VÀI LƯU Ý
1.
Chắp tay: ngón phải đặt trên ngón trái theo hình Thánh Giá.
Các vị đồng tế và các thừa tác viên khi đi đứng cũng phải chắp tay, trừ khi
phải mang vật gì bằng hai tay. Khi làm dấu trên mình, khi cầm bình hương… thì
để tay trái trên ngực (x. Sách Lễ nghi Giám mục [LNGM], số 107-108).
2.
Ngồi: để hai lòng bàn tay úp trên đầu gối (x. LNGM,
số 109).
3.
Cúi đầu và cúi mình:
-
Cúi đầu: mỗi khi đọc kinh Ba Ngôi Thiên Chúa một
trật, khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria đồng trinh và tên vị thánh được
kính trong lễ hôm ấy, và đọc phụng vụ giờ kinh.
-
Cúi mình hoặc cúi sâu: đối với bàn thờ nếu không có nhà tạm với Mình Thánh ở trong, với Giám
mục, trước và sau khi xông hương, và mỗi khi sách phụng vụ dạy rõ, khi đọc
các kinh “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy…,” và kinh “Lạy Chúa là Thiên
Chúa, xin thương nhận…,” khi đọc câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần…” trong Kinh
Tin kính, câu: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa…” trong Lễ Quy Rôma.
Phó tế cũng cúi mình khi xin chúc lành trước khi đi đọc bài Tin Mừng. Ngoài ra,
Linh mục cũng hơi cúi mình khi đọc lời truyền phép (x. Quy chế Tổng quát
Sách lễ Rôma 2002 [QCSL], số 275; LNGM, số 68).
4.
Xông hương, xin tóm tắt như sau:
-
Việc xông hương bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện,
theo ý nghĩa trong Sách Thánh (x. Tv 140,2; Kh 8,3) (x. QCSL, số 276).
-
Có thể xông hương lễ vật đặt trên bàn thờ, rồi xông
hương Thánh Giá và chính bàn thờ, để nói lên rằng lễ vật và lời cầu nguyện của
Hội Thánh cũng ví như hương trầm bay lên trước thánh nhan Chúa. Sau đó, Phó tế
hoặc thừa tác viên nào khác có thể xông hương cho Linh mục, vì ngài đã được
lãnh chức thánh, và xông hương cho cộng đoàn, vì phẩm giá do bí tích Thánh Tẩy
ban tặng (x. QCSL, số 75). Khi xông hương cho chủ tế thì cộng đoàn đứng.
-
Có thể tuỳ nghi dùng hương trong bất cứ hình thức
Thánh Lễ nào (x. QCSL, số 276):
§
Khi đi rước ra bàn thờ;
§
Đầu lễ, xông hương Thánh Giá và bàn thờ;
§
Khi rước Sách Tin Mừng và trước khi công bố bài Tin
Mừng;
§
Sau khi đặt bánh và chén trên bàn thờ, xông hương
lễ vật, Thánh Giá và bàn thờ, rồi cũng xông hương Linh mục và cộng đoàn;
§
Khi nâng Bánh thánh và Chén thánh sau truyền phép.
-
Khi bỏ hương vào bình, chủ tế thinh lặng và làm
phép bằng một dấu Thánh Giá trên bình hương (x. QCSL, số 277; LNGM,
số 90).
-
Chỉ có Giám mục mới ngồi khi bỏ hương (x. LNGM, số
140; QCSL, số 131-132 và 212; Edward McNamara, Khi bỏ hương vào bình
hương, Linh mục ngồi hay đứng?). Khi bỏ hương vào bình, nếu Giám mục ở tại
tòa hoặc ở một ghế khác thì ngài ngồi, bằng không, Ngài đứng mà bỏ hương, thầy
Phó tế cầm tàu hương. Giám mục làm phép hương bằng dấu Thánh Giá và không đọc
gì cả. Sau đó, Phó tế cầm lấy bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho Giám
mục (x. LNGM, số 90).
-
Trước và sau khi xông hương, cúi mình chào người
hoặc vật được xông hương, trừ bàn thờ và lễ vật dùng cho Thánh Lễ (x. QCSL,
số 277; LNGM, số 91).
-
Phải quỳ khi xông hương Mình Thánh Chúa (x. LNGM,
số 94).
-
Tất cả những ai tiếp nhận việc xông hương đều phải
đứng (x. LNGM, số 96).
-
Số lần, số cú:
§
QCSL, số 277:
“Tribus ductibus thuribuli incensantur: Ss.mum Sacramentum, reliquia sanctae
Crucis et imagines Domini publicae venerationi expositae, oblata pro Missae
sacrificio, crux altaris, Evangeliarium, cereus paschalis, sacerdos et populus.
Duobus ductibus incensantur reliquiae et imagines Sanctorum publicae
venerationi expositae, et quidem initio tantum celebrationis, cum incensatur
altare/The following are incensed with three swings of the thurible: the Most
Blessed Sacrament, a relic of the Holy Cross and images of the Lord exposed for
public veneration, the offerings for the sacrifice of the Mass, the altar
cross, the Book of the Gospels, the Paschal Candle, the priest, and the people.
The following are incensed with two swings of the thurible: relics and images
of the Saints exposed for public veneration, which should be done, however,
only at the beginning of the celebration, after the incensation of the
altar/Xông hương ba lần: trước Thánh Thể, gỗ Thánh Giá, các ảnh Chúa được trưng
bày cho người ta cung kính, Thánh Giá của bàn thờ, sách Tin Mừng, nến Phục
sinh, Linh mục và cộng đoàn. Xông hương hai lần: trước xương và ảnh các Thánh
được trưng bày cho người ta tôn kính, và chỉ làm lúc đầu lễ khi xông hương bàn
thờ.”
§
Mỗi “LẦN” gồm hai “CÚ” là tập tục phổ quát trong
thực tế, trong đó, mỗi “LẦN” (ductus) gồm có hai “CÚ” (ictus, swings). Vì vậy,
bình hương được nâng lên, lắc hai cú về vật hoặc người được xông hương, rồi hạ
xuống.
§
Ví dụ, sự mô tả sau đây về “hai lần, hai cú” được
tìm thấy trong sách nghi thức trước Công đồng Vatican II của
Fortescue-O'Connell: “Hai lần, hai cú (“ductus duplex”) được thực hiện bằng
cách nâng bình hương lên ngang mặt, sau đó lắc về phía vật hoặc người được xông
hương, và lắc thêm lần nữa, sau đó hạ thấp bình hương.” Sự mô tả về HAI LẦN,
HAI CÚ (double swing) dựa trên các sắc lệnh của Thánh bộ Nghi lễ năm 1862 và
1899 (các Sắc lệnh số 3110 và 4048).
§
Xông hương BA lần, mỗi lần HAI cú: trước Thánh Thể,
gỗ Thánh Giá, các ảnh Chúa được trưng bày cho người ta tôn kính, lễ vật của
Thánh Lễ, Thánh Giá của bàn thờ, Sách Tin Mừng, Nến Phục Sinh, chủ tế, đồng tế,
và cộng đoàn, thi hài người quá cố (nếu lối đi không đủ rộng để có thể xông
hương xung quanh).
§
Xông hương HAI lần, mỗi lần HAI cú: trước xương và
ảnh các thánh được trưng bày cho người ta tôn kính, và chỉ làm lúc đầu lễ khi
xông hương bàn thờ (x. QCSL, số 277; LNGM, số 92).
§
Xông hương BA lần, mỗi lần BA cú đối với Mình Thánh
Chúa: phải có phép riêng của Toà Thánh (x. Edward McNamara, Nói thêm về các
cú và lắc khi xông hương).
-
Cách xông:
§
Xông thẳng (ba lần, mỗi lần hai cú): Mình Thánh,
Máu Thánh, Thánh Giá, Nến Phục Sinh, chủ tế, sách có bài Exsultet (cách nhớ:
một đối tượng thì xông thẳng).
§
Xông giữa – trái – phải (mỗi vị trí xông hai cú):
Sách Thánh, đồng tế, lễ vật của Thánh Lễ (cách nhớ: một nhóm đối tượng thì xông
giữa – trái – phải).
§
Xông từng cú một (“tạt” vào đối tượng từng cú một):
bàn thờ, quan tài (nếu có thể đi xung quanh được).
§
Linh mục xông hương ba lần trên lễ vật (xông giữa –
trái – phải) trước khi xông Thánh Giá và bàn thờ, hoặc dùng bình hương vẽ hình
Thánh Giá trên lễ vật (x. QCSL, số 277), tức là Linh mục chọn một trong
hai hình thức xông chứ không phải thực hiện cả hai hình thức.
§
Thứ tự xông hương trong Thánh Lễ là chủ tế trước,
rồi đến đồng tế (xông hương chung cho các vị), sau cùng đến dân chúng (x. LNGM,
số 96). Các Đức Giám mục và các kinh
sĩ tham dự Thánh Lễ nhưng không đồng tế sẽ được xông hương cùng với dân chúng (x. LNGM,
số 96). Nếu chỉ có một vị Giám mục hiện diện mà
không chủ sự Thánh Lễ, ngài sẽ được xông hương sau chủ tế hoặc sau các vị đồng
tế (x. LNGM,
số 97).
§
Vị chủ tế không nên đọc kinh nào hoặc nói lời nào
cho đến khi việc xông hương đã hoàn tất (x. LNGM, số 98).
§
Lưu ý: không có quy định nào nói rằng người được
xông hương (tư tế/dân chúng) phải cúi xuống để đáp lại cử chỉ cúi xuống của
người xông hương vì cử chỉ này (cúi chào) dành để thể hiện sự tôn kính đối với
những người/đối tượng được xông hương, mà không [cần] áp dụng ngược lại cho
người tiến hành xông hương.[1]
5.
Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, trong Sắc
lệnh về việc luôn sử dụng dấu Thánh Giá trong các phép lành ban hành ngày
14/09/2002 (AAS 94 [2002] 684), nói rằng: “Trong truyền thống phụng vụ,
đã có thói quen sử dụng dấu Thánh Giá trong các nghi thức ban phép lành, việc
này được thực hiện bằng tay phải của vị chủ tế vẽ trên người hoặc vật thể mà
lòng thương xót được cầu xin. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, để giải quyết các
nghi vấn, quyết định rằng, ngay cả khi phần văn bản trong nghi thức Rôma có
tiêu đề Về các Phép lành không đề cập đến hoặc im lặng bỏ qua việc thực hiện
dấu này, hoặc không nêu rõ thời điểm thích hợp để thực hiện hành động đó, thì
dấu Thánh Giá trên vẫn phải được các thừa tác viên thi hành trong bất kỳ phép
lành nào như một yếu tố cần thiết. Khi văn bản không đề cập, thời điểm thích
hợp sẽ được hiểu là lúc phần văn bản của phép lành có các từ như phép lành,
chúc lành, hoặc từ tương tự, hoặc nếu không có các từ này thì thực hiện dấu
Thánh Giá khi phép lành kết thúc.” Ngoài ra, Sách Lễ nghi Giám mục số 67
chỉ rằng: khi làm dấu trên mình hoặc khi làm phép, thì Giám mục để tay trái
trên ngực, trừ khi đang cầm vật gì. Vì thế, khi ban phép lành/làm phép, Linh
mục/Phó tế:
§
Tay trái đặt trên ngực, tay phải vẽ dấu Thánh Giá;
§
Kết thúc mọi phép lành với dấu Thánh Giá trên người
và vật được chúc lành, thậm chí nếu điều này không được đề cập trong nghi thức.
6.
Nếu Giám mục không cử hành Thánh Lễ và để cho người
khác cử hành, chính ngài nên mặc áo trắng dài, đeo Thánh Giá ngực, dây các phép
và khoác áo choàng, chủ toạ phần phụng vụ Lời Chúa và ban phép lành cuối lễ (x.
QCSL, số 92; LNGM, số 175-186).
7.
Đồng tế 1 đứng bên PHẢI chủ tế. Đồng tế 2 đứng bên
TRÁI chủ tế (x. Nghi thức phong chức, số 55).
8.
Trong những ngày lễ long trọng hơn, có thể dùng
phẩm phục ngày lễ hoặc những phẩm phục quý trọng hơn, dù không phải màu của
ngày lễ. Tại Việt Nam lễ phục màu vàng được coi là lễ phục long trọng vì là màu
vương giả quý phái (x. QCSL, số 346 g).
9.
Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 124: Ngoại trừ
vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách lễ Rôma cho quyền các
Linh mục đồng tế trong Thánh Lễ “khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola
trên áo alba,” trước một lý do chính đáng, ví dụ như số các vị
đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng mà, nếu người ta có thể tiên
liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục. Ngoại trừ
vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng
nữa. Về phần còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của những sách
phụng vụ.
Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 118,1).
Kính thưa cộng đoàn,
hôm nay,
từng hồi chuông rộn rã
hoà nhịp với bước chân hân hoan
của các tín hữu gần xa
tiến về ngôi thánh đường [cổ kính] của giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] …
để cùng dâng lời chúc tụng, tạ ơn Thiên Chúa
với tân Linh mục …,
một người con của giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] ...
Ngược dòng thời gian,
cách đây không lâu,
nhờ Thánh Thần soi dẫn,
chàng thanh niên …
đã đáp lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa,
dấn thân bước theo Đức Kitô Cứu Thế.
Anh quyết định tận hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa,
và trở thành tu sĩ thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế.
Sau thời gian tu học tại Học Viện Thánh Anphongsô,
nhờ hồng phúc của Thiên Chúa,
năm …, thầy … đã được thụ phong Phó tế, do Đức Giám mục …
Ngày … vừa qua, tại …,
thầy Phó tế …
tiếp tục được Đức cha …, Giám mục giáo phận …,
đặt tay truyền chức Linh mục.
Tân Linh mục …
đã chọn câu Lời Chúa: “…” làm tâm niệm đời Linh mục của mình. [có thể quảng
diễn thêm…].
Giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] …
vui mừng vì hồng ân Linh mục
mà Thiên Chúa ân ban cho Hội Thánh,
cho [tổng] giáo phận …,
cách riêng,
cho Hội Dòng Chúa Cứu Thế.
Hôm nay,
người con yêu quý của giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] …
trở về ngôi thánh đường thân thương,
nơi mình đã được sinh ra và lớn lên,
để dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa,
đồng thời cầu nguyện cho tất cả mọi người,
ông bà cha mẹ, thân nhân, ân nhân, bạn hữu,
còn sống cũng như đã qua đời,
trong gia đình, giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] và Nhà Dòng.
Vì thế,
chúng ta cùng thành tâm tham dự Thánh Lễ này,
trước là hợp lòng với tân Linh mục …
trong các ý nguyện của ngài,
sau là khẩn xin Thiên Chúa
ban cho tân Linh mục
hằng mạnh mẽ trong đức tin,
phấn khởi trong đức cậy,
sốt sắng bởi lòng mến,
bừng cháy lòng nhiệt thành,
để đi theo Đức Kitô Cứu Thế
với trái tim tràn ngập niềm vui,
tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô
và công bố mầu nhiệm đó
bằng đời sống và lối nói giản dị
theo tinh thần Tin Mừng,
hầu đem lại Ơn Cứu Chuộc chứa chan cho con người.
Nhân dịp trọng đại này,
Hội Thánh ban Ơn toàn xá
cho tân Linh mục và các tín hữu sốt sắng tham dự Thánh Lễ tạ ơn,
với các các điều kiện thường lệ là:
‒
Giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi hình
thức của tội.
‒
Xưng tội.
‒
Rước lễ.
‒
Cầu nguyện theo ý của Đức Giáo Hoàng, bằng cách đọc
một Kinh Lạy Cha, một Kinh Kính Mừng.
Cho nên,
xin cộng đoàn chuẩn bị tâm hồn
và tham dự sốt sắng Thánh Lễ tạ ơn
hầu có thể xứng đáng lãnh nhận Ơn toàn xá.
