CHÚA
NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời
Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
MỤC
LỤC
1. Hãy đi khắp thế gian
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
"Hãy đi khắp thế giới,
loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm
chúng ta nhức nhối. Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế
giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn
sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có
dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được
khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi
mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu
nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ
mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và
thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô
đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng,
nhiều cách truyền giáo.
- Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
- Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm
loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao
người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới
để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền
giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ
bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền
giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi
chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy
bỏng.
Phải sống sao để người ta
thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng
trình bày câu trả lời. Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo
lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của
bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho
người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã
biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã
gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người
khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ
Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng
Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo
Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì
mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu
mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của
Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
- Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của
con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm
nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể
thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó
là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội
Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình
yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử
đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con
đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là
tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội
Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như
thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi
trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho
con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa
theo lời của thánh Têrêxa)
2. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai
giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc.
Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa
qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên
Chúa. Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là
điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào
rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không
hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha
thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên. Hoàng tử quay về
triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo
mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản
xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có
thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực
hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân
để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành
người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày
ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm
quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu
và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không
nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô
đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã
xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất
cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công
nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân
thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá
thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng
ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người,
cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận
của mỗi người. Thế nên, khi yêu thương người thân
cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước
hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu
thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng
ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều
răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa
trong những người phong cùi, trong những người bần cùng
khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những
người ấy hết sức tận tình. Mẹ dạy nữ tu của mẹ:
"Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa
trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với
người cùng khổ." Mẹ là người vừa yêu mến Thiên
Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong
những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn
mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa
trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo
chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người
về với Hội Thánh? Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống
theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống
đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên
Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp
dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được
nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời
sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh
sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi
Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng
quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho
chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo
của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người,
hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất
đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với
đạo yêu thương nầy.
3. Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ
ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho
gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước
lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người
ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản
thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ
giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu
kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc
truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa
rằng: "Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ
con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương
loan báo Tin Mừng cứu độ". Nếu ai cũng cầu xin kiểu
đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ
bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng
thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực
nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là:
"Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi
làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay."
Dù muốn dù không, chúng ta cũng
là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh
tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể
Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người,
nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng
cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về
trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là
môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: "Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho
anh em." (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng
là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ
thích. Thánh Phao-lô thú nhận: "đối với tôi rao
giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng
là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân
tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn
phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình
ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa
Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan
báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình
thương
Phải truyền giáo cách
nào?
Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta,
truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng
Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ
yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu
thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương
từng người đang đối diện.
Mẹ nói: "Đối với chúng
tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương
yêu một người thì phải đến gần người ấy... Tôi
chủ trương một người đến với một người. Mỗi một
người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một
Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên
thế gian trong giây phút đó." Với tâm tình nầy, Mẹ
Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi
trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội
công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu
chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một
người công giáo nên kết thân với một người lương,
coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu
thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết
thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến
của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có
kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời
họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối
giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa
Kitô sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ
đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi
tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
4. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy
Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như
hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu.
Một Têrêsa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim
lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt
Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với
nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở
cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là
Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu
những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết
cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương
thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền
giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn
lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ
khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi
trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa
đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng
ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã
từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa
mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo
hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và
canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần
hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời
giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với
nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai
của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu"
(Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm
tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của
cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một
cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều
được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau
tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau
nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân
thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người
về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ
các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa
hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai
đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a),
thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải
là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn
bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách
chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có
nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo
mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần
mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có
đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự
chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm,
ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh
thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để
sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một
cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm
thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ
Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân
tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng
nhất của Kitô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì
người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều
đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân
nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo
lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin
mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp
với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện
sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự
hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân,
nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường
sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một
người Kitô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ
với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là
lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người
chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng
nói: "Nếu những người Kitô giáo sống đúng tinh
thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn
trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn
mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này
đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà
còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối
sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có
rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ
vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương.
Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự
bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo
hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn
thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng
ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác
ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu
phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng
mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta
mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu
mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha
nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha
nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không
giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một
cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình
người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con
người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng
đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho
nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền
giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời
sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động
cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những
đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự
và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
5. Cách thức truyền giáo – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Hôm nay ngày khánh nhật truyền
giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn
còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất
cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị
mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa
cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết
tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ
cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa.
Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế
mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt
được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau,
không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người
đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9
cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng
nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức
truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của
Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết:
"Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa
chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế
gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta,
ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn
cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể
nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn
thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người,
để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những
khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở
thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để
yêu thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình
yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy,
cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".
Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung
cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái
yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất
để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc
làm phải đi đôi với nhau. Mang danh Kitô hữu và sống
đời Kitô hữu phải nên một trong con người có đạo
mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể
chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận
chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi
trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi
đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người.
Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn
của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa
truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay,
thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người
về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ
chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần
gian.
Trong thông điệp "khánh nhật
truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã
viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định
hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành
động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó
liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân
ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa
có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh
nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái
khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó
là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể
trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa
luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn
quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc
chúng ta nên một với Đức Kitô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật
truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng
ta đã trở nên dấu chỉ của người Kitô hữu hay chưa?
Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống
thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường
để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống
hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ
được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều
người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo
chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng
ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và
ngày càng có những người muốn sống đời Kitô hữu như
chúng ta. Amen.
6. Nối bước các thừa sai – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in Asia,
Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: "Thiên
niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ
thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba
phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt
Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên
quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt
Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha,
công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan
báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã
khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng
loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt
tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của
các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ
vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa
mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em
sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày
nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng
chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần
5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé
nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006
thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7
triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt
Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt
Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta
cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê
hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta
phải "thương người như thể thương thân", thì
đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả
những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh
Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất
là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới.
Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi
lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu
tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng rừng.
Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn.
Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết
bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm
xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng
đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy
nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận
Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc
tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một
gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta
không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn
phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu
sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm
vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ
phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh
truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội
Thánh Chúa Kitô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin
mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng
trở nên môn đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên
Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga
10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời,
chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh
chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào
và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc
truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó
các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp
thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun
trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những
nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng
cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu
rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở
về với Chúa"...; song là "mở rộng biên cương
Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên,
hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và
việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế
toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là
"đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con
người trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục
tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng
cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì Giáo hội được
hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng
sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở
trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục
sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. "Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21". "Anh
em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giêrusalem đến
tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo
chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến
cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa
muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa.
Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam
mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những
phận người bị bỏ rơi.. Hãy tiếp nối tinh thần quả
cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn
làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt
người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi...
nhưng cùng chịu chết với Đức Kitô là một mối lợi
mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh
bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người
thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa
của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại
vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
7. Bài giảng của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
1. Giáo Hội tự bản chất
có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi
hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người
lại cho Giáo hội: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh
em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền
giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh
Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một
ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã
chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông
người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng
truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận
sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của
Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau
lệnh truyền của Chúa:
- “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16).
- “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em” (Mt 28,19-20).
- “Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng
cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy
nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan
báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa
Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình
yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn
hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn
thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình
yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của
Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến
thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng
Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy
vọng cho toàn thể nhân loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm
việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng
việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa.
Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy “làm chứng
cho Chúa” hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc
lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái
yêu thương, như lời Chúa dạy: “Cứ dấu này, người
ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu
thương nhau” (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền
giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với
những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là
đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của
xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập,
mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống
Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế,
môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường
của những con người khốn khổ…, cả môi trường chính
trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng
cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng
ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng
quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ
dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải
là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết
phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người
chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ: sự nhút nhát của chúng
ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để
biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi
bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở
Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự
dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công
Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công
giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành
chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1
người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung
Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu
người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1
người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương
tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng,
phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa
Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo.
Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ,
miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay
Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn
đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh
Thần: “Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ
Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh
em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầyngay từ đầu”
(Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể
cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi
chúng ta có “ở với Người”, gần gũi với Người,
mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời
sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể
loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con
người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm
nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca
hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì
như sách Huấn Ca viết: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm
nhường vọng lên tới các từng mây” (Hc 35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được
ít nhất là một phần nào như Phaolô: “Chúa đã phù hộ
cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng
được hoàntất, và tất cả các dân ngoại được nghe
biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17).
