với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của
nhau.
Người sáng lập ngôi làng này là cha Bruno
Hussar, một linh mục công giáo năm nay 78 tuổi. Cha ngài là
một người Pháp gốc Do Thái và mẹ ngài là một người
Hungary cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do
Thái khổ đạo. Năm lên 22 tuổi, ngài đã trở lại công
giáo và xin tu trong viện Đaminh. Cha Bruno Hussar tuyên bố
với tất cả xác tín như sau: "Trong Kinh Thánh người
ta đọc được lời này: Dân Ta sống trong một ốc đảo
hòa bình. Cố gắng cảm thông là điều có thể làm cho
những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần nhau, cũng
như chính những người Kitô có thể đến gần với những
người Hồi Giáo và vô thần".
Ước vọng của các phụ huynh của 33 trẻ
em sinh ra trong ngôi làng Hòa Bình này là thấy chúng được
giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã cho xây một vườn
trẻ chung, một trường mẫu giáo chung, một trường tiểu
học chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả Rập đều có
thể nói một lúc hai thứ tiếng. Một người cộng tác
viên của cha Bruno cho biết như sau: "Ngay từ lúc nhỏ,
các trẻ em đã có thể làm quen với hai nền văn hóa một
lúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là các em sẽ đánh
mất nền văn hóa của mình, trái lại càng ý thức về
nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng người
khác".
Để bảo tồn văn hóa của mình, các gia
đình trong ngôi làng Hòa Bình này cũng xây nhà theo sở
thích của họ. Nhưng những căn nhà này không thuộc quyền
sở hữu của họ. Tất cả đều chọn lựa sống một
cuộc sống gần như tập thể: tuy trình độ khác nhau,
nhưng tất cả mọi người đều đồng ý một mức lương
giống nhau. Mỗi ngày, mọi dân cư trong ngôi làng này dùng
điểm tâm và ăn trưa chung với nhau.
Người phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng:
"Ngồi đồng bàn để nói chuyện với nhau thay vì giữ
những thành kiến riêng, điều đó giúp thay đổi thái độ
rất nhiều".
Cũng như trong tinh thần đó, từ 10 năm qua,
15 gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này đã tổ chức được
rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Do Thái và Ả
Rập. Người ta cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện
chung, chung không những cho người Do Thái và Ả Rập, mà
còn chung cho những người không tín ngưỡng nữa...
Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó
mà nguyền rủa bóng tối... Những người dân cư trong
ngôi làng Hòa Bình trên đây, hẳn đã thấy được vết
dầu loang của Hòa Bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa
được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi một cách vô
ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.
Tình
yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là
điều mà con người có thể xây dựng nếu con người
biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết tôn
trọng sự khác biệt của nhau...
Trong
phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của
một xóm làng, liệu những người Kitô chúng ta có thể
xây dựng được một ngôi làng Hòa Bình với nhau
không?...
**********************
Đăng nhận xét