Thứ tự đoàn rước như sau:
[Theo quy tắc sau,[2] linh động tuỳ
hoàn cảnh]
‒
Người cầm bình hương nghi ngút khói (lắc nhẹ bình
hương qua lại hoặc lên xuống để khói bay lên, tuỳ lối đi rộng hẹp).
‒
Người cầm Thánh Giá có tượng chịu nạn.
‒
Đèn hầu.
‒
Người cầm tàu hương.
‒
Các hội đoàn (nữ đi trước – nam đi sau, không đồng
phục đi trước – có đồng phục đi sau).
‒
Đại diện Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ [giáo họ].
‒
Đại diện linh tông, huyết tộc.
‒
Ông bà cố.
‒
Những người giúp lễ khác.
‒
Phó tế (hoặc thầy đã lãnh tác vụ Đọc sách) cầm sách
Tin Mừng (đủ cao để mọi người có thể nhìn thấy được). [Cách nhớ: trước
người cầm sách Tin Mừng là những người không có chức thánh, sau người cầm sách
Tin Mừng là những người có chức thánh.]
‒
Các Phó tế (nếu có, từng hai người một).
‒
Các Linh mục đồng tế (từng hai người một).
‒
Linh mục chủ tế đi một mình.
‒
Hai Phó tế giúp lễ (nếu có, đi sau Linh mục chủ tế một
chút).
Trước khi bắt đầu Thánh Lễ,
mời cộng đoàn quỳ,
hợp cùng tân Linh mục và quý cha đồng tế
đọc Kinh Phục Vụ Bàn Thánh.
KINH PHỤC VỤ BÀN THÁNH [3]
(Đọc trước Thánh Lễ)
Lạy Chúa
Giêsu, con cảm tạ Chúa đã thương mời gọi con đến hiệp dâng Hy Lễ với Chúa. Giờ
đây, con sắp ra trước Bàn Thánh Chúa. Xin tẩy rửa con sạch mọi tội lỗi, để con
xứng đáng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, đụng chạm đến Mình Máu Thánh Chúa. Xin
ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng cháy, để con được kết hiệp mật thiết với
Chúa, được cùng Chúa tự hiến thân mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha. Xin Chúa
thương nhậm lời cầu xin của con. Amen.
DẪN:
Với niềm tri ân, cảm tạ,
giờ đây,
mời cộng đoàn đứng,
cùng với tân Linh mục … [Đức cha] và quý cha đồng tế
hân hoan bước vào Thánh Lễ tạ ơn.
[Khi đoàn đồng tế đến cuối nhà thờ]
Xin cộng đoàn hướng về phía cuối nhà thờ để đón đoàn đồng tế.
NGHI THỨC ĐẦU LỄ [4]
Khi cộng đoàn đã tụ họp, Linh mục và các thừa tác
viên mặc phẩm phục tiến tới bàn thờ theo thứ tự sau đây:[5]
‒
Người cầm bình hương có bỏ hương sẵn [lắc nhẹ bình hương qua lại hoặc lên xuống để khói bay lên, tuỳ lối đi rộng
hẹp], nếu có xông
hương;
‒
Các thừa tác viên cầm nến sáng, có thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa
tác viên khác cầm Thánh Giá có tượng chịu nạn đi giữa họ;[6]
‒
[Người cầm tàu hương];
‒
[Các hội
đoàn (nữ đi trước – nam đi sau, không đồng phục đi trước – có đồng phục đi
sau)];
‒
Các thừa tác viên giúp lễ và các thừa tác viên khác;
‒
Phó tế hoặc thầy đã lãnh tác vụ Đọc sách cầm Sách Tin Mừng [chứ
không phải Sách Bài Đọc, giơ cao lên một chút. Cách nhớ: trước người cầm
sách Tin Mừng là những người không có chức thánh, sau người cầm sách Tin Mừng
là những người có chức thánh. Nếu Phó tế không cầm sách thì đi bên cạnh Linh
mục chủ tế];
‒
Các Phó tế
(nếu có, từng hai người một);
‒
Các Linh
mục đồng tế (từng hai người một);
‒
Linh mục chủ tế đi một mình;
‒
Phó tế
giúp lễ (nếu có, đi bên cạnh, bên phải và sau Linh mục chủ tế một chút).[7]
Khi tới bàn thờ, nếu Phó tế cầm Sách Tin Mừng, thì
thầy tiến lên bàn thờ mà không cúi chào. Rồi sau khi đặt Sách Tin Mừng lên bàn
thờ, thầy cùng với Linh mục hôn kính bàn thờ. Còn thừa tác viên không có
chức thánh thì đặt sách Tin Mừng lên bàn thờ nhưng không hôn bàn thờ.
Nếu không cầm Sách Tin Mừng, Phó tế cùng với Linh
mục chủ tế cúi mình trước bàn thờ như thường lệ, rồi cùng Linh mục chủ tế tiến
lên hôn kính bàn thờ.[8]
Thánh Giá có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh đã cầm
đi rước, có thể dựng bên cạnh bàn thờ để làm Thánh Giá tại bàn thờ hoặc cất đi
và đặt vào nơi xứng đáng vì bàn thờ chỉ được có một Thánh Giá. Còn nến sáng
thì đặt trên bàn thờ hoặc cạnh bàn thờ. Sách Tin Mừng, thì
đặt trên bàn thờ.
Cuối cùng, nếu có xông hương, Phó tế cầm tàu
hương, Linh mục chủ tế bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một
dấu Thánh Giá. Sau đó, Phó tế cầm bình hương do người giúp lễ trao và
đưa cho Linh mục chủ tế, rồi tháp tùng[9] với Linh mục chủ tế khi xông
hương Thánh Giá và bàn thờ.
Trước và sau khi xông hương, cúi sâu chào những người hoặc những vật được xông hương, ngoại trừ bàn thờ và lễ
phẩm dùng cho hy tế Thánh Lễ.
Linh
mục chủ tế xông hương bàn thờ từng nhịp một[10] (vừa đi chung quanh vừa “tạt” bình hương vào bàn
thờ) theo cách thức sau đây:
a) Nếu bàn thờ cách biệt vách tường, Linh mục vừa đi
chung quanh bàn thờ vừa xông hương;
b) Nếu bàn thờ không cách biệt vách tường, Linh mục
vừa đi qua vừa xông hương phía tay phải bàn thờ, rồi vừa đi qua vừa xông hương
phía tay trái.
c) Nếu Thánh Giá đặt phía trên bàn thờ hoặc tại bàn thờ, thì xông hương Thánh
Giá trước khi xông bàn thờ; nếu không thì xông hương khi Linh mục đi ngang qua
trước Thánh Giá.
Khi xông hương Thánh Giá thì xông thẳng, 3
lần, mỗi lần 2 cú.
Xông hương xong, Phó tế cùng với Linh mục chủ tế tới
chỗ ngồi, tại đó, Phó tế ngồi bên cạnh và giúp Linh mục chủ tế khi cần.[11]
Linh mục chủ
tế và cộng đoàn đứng làm dấu Thánh Giá, Linh mục chủ tế quay về phía cộng đoàn
đọc:
Nhân danh Cha và Con X và Thánh Thần.
Cộng đoàn
thưa:
Amen.
Linh mục chủ
tế DANG TAY[12]
chào cộng đoàn:
Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha,
và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em. (CHẮP
TAY)
Cộng đoàn
thưa:
Và ở cùng cha.
Linh mục chủ tế hoặc Phó tế hoặc thừa tác viên khác có thể nói ít lời hết sức vắn tắt hướng lòng cộng đoàn về Thánh Lễ hôm
đó.
HÀNH ĐỘNG THỐNG HỐI [13]
Tiếp đến là hành động thống hối. Linh mục kêu mời các tín hữu làm việc thống
hối và nói:
Anh chị em, chúng
ta hãy nhìn nhận những tội lỗi của chúng ta, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm
thánh.
THINH LẶNG giây lát rồi mọi người cùng đọc kinh thú tội chung.
Linh mục chủ
tế CHẮP TAY.
Tôi thú nhận cùng Thiên
Chúa toàn năng,…
Tiếp theo
là lời xá giải của Linh mục (CHẮP TAY):
Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa
chúng ta đến sự sống muôn đời.
Cộng đoàn
thưa:
Amen.
Tiếp theo là Kinh Xin Chúa thương xót.
Đoạn hát hoặc đọc Kinh Vinh danh.[14]
Dứt Kinh Vinh danh, Linh mục chủ tế CHẮP TAY nói:
Chúng ta dâng lời cầu nguyện.
Mọi người cùng Linh mục THINH LẶNG
cầu nguyện trong giây lát.
Sau đó Linh mục DANG TAY[15] đọc lời
nguyện Nhập lễ:
Lạy
Chúa, Chúa đã muốn cho toàn thể dân Chúa tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô.
Chúa cũng đã giao cho một số người nhân danh Đức Kitô mà giảng dạy, hướng dẫn
và thánh hoá cộng đoàn. Xin ban cho những người Chúa đã chọn làm Linh mục được luôn
trung thành với sứ mạng của mình. Ước gì việc phục vụ anh em, cũng như chính cuộc
đời Linh mục vừa nên hữu ích cho tha nhân, vừa góp phần làm vinh danh Chúa. (CHẮP TAY) Chúng con cầu
xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng
Chúa, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.[16]
Hoặc:
Lạy
Chúa là Cha chúng con, và là Đấng ban phát mọi ơn lành, này chúng con nhìn nhận:
hết những gì chúng con đang có, và ngay chính bản thân chúng con, tất cả đều bởi
Chúa. Xin dạy chúng con ngày càng thấy rõ Chúa yêu thương chúng con dường nào,
và xin làm cho chúng con tận lực tận tình yêu mến Chúa. (CHẮP
TAY) Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là
Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh
Thần đến muôn đời.[17]
Cuối lời nguyện, cộng đoàn tung hô:
Amen.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA [18]
Bài đọc 1[19]
Đáp ca
Bài đọc 2
Tung hô Tin Mừng
Đang khi hát Halleluia hoặc ca khúc nào
khác, nếu có xông hương thì Linh mục chủ tế đứng lên, bỏ hương vào
bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu Thánh Giá. Phó tế cầm tàu hương
giúp Linh mục bỏ hương. Rồi Phó tế cúi mình trước mặt Linh mục chủ tế, xin
ngài chúc lành, đọc nhỏ tiếng: “Xin
cha chúc lành cho con.” Linh mục
chủ tế chúc lành cho thầy: “Xin Chúa ngự nơi tâm hồn và môi miệng thầy, để thầy xứng đáng và đủ
tư cách công bố Tin Mừng của Chúa. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Phó tế
làm dấu Thánh Giá và thưa: “Amen.”
Sau khi cúi chào bàn thờ, Phó tế lấy Sách Tin Mừng, giơ sách lên cao một chút,
tiến tới giảng đài, có người cầm bình hương đang toả khói cùng với những thừa
tác viên cầm nến sáng đi trước. Tại đây, Phó tế CHẮP TAY chào cộng đoàn
và nói: “Chúa ở cùng anh chị em.”
Rồi khi đọc: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo thánh…,” thì lấy ngón tay cái làm dấu Thánh Giá trên sách Tin Mừng,
rồi trên trán, trên miệng và trên ngực. Phó tế xông hương trên sách Tin
Mừng (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú) và công bố bài Tin Mừng. Đọc
xong, thầy xướng: “Đó là Lời Chúa,”
mọi người đáp: “Lạy Chúa Kitô, ngợi
khen Chúa.” Đoạn thầy hôn kính Sách Tin Mừng [Phó tế hôn sách Tin Mừng
chứ không đưa cho Linh mục chủ tế] và đọc thầm: “Nhờ những lời Tin Mừng vừa đọc, xin Chúa xóa tội chúng con,” và trở lại bên cạnh Linh mục chủ tế.[20]
Tin Mừng[21]
Sau bài giảng, tuỳ nghi đọc Kinh Tin kính[22] và lời nguyện
tín hữu.
DẪN: Mời cộng đoàn đứng,
cùng dâng lời nguyện tín hữu.
Linh mục chủ tế điều khiển lời nguyện tín hữu tại ghế chủ toạ, còn ý
nguyện được đọc từ giảng đài hoặc một
nơi khác thích hợp, do Phó tế, hoặc do một ca xướng viên, hoặc một độc viên, hoặc
một tín hữu giáo dân.
Còn cộng đoàn thì đứng và biểu lộ lời nguyện
của mình, hoặc bằng lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng
cách cầu nguyện trong thinh lặng.[23]
Chủ tế (CHẮP TAY): Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Mục Tử
nhân lành, Người đã hy sinh mạng sống để cho đoàn chiên được sống và sống dồi
dào. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời nguyện xin:
1.
Dung mạo của Hội Thánh
là dung mạo của một mục tử có trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên mà Đức Giêsu Mục
Tử đã trao phó.
Chúng ta hợp lời nguyện xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn luôn hành động
theo tinh thần Phúc Âm, hiền hoà trong lối sống, và biết quên mình vì đoàn
chiên của Chúa. Chúng ta cùng cầu xin
Chúa.
2.
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em
có lòng yêu thương nhau.” Chúng ta hợp lời nguyện xin cho cộng
đoàn giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] … biết sống giới răn yêu thương của Chúa, ngõ
hầu làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
3.
Từ khi Dòng Chúa Cứu Thế
được thành lập cho đến nay, lúc nào cũng có những người quảng đại đáp lại lời mời
gọi bước theo Chúa Kitô Cứu Thế, dành cả cuộc đời để loan báo Tin Mừng Cứu Độ
cho những người bị bỏ rơi nhất. Chúng ta hợp lời nguyện xin cho các tu sĩ thừa
sai Dòng Chúa Cứu Thế được trung thành với sứ vụ của mình. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
4.
Tân Linh mục … chọn câu Lời Chúa … làm châm ngôn đời Linh mục:
“...” Chúng ta cùng hợp lời nguyện
xin cho tân Linh mục … được sống trọn tâm nguyện này. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
5.
Ông Bà, Cha Mẹ là những người đã sinh thành dưỡng dục tân Linh mục … nên
người như hôm nay. Cộng đoàn tín hữu giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] … là nơi tân Linh
mục được lớn lên trong đời sống đức tin. Quý Linh mục, Tu Sĩ nam nữ, Thân Nhân, Ân Nhân, cũng góp phần không nhỏ
trên hành trình ơn gọi của tân Linh mục. Chúng ta hợp lời nguyện xin cho các
ngài hằng được Chúa ban muôn ơn lành hồn xác, còn những vị đã qua đời thì được
an nghỉ trong tình thương của Chúa. Chúng ta cùng cầu xin
Chúa.
Chủ tế (DANG TAY):
Lạy
Thiên Chúa là Cha nhân ái, xin đoái thương chấp nhận lời dân Chúa khẩn cầu, và
ban cho các tín hữu được những ân huệ họ hằng tin tưởng nài van. (CHẮP TAY) Chúng con cầu xin, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Hoặc
Chủ tế (CHẮP TAY): Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp trong thánh
đường này để nhớ lại những hồng ân Chúa đã thương ban. Chúng ta hãy xin Người
đoái thương chấp nhận những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:
1. Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Chúng ta cùng
nguyện xin Chúa ân cần săn sóc gìn giữ Đức Thánh Cha…, để nhờ người, đức tin của
mọi tín hữu luôn luôn bền vững sắc son. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thụ tạo. Chúng ta cùng nguyện xin Chúa đưa mắt nhìn cánh đồng truyền
giáo thật bát ngát bao la, và gửi nhiều thợ gặt lành nghề đem Tin Mừng đến cho
mọi loài thụ tạo. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Chúa luôn từ ái một niềm. Ơn Cứu Chuộc nơi Người chan chứa.