(Bài Giảng Thánh Lễ
Đại Hội Truyền Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
8. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc
truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu
sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có
thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều
phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể
làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa
vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền
giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn
đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ
ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục,
Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ
ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất
cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu
muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi
thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc
truyền giáo bằng cách nào?
Trước hết phải ý thức
sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín
đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng,
phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu
không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi
được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa.
Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn
để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu
nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín
vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người
dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng
của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý
định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa
ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả
của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa.
Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị
Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức
tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ
đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém
thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi
để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy
trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta:
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta
biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức
riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện
vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những
phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta
sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa
sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là
đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến
từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người
chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho
đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được
làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương
của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn
toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi
người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi
người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có
thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có
khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người
khác
Như thế mọi người, từ người
già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những
bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh
đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có
thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với
mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu
thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa
với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
9. Bài suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
HÃY THẢ LƯỚI BÊN PHẢI
THUYỀN (Lc 5,1-11)
Các Tông đồ đã đánh cá vất
vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu
bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài
phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm
vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn
với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại
vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không
ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực.
Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết
ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời
Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ.
Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn
dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao
động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt
đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển
khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh
trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền,
tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi
ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ
ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các
tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực
và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết
việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận
tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền
giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt
nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất
nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì
khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp
những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy
rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật
kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất
vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa
truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong
việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra
khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp
lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng
truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi
chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân.
Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền
giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận
thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh
nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội
lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa
cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng
mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở
thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản
thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo
thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì
truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không
thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm
trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các
ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà
các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là
bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức
riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các
tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả
lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ
khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư
phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ,
nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các
ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải
noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự
bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe
Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì
Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng
ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận
những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho
chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn
kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi
người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo
ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết
quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi
chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin
thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền
giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm
việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
- Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
- Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
- Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
10. Thế Giới Truyền Giáo: Đến với muôn dân
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’
– Lc 24,44-53)
Anh chị em thân mến,
Ngày 7.12.1990 Đức Giáo Hoàng
Phaolô II đã gởi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo một
thông điệp mang tựa đề: “Sứ vụ Đấng Cứu Độ”
(Redemptoris Missio). Thông điệp được công bố để kỷ
niệm 25 năm ngày Công Đồng Vatican II ban hành Sắc lệnh
về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội: “Đến Với
Muôn Dân” (Ad gentes) đồng thời nhân dịp kỷ niệm 500
năm Christophe Colomb tìm ra Tân Thế giới và Tin Mừng được
rao giảng ở Châu Mỹ. Thông điệp còn xuất phát từ
những đòi hỏi cấp bách của xã hội và Giáo Hội trong
những năm cuối của thiên niên kỷ II tiến tới năm
2000. Mới đây, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ
III”, Đức Thánh Cha lại kêu gọi toàn thể Giáo Hoi
chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 bằng việc canh tân đời
sống thánh thiện trong Giáo Hội để tiến tới công cuộc
truyền giáo mới. Đức Thánh Cha không chuẩn bị cho Giáo
Hội tiến tới ngày tận thế! Trái lại, Ngài thúc đẩy
Giáo Hội nhân dịp bước qua Thiên niên kỷ III, tìm gặp
lại sự thánh thiện và lòng nhiệt thành tông đồ mà
Giáo Hội cần phải có để theo đuổi sứ mạng của
mình trong thế giới nhằm phục vụ Tin Mừng cho Nước
Chúa hiển trị.
Đã một thời, hễ nói đến
truyền giáo là chúng ta nghĩ đến việc ra đi đến những
miền đất xa xôi, những vùng dân cư chưa hề biết Chúa
vì chưa bao giờ có các nhà truyền giáo tới với họ.
Ngày nay, không phải chúng ta không nghĩ tới những vùng
đất nầy nữa, nhưng chúng ta phải quan tâm đến môi
trường chúng ta đang sống, vì có những anh chị em chưa
biết Chúa đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta không cần
phải đi đâu xa xôi nữa. Theo Tông huấn “Loan báo Tin
Mừng” của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thì truyền giáo là
đem Tin Mừng đến môi trường nhân loại và nhờ tiếp
xúc với Tin Mừng, con người được biến đổi từ bên
trong, tạo nên một nhân loại mới, bằng bí tích Thánh
Tẩy và đời sống theo Tin Mừng. Vì vậy, ngày nay Giáo
Hội dùng từ ngữ “Tin-Mừng-hóa” thay cho truyền giáo.
Tin Mừng hóa là làm cho Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực
tại của cuộc sống con người. Không một thực tại
nào, không một lãnh vực nào của đời sống con người
mà không phải là đối tượng của việc loan báo Tin
Mừng.
Như vậy, quan niệm truyền giáo
ngày nay bao quát rộng rãi hơn, bao trùm cả cuộc sống
con người, tất cả các công cuộc thăng tiến hay phát
triển con người toàn diện, bắt đầu từ công cuộc
giải phóng con người khỏi đói kém, bệnh tật, mù chữ,
nghèo túng, bất công, áp bức, bóc lột. Tất cả các vấn
đề đó không phải là điều xa lạ với việc loan báo
Tin Mừng (x. LBTM 30,31). Lý do chính là vì bác ái: “Làm
sao có thể công bố giới răn mới của Chúa Giêsu tức
là giới răn yêu thương, mà không xúc tiến trong công lý
và hòa bình, sự phát triển đích thực của con người”
(LBTM 31). Thực ra, việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội
từ bao giờ vẫn luôn đi kèm theo những công cuộc thăng
tiến con người: như mở trường học, xây cất bệnh
viện, tổ chức cứu trợ, khai hoang lập ấp, nâng ca dân
trí… Việc thăng tiến con người được xem là thành
phân của chính sứ mạng rao giảng Tin Mừng, vì được
bao gồm trong ơn cứu độ Chúa Kitô đem đến và Giáo Hội
tiếp tục công bố và thực hiện.
Vì vậy, thưa anh chị em, ở đây
vai trò của anh chị em giáo dân thật là quan trọng, không
thể thay thế được. Giáo Hội quý trọng anh chị em,
khuyến khích anh chị em dấn thân vì đồng loại. Ngay
trong lúc cố gắng tạo các điều kiện giúp anh em đồng
loại sống xứng đáng với nhân phẩm hơn, anh chị em
biết rằng, mình cũng đang làm nhiệm vụ loan báo Tin
Mừng, đang làm việc tông đồ; dù các môi trường hay
các tổ chức, các cơ quan trong đó anh chị em dấn thân
không thuộc về Giáo Hội. Tuy nhiên, nhiệm vụ loan báo
Tin Mừng nầy không dừng lại ở việc thăng tiến đời
sống con người mà thôi, mà cuối cùng phải nhằm đưa
con người đến chỗ sống một cuộc sống mới từ bên
trong, nhờ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và hoán cải cuộc
sống theo Tin Mừng.
Nhưng bằng cách nào? Thưa anh chị
em,
Hình thức đầu tiên của việc
loan báo Tin Mừng là chứng tá đời sống. Đức Giáo
Hoàng Gioan-Phaolô II trong Thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu
Độ” đã nhất trí với nhận định của Đức Phaolô
VI trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” rằng: “Con người
ngày nay tin vào các nhân chứng hơn là các thầy dạy”.
Muốn người khác tin, không phải chỉ dạy đạo lýc mà
còn phải sống đạo lý mình dạy nữa. Con người hôm
nay chờ đợi nơi nhà truyền giáo:
- Một sự quan tâm đặc biệt đến con người nói chung, nhất là những người nghèo, thấp cổ bé miệng, những người đau khổ. Những hoạt động bác ái là những nét son của Giáo Hội trong mọi thời đại.
- Một sự dấn thân phục vụ công lý và hòa bình, thăng tiến phụ nữ, bảo vệ trẻ em và bênh vực quyền con người.
- Một sự hòa nhập vào đời sống của dân tộc mình: trugn thành với đất nước, quyền dân tôc, với nền văn hóa dân tộc mình trong lúc vẫn đề cao tình huynh đệ đại đồng giữa các dân tộc.
- Lòng khiêm tốn để nhìn nhận các giới hạn và sai sót của mình, để mỗi ngày một cải tiến.
- Lòng can đảm để chống lại mọi áp bức, mọi bất công hay bóc lột.
Nếu đáp ứng đủ những sự
chờ đợi nầy, lời rao giảng của nhà truyền giáo sẽ
có cơ may được đón nhận dễ dàng hơn.