Chúng ta cùng nguyện xin Chúa rủ lòng thương giải thoát thế giới khỏi mọi
sai lầm, khử trừ muôn bệnh tật, xua đuổi cơn đói kém, mở cửa ngục tù, bẻ tan xiềng
xích, gìn giữ lữ khách được bình an, đưa kẻ tha hương về xứ sở, chữa lành các bệnh
nhân, ban ơn cứu độ cho người đang hấp hối. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Ngay giữa lòng Hội Thánh, Chúa đã muốn cho
gia đình Dòng Chúa Cứu Thế được khai sinh. Chúng ta cùng nguyện xin Chúa cho các tu sĩ và
giáo dân thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế, luôn trung thành với đặc sủng của Dòng,
theo chân Chúa Cứu Thế, trở nên thừa sai hy vọng, rao giảng Ơn Cứu Chuộc chứa
chan, giữa một thế giới nhiều thương tích, và không ngừng đổi thay. Chúng
ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Tân Linh mục … chọn câu Lời Chúa … làm châm
ngôn đời Linh mục: “...” Chúng ta cùng hợp lời nguyện xin cho tân Linh mục … được sống trọn tâm
nguyện này. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chủ tế (DANG TAY):
Lạy Thiên Chúa toàn năng
hằng hữu, Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người. Xin lắng nghe lời dân Chúa khẩn cầu,
cho thế giới đi đúng theo đường nẻo bình an của Chúa, và cho Hội Thánh được vui
hưởng tình Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Cộng đoàn:
Amen.
PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Dứt lời nguyện tín hữu, đang khi Linh mục chủ tế ở tại ghế chủ toạ thì Phó tế dọn bàn thờ, có thừa tác viên giúp lễ phụ, nhưng chính Phó tế phải sửa soạn các bình, chén thánh. Phó tế cũng giúp Linh mục chủ tế tiếp nhận lễ vật do cộng đoàn dâng tiến.[24]
Phó tế trao đĩa thánh có bánh lễ cho Linh mục chủ tế. Linh mục chủ tế đứng ở bàn thờ, nhận đĩa thánh có bánh, hai tay nâng đĩa thánh lên khỏi bàn thờ một
chút và đọc nhỏ tiếng:
Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất,
chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này, là hoa màu ruộng đất và công
lao của con người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh cho
chúng con.
Đoạn Linh mục chủ tế đặt đĩa thánh có bánh trên khăn thánh.
Phó tế vừa rót rượu và chút nước vào chén thánh,[25]
vừa đọc thầm:
Nhờ dấu chỉ nước
hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái
thương thông phần nhân tính của chúng con.
Phó tế trao chén thánh cho Linh mục chủ tế. Linh mục chủ tế hai tay cầm chén thánh, nâng lên khỏi bàn thờ một chút và đọc nhỏ tiếng:
Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, chúc tụng Chúa đã
rộng ban cho chúng con rượu này, là sản phẩm từ cây nho và công lao của con người,
chúng con dâng lên Chúa, để trở nên của uống thiêng liêng cho chúng con.
Rồi đặt chén thánh trên khăn thánh.
Linh mục cúi mình sâu và đọc thầm:
Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con
đang hết lòng khiêm nhường thống hối, và xin cho hy lễ chúng con dâng trước Tôn
Nhan Chúa hôm nay, được đẹp lòng Chúa.
Nếu có xông hương, Phó tế cầm tàu hương,
Linh mục bỏ hương vào bình và thinh lặng làm phép bằng một dấu Thánh Giá. Phó
tế cầm bình hương do người giúp lễ trao và đưa cho Linh mục.
Trước khi xông bàn thờ và Thánh Giá (xông như
đầu lễ), Linh mục xông hương lễ phẩm (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú hoặc xông theo hình Thánh Giá trên các lễ
phẩm). Phó tế tháp tùng với Linh mục xông hương bàn thờ và Thánh
Giá.
Sau đó, Phó tế hoặc một thừa tác viên khác, sẽ xông hương cho Linh mục
chủ tế (xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú), các vị đồng tế, và sau cùng là
cộng đoàn (xông giữa - trái - phải, mỗi lần 2 cú).[26]
Khi xông hương cho chủ tế thì cộng đoàn ĐỨNG.
Linh mục chủ tế rửa tay ở
góc bàn thờ và đọc thầm:
Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết
lỗi lầm, tội con phạm, xin Ngài thanh tẩy.
Linh mục chủ tế trở lại bàn thờ, quay mặt về phía cộng đoàn, DANG TAY rồi CHẮP LẠI và nói:
Anh chị em hãy cầu nguyện, để hy lễ của
tôi[27] cũng là của
anh chị em, được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.
Cộng đoàn đứng lên và thưa:
Xin Chúa nhận hy lễ bởi tay
cha, để ca tụng tôn vinh danh Chúa, và mưu ích cho chúng ta cùng toàn thể Hội
Thánh Người.
Lời
nguyện tiến lễ
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc
lời nguyện tiến lễ:
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho các Linh mục
vừa phục vụ bàn thờ vừa phục vụ dân Chúa. Xin chấp nhận của lễ chúng con dâng,
mà ban cho hàng Linh mục luôn sống đẹp lòng Chúa, và góp phần xây dựng nhiệm thể
Chúa Kitô. (CHẮP TAY) Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời.[28]
Hoặc:
Lạy
Chúa, chúng con dâng tiến lễ vật này để ngợi khen Chúa vì mọi ơn lành Chúa đã
thương ban, mặc dầu chúng con chẳng làm gì nên công trạng. Xin giúp chúng con
biết sử dụng ơn Chúa thế nào để làm rạng danh Chúa. (CHẮP TAY) Chúng
con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.[29]
Cộng đoàn thưa:
Amen.
Sau khi
Linh mục chủ tế đọc lời nguyện tiến lễ, các vị đồng tế lên đứng chung quanh bàn
thờ, nhưng phải
sắp xếp thế nào để không gây cản trở khi cử hành các nghi thức và để cộng đoàn
thấy rõ nghi lễ, và cũng không cản trở Phó tế, khi thầy phải lui tới thi hành
phận vụ nơi bàn thờ.
Khi có các Linh mục đồng tế, thì Phó tế vẫn phải thi hành phận vụ riêng của
mình nơi bàn thờ, khi cần giúp trong những gì liên quan đến chén thánh và Sách
Lễ. Nhưng trong mức có thể được, Phó tế đứng sau các vị đồng tế một chút, đang
khi các ngài đứng bao quanh vị chủ tế chính.
Sau đó, Phó tế quỳ như thường lệ từ lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần
(Epiclesis) cho đến khi nâng chén thánh. Nếu có nhiều Phó tế, thì một vị có
thể bỏ hương vào bình và xông hương (xông thẳng, 3 lần, mỗi lần 2 cú) đang
khi Linh mục nâng Mình và Máu Thánh.
KINH TIỀN TỤNG CHUNG IV[30]
Được ca ngợi Chúa là một hồng
ân
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:[31]
Chúa ở cùng anh chị em. (KHÔNG
CHẮP TAY)
Cộng đoàn
thưa:
Và ở cùng cha.
Linh mục NÂNG HAI TAY LÊN, đọc:
Hãy nâng tâm hồn lên.
Cộng đoàn
thưa:
Chúng con đang hướng về Chúa.
Linh mục [vẫn]
DANG TAY, đọc:
Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta.
Cộng đoàn
thưa:
Thật là chính đáng.
Linh mục [vẫn]
DANG TAY đọc kinh tiền tụng:
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ
ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho
chúng con.
Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại
là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa,
nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Vì thế, cùng với ca đoàn các Thiên Thần, chúng con ca ngợi Chúa và hân
hoan tuyên xưng rằng: (CHẮP TAY)
Thánh! Thánh! Thánh!
KINH NGUYỆN THÁNH THỂ II[32]
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:
Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng Thánh,
là nguồn mọi sự thánh thiện.
Linh mục chủ tế SÁP HAI BÀN TAY LẠI, ĐẶT TRÊN LỄ VẬT và đọc. Các vị đồng tế hai tay giơ ra phía trước, hướng về lễ vật, lòng bàn tay hướng xuống, cùng đọc với chủ tế nhưng đọc nhỏ tiếng hơn:[33]
Vì thế, chúng con nài xin
Chúa, dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa những của lễ này,
CHẮP TAY rồi LÀM MỘT DẤU THÁNH GIÁ
trên cả bánh và chén thánh khi đọc:
để trở nên cho chúng con,
Mình và X Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa
chúng con. (các vị đồng tế CHẮP TAY)
CHẮP TAY.
Trong những công thức sau đây, các lời của Chúa phải được đọc rõ ràng, dõng
dạc theo đặc tính từng lời.
(các vị đồng tế CHẮP TAY) Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ
hình,
Linh mục cầm lấy bánh, nâng
lên khỏi bàn thờ một chút và đọc tiếp:
Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ
ra và trao cho các môn đệ mà nói:
Hơi cúi mình:
Các vị đồng tế đưa tay phải, lòng bàn tay quay
ngang, mang ý nghĩa chỉ định, chỉ về phía Bánh.[34]
TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY
MÀ ĂN, VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY, SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON.[35]
Linh mục chủ tế cầm bánh đã truyền phép, nâng lên cho cộng đoàn thấy, rồi lại đặt xuống trên đĩa thánh và cúi mình sâu thờ lạy.
Rồi đọc tiếp:
(các vị đồng tế CHẮP TAY) Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối,
Linh mục cầm chén thánh, nâng lên khỏi
bàn thờ một chút và đọc tiếp:
Người cầm lấy chén, cũng tạ
ơn, trao cho các môn đệ mà nói:
Hơi cúi mình.
Các vị đồng tế đưa tay phải, lòng bàn tay quay
ngang, mang ý nghĩa chỉ định, chỉ về phía Rượu.
TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY
MÀ UỐNG:
VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU
GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI.
CÁC CON HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ
NHỚ ĐẾN THẦY.
Linh mục chủ tế nâng chén lên cho cộng
đoàn thấy, rồi lại đặt xuống khăn thánh và cúi mình sâu thờ lạy.
Rồi xướng:
Ðây là mầu nhiệm đức tin.
Cộng đoàn tung hô theo:[36]
Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa
chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến.
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc:
Vì vậy, lạy Chúa,
khi kính nhớ Con Chúa chịu
chết và sống lại,
chúng con dâng lên Chúa bánh
trường sinh
và chén cứu độ để tạ ơn
Chúa,
vì Chúa đã thương cho chúng con
được xứng đáng hầu cận trước Tôn Nhan và phụng sự Chúa. Chúng con tha
thiết nài xin Chúa
cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Ðức Kitô, được quy tụ nên một
nhờ Chúa Thánh Thần.
Ðồng tế 1 (DANG TAY, đọc một mình và lớn tiếng):
Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu, để kiện
toàn Hội Thánh trong đức mến, cùng với Ðức Giáo Hoàng T.,[37] Ðức Giám mục T. chúng con
và toàn thể hàng giáo sĩ.
Ðồng tế 2 (DANG TAY, đọc một mình và lớn tiếng):[38]
Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con, đang an nghỉ
trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà,
cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của
Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.
Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con, cho
chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa, Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Ðồ và toàn
thể các Thánh,[39] đã sống đẹp
lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng con được ca ngợi và tôn
vinh Chúa,
(CHẮP TAY) nhờ Ðức
Giêsu Kitô, Con Chúa.
Linh mục chủ
tế (nếu có Phó tế thì Phó tế giúp Linh mục
chủ tế nâng cao chén thánh)[40]
cầm đĩa thánh có bánh thánh và chén thánh, nâng cả hai lên và đọc:
Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh
dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa
Thánh Thần đến muôn đời.[41]
Cộng đoàn
tung hô:
Amen.
NGHI THỨC HIỆP LỄ
Ðặt chén thánh và đĩa thánh xuống, Linh mục chủ tế CHẮP TAY đọc:
Vâng lệnh Chúa Cứu Thế, và
theo thể thức Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng:
Linh mục chủ tế, các vị đồng tế DANG TAY và cùng với cộng đoàn đọc tiếp:
Lạy
Cha chúng con ở trên trời...
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc một mình:
Lạy Chúa, xin cứu chúng con
khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình
an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi
và được an toàn khỏi mọi biến loạn, đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng
phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu
Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng con.
CHẮP TAY.
Cộng đoàn tung hô kết thúc lời nguyện:
Vì vương quyền, uy lực và
vinh quang là của Chúa đến muôn đời.
Linh mục chủ tế DANG TAY đọc rõ tiếng:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã
nói với các Tông đồ rằng: “Thầy
để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin đừng chấp
tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin đoái thương
ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa.
CHẮP TAY.
Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Cộng đoàn
thưa:
Amen.
Linh mục chủ
tế quay về phía cộng đoàn, và nói đang khi DANG TAY RỒI CHẮP TAY LẠI:
Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.
Cộng đoàn
thưa:
Và ở cùng cha.
Tuỳ nghi,
Linh mục hoặc Phó tế hoặc một vị đồng tế[42]
nói:
Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.[43]
Tại Việt
Nam, để chúc bình an cho cộng
đoàn, chủ tế dang hai tay, quay về phía cộng đoàn và nói: “Bình an của Chúa hằng
ở cùng anh chị em.” Cộng đoàn đáp lại “Và ở cùng cha,” và không làm cử chỉ gì
khác nữa. Những ai ở gần Linh mục chủ tế hơn, thì nhận bình an của ngài trước
Phó tế. Chủ tế THINH LẶNG chào chúc
bình an cho các vị đồng tế, Phó tế, hoặc thừa tác viên đứng gần; các vị đồng tế
hay thừa tác viên khác đứng gần nhau cũng làm như thế. Linh mục chủ tế không được ra khỏi cung thánh, cũng không đi
xuống giáo dân bắt tay người nọ người kia. Giáo dân hai bên lòng nhà thờ cũng
quay vào nhau cúi mình để chúc bình an cho nhau mà không cần nói gì, và không cần
cúi đầu chào Linh mục chủ tế.[44]
Rồi Linh mục chủ tế cầm lấy bánh thánh, bẻ ra
trên đĩa thánh, và nếu cần thì có
Phó tế hoặc một vị đồng tế phụ giúp.[45]
Linh mục chủ tế lấy một miếng nhỏ bỏ
vào chén thánh và đọc thầm:
Xin cho việc hoà Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, mà chúng
con sắp lãnh nhận, đem lại cho chúng con sự sống muôn đời.
Trong khi
đó đọc hoặc hát:[46]
Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin thương xót chúng con.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin thương xót chúng con.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian: xin ban bình an cho chúng
con.
Linh mục chủ
tế CHẮP TAY đọc thầm:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, con sắp rước Mình và Máu Thánh Chúa, xin đừng để
con vì thế mà bị xét xử và luận phạt, nhưng nhờ lòng Chúa nhân từ, xin che chở
và cứu chữa hồn xác con.
Linh mục chủ tế cúi
mình, cầm bánh thánh nâng lên
trên đĩa thánh hoặc chén thánh,
quay về phía cộng đoàn đọc rõ tiếng:
Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần
gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.
Linh mục chủ
tế đọc chung với cộng đoàn một lần:
Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời,
thì linh hồn con sẽ lành mạnh.
Linh mục chủ
tế quay lên bàn thờ, đọc thầm:
Xin Mình Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời.
Linh mục chủ
tế cung kính rước Mình Thánh. Rồi
cầm chén thánh và đọc thầm:
Xin Máu Thánh Chúa Kitô gìn giữ con, cho con được sống muôn đời.
Linh mục chủ
tế cung kính rước Máu Thánh.
Trong lúc Linh mục chủ tế rước lễ thì bắt đầu
hát Ca Hiệp lễ.
Cho rước lễ
xong, Linh mục hoặc Phó tế hoặc thầy đã
lãnh tác vụ Giúp lễ lau đĩa thánh gạt vào chén thánh rồi tráng chén thánh.[47]
Trong lúc tráng chén, Linh mục đọc thầm:
Lạy Chúa, miệng chúng con vừa rước Mình và Máu Chúa,
xin cho chúng con tiếp nhận với tâm hồn trong sạch, và xin cho ân huệ đời này
trở nên linh dược cho chúng con được sống muôn đời.
Linh mục chủ
tế có thể trở về ghế. Tuỳ nghi giữ thinh
lặng thánh trong ít phút, cũng có thể hát hoặc đọc thánh vịnh hoặc thánh ca tạ
ơn hoặc thánh thi.
Linh mục chủ tế đứng tại ghế hoặc tại bàn thờ hướng về cộng đoàn, CHẮP
TAY và nói:
Chúng ta dâng lời cầu nguyện.
Mọi người cùng với Linh mục thinh lặng
giây lát, trừ khi đã giữ thinh lặng trước rồi. Đoạn,
Linh mục đọc lời nguyện Hiệp Lễ.
Lạy Chúa, chúng con vừa thông hiệp với của
lễ chúng con đã dâng tiến. Xin cho tiệc Thánh Thể hôm nay gia tăng sức mạnh cho
hàng Linh mục chúng con, cũng như cho hết mọi thành phần trong Hội Thánh. Xin
ban cho chúng con một tình yêu không gì lay chuyển nổi, khiến chúng con sống trọn
tình với Chúa, và luôn vẹn nghĩa với anh em. (CHẮP TAY) Chúng con cầu xin, nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con.[48]
Hoặc:
Lạy Chúa, hy lễ tạ ơn chúng con đã dâng
tiến và lương thực thiêng liêng Chúa vừa ban, đó chính là Bí tích Cứu Độ của
Con Một Chúa. Ước chi bí tích này giúp chúng con vui vẻ hăng say phụng sự Chúa,
và nhờ đó, được hưởng những hồng ân khác nữa. (CHẮP TAY) Chúng con cầu xin, nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con.[49]
Cộng đoàn tung hô:
Amen.
DẪN:
Giờ đây,
cộng đoàn cùng đọc Kinh Cầu Cho Tân Linh mục.
Kính mời tân Linh mục … tiến ra quỳ trước bàn thờ.
Cũng có thể chọn cách thực hành khác: Sau câu “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an – Tạ ơn Chúa” thì mới bắt đầu
làm các việc “ngoài phụng vụ” như kinh cầu cho tân Linh mục, cám ơn, chúc mừng,
đọc kinh hưởng Ơn toàn xá…
KINH CẦU CHO TÂN LINH MỤC
Lạy Chúa/xưa Chúa đã phán: “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít/các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến.” Lạy Chúa/hôm
nay chúng con vui mừng/vì Chúa đã ban cho chúng con người thợ gặt/là bạn hữu
quen biết/là người cùng quê hương/cùng xứ sở với chúng con. Chúng con biết rằng/tân
Linh mục được tuyển chọn/không phải vì công phúc của chính tân Linh mục. Nhưng
lạy Chúa/chỉ vì lòng Chúa yêu thương nên đã tuyển chọn/như Lời Chúa đã phán
cùng các Tông Đồ rằng: “Không phải các con đã chọn Thầy/nhưng chính Thầy đã chọn
các con.” Vì thế hôm nay/chúng con họp nhau đây hợp ý với tân Linh mục/để dâng Thánh
Lễ cảm tạ Chúa.
Trong Thánh Lễ hôm nay/chúng con cũng hợp
ý với tân Linh mục/cầu xin Chúa chúc lành/và trả ơn bội hậu cho những thân nhân
và mọi ân nhân/cho quý vị hướng dẫn và dạy dỗ/và cho tất cả những người đã giúp
tân Linh mục tiến đến Bàn Thánh.
Lạy Chúa/xưa Chúa đã phán: “Không có Thầy/các
con không thể làm gì được.” Lạy Chúa/tân Linh mục của chúng con đây/nếu không
được Chúa trợ giúp/không thể chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Vậy lạy Chúa/chúng
con nguyện xin Chúa ban cho tân Linh mục luôn sống theo ý Chúa/biết quên mình để
phục vụ mọi người/được dồi dào sức khỏe/được tâm hồn trong sạch/được trở nên chứng
nhân sống động mang hình ảnh Chúa.
Lạy Mẹ Maria/Mẹ là Mẹ các Linh mục/xin Mẹ
gìn giữ tân Linh mục được trung thành với ơn Chúa/được chu toàn sứ mạng cho đến
cùng. Amen.
Hoặc
KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC
Lạy Chúa Giêsu,/Linh mục đời đời,/Đấng Chăn Chiên Lành,/Nguồn
Mạch Sự Sống./Chúa đã cho chúng con tham dự vào chức Tư Tế vương giả của Chúa,/để
chúng con loan truyền những kỳ công của Chúa,/và dâng hiến Chúa những lễ tế
thiêng liêng/là đời sống kinh nguyện,/việc làm và những nỗi vui buồn đau khổ./Chúng
con xin tạ ơn Chúa vì chức Tư Tế chung này.
Nhưng chúng con càng cảm tạ Chúa hơn nữa/vì Chúa đã chọn một
số anh em chúng con đặt làm Linh mục thừa tác,/để thay mặt Chúa dạy dỗ,/thánh
hoá và hướng dẫn chúng con.
Lạy Chúa,/xin thánh hiến các Linh mục như Chúa đã tự thánh
hiến./Xin cho các ngài nên giống Chúa trong mọi sự./Chúa là Đấng hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng./Chúa là Ánh Sáng thế gian,/và là Mục Tử hiến mạng sống
vì đoàn chiên mình.
Xin Chúa ban cho các Linh mục sự khiêm nhường và lòng nhiệt
thành chăm lo việc Chúa,/tránh việc xa lạ với phẩm chức mình./Xin cho các ngài
chỉ biết rao truyền Lời Chúa,/chứ không rao giảng ý kiến riêng tư hay của loài
người./Ước gì các ngài sốt sắng trong việc mục vụ,/nhất là trong việc cử hành Thánh
Lễ và các bí tích,/là nguồn năng lực và là gương mẫu của các tín hữu chúng con.
Lạy Chúa,/xin giúp các Linh mục sống khiết tịnh,/và trung
tín với sự tận hiến cho Chúa./Xin cho các ngài khôn ngoan tránh mọi dịp tội và
mọi gương xấu,/sống giữa thế gian nhưng không theo thói thế gian/ngõ hầu củng
cố đức tin và lòng trung thành của các tín hữu.
Sau hết,/giữa những khó khăn đau khổ ở đời/xin ban cho các
ngài sự bình tĩnh và lòng can đảm trong mọi thử thách,/tin tưởng và phó thác
nơi Chúa Thánh Thần/chuyên cần cầu nguyện và sống kết hiệp với Chúa/vâng theo
Thánh Ý Chúa Cha trên trời trong hết mọi sự.
Lạy Chúa/xin đừng để chúng con thiếu thốn Linh mục./Xin ban
cho Giáo Hội nhiều chủng sinh và Linh mục thánh./Xin cho chúng con biết yêu mến/vâng
phục và thành tâm cộng tác với các Linh mục coi sóc chúng con/để đời này cùng
nhau xây dựng nước Chúa/đời sau chúng con lại được sum họp với nhau trên nước
hằng sống./Amen.
DẪN:
Mời tân Linh mục trở về chỗ.
Tiếp đến, một vị trong Hội Đồng Mục Vụ,
đại diện cộng đoàn giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] …,
chúc mừng tân Linh mục, ông bà cố và gia đình.
[Khi vị đại
diện chúc mừng và tặng hoa cho tân Linh mục và các Linh mục cùng lớp xong]
Nhân ngày hồng phúc này,
tân Linh mục xin có vài lời
bày tỏ tấm lòng tri ân với ông bà cố, cha nghĩa phụ,
cha Chính Xứ [Cha Sở], quý cha,
quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn dân Chúa.
Xin kính mời cha.
[Tân Linh
mục cám ơn. Sau đó, tặng hoa, khăn thấm dầu ngày chịu chức cho ông bà cố; hoa
cho cha nghĩa phụ, cha Chính Xứ…]
Sau bài hát kết lễ,
xin mời cha Chính Xứ [Cha Sở], cha nghĩa phụ,
quý cha đồng tế
cùng chụp chung tấm hình lưu niệm với tân Linh mục …,
ông bà cố và gia đình.
Sau đó,
chúng con xin trân trọng kính mời quý cha, quý khách
đến đến hội trường giáo xứ [giáo họ, họ đạo,…] …
để dùng bữa cơm thân mật với gia đình tân Linh mục.
Sau lời cám ơn, Phó tế, hoặc
khi không có Phó tế thì chính Linh mục chủ tế mời gọi cộng đoàn: “Anh chị
em hãy cúi mình đón nhận phép lành.” Rồi Linh
mục chủ tế ĐẶT HAI TAY (lòng bàn tay úp) trên cộng đoàn, đọc công thức ban
phép lành trọng thể.[50]
Linh mục chủ tế quay về phía cộng đoàn, DANG TAY chào:
Chúa ở cùng anh chị em. (CHẮP TAY)
Cộng đoàn:
Và ở cùng cha.
Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):[51]
Xin Thiên Chúa là nguồn mọi niềm an ủi
an bài chuỗi ngày đời anh chị em trong bình an của Ngài, và ban cho anh chị em
ơn phúc lành của Ngài. (CHẮP TAY)
Cộng đoàn:
Amen.
Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):
Xin Thiên Chúa luôn giải thoát anh chị
em khỏi mọi biến loạn, và củng cố tâm hồn anh chị em trong tình yêu của Ngài. (CHẮP TAY)
Cộng đoàn:
Amen.
Linh mục chủ tế (ĐẶT TAY):
Ước gì, nhờ được sung mãn các ơn tin cậy
mến, anh chị em trải qua cuộc đời này với nhiều thành quả trong công việc, và đời
sau có thể đạt được hạnh phúc. (CHẮP TAY)
Cộng đoàn:
Amen.
Linh mục ĐẶT TAY TRÁI TRÊN NGỰC, và ĐƯA
TAY PHẢI LÊN,[52]
nói tiếp:
Và xin phúc lành của
Thiên Chúa toàn năng là Cha và X Con
và Thánh Thần, xuống trên anh chị em và ở lại cùng anh chị em luôn mãi.[53]
Cộng đoàn:
Amen.[54]
Rồi Phó tế hoặc một vị đồng tế hoặc chính
Linh mục chủ tế CHẮP TAY quay về phía
cộng đoàn tuyên bố:
Lễ xong chúc anh chị em đi bình an.
Cộng đoàn thưa:
Tạ ơn Chúa.
DẪN:
Sau khi đã sốt sắng
tham dự Thánh Lễ tạ ơn,
chúng ta đọc 1 Kinh Lạy
Cha, 1 Kinh Kính Mừng,
cùng với việc xưng tội, rước lễ,
giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi hình thức của tội
để lãnh nhận Ơn toàn xá.
Sau đó, cộng đoàn đứng và đọc 1 Kinh Lạy Cha, 1 Kinh Kính Mừng (cùng với việc xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo
Hoàng, giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi hình thức của tội) để
lãnh Ơn toàn xá khi tham dự Thánh Lễ tạ ơn (mở tay) của tân Linh mục.
Cuối cùng, Linh mục chủ tế và
Phó tế hôn kính bàn thờ, và sau khi cúi mình chào bàn thờ, thì ra về cùng một
cách như lúc tiến ra bàn thờ. Còn
các vị đồng tế không hôn bàn thờ
nhưng cúi mình trước bàn thờ.[55]
KINH TẠ ƠN SAU THÁNH LỄ[56]
(Đọc sau Thánh Lễ)
Lạy Chúa
Giêsu, con cảm tạ Chúa đã thương cho con được phục vụ Bàn Thánh Chúa. Được gần
Chúa, lòng con tràn đầy niềm vui và bình an. Xin Chúa tiếp tục ban ơn nâng đỡ,
để con ra đi phục vụ Chúa trong anh em, đem niềm vui và bình an của Chúa đến
cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho con. Amen.
CÁCH THỨC LINH MỤC DÂNG THÁNH LỄ MỘT MÌNH
Giải đáp
của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại
học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Gần đây con đã nói chuyện với một số anh em linh mục về việc cử hành Thánh
Lễ một mình, khi không có người giúp lễ và không có cộng đoàn, mà chỉ một mình
linh mục cử hành Thánh Lễ. Dường như không có sự thống nhất về cách thức cử
hành Thánh Lễ như thế, và điều duy nhất là anh em linh mục chúng con tìm thấy
trong Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (GIRM) là một vài dòng được tìm thấy trong
Số 254. Số này nói: “Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, thì không được cử
hành Thánh Lễ mà không có người giúp, hoặc ít là một tín hữu nào đó. Trong trường
hợp này, thì bỏ các lời chào, lời bảo và phép lành cuối lễ.” (Bản dịch Việt ngữ
của Ủy ban Phụng tự thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam). Con biết vấn đề này thực
sự không được hầu hết mọi người quan tâm, nhưng con nghĩ nhiều linh mục (ít nhất
là các vị mà con đã nói chuyện) muốn có một số hướng dẫn cụ thể về chủ đề này.
Xin cha giúp. – D. C., Sioux Falls, South Dakota, Hoa Kỳ.
Đáp: Bạn đọc này cũng đưa ra một lược đồ về những gì có thể bỏ qua khi cử
hành Thánh Lễ một mình. Tôi sẽ sử dụng lược đồ này và sửa đổi một số chi tiết.
Mặc dù điều
này có vẻ là một điểm khá mơ hồ, nhưng không có gì tối nghĩa trong phụng vụ đến
nỗi các chuyên viên phụng vụ không thể tìm thấy các điểm không đồng ý – và điều
này cũng là không ngoại lệ. Do đó, một số điều tôi nói ở đây chỉ là ý kiến cá
nhân của tôi, dựa trên những gì tôi tin là một sự giải thích đầy đủ về luật.
Khía cạnh khó
diễn giải nhất liên quan đến những gì được bao hàm trong thuật ngữ “Monitionis”
trong tiếng Latinh. Bản dịch tiếng Anh của thuật ngữ này là “monitions, lời bảo,
lời nhắn nhủ” có thể dẫn đến một sự giải thích rất rộng.
Các ngôn ngữ
khác thường ưu tiên giữ thuật ngữ “lời bảo”, vốn có thể là hạn chế hơn. Dù bằng
cách nào, cả bản gốc tiếng Latinh lẫn bản dịch đều không thực sự hữu ích trong
việc giải quyết câu hỏi của chúng ta. Theo như tôi biết, không có lời giải
thích chính thức nào từ phía Toà Thánh.
Trước khi đi
vào chi tiết, tôi muốn đề cập đến việc một số linh mục tin rằng hình thức Thánh
Lễ mà không có tín hữu tham dự là hiện giờ bị cấm. Không phải. Thật vậy, Bộ Giáo
luật hiện tại, bằng cách yêu cầu có lý do chính đáng để cử hành Thánh Lễ một
mình, và không còn đòi hỏi lý do nghiêm trọng như Bộ Giáo luật năm 1917,
đã thực sự tạo sự dễ dàng hơn cho việc cử hành Thánh Lễ một mình, mặc dù việc
này luôn được coi là một ngoại lệ, và nên tránh bất cứ khi nào có thể được.
Tất cả đều giống
nhau, nhiều linh mục đôi khi phải đối mặt với sự lựa chọn cử hành Thánh Lễ một
mình, hoặc không cử hành. Cả giáo luật và luật ân sủng đều khuyên linh mục nên
cử hành Thánh Lễ, vốn là điều tốt hơn.