Ngoài ra, nhà truyền giáo phải
hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn
cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý
thức mình chỉ là “người được sai đi”. Trong mọi
hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền
giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều
mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về
con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô
xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu
nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị
mất mạng sống vì đức tin… thì đó là một lời loan
báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất (x.
SVĐCĐ 26-81).
Anh chị em thân mến,
Trong viễn tượng của ngày năm
thứ ba sắp đến, chúng ta hãy là những người phát ngôn
cho Tin Mừng, hãy phổ biến với hết sức lực của chúng
ta lời cứu rỗi, sự thật của Thiên Chúa để biến đổi
trọn cả thực tại trần gian theo tinh thần Tin Mừng.
Không phải là lúc phải lo sợ, không phải là lúc để
dành cho người khác thi hành trách vụ nầy. Mỗi người,
xét theo là thành phần của Giáo Hội, cần phải lãnh lấy
phần trách nhiệm của mình. Mỗi người trong chúng ta cần
phải làm cho những ai sinh sống gần bên, trong gia đình,
tại học đường, trong các môi trường lao động, văn
hóa, được hiểu rằng: “Chúa Kitô là Con Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống” của loài người (Ga 14,6).
Cần phải công bố và làm cho từng người biết được
sự thật cứu rỗi, vì chúng ta không thể nào sống lãnh
đạm trước sự kiện hàng triệu triệu người chưa biết
hay biết không đúng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ
của Ngài.
Hai ngàn năm đã qua đi kể từ
khi những lời “Các con hãy ra đi giảng dạy muôn dân”
được Chúa Kitô truyền dạy. Công cuộc rao giảng Tin
Mừng cho muôn dân tùy thuộc vào chúng ta. Chúa Kitô cần
đến chúng ta để đem Tin Mừng cứu độ đến mọi nẻo
đường thế giới. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng
đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống
chứng tá của chúng ta để bày tỏ cho tất cả mọi
người tình thương vô biên của Ngài.
11. Tinh thần truyền giáo (Lc 18,1-8)
(Với cả tâm tình – ĐGM.
Giuse Vũ Duy Thống)
“Không biết khi Con Người đến,
liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”.
Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một
thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình
Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình
huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có
khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở
ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi
đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang
dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của
Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của
các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải
đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi
thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền
giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy
được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện
và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta
thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và
ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được
xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng
đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những
kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động
truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong
những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu
nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng
như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động
sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một
hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”.
Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy
hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói
là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu
nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào
bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo
tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi
chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều
công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội
Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn
ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của
hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt
động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một
hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể
tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc
Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống,
sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông
giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến
thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà
là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu
nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa
và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là
một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu
nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình
trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên
ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị
thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ
đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền
giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn
chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là
truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ
Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa
cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã
đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo
Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền
giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự
sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy
một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và
hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến,
Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy
được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu
nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất
định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến
yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn
mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”,
đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây
truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của
mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được
chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên
tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng
ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền
chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền
truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong
hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân
biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu
là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp
ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau
này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng.
Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của
ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa
mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng
có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc
thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô
giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người
ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép
người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những
điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng
không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí
bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những
khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng
hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt
động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí
bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi
suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao
thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn
cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên
ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương
tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng
tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của
mình.
Điều đáng sợ không phải là
hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí
bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng
này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn
bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy
ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở
đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện
hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng
cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi
đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha
nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất
cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa
Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất
trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ
trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện
trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
12. Thầy Ở Cùng Anh Em
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh
và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo
Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan
thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và
con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên
cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân
tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất
Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào
còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách
nhiệm chúng ta vẫn còn.
- "Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
- "Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
- "Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt
Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa.
Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận
nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc
sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu
thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người
ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có
thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được
những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin
Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên
truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một
cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa
nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa.
Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức
sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu
cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có
Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
- Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của
trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân
tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh
Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê
hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những
năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước
thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và
bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm
mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một
điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh
chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con
biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
13. Truyền giáo
“Không biết khi Con Người
đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa
không?” Lời kết của bài Tin Mừng hôm nay gợi
cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Câu hỏi đó hướng đến một
lời mời gọi tích cực, nhưng cũng có thể nói lên một
thực trạng tiêu cực của niềm tin không chỉ cho các đồ
đệ khi xưa nhưng còn cho chính con người ngày nay.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai anh em”. Sứ mạng truyền giáo loan báo Tin Mừng
tình yêu cứu độ mà Chúa Giêsu đã khai mở và thực
hiện, Ngài đã truyền lại cho Giáo Hội tiếp tục sứ
mạng ấy. Đã 2000 năm qua đi và trong bối cảnh của Chúa
nhật cầu nguyện cho việc truyền giáo, cộng đoàn chúng
ta qui tụ nơi thánh đường này để cùng nhìn lại sứ
mạng Kitô hữu của mình.
Trong sứ điệp của Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II về Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, Ngài
nhấn mạnh đến hai ý nghĩa của việc cử hành ngày quốc
tế truyền giáo, đó là: mời gọi canh tân về ý thức
truyền giáo, nhắc lại tính cấp bách của hoạt động
truyền giáo. Đây là sứ vụ liên quan đến mọi Kitô
hữu. Quả vậy, ngay từ ngày được lãnh nhận Bí tích
Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đã đón nhận sứ mạng tư tế,
vương đế và tiên tri. Nói theo lối trình bày của Hiến
Chế Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium) thì truyền giáo là
bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là vì sứ
vụ, nghĩa là lý do hiện diện của Giáo Hội là truyền
giáo. Và như vậy lệnh truyền của Đức Giêsu về truyền
giáo là lệnh truyền cho mỗi Kitô hữu, là bổn phận
trách nhiệm của mỗi Kitô hữu.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín
hữu Rôma viết: “Tất cả những ai kêu cầu danh Chúa sẽ
được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng
họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe?
Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?”
Nhìn vào thực tế hôm nay số
người Kitô hữu chỉ chiếm một phần năm dân số thế
giới. Lục địa Á Châu gần bốn tỷ người mà trong đó
người tín hữu chỉ là một con số quá bé nhỏ với
2,7/o. Còn trong đất nước chúng ta với dân số hơn 70
triệu trong đó người Công giáo chỉ chiếm tỷ lệ
khoảng 6/o (chưa được một phần mười). Đây phải là
nỗi thao thức của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cụ thể hơn
nhìn vào giáo xứ, vào khu vực địa phương chúng ta đây
còn bao nhiêu người chưa được nghe nói về Chúa, về
Tin Mừng của Ngài, chưa tin theo Chúa? Lý do nào vậy?
Trong đó có trách nhiệm của tôi không? Sẽ không thừa
khi nói lên hiện trạng không ít người vẫn còn cho rằng
việc truyền giáo là của các Đức Giám mục, Linh mục,
Tu sĩ; mà quên rằng chính mình cũng có bổn phận đó.
Bên cạnh đó, không thiếu những người Công giáo lý
luận: “Ôi thôi, đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng
dạy người ta ăn ngay ở lành. Và nếu một người ăn
ngay ở lành theo tiếng lương tâm ngay thẳng của họ thì
dù họ không được rửa tội, họ vẫn có thể được
cứu rỗi. Vậy thì tại sao tôi phải mời gọi họ tin
vào Tin Mừng cứu độ, mời gọi họ lãnh nhận Bí tích
Rửa tội, gia nhập Giáo Hội.
Để trả lời cho lập luận
trên, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo
Lý Đức Tin xác nhận lại một cách rõ ràng rằng bổn
phận truyền giáo của Kitô hữu là cần thiết. Mọi
người đều mắc tội nguyên tổ, lương tâm con người
có thể sai lầm. Họ vẫn cần nghe Tin Mừng, cần ơn
thánh Chúa để có sức mạnh lướt thắng…
Mọi tôn giáo đều có những tia
sáng mà chúng ta không được phép coi thường hay dập
tắt. Mọi tôn giáo đều là tia sáng khởi đầu của đức
tin mà chúng ta mong đợi những tia sáng đó khai triển
thành bình minh huy hoàng và dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ
của đức khôn ngoan Kitô.
Nói đến truyền giáo, trong suy
nghĩ của chúng ta thường là dấn thân làm việc truyền
giáo và ai càng làm được nhiều thì người ấy càng
được xem là nhà truyền giáo lớn. Lịch sử Giáo Hội
qua từng thời kỳ xuất hiện những gương mặt vĩ đại
trong hoạt động truyền giáo mà tiêu biểu là thánh
Phanxicô Xavier, một đời bươn chải, lặn lội đem Tin
Mừng đến vùng xa xôi. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, ẩn
bên trong những hoạt động, động lực cho những hoạt
động, kim chỉ nam cho mọi hoạt động ấy là cả một
tinh thần cầu nguyện của các nhà truyền giáo cũng như
mọi tín hữu. Có thể nói cầu nguyện là linh hồn của
hoạt động truyền giáo. Nếu thiếu cầu nguyện thì hoạt
động chỉ là những thanh la inh ỏi, hời hợt bên ngoài.