Mô hình cơ bản
được tuân theo sẽ là nghi thức Thánh Lễ với một linh mục có mặt, bỏ qua bất cứ
điều gì sẽ được hướng tới linh mục này, cũng như các cử chỉ hướng về linh mục
cho các lời chào.
Vì vậy,
khi một linh mục cử hành Thánh Lễ một mình, ngài làm như sau:
– Sau khi hôn
bàn thờ, ngài đọc bài ca nhập lễ, và làm dấu thánh giá.
– Ngài bỏ qua
lời chào đầu Thánh Lễ (“Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum”), và lời mời
bắt đầu nghi thức thống hối (“Anh chị em, chúng ta hãy nhìn nhận… Fratres,
agnoscamus…, “). Phần còn lại của nghi thức thống hối là như bình thường.
– Ngài đọc lời
mời cầu nguyện (“Chúng ta hãy cầu nguyện, Oremus”), vì đây không chỉ là lời mời
hướng đến mọi người, mà còn bao gồm cả ngài nữa. Tiêu chí tương tự được tuân giữ
cho phần giới thiệu Kinh Lạy Cha, vốn không được bỏ qua.
– Ngài đọc phần
giới thiệu các bài đọc và Tin Mừng (“Trích thư thánh… Lectio sancti…”), nhưng bỏ
qua lời chào mọi người đầu Tin Mừng (“Chúa ở cùng anh chị em, Dominus
vobiscum”). Ngài đọc lời kết thúc các bài đọc và Tin Mừng (“Đó là Lời Chúa,
Verbum Domini”). Đây cũng là vì lợi ích của ngài, và không chỉ là lời chào đến
mọi người.
– Trong phần
dâng lễ vật, ngài đọc các lời nguyện dâng bánh và rượu, nhưng bỏ qua câu đáp
“Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời, Benedíctus Deus in Saécula….” Ngài cũng bỏ
qua “Anh chị em hãy cầu nguyện, Orate, fratres”), cùng với câu đáp “Xin Chúa nhận
hy lễ, Suscípiat Dóminus sacrifícium….”
– Không giống
như “Chúa ở cùng anh chị em, Dominus vobiscum” khác, tôi tin rằng ngài phải đọc
câu này, vốn tạo thành một phần của giao thức ban đầu của đối thoại cho kinh Tiền
tụng. Các quy chế nói rõ ràng rằng Kinh nguyện Thánh Thể phải luôn được đọc một
cách toàn diện, và rằng Kinh này vẫn giữ hình thức số nhiều, ngay cả khi linh mục
cử hành Thánh Lễ một mình. Vì lời đối thoại này không thể tách rời khỏi Kinh
nguyện Thánh Thể, nên nó luôn được đọc.
Để hỗ trợ cho
việc giải thích tính cách đặc biệt của “Chúa ở cùng anh chị em, Dominus
vobiscum” này, là sự việc rằng ngay cả khi Thánh Lễ thường được cử hành hướng về
phía đông, chữ đỏ không yêu cầu linh mục quay về phía mọi người vào lúc này,
như đã xảy ra gần như trong mọi trường hợp khác, nhưng hãy nhìn vào thánh giá
bàn thờ.
– Mặc dù Kinh
nguyện Thánh Thể phải được đọc trọn bộ, nhưng lời tung hô tưởng niệm (“Đây là mầu
nhiệm đức tin, Mysterium fidei”) không phải là một phần của Kinh nguyện này. Do
đó, cả lời giới thiệu và câu tung hô đều được bỏ qua. Chữ đỏ này được nói cách
minh nhiên trong một số quy định cho việc đồng tế, khi chỉ có các linh mục có mặt
trong Thánh Lễ.
– Việc trao
chúc bình an (“Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em, Pax Domini sit semper
…”) được bỏ qua.
– Khoảnh khắc
giơ Mình thánh lên là dễ nhầm lẫn. Trong thực tế, chúng ta có hai lời nguyện được
đặt bên cạnh nhau.
Ở đây, số 268
của Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma được tuân giữ: “…Nếu thừa tác viên không rước
lễ, [hoặc nếu không có thừa tác viên] linh mục cúi mình, cầm Mình Thánh quay mặt
về bàn thờ đọc thầm một lần: ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng, Domine non sum dignus’
và ‘Xin Mình Thánh Chúa Kitô, Corpus Christi custodiat…’, rồi rước Mình Thánh
Chúa. Đoạn ngài cầm lấy chén thánh và đọc thầm: ‘Xin Máu Thánh Chúa Kitô,
Sanguis Christi custodiat…’ rồi rước Máu Thánh.” (Bản dịch Việt ngữ, như trên).
– Sau khi rước
lễ, linh mục đọc bài ca Hiệp lễ trước khi tráng chén.
– Sau một khoảnh
khắc tạ ơn trong thinh lặng, linh mục nói “Chúng ta hãy cầu nguyện, Oremus” và
đọc lời nguyện sau Hiệp lễ.
– Cả phép lành
cuối cùng và câu “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an, Ite missa est” đều được
bỏ qua. Thánh Lễ kết thúc với câu “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta. Amen; Per
Christum, Dóminum nostrum. Amen” của lời nguyện kết lễ, sau đó linh mục hôn bàn
thờ, và hoặc cúi đầu trước bàn thờ hoặc bái gối trước Nhà Tạm, tuỳ theo trường
hợp, trước khi rút lui.
Các cử chỉ này
được xem là hình thức kết luận đầy đủ. Không cần phải thêm các cử chỉ khác, vốn
là không được lường trước trong sách nghi thức, chẳng hạn làm dấu Thánh giá.
Lẽ dĩ nhiên,
điều này không có cách nào loại trừ lời đề nghị rằng, ngay sau Thánh Lễ, linh mục
nên dành một thời gian để tạ ơn riêng tư, vì bao ân sủng và đặc ân được cử hành
Thánh Lễ.
Trên đây là một
bài tham khảo có giá trị. Các linh mục nên lưu giữ lại, để sử dụng khi cần.
CÁCH THỨC ĐỌC KINH NGUYỆN THÁNH THỂ
(trích QCSL)
216. Một mình vị chủ tế chính đọc hoặc hát Kinh Tiền Tụng; nhưng hết mọi Linh
Mục cùng với cộng đoàn hát hoặc đọc lời tung hô: “Thánh! Thánh! Thánh!.”
217. Sau lời tung hô “Thánh! Thánh!
Thánh!,” các vị đồng tế tiếp tục theo cách được mô tả dưới đây. Một mình
vị chủ tế chính làm các cử chỉ, trừ khi ghi chú cách khác.
218. Các phần mà tất cả các vị đồng tế cùng đọc, thì các vị đồng tế phải đọc
nhỏ tiếng để tiếng của chủ tế chính được nghe rõ. Như vậy, cộng đoàn sẽ dễ nghe
hơn.
Thật là đáng khen nếu hát những phần tất cả
các đồng tế cùng đọc và Sách Lễ có
ghi dấu nhạc.
Kinh Nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Quy Rôma
219. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể I hoặc Lễ Quy Rôma, một mình chủ tế dang tay
đọc phần: “Lạy Cha rất nhân từ….”
220. “Lạy Chúa, xin nhớ đến…” và “Hiệp thông cùng Hội Thánh…”
có thể để một hoặc hai vị đồng tế luân phiên đọc. Ngài dang tay đọc một mình và
lớn tiếng.
221. “Vì vậy, lạy Chúa”: lại
một mình vị chủ tế chính dang tay đọc.
222. Từ “Lạy Chúa, xin thương ban
phúc…” cho đến “Lạy Chúa toàn
năng…”: chủ tế chính làm các cử chỉ, còn tất cả các vị đồng tế cùng đọc
chung theo cách thức sau đây:
a) “Lạy Chúa, xin thương ban phúc…”: giơ
hai tay về phía lễ vật;
b) “Hôm
trước ngày chịu khổ hình…” và “Cùng một thể thức ấy…” chắp tay;
c) Khi đọc
lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi
nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh
Thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;
d) “Vì
vậy, lạy Chúa…” và “Xin Chúa ghé mắt nhân từ…” dang tay;
e) “Lạy
Chúa toàn năng…” cúi mình và chắp hai tay lại, cho tới lời “là khi rước Mình và
Máu Thánh Con Chúa…” thì đứng thẳng lên và làm dấu Thánh Giá trên mình khi đọc
câu “chúng con được tràn đầy ơn phúc bởi trời.”
223. “Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến…”
và “Xin cũng cho chúng con là tôi tớ
tội lỗi,” có thể để một hai vị đồng tế luân phiên đọc, ngài dang tay đọc
một mình và lớn tiếng.
224. Đến câu “Xin cũng cho chúng con
là tôi tớ tội lỗi” các vị đồng tế cùng đấm ngực.
225. “Lạy Chúa, nhờ Người, Chúa hằng sáng tạo…” mình chủ tế chính đọc.
226. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, một mình chủ tế chính dang tay đọc: “Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng Thánh….”
227. Từ “Vì thế, chúng con nài xin
Chúa…” cho đến “Chúng con cúi
xin Chúa…,” các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách thức sau đây:
a) “Vì thế, chúng con nài xin Chúa”: giơ hai tay về phía lễ vật;
b) “Khi tự
nguyện nộp mình” và “Cùng một thể thức ấy”: chắp tay;
c) Khi đọc
lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi
nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh
thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;
d) “Vì
vậy, lạy Chúa” và “Chúng con tha thiết nài xin Chúa”: dang tay.
228. Cầu cho người còn sống: “Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa,” và cầu
cho người đã ly trần: “Xin Chúa cũng nhớ đến”: có thể để một hai vị đồng tế
luân phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.
229. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể III, một mình chủ tế chính dang tay đọc: “Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng Thánh....”
230. Từ “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con
tha thiết nài xin Chúa…” cho đến “Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn…”: các vị đồng tế cùng đọc chung, theo cách
thức sau đây:
a) “Vì
vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin”: giơ hai tay hướng về lễ vật;
b) “Trong
đêm bị trao nộp…” và “Cùng một thể thức ấy…”: chắp tay;
c) Khi đọc
lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi
nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh
thánh và Chén thánh, rồi cúi mình.
d) “Vì
vậy, lạy Chúa…” và “Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn…”: dang tay.
231. Lời chuyển cầu: “Nguyện xin Chúa
Thánh Thần” và “Lạy Chúa, chúng
con nguyện xin của lễ hoà giải này”: có thể để một hai vị đồng tế luân
phiên đọc, ngài dang tay đọc một mình và lớn tiếng.
232. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể IV, một mình chủ tế chính dang tay đọc “Lạy Cha chí Thánh…” cho đến “và hoàn
tất công việc thánh hoá.”
233. Từ “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con
nài xin Chúa” cho đến “Lạy
Chúa, xin đoái nhìn hiến lễ…”: các vị đồng tế cùng đọc chung theo cách
thức sau đây:
a) “Vì
vậy, lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho Chúa Thánh Thần”: giơ hai tay hướng
về lễ vật;
b) “Vậy,
lạy Cha chí Thánh và cùng một thể thức ấy…” chắp tay;
c) Khi đọc
lời truyền phép, nếu thấy thuận tiện, giơ tay phải hướng về bánh và chén; khi
nâng Bánh thánh và Chén thánh cho người ta thấy, thì mọi người nhìn lên Bánh
thánh và Chén thánh, rồi cúi mình;
d) “Vì
vậy, lạy Chúa, giờ đây” và “Lạy Chúa, xin đoái nhìn”: dang tay.
234. Lời chuyển cầu: “Vậy, giờ đây,
lạy Chúa, xin nhớ đến mọi người” có thể để một hai vị đồng tế đọc và
ngài dang tay đọc lớn tiếng kinh này.
235. Còn về các Kinh Nguyện Thánh Thể khác đã được Toà Thánh phê chuẩn, thì
hãy giữ những quy luật đã ấn định cho từng kinh.
236. Vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể chỉ được đọc bởi vị chủ tế
chính, và nếu muốn, các vị đồng tế có thể cùng đọc với ngài, còn tín hữu thì
không được đọc theo.
BẢNG GHI NGÀY PHỤNG VỤ
xếp
theo thư tự ưu tiên
I
1. Tam Nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc thương khó và phục sinh của Chúa.
2. Lễ Giáng Sinh, Hiển Linh, Thăng Thiên và Hiện Xuống.
Các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh.
Thánh
Lễ an táng (QCSL, số 380, cấm cử hành cả sáng và chiều thứ Năm Tuần Thánh).
Thứ Tư lễ Tro.
Các ngày trong Tuần Thánh, từ thứ Hai đến hết thứ
Năm.
Các ngày trong tuần bát nhật Phục Sinh.
3. Các lễ trọng kính Chúa, Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.
Lễ cầu cho mọi tín hữu đã qua đời.
4. Các lễ trọng riêng, tức là:
a) Lễ trọng kính thánh bổn mạng của chính của địa
phương, thành phố hoặc quốc gia,
b) Lễ trọng cung hiến thánh đường, hoặc ngày kỷ
niệm cung hiến thánh đường đó,
c) Lễ trọng mừng tước hiệu của nhà thờ,
d) Lễ trọng của Dòng Tu hoặc Tu Hội mừng tước hiệu,
hoặc Đấng Sáng Lập Dòng, hoặc bổn mạng chính của Dòng.
II
Thánh
Lễ có nghi thức riêng (QCSL, số 372).
Thánh
Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch do lệnh của Đấng Bản Quyền địa phương (QCSL, số 374).
5. Các lễ kính Chúa có ghi trong lịch chung.
6. Các Chúa Nhật mùa Giáng Sinh và mùa Thường Niên.
7. Các lễ kính Đức Mẹ và các thánh có ghi trong lịch chung.
8. Các lễ kính riêng, tức là:
a) Lễ bổn mạng chính của giáo phận.
b) Lễ kỷ niệm ngày cung hiến nhà thờ chính toà.
c) Lễ kính bổn mạng chính của một miền, tỉnh, quốc
gia hoặc một vùng rộng lớn.
d) Lễ kính của Dòng Tu hoặc Tu Hội, và Tỉnh Dòng
mừng tước hiệu, Đấng Sáng Lập, thánh bổn mạng, trừ những điểm đã nói trong
số 4.
e) Các lễ kính riêng khác của một vài nhà
thờ.
f) Các lễ kính khác có ghi trong lịch của một
giáo phận, một Hội Dòng hoặc Tu Hội.
Thánh
Lễ cầu cho tín hữu vừa mới qua đời hoặc trong ngày giỗ đầu (QCSL, số 381).
9. Các ngày trong tuần thuộc mùa Vọng từ 17 đến hết 24 tháng Mười
Hai.
Các ngày trong tuần bát nhật Giáng Sinh.
Các ngày thường trong mùa Chay.
Thánh Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch
theo sự xét đoán của vị phụ trách thánh đường hoặc của chính Linh mục chủ tế (QCSL, số 376).
10. Các lễ nhớ bắt buộc có ghi trong lịch chung.
11. Các lễ nhớ bắt buộc riêng, tức là:
a) Các lễ
nhớ bổn mạng phụ của địa phương, giáo phận, miền hoặc tỉnh, quốc gia, một
vùng rộng lớn, của Dòng Tu hoặc Tu Hội và Tỉnh Dòng.
b) Ít
nhiều lễ nhớ bắt buộc riêng của một vài nhà thờ.
c) Các lễ
nhớ bắt buộc khác có ghi trong lịch giáo phận, Dòng Tu hoặc Tu Hội.
12. Các lễ nhớ không bắt buộc đã được nói tới cách đặc biệt trong Quy Chế Tổng Quát về Thánh Lễ và Các Giờ
Kinh Phụng Vụ, thì có thể xảy ra vào cả những ngày đã nói ở số 9. Cũng vì lý do
đó, khi những lễ nhớ bắt buộc trùng với những ngày thường trong mùa Chay, thì
có thể được cử hành như lễ nhớ không bắt buộc.
13. Các ngày trong tuần, từ đầu mùa Vọng cho đến hết ngày 16 tháng Mười Hai.
Các ngày
trong tuần thuộc mùa Giáng Sinh, từ ngày 02 tháng Giêng đến ngày thứ Bảy sau lễ
Hiển Linh.
Các ngày
trong tuần thuộc mùa Phục Sinh, từ thứ Hai sau bát nhật Phục Sinh, cho đến hết
thứ Bảy trước lễ Hiện Xuống.
Thánh Lễ tuỳ nhu cầu và ngoại lịch
theo lòng đạo đức của giáo dân (QCSL, số 375).
Thánh Lễ cầu cho tín hữu qua đời
hằng ngày (QCSL, số 377).
Các lễ nhớ không bắt buộc (QCSL, số 377).
Các ngày
trong tuần thuộc mùa Thường Niên.
TRƯỜNG HỢP CÁC LỄ TRÙNG NHAU
60.
Nếu gặp nhiều lễ phải kính trong
cùng một ngày, thì cử hành lễ nào có bậc cao hơn trong bảng ghi ngày phụng
vụ. Nhưng khi một lễ trọng bị ngăn trở vì gặp một ngày phụng vụ ưu tiên, thì lễ
trọng ấy được dời sang một ngày gần nhất không vướng trùng vào những ngày
quy định trong bảng thứ tự ưu tiên, từ số 1 đến số 8, tuy nhiên vẫn phải giữ
những điều đã quy định tại số 5 ở trên. Còn lễ Truyền Tin của Chúa, khi
nào rơi vào những ngày Tuần Thánh, thì luôn được dời lại mừng vào
thứ Hai sau Chúa Nhật II Phục sinh.
Những lễ khác trong năm ấy được bỏ qua luôn.
61. Còn nếu trong cùng một ngày mà phải cử hành cả kinh Chiều II của lễ đang mừng cả kinh Chiều I của lễ hôm sau, thì phải cử hành kinh Chiều có địa vị ưu tiên trong bảng ghi ngày phụng vụ; trường hợp hai lễ ngang nhau, thì đọc kinh Chiều II của lễ đang mừng.
[1] x. Paul Turner, Ars celebrandi, 99-100.
[2] x. QCSL, số 120, 188, 194; LNGM, số 128.
[3] Tổng Giáo Phận Sài Gòn – TP. HCM, Quy định mục vụ bí tích (2015), 25.
[4] Bộ Giáo luật, điều 905:
§1. Tư tế chỉ được phép cử
hành mỗi ngày một Thánh Lễ, trừ những trường hợp chiếu theo quy tắc của luật
được phép cử hành hoặc đồng tế Thánh Lễ nhiều lần trong cùng một ngày.
§2. Nếu thiếu tư tế, Đấng Bản
Quyền địa phương có thể cho phép các tư tế, khi có một lý do chính đáng, được
cử hành hai Thánh Lễ mỗi ngày, hơn nữa, khi có nhu cầu mục vụ đòi hỏi, được cử
hành ba Thánh Lễ trong các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc.
Bộ Giáo luật, điều 908: Cấm các tư tế Công Giáo đồng tế Thánh Lễ với
các tư tế hay thừa tác viên thuộc các Giáo Hội hay các cộng đoàn Giáo Hội không
hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo.
QCSL, số 202-204:
Chiếu theo luật, Giám mục có quyền
ấn định về kỷ luật đồng tế cho giáo phận của mình trong mọi nhà thờ và nhà nguyện.
Phải hết sức quý trọng lễ đồng tế
mà các Linh Mục trong mỗi giáo phận cử hành với Giám Mục của mình, trong lễ Đại
triều, nhất là trong các cuộc lễ trọng hơn của năm phụng vụ, trong lễ tấn phong
Giám Mục mới trong giáo phận, hoặc Giám Mục phó hoặc phụ tá của ngài, trong lễ
làm phép dầu, trong lễ Tiệc Ly ban chiều, trong lễ mừng thánh sáng lập của giáo
phận địa phương hoặc thánh bổn mạng giáo phận, trong các lễ kỷ niệm của Giám Mục,
sau hết trong dịp họp Hội Đồng hoặc viếng thăm mục vụ.
Vì lý do đó, nên khuyến khích đồng tế mỗi khi
các Linh Mục tụ họp với Đức Giám Mục của mình, như trong dịp tĩnh tâm hoặc tập
họp khác. Trong những dịp ấy, dấu hiệu hiệp nhất của chức Linh Mục, và của Hội
Thánh, đặc trưng của mọi lễ đồng tế, được biểu lộ một cách rõ ràng .
Khi có lý do đặc biệt hoặc vì ý
nghĩa của nghi thức hoặc vì ngày lễ, thì được phép cử hành Thánh Lễ hoặc đồng tế
một ngày nhiều lần trong những dịp sau đây:
a) Ngày thứ Năm Tuần Thánh, ai đã cử
hành Thánh Lễ hoặc đồng tế trong Thánh Lễ làm phép Dầu, còn được cử hành Thánh
Lễ hoặc đồng tế trong Thánh Lễ Tiệc Ly ban chiều;
b) Ai đã cử hành Thánh Lễ hoặc đồng
tế trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh, còn được cử hành Thánh Lễ hoặc đồng tế trong
Thánh Lễ ngày Phục Sinh;
c) Trong lễ Giáng Sinh, các Linh Mục
có thể cử hành hoặc đồng tế ba lễ, miễn là các lễ này phải được cử hành vào thời
gian đã định;
d) Ngày cầu cho các tín hữu đã qua
đời, miễn là các lễ cử hành vào những thời gian khác nhau, và tuân giữ những điều
quy định về ý chỉ của lễ thứ hai và thứ ba ;
e) Trong Hội Đồng và trong dịp kinh
lý mục vụ có Giám Mục hoặc vị đại diện của ngài hoặc nhân dịp các Linh Mục hội
họp, ai đã đồng tế trong dịp đó, vẫn có thể cử hành Thánh Lễ lần nữa vì lợi ích
của các tín hữu. Điều này cũng có giá trị đối với các cộng đoàn tu sĩ, miễn là
phải tuân thủ đúng những gì phải giữ.
QCSL, số 206: Một
khi Thánh Lễ đã bắt đầu, thì không ai được nhập đoàn đồng tế hoặc được nhận vào
đồng tế nữa.
QCSL, số 209: Tại
phòng mặc áo hoặc ở một nơi nào thuận tiện, các vị đồng tế sẽ mặc lễ phục
như thường mặc khi làm lễ một mình. Nhưng khi có lý do chính đáng, ví dụ
như có nhiều người đồng tế quá mà không có đủ áo lễ, thì, trừ vị chủ tế, các vị
đồng tế khác có thể bỏ áo lễ, mà chỉ dùng áo trắng dài và dây các phép.
[5] x. QCSL, số 120, 188, 194; LNGM, số 128 [linh động, tuỳ hoàn cảnh].
[6] Những thừa
tác viên cầm Thánh Giá - nến cao (đèn hầu) đi rước, thì cúi đầu thay vì cúi mình
(x. QCSL, số 274).
[7] Trong đoàn rước, trừ một số thừa tác viên đặc biệt sẽ đi một mình, còn
các thừa tác viên khác thì đi theo hàng đôi chứ không phải hàng một (x. LNGM,
số 128).
[8] Hai Phó tế giúp lễ chính cho Giám mục/Linh mục sẽ cùng hôn bàn thờ với
ngài (x. QCSL, số 173). Khi hôn bàn thờ,
theo luật phụng vụ hiện hành, không có sự phân biệt về tư
thế của thầy Phó tế và Linh mục/Giám mục liên quan đến việc chạm tay vào bàn thờ
(x. Edward McNamara, Phó tế
vĩnh viễn được chạm tay vào bàn thờ ở đầu lễ không?).
QCSL, số 211: Khi tới bàn thờ, các vị đồng tế và chủ tế chính cúi mình và lên hôn
kính bàn thờ rồi về chỗ của mình. Còn
chủ tế chính tuỳ nghi xông hương Thánh Giá và bàn thờ, rồi cũng về ghế của
mình.
[9] x. LNGM, số 131, 149; Edward McNamara, Vai trò tháp tùng của
thầy Phó tế lúc xông hương là như thế nào?; Nguyễn Thế Thủ, Huấn luyện
giúp lễ, 46-47, 54.
[10] Linh mục xông hương liên tục
khi đi quanh bàn thờ, không phân biệt giữa bàn thờ và chân bàn thờ (x. Notitiae
14 [1978] 301-302, no. 2).
[11] x. QCSL, số
120-123, 172-174, 188, 194, 277; LNGM, số 90, 128.
[12] Nghi thức Thánh Lễ, số 2: “Linh mục dang
tay chào cộng đoàn”; LNGM, số 132: “Với hai tang dang ra, Đức
Giám mục chào chúc dân chúng...” Vì thế, chủ tế dang tay ra ngay khi bắt đầu
câu chào chúc rồi từ từ khép tay lại ở cuối lời chào chúc. Cử chỉ dang tay này
khác với cử chỉ dang tay cầu nguyện (x. LNGM, 104).
[13] Nếu cử hành các phần sau đây thì cũng bỏ nghi thức/hành
động thống hối: (1) các cuộc rước kiệu trọng thể với nghi thức riêng như
lễ Tro hay kiệu nến ngày 02/02 (Lễ Dâng Chúa trong đền thờ) và kiệu lá trong lễ
Lá; (2) đọc Giờ kinh Phụng vụ phối hợp với Thánh lễ (x. Văn kiện
trình bày và quy định các giờ kinh phụng vụ, số 94); (3) có những
nghi thức đặc biệt được cử hành trong Thánh Lễ như: lễ Cung hiến thánh đường,
Nghi thức khai tâm Kitô giáo cho người lớn, Nghi thức rửa tội trẻ em, lễ ban bí
tích Hôn phối (x. Nghi thức cử hành Hôn nhân, số 53; Cử hành Thánh Lễ,
số 149).
[14] Kinh Vinh
Danh được hát hoặc đọc trong các Chúa Nhật ngoài mùa Vọng và mùa Chay, trong
các lễ trọng và lễ kính, và trong các cử hành đặc biệt khá long trọng (x.
QCSL, số 53). “Một dịp cử hành đặc biệt
có phần long trọng” là dịp cử hành được xét là diễn ra cách trọng thể hoặc với
một số lượng lớn người tham dự (Notitiae
6 [1970] 263, no. 33).
[15] Đây là cử điệu của người đang cầu nguyện/van nài được
thực hiện trong tư thế đứng, khuỷu tay sát vào hai bên thân thể và hai tay dang
ra, còn lòng bàn tay thì ngửa hướng lên trên như chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước
(2 Mcb 14,34;15,12.21; G 11,13-15; Tv 68,32…) (x. Charles Herbermann, ed.,
“Orans,” Catholic Encyclopedia (New York: Robert Appleton Company,
1913).
[16] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho cac nhu cầu – cầu cho các Linh mục.
[17] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho cac nhu cầu – tạ ơn Thiên Chúa.
[18] x. Sách Bài đọc:
Thánh Lễ cầu cho các nhu cầu khác nhau – cầu cho Linh mục hoặc tạ ơn.
[19] Dù người dẫn lễ có đọc lời dẫn
trước các bài đọc nhưng người đọc sách vẫn luôn phải đọc “Bài trích sách…” hoặc “Bài trích thư…” hoặc “Tin Mừng
Chúa Giêsu…” (x. Mục lục các bài đọc trong Thánh Lễ (1981), số 121). Tiêu đề duy nhất được đọc
lên là câu chỉ ra tên của cuốn Sách Thánh/Thánh Thư được công bố, hoặc, tác giả
của bản văn/tác phẩm đó. Ví dụ: “Bài trích thư thánh Phaolô tông đồ gởi
Timôthê”; “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh…” (x. Notitiae 14 [1978]
303, no. 5). Không có lời dẫn lễ trước bài Tin Mừng.
[20] x. QCSL, số
131-132, 175; LNGM, số 84-98.
[21] Nên hát lời chào, câu xướng
“Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô...” và “Đó là Lời Chúa” để cộng đoàn cũng đáp lại bằng
cách hát như vậy, mặc dầu
chỉ đọc bài Tin Mừng. Bằng cách này, tầm quan trọng của bài Tin Mừng được đề
cao hầu khơi dậy đức tin các tín hữu (x. Mục lục các bài đọc trong Thánh Lễ (1981),
số 17; Uỷ Ban Thánh Nhạc – HĐGM.VN, Hướng dẫn mục
vụ Thánh nhạc 2022, số 158). Linh mục/phó
tế xướng câu “Đó là Lời Chúa” (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 16; QCSL, số 134, 175) nhưng
không giơ cao Sách Thánh lên, vì câu “Đó là Lời Chúa” trước tiên quy chiếu đến
bản văn vừa được công bố chứ không phải đến cuốn sách chứa đựng bản văn.
[22] Kinh Tin Kính
phải do Linh mục hát hoặc đọc chung với cộng đoàn vào các Chúa Nhật và lễ trọng;
cũng có thể đọc trong những cử
hành đặc biệt khá long trọng (x. QCSL, số 68). “Một dịp cử hành đặc biệt
có phần long trọng” là dịp cử hành được
xét là diễn ra cách trọng thể hoặc với một số lượng lớn người tham dự (Notitiae 6 [1970] 263, no. 33).
[23] QCSL, số 71.
[24]
Chủ tế [cùng với thầy Phó tế/người giúp lễ hỗ trợ ngài] nhận lễ phẩm tại một
nơi thuận tiện, và đưa lên bàn thờ. Nghi thức trước đây (năm 1965) cho phép
Linh mục đồng tế nhận lễ vật cùng với chủ tế, nhưng quy định hiện nay chỉ đề
cập đến vị chủ tế nhận lễ phẩm với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một
thừa tác viên khác (x. QCSL, số
140, 178; LNGM, số 145). Thông thường, nơi thuận tiện cho chủ tế đứng tiếp
nhận lễ phẩm là ở trước bàn thờ (chân bàn thờ)/lối vào cung thánh (x. QCSL, số
73-74, 178, 190, 140, 105; Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, số
1350)
Theo Đức ông (nay là Giám mục)
Peter J. Elliott, trong cẩm nang nghi lễ thực hành của ngài, ĐỂ TRẢI KHĂN
THÁNH:
‒ Hãy cầm khăn thánh (lấy ra từ túi đựng khăn thánh,
nếu có) bằng bàn tay phải, và đặt nó bằng phẳng ở trung tâm bàn thờ, vẫn còn gấp,
cách mép của bàn thờ khoảng 15 cm (5 inch), hoặc hơn nữa nếu mở khăn thánh lớn.
‒ Mở nó ra, đầu tiên bên trái của bạn, sau đó bên phải
của bạn, do đó nhìn thấy ba ô vuông.
‒ Mở ra phần xa nhất kể từ bạn, mở xa khỏi chính bạn,
do đó nhìn thấy sáu ô vuông.
‒
Cuối cùng, mở ra phần gần nhất
kể từ bạn, mở ra về phía chính bạn, do đó nhìn thấy tất cả chín ô vuông. Sau
đó, hãy điều chỉnh khăn thánh để nó cách mép của bàn thờ khoảng 3 cm (1 inch)
là vừa. CÔNG THỨC: TRÁI trước – PHẢI sau – XA ra – GẦN cuối.
Nếu có một hình thánh giá thêu
trên một trong các ô vuông trung tâm bên ngoài, hãy xoay khăn thánh sao cho
hình thánh giá là gần bạn nhất.
ĐỂ GẤP KHĂN THÁNH, hãy làm ngược lại các bước
trên. Do đó, hãy gấp ba ô vuông phía trước bạn ra xa bạn, sau đó gấp ba ô vuông
ở xa về phía bạn và cuối cùng mang ô vuông bên phải vào và ô vuông bên trái vào
ô vuông trung tâm còn lại, để hoàn tất quá trình. CÔNG THỨC: GẦN xuống – XA
lên – PHẢI qua – TRÁI lại.