Thiếu cầu nguyện cũng là thiếu nền tảng giáo lý cho
việc rao giảng.
Trong bài đọc 1, sách Xuất hành
thuật lại việc Môsê giơ tay cầu nguyện và Giosuê đánh
bại quân Amalech. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của
Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên thì phần
thắng nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy là của
Môsê cùng với Môsê: một sự dung hòa giữa cầu nguyện
và hoạt động.
Một hình ảnh minh họa cho sự
dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động trong hoạt động
truyền giáo đó là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chưa
từng bước ra ngoài hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ
bằng hy sinh và cầu nguyện cho các nhà thừa sai trong việc
rao giảng Tin Mừng vậy mà thánh nữ đã được tôn phong
làm thánh Tiến sĩ Hội thánh, bổn mạng các xứ truyền
giáo.
Gần chúng ta hơn có mẹ Têrêsa
Calcutta, một người mà cả thế giới đều biết đến
với những hoạt động cho tình yêu thương. Mẹ không chỉ
làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng lời
nói nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, bày tỏ gương mặt của
Ngài bằng chính cuộc sống yêu thương của mẹ. Mẹ đã
định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là: “Một tín
hữu Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào
khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài”.
Truyền giáo chúng ta tuyên xưng
niềm tin vào một Thiên Chúa, một Đức Giêsu Kitô, Đấng
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đấng
đã hiến thân để cứu chuộc mọi người. Và truyền
giáo là sứ vụ của Giáo Hội và là một nghĩa vụ mà
đức bác ái đòi buộc mỗi Kitô hữu phải thực hiện
cho anh em đồng loại mình.
Con người ngày nay cần nhân
chứng hơn thầy dạy. Và như thế, truyền giáo không chỉ
là rao giảng một giáo lý mà cần thiết là chia sẻ một
cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa
Giêsu đã cô đọng trong giới luật mến Chúa yêu người.
Chúng ta thường nói “giữ đạo”. Giữ để khỏi mất.
Nhưng giữ cũng còn nghĩa là không muốn cho đi. Bước
chân truyền giáo không bao giờ được phép “giữ” mà
luôn luôn là “cho” đi.
Khi sống yêu thương tôi luôn mở
lòng ra để cho đi, để ban tặng. Tình yêu như một
nghịch lý: khi tình yêu càng cho đi thì càng được đầy
tràn, càng cho nhiều càng được nhiều, trao ban trọn vẹn
sẽ nhận lãnh trọn vẹn. Như thế, truyền giáo chính là
truyền tình yêu mà chúng ta đã kín múc từ nơi Thiên
Chúa và đem trao lại cho anh em mình.
Trong một xã hội mà người tín
hữu chỉ là thiểu số thì việc truyền giáo hiện nay
chính là quyết tâm sống để người khác nhận ra Chúa
Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng về một thứ
đạo của tình yêu thương. Mỗi người chúng ta trong khả
năng, hoàn cảnh của mình đều có thể truyền giáo vì
không ai nghèo đến nỗi không có gì để ban tặng. Như
thế sống yêu thương là một hành động truyền giáo
thiết thực nhất có thể kín múc được tình yêu Thiên
Chúa.
14. Truyền giáo
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến
viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của
chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn
về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc
kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á
Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn
Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc
biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi
đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông,
Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng,
cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị
và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này.
Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ
ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn
giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn
của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào
cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không
những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của
chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về
niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân
chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu
xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với
một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người
theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần
cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất
khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những
năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ
tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô
Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều
nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã
tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công
Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương
pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong
bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn
chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công
bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy
rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ
với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu,
cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp
về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng
dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng
nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao
nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt
trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần
khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn
giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn
ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động,
hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề
"Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị
Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau:
"Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của
tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi
người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn
nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở
thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo
được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một
người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt
hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành
cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ
mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón
nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói
lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc
sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền
giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền
giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt
cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của
Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là
Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn
cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý
thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu
được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong
thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định
nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu
Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn
nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu
mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói
suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương
mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương
phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối
với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để
làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là
rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một
cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà
Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người
được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm
nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì
truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm
sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa
Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ
đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ
chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người,
thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay
chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo
là yêu thương và khoan nhượng.