Lúc chuẩn bị lễ vật, thứ tự dọn như sau:
‒ Bình đựng
bánh thánh: Phó tế bên tay trái Linh mục chủ tế lo dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ
giữa cho chén chủ tế.
‒ Chén đồng
tế: Phó tế bên tay phải Linh mục chủ tế dọn: chia làm 2 bên, chừa chỗ giữa cho
chén chủ tế. Vị trí trang trọng luôn phải
được dành cho chén thánh và đĩa thánh của chủ tế, được đặt trực tiếp ngay trước
mặt ngài (x. Edward McNamara, Cách
xếp đặt nhiều Chén Thánh và Bình Thánh trên bàn thờ). Lưu ý: không để sẵn chén chủ tế ở giữa,
mà phải trao cho Linh mục chủ tế
sau khi ngài đã dâng bánh xong (x. QCSL, số
178).
‒ Sơ đồ:
Bình đựng bánh thánh |
Chén đồng tế (đã có rượu, không cần rót nước;
mở tấm đậy khi chủ tế dâng bánh rượu, sau đó, đậy lại) |
Đĩa |
Chén chủ tế (rót rượu và nước) |
Chén đồng tế (đã có rượu, không cần rót nước;
mở tấm đậy khi chủ tế dâng bánh rượu, sau đó, đậy lại) |
Bình đựng bánh thánh |
|
|
CHỦ TẾ |
|
|
[25] Chủ tế chỉ
thêm một chút nước vào trong chén rượu [được
làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá
nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ
Giáo luật, điều 924). Theo
nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu
(x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas
Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House,
1986), 67). Nước
chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa.
Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là
sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art.
“Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa
pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ
ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ.
Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm
theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc
rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một
bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến
việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa”
(x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical -
Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).
Theo giáo sư phụng vụ Antonio
Sorrentino: “Nước phải được hoà vào rượu trong mỗi chén thánh” (Antonio
Sorrentino, Liturgia in Frammenti, Risposte a 500 quesiti liturgici (Salerno: NXB. Dottrinari
2022), 93). Trong khi đó, theo giáo sư McNamara và một vài người khác thì cho rằng:
việc chỉ hoà nước vào chén thánh chính hay vào tất cả các chén đều không sai (x. McNamara, “Water and Multiple Chalices”,
trong https://www.scribd.com/document/158365992/CBCP-Monitor-Vol-17-No-13). Ở chỗ
khác, Đức Tổng Giám mục J. Augustine Di Noia, O.P., Tổng Thư ký của Bộ Phụng tự
và Kỷ luật Bí tích, trong một văn bản gửi cho Đức Tổng Giám mục Gregory Aymond,
Chủ tịch Ủy ban Phụng tự HĐGM Hoa Kỳ, khẳng định rằng: “Chỉ cần hoà nước vào
chén thánh chính là đủ” (x. https://www.usccb.org/resources/newsletter-2012-05-and-06.pdf). Ngài
cũng nói thêm rằng: tất nhiên, sẽ không bị coi là sự lạm dụng phụng vụ nếu đổ
nước vào tất cả các chén rượu khác. Giáo luật
điều 924, khoản 1, quy định: “Hiến Tế Thánh Thể phải được tiến dâng với bánh và
rượu nho có pha một chút nước lã.” Vì thế, trong phòng thánh, Ban Phụng vụ
rót sẵn rượu vào các chén đồng tế. Khi dọn ra bàn thờ, Phó tế không cần rót
thêm nước.
Chủ tế chỉ thêm một chút nước vào trong chén rượu [được
làm tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua], bởi vì bí tích không thể được cử hành nếu như thêm quá
nhiều nước đến nỗi phá huỷ tính chất rượu (Bộ
Giáo luật, điều 924). Theo
nhiều tác giả, nước chiếm tới 1/3 rượu thì kể như là mất tính rượu
(x. St. Anphonsus, Theologia Moralis, t. III, lib. VI, no. 210; Nicholas
Halligan, The Sacraments and Their Celebration (New York: Alba House,
1986), 67). Nước
chiếm tới 1/2 rượu, không phải là kể như mà chắc chắn không còn phải là rượu nữa.
Trong trường hợp này, tốt nhất là đừng tiến hành truyền phép, nếu không nói là
sẽ truyền phép bất thành (Joseph J. Farraher, art.
“Questions answered”, in “HPR”, Mar 1981, 64). Trước khi truyền phép, chủ tế nhớ ra là mình chưa
pha nước vào rượu, nên pha xong mới truyền phép. Nếu truyền phép xong mới nhớ
ra thì thôi. Cũng nên nhớ rằng, pha nước vào rượu phải làm trong Thánh lễ.
Trong trường hợp sau khi truyền phép rượu mới biết chỉ toàn là nước, nên làm
theo chỉ dạy của QCSL số 324: “Nếu sau truyền phép hay lúc
rước lễ, Linh mục mới thấy đó là nước chứ không phải rượu, thì đổ nước đó vào một
bình, rồi rót rượu có pha nước vào chén và đọc phần tường thuật liên quan đến
việc truyền phép chén rượu mà không buộc phải truyền phép bánh một lần nữa”
(x. Thomas Pazhayampallil, SDB, Pastoral Guide: Moral - Canonical -
Liturgical, vol. II (KJC Publications, 1984), 98).
[26] x. QCSL, số
178, 277; LNGM, số 96, 149.
[27] “Meum ac vestrum – của tôi cũng là của anh chị em” (Nghi
thức Thánh Lễ, số 29): dù Thánh Lễ đồng tế, Linh mục chủ tế vẫn luôn luôn đọc
là “của tôi.”
[28] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho các nhu cầu – cầu cho các Linh mục.
[29] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho các nhu cầu – tạ ơn Thiên Chúa.
[30] Kinh Tiền Tụng IV theo bản dịch Nghi thức Thánh Lễ năm 2005 của HĐGM.VN. Bản hát lấy theo Cung chủ tế của Đức Giám mục Phaolô Nguyễn
Văn Hoà (HĐGM.VN imprimatur: 08/09/2012).
[31] Lời đối đáp mở đầu kinh
Tiền tụng là một trong những lời đối đáp quan trọng nhất của Thánh
lễ, vì thế rất nên hát, nhất là vào ngày Chúa nhật và các dịp long
trọng khác (Uỷ Ban Thánh Nhạc –
HĐGM.VN, Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc 2022, số 168). Khi đọc/hát
câu “Chúa ở cùng anh chị em”, chủ tế mở và khép tay như lời chào cộng đoàn,
còn mắt hướng thì về dân chúng. Với câu “Hãy nâng tâm hồn lên”, ngài
nâng tay lên cao ít là ở tầm ngang mắt với mong ước tất cả mọi người hãy tập
trung chú ý vào Kinh Nguyện long trọng này (x. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial
de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain
de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions
Artège, 2012), 131). Rồi ngài hạ thấp tay xuống ở mức bình thường khi đọc/hát
câu “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta” để đi vào cử chỉ dang tay cầu
nguyện “orans”, chứ không phải chắp tay lại như cách cử hành trước đây nữa (Ritus
servantus in celebratione Missae [Missale Romanum 1962], VII, n. 8) vì
đây là tiếng nói tạ ơn Thiên Chúa của cả cộng đoàn mà chỉ một mình chủ tế cất lời
tạ ơn như vị đại diện: ngài muốn mời gọi tất cả mọi người hợp ý với mình trong
Kinh nguyện Thánh Thể (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 31; QCSL, số 148; Elliot, Ceremonies of
the Modern Roman Rite, no. 281).
[32] Trước lúc truyền phép một chút, thừa tác viên có thể tuỳ nghi rung chuông để nhắc nhở tín hữu. Cũng rung chuông khi nâng Mình Thánh, và khi nâng Máu Thánh lên, tuỳ
theo thói quen mỗi địa phương (x. QCSL, số 150). Ngoài các thời điểm này, không rung chuông.
Trước kinh Khấn xin Chúa Thánh Thần,
Phó tế/Linh mục đồng tế nhớ lấy tấm đậy khỏi chén thánh cũng như lấy nắp của
bình thánh ra, và có thể đậy chén thánh lại sau truyền phép (x. LNGM,
số 155).
Các phần mà tất cả các vị đồng tế
cùng đọc, thì các vị đồng tế phải đọc nhỏ tiếng để tiếng của chủ tế chính được
nghe rõ. Như vậy, cộng đoàn sẽ dễ nghe hơn (QCSL, số 218).
[33] x. QCSL, số
218.
Khi đọc kinh Epiclesis này
trước truyền phép, luật chữ đỏ quy định: “Linh mục chủ tế sáp hai tay lại, đặt
trên lễ vật và đọc” (x. NTTL, số 101, 109, 118; QCSL, số 226-228;
LNGM, số 106; Notitiae, 1, 1965, 143: DOL 223, no. 1810,
note R8); chính xác hơn nữa là ngón cái của bàn tay phải đè lên trên ngón
cái của bàn tay trái và giữ đôi tay không sát gần lễ vật quá mà cũng không cao
quá trên lễ vật. Theo truyền thống, nay các vị đồng tế ở xa bàn thờ cũng sáp
hai tay lại, úp tay xuống và đưa tay hướng về phía lễ vật; còn các vị đồng tế ở
sát bàn thờ thì sáp hai tay lại, úp tay xuống vừa hướng về lễ phẩm vừa “ở trên”
lễ phẩm (x. QCSL, số 222a, 227a, 230a, 233a, 235; LNGM, số
106).
Khi làm dấu trên mình hoặc khi làm
phép, thì Giám Mục để tay trái trên ngực, trừ khi đang cầm vật gì. Nhưng khi
đứng ở bàn thờ mà tay phải làm phép của lễ hay các cái gì khác, thì tay trái đặt
trên bàn thờ, trừ khi có chú thích thể khác (LNGM, số 108). Trong tất
cả các Kinh nguyện Thánh Thể, trừ Kinh nguyện Thánh Thể I, chủ tế ghi hình
thánh giá vào thời điểm đọc Kinh Khấn xin Chúa Thánh Thần (“để trở nên cho
chúng con, Mình và + Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”).
Ngài bắt đầu với hai bàn tay chắp lại, rồi ghi hình Thánh Giá bằng tay phải
trên lễ phẩm trong khi tay trái của ngài đặt trên bàn thờ ở ngoài khăn thánh.
Bàn tay phải, với các ngón tay khép lại và duỗi thẳng ra, được giữ vuông góc với
bàn thờ khi ghi hình thánh giá. Dấu thánh giá được ghi không quá lớn rộng ra
ngoài cả mép của khăn thánh, cũng không nên hạ thấp bàn tay hay các ngón tay
nhưng luôn giữ chúng trên cùng một mặt phẳng (x. André Mutel et Peter
Freeman, Cérémonies de la Sainte Messe à l'usage ordinaire des
paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit
romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 133).
[34] x. Notitiae 1 [1965], 143: DOL 223, no.
1810, note R8; QCSL 222, 227, 230, 233).
[35] Cử chỉ/hành động: theo đúng chỉ dẫn của Nghi
thức Thánh Lễ, nghĩa là: (1) chủ tế cầm lấy một tấm bánh chứ không
phải cầm lấy đĩa hay bình thánh (X. Paul Turner, Let Us Pray: A
Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville: The Liturgical
Press, 2012), no. 567); (2) chủ tế tuyệt đối không được phép bẻ
bánh đang khi đọc câu: “Bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói…” (x. Huấn thị Bí
tích Cứu độ, số 55).
[36] Khi xướng câu “Đây là mầu nhiệm đức tin”, chủ tế
không dùng hai tay chỉ vào Mình Máu Thánh trên bàn thờ vì câu xướng này
không chỉ giới hạn vào sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu mà các tín hữu phải
dùng đức tin mà nhìn nhận, nhưng đúng hơn muốn diễn tả toàn bộ đạo lý Kitô giáo
hay toàn bộ mầu nhiệm cứu độ nhờ công trình Chúa chịu chết, phục sinh, lên trời
và nay đang hiện thực ở đây trong cử hành Thánh Thể (x. Jungmann, Missarum
sollemnia, II editio – Wien 1949, II pars, no. 269 ss); McNamara, “Omitting
the Mysterium Fidei” (22 May 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/omitting-the-mysterium-fidei-4899).
Trừ trường hợp chỉ có chủ tế và các vị đồng tế hiện diện trong Thánh lễ, các
vị đồng tế không cùng với dân chúng tung hô đáp lại câu xướng của chủ tế vì đây
là cuộc đối đáp giữa chủ tế và dân chúng và câu tung hô thì chỉ thuộc về dân
chúng (x. Turner, Ars Celebrandi, 134).
[37] Tư tế trước hết nêu Tông hiệu của Đức Giáo hoàng
đương kim mà không cần nêu con số. Tiếp đến, nêu danh tính của Đức Giám mục
đang cai quản giáo phận hoặc Đức Giám mục giám quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng
cấp với Giám mục giáo phận theo luật (x. Hiến chế Lumen gentium, số
22-23; Sắc lệnh Christus Dominus, số 6; Sách Giáo lý Hội Thánh Công
giáo, số 1369; ĐGH Biển Đức XVI, Sacramentum caritatis, số 39; André
Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire
des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit
romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 41). Nếu có thể, tư tế
nêu thêm tên của Đức Giám mục phó hoặc Đức Giám mục Phụ tá (Notitiae 45
(2009) 308-320).
Tư tế không nêu tên của: (1)
các Giám mục khác đang hiện diện, cho dù ngài là chủ tế (x. McNamara,
“Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” (24 Nov. 2009), https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-bishops-in-the-eucharistic-prayers-4503.);
(2) Đức Giám mục về hưu; (3) Linh mục giám quản (Sắc lệnh Cum
de nomine (09/10/1972): Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694;
X. McNamara, “When the Holy See Is Vacant (19 Feb. 2013 & 26 Feb. 2013),
https://www.ewtn.com/catholicism/library/when-the-holy-see-is-vacant-4668;
McNamara, “Coadjutors in the Eucharistic Prayer” (20 Nov. 2018), https://www.ewtn.com/catholicism/library/coadjutors-in-the-eucharistic-prayer-13307).
Tư tế không đọc các danh hiệu/tước
vị nào khác của Đức Giám mục hay Đức Giám mục giám quản (như Tổng Giám mục,
Hồng y Tổng Giám mục hay Giám quản tông toà) mà chỉ đơn giản đọc như trong bản
văn của Sách Lễ Rôma: “Đức Giám mục T. chúng con…” (x.
USCCB, Committee on Divine Worship, “The Naming of the Pope and the Bishop in
the Eucharistic Prayer,” Newsletter, Vol. XLIX (Mar. 2013).).
[38] Khi sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể II và III: việc
nêu tên người quá cố/ý lễ chỉ áp dụng đối với các Thánh Lễ: [1] an táng; [2] lễ
sau khi được tin báo tử; lễ giỗ đầu (x. QCSL, số 355, 381) (x. Notitiae 5
(1969), 325, n. 4); [3] lễ giỗ mãn tang (theo tục lệ Việt Nam) trong đó
chắc chắn phải sử dụng bài lễ “Thánh lễ cầu cho người đã qua đời” và mặc lễ phục
màu tím (x. QCSL, số 346d). Nên nhớ rằng trong Thánh Lễ nào Hội Thánh
cũng có cầu cho kẻ sống và người chết, và trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể đều
có nhớ đến những người quá cố rồi (x. Notitiae 5 [1969] 325, n. 4; QCSL,
số 355) (x. McNamara, “Mentioning the Mass Intention” (9 Oct. 2007),
https://www.ewtn.com/catholicism/library/mentioning-the-mass-intention-4390; Bộ
Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Hướng dẫn về Lòng Đạo đức Bình dân và Phụng vụ
(17/12/2001), no. 255; Joyce Ann Zimmerman, “The Choice of the Mass and Its
Parts,” trong A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, ed.
Foley, et al., 411; Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, nos.
312, 314; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the
Roman Missal, no. 355).
[39] Không tuỳ tiện thêm bất cứ tên thánh nào khác theo ý
thích của tư tế vào trong các Kinh nguyện Thánh Thể II, IV, hoặc Kinh nguyện
Thánh Thể Hoà Giải (I và II) vì các Kinh nguyện Thánh Thể này không được dự liệu
cho trường hợp đó (x. Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite,
nos. 312, 316). Nếu tư tế muốn đọc thêm tên thánh bảo trợ, thánh sáng lập
Dòng, thánh mừng kính trong ngày…, ngài nên chọn đọc Kinh nguyện Thánh Thể III
(NTTL, số 113), hay nếu vào dịp đúng, sử dụng một trong số những Kinh
nguyện Thánh Thể dùng trong các dịp hội họp (I, II, III, IV) (x. Notitiae 14
[1978] 594-595, n. 17.).
[40] x. QCSL, số
151, 180.
[41] Theo hướng dẫn của Hội Thánh, chỉ một mình chủ tế
xướng Vinh tụng ca hoặc nếu có các Linh mục đồng tế, các ngài có thể cùng đọc/hát
với chủ tế. Các tín hữu khác không được trực tiếp đọc/hát Vinh tụng ca,
nhưng tham gia bằng đức tin và thinh lặng, sau đó là bằng lời tung hô Amen long
trọng (x. QCSL, số 79, 236, 151; LNGM,
số 158; Cử hành Thánh Lễ, số 199; Ecclesia de Mysterio, số 6,
§.2; Redemptionis sacramentum, số 54). Do bản chất đối đáp của
kinh nguyện, Vinh tụng ca được kết thúc bởi lời đáp Amen của toàn thể cộng đoàn
nhưng không phải của chủ tế, nghĩa là chủ tế không đọc/hát Amen (x. QCSL, số 79, 151, 180; LNGM, số 158). Các vị đồng tế
cũng không đọc/hát Amen long trọng dù các ngài có cùng chủ tế đọc/hát Vinh
tụng ca hay không, trừ trường hợp vừa không có sự hiện diện của giáo dân, vừa
các vị đồng tế hiện diện không đọc/hát Vinh tụng ca.
[42] x. QCSL, số
154, 181, 239.
[43] KHÔNG NÓI:
“Anh chị em chúng ta hãy chúc bình an cho nhau” (x. Thông cáo tháng 04/1991 của
HĐGM.VN).
[44] x. QCSL, số
82, 154, 239; Huấn thị Bí tích Cứu Độ,
số 72; Thông cáo năm 2001 của
HĐGM.VN; Uỷ ban Phụng tự - HĐGM.VN, Cử hành Thánh Lễ (2023).
[45] Vào các
Thánh Lễ đông Linh mục đồng tế, không nhất thiết phải phân phát Mình Thánh cho
từng Linh mục ngay lúc bẻ bánh, có thể đưa Mình và Máu Thánh cho các Linh mục đồng
tế sau khi chủ tế rước lễ xong (x. QCSL, số 248-249). Linh mục chủ tế rước lễ trước tiên, sau đó
đến các vị đồng tế. Các Phó tế sẽ nhận
Mình Thánh Chúa từ tay chủ tế khi ngài đã rước lễ xong (x. QCSL, số
182, 244, 249). Khi Linh mục hoặc Phó tế trao Mình Thánh hoặc Máu Thánh cho các
vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh
Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô” (x. QCSL, số 242, Huấn thị Bí
tích Cứu Độ, số 98). Sau khi chủ tế rước lễ, Phó tế và một số Linh mục đồng
tế cho giáo dân rước lễ. Khi không đủ số Phó tế và Linh mục thì mới nhờ đến các
thừa tác viên ngoại lệ. Trong số các thừa tác viên ngoại lệ, thầy đã lãnh tác vụ
Giúp lễ đứng hàng đầu. Thừa tác viên ngoại lệ chỉ tiến tới bàn thờ sau khi Linh
mục chủ tế rước lễ xong, và người này luôn nhận Bình đựng Mình Thánh từ tay chủ
tế (x. QCSL, số 162).
[46] Nếu Nhà Tạm
có Mình Thánh Chúa ĐẶT TRONG CUNG THÁNH, thì Linh mục, Phó tế và các thừa tác
viên cúi mình khi đến bàn thờ hoặc khi rời bàn thờ, nhưng không cúi mình trước
Nhà Tạm đang khi cử hành Thánh Lễ (x. QCSL, số
274).
[47] Sau khi truyền
phép, phải TUYỆT ĐỐI TRÁNH sang Máu Thánh Chúa Kitô từ chén này qua
chén khác, để tránh xúc phạm đến mầu nhiệm cực đại dường ấy (x. Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn thị Bí tích Cứu
Độ, số 106). Cho rước lễ xong, nếu còn lại
rượu đã được truyền phép, thì Linh mục hoặc Phó tế uống hết ngay tại bàn thờ.
Nếu còn bánh đã truyền phép, thì hoặc rước hết tại bàn thờ, hoặc đem đến nơi cất
Mình Thánh (x. QCSL, số 163,
182, 279).
Việc tráng chén, Quy chế Sách lễ
có sự khác biệt: Thánh
Lễ KHÔNG CÓ PHÓ TẾ: Linh Mục trở lại
bàn thờ, gom những mụn bánh, nếu có; rồi đứng tại bàn thờ hoặc tới bàn phụ mà gạt các mụn bánh trên đĩa
thánh và trong bình thánh vào chén thánh; đoạn vừa tráng chén, vừa đọc thầm: “Lạy Chúa, miệng chúng con...” và dùng khăn lau chén mà lau. Nếu
tráng chén trên bàn thờ, thì sau đó thừa tác viên sẽ đem bình và chén xuống bàn
phụ. Cũng có thể để chén bình chưa tráng trên một khăn thánh ở bàn thờ hoặc bàn
phụ, nhất là khi có nhiều, rồi phủ lại cách xứng hợp, để sau lễ, khi giải tán
dân chúng rồi, sẽ tráng chén ngay (số
163). Thánh Lễ CÓ PHÓ TẾ: Cho
rước lễ xong, cùng với Linh mục trở về bàn thờ, thầy lượm các mụn bánh thánh, nếu
có, rồi đem chén thánh và các bình thánh xuống bàn phụ mà tráng, lau và
sắp xếp như thường lệ;[47] đang khi đó, Linh mục trở về ghế
chủ toạ. Cũng có thể để chén và bình thánh chưa tráng, chưa lau trên một khăn
thánh ở bàn phụ, phủ lại cách thích hợp, để sau lễ sẽ tráng, khi đã giải tán
dân chúng (số 183). Thánh Lễ ĐỒNG TẾ: Phần Máu Thánh còn lại, Phó Tế cung kính rước hết tại bàn thờ; nếu cần
thì nhờ vài vị đồng tế uống giúp, rồi
đem chén xuống bàn phụ; tại đó, chính thầy hoặc thầy đã lãnh tác vụ Giúp Lễ
tráng, lau và dọn dẹp chén như thường lệ (x. số 183) (số 247). Có thể tráng chén sau khi rước lễ hoặc sau Thánh Lễ. Tráng chén bằng rượu và
nước, hoặc bằng nước thôi, rồi người
tráng chén đó uống nước tráng ấy. Đĩa Thánh thường được lau bằng khăn lau chén
thánh.
[48] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho các nhu cầu – cầu cho các Linh mục.
[49] x. Sách lễ Rôma:
Thánh Lễ và lời nguyện cho các nhu cầu – tạ ơn Thiên Chúa.
[50] Trong Thánh Lễ
mở tay của tân Linh mục:
‒
Không công bố sắc lệnh của Toà Ân giải Tối cao về việc
ban Phép lành Toà Thánh cùng với Ơn toàn xá.
‒
Nếu muốn, có thể trích đọc Sổ bộ các ân xá: “Ơn
toàn xá được ban cho tân Linh mục nhân dịp cử hành Thánh Lễ mở tay trước đoàn
dân vào một ngày đã chọn; và ban cho các tín hữu sốt sắng tham dự Thánh Lễ này
((Enchiridion Indulgentiarum: Normae et Concessiones (1999),
“Concessiones,” số 27), nhưng Ơn toàn xá ở đây không đi kèm với hành vi ban Phép
lành Toà Thánh theo công thức được quy định (x. Uỷ Ban Phụng Tự/HĐGM.VN, Thông báo về việc Ban Phép lành
Toà Thánh với Ơn toàn xá (2018)).
‒ Vì
tân Linh mục không ban Phép lành Toà Thánh cùng với Ơn toàn xá như trước cho
nên không sử dụng công thức cũ nữa (Tân Linh mục: Chúa ở cùng anh chị em/Mọi
người: Và ở cùng cha - Tân Linh mục: Hãy chúc tụng Danh Chúa/Mọi
người: Từ bây giờ và cho đến muôn đời - Tân Linh mục: Ơn
phù trợ chúng ta ở nơi Danh Chúa/ Mọi người: Là Đấng Tạo Thành trời
đất - Tân Linh mục: Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha X và Con và Thánh Thần ban
phúc lành cho anh chị em/Mọi người: Amen). Thay vào đó, vào lúc
cuối lễ, tân Linh mục có thể sử dụng bất cứ công thức chúc lành nào đã được ấn
định trong Sách Lễ theo thời gian và mùa phụng vụ (x. Phạm Đình Ái, Ban Phép
lành Toà Thánh trong Thánh Lễ mở tay).
‒
Ơn toàn xá này chỉ được ban 01 lần, trong 01 Thánh Lễ
do tân Linh mục chọn.
Để hưởng
được Ơn toàn xá thì cần phải tuân giữ “các điều kiện thông thường”:
‒
Xưng tội bí tích, thường là trong vòng 20 ngày trước
hoặc sau khi hưởng ân xá. Một lần xưng tội bí tích là đủ cho nhiều ân xá.
‒
Rước lễ. Không giống như việc xưng tội, người ta chỉ
có thể hưởng một ân xá cho một lần rước lễ. Mặc dù việc rước lễ này có thể được
thực hiện nhiều ngày trước hoặc sau khi hưởng ân xá, tốt hơn là điều kiện này
nên được hoàn thành trong cùng một ngày. Vì vậy, những người xưng tội thường
xuyên và Thánh Lễ hàng ngày có thể hưởng một Ơn toàn xá thực tế mỗi ngày.
‒
Cầu nguyện theo ý của Đức Giáo Hoàng. Cũng giống như
việc rước lễ, việc cầu nguyện theo ý của Đức Giáo Hoàng phải được đọc để hưởng
mỗi Ơn toàn xá. Mặc dù không có các kinh được quy định, điều kiện cầu theo ý
Giáo Hoàng được thực hiện, bằng cách đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng.
‒
Cần giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi
hình thức của tội. Việc giữ tâm hồn hoàn toàn không dính bén với bất cứ hình thức
tội lỗi nào là điều kiện khó nhất, như thể việc dính bén với tội nhẹ cũng loại
trừ cơ hội có thể lãnh ân xá. Tuy nhiên, hãy lưu ý là điều kiện này không phải
là tình trạng thoát khỏi tất cả mọi tội nhẹ, mà là tình trạng dính bén với tội
lỗi; tức là không có tội nào mà linh hồn lại không muốn từ bỏ. Một sự dính bén
là một rối loạn khách quan, một sự từ chối để sửa đổi một tình huống, và người
liên quan nhận thức về nó. Do đó, đừng nhầm lẫn với sự yếu đuối của con người
bình thường, hoặc sự việc rằng nhiều người, có lẽ hầu hết chúng ta, có xu hướng
lặp lại các lỗi phạm tương tự nhiều lần trước khi thắng vượt chúng. Nếu đúng
như vậy, chắc chắn sẽ gần như không thể có được bất cứ ân xá nào (x. Edward
McNamara, Ân xá gồm những gì, và điều kiện
nào để hưởng ân xá?).
[51] Khi đọc câu chúc lành trọng thể, linh mục giơ hai tay
trên dân chúng, cánh tay ngài hướng thẳng về cộng đoàn, hai lòng bàn tay úp xuống
như trong Kinh nguyện Thánh Thể (episclesis) nhưng giơ cao hơn và hai
bàn tay tách ra chứ không sáp lại, rồi đọc từng câu phép lành. Cần nâng giọng
cuối mỗi câu để cộng đoàn có thể biết và thưa Amen cách nhịp nhàng
(Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite, no. 355; André
Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage
ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la pratique léguée
du rit romain, 2nd ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 180).
[52] Khi ban phép lành cho dân chúng, chủ tế đặt tay trái
trên ngực mình, giơ tay phải ban phép lành và nói: “Xin Thiên Chúa toàn năng,
là Cha, và Con (+), và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em”, còn cộng đồng
cúi đầu và thưa: “Amen” (x. Nghi thức Thánh Lễ, số 141). Trong thực
tế, tất cả mọi người hiện diện đều cúi đầu khi nhận phép lành và làm dấu thánh
giá trên mình (The Editors, “Gestures and Postures of the Congregation at
Mass” Adoramus (Feb. 2010, vol. XV, no. 10), https://adoremuno.org/2010/02/gestures-and-postures/;
André Mutel et Peter Freeman, 41; Catholic Bishops’ Conference of England and
Wales, Celebrating the Mass (London: Catholic Truth Society
and Colloquium [CaTEW] Ltd., 2005), no. 224; U.S. Conference of Catholic
Bishops, Introduction to the Order of Mass: A Pastoral
Resource of the Bishops’ Committee on the Liturgy (2003), no. 146) dẫu rằng
cả Nghi thức Thánh lễ và Quy chế Tổng quát Sách lễ
Rôma đều không đề cập thực hành này (x. André Mutel et Peter Freeman,
41; Turner, Let Us Pray, no. 807; J.R. Lilburne, Ministers
in Masses, no. 312 (15 April 2002), https://www.romanrite.com/masseno.htmlno.anchorintroduction).
Sở dĩ có thực hành “cúi đầu khi nhận phép lành và làm dấu thánh giá trên mình”
như vậy là vì mọi phép lành nói chung có liên quan đến danh Ba Ngôi Thiên Chúa
thì theo một thực hành đã có từ xưa mà đã trở thành một tập tục/truyền thống bất
thành văn, người nhận lãnh phép lành sẽ cúi đầu/quỳ xuống và làm dấu thánh giá
(x. Peter Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite (San
Francisco: Ignatius Press, 2004), no. 365).
[53] Theo QCSL, số 250: Trong nghi thức kết thúc, “chủ
tế chính làm mọi việc khác cho tới cuối lễ như thường lệ (x. số 166-169), còn
các vị đồng tế cứ ở tại chỗ.” Cho nên, trong nghi thức kết thúc, chỉ có vị chủ
tế mới ban phép lành cho cộng đoàn, các Linh mục (và cả Giám mục) đồng tế không
cùng ban phép lành chung với vị chủ tế (x. Edward McNamara, Giải đáp một số vấn đề phụng vụ; Phạm Đình Ái, Toàn thân
con xin ca tụng Chúa, 228-229).
[54] x. Sách lễ Rôma:
Các công thức Ban phép lành cuối lễ – Thường niên 4.
[55] QCSL, số 251: Trước khi rời khỏi bàn thờ, các
vị đồng tế cúi mình trước bàn thờ. Còn chủ tế chính thì kính cẩn hôn bàn thờ như thường
lệ.
[56] Tổng Giáo Phận Sài Gòn – TP. HCM, Quy định mục vụ bí tích (2015), 25.
Đăng nhận xét