15. Hãy loan báo Tin mừng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ
tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện,
khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ
tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và
ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người
ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là
con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác
trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối
lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể
phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít
không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai
trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày
xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta
nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời
ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng
mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những
ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những
ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có
thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến
người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm
ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani,
được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ,
thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người
hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào
đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ
rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột.
Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ
lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông
già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ
phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ
là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài
sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại
không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không
thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông
cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều
có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi,
Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là
cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy
chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng
cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho
ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các
chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với
ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở
nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến
thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm
tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn
đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông
mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn
mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt
đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không
phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái
tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm
hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh
em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người
Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết
thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn
nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là
anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt
mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp
những người hấp hối, săn sóc để họ được chết,
được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi.
Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày
càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ
lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người
nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ
được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải
thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ
qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân
tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp
Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ,
đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công
giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi
mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền
giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp
lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật
chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên
của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã
thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là
một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người
làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm
nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau
là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và
còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có
thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm
lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời
Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa
ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho
việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp
phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi
gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng
mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp
nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn
nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
16. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu
nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc
mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho
việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta
hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa
là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1) Cuộc đời
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani
cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được
sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn
độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh
mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi
nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh
tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết,
bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động
trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người
nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp,
đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc
để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa
nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh
viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi
mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng
ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày
càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành
hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn
như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người
nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới
gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo
quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng
thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques
Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của
Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn
không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng
cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn
đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2) Truyền giáo
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách
nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương
cách sau:
Phương cách thứ nhất:
cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa
là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết
Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện
triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu
nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi
việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với
kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ
ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm
niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai:
thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời
Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để
Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ
thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta.
Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón
tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25
chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con
làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất, đó là các con làm cho Thày”.
Phương cách thứ ba: yêu
mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo
không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người
nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin
thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu
mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ
sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc
giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu
nước.
Phương cách thứ tư:
phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự
trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là
phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một
bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục
vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật
chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa
đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới
thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ
Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ
mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu.
Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa
những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi
vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc,
Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu
lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã
đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình
người.
Năm 2004 được Hội đồng Giám
mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi
gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu
mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và
biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo
thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của
Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho
những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu
cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
17. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của
mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc
đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn
phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và
mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề
truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội
truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ
của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu
nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm
vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một
việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là
vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội
và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua
sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy
vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền
giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân
giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay
lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không
thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào
đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt
tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công
trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những
giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ
đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa,
xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không
thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ
đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không
những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn
đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những
nơi hay những hoàn cảnh đó. Như vậy cách truyền giáo
tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương
mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời
sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng
ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai
lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời
sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt,
những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân
gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm
lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công
tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để
nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách
đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định
nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín
hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước
muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và
yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta
biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông,
nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của
Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ
của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ
Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho
người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không
chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ
một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do
và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau
rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai
chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất
tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã
rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng,
tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời:
“Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ
làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được
biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa
những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc
đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu
thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy
gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người
ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy
chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có
đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng
ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người
chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu
chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá
sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu
bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên
những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của
các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền
giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan
trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng
trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn,
giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao
giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời
sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào
có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương
trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận,
như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người
sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em
thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền
giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự
quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta
hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo
hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp
của chúng ta.
18. Đời sống chứng nhân
Hôm nay, ngày thế giới truyền
giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng
ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là
gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao,
rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin
Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao
giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người
khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt
và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập
những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự
Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi,
truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc,
các địa phương, cho đến khi những người trong địa
phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo
ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá
một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của
Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống,
đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả
năng thay đổi, biến cải những con người từ không có
Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại
được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự
sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình,
như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau
hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố,
tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn,
cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những
người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy
hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều
sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những
người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu
mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở
rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng
Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến
Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi
họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những
người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm
cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số
người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên
đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc
truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là
làm cho những người ngoại, những người lương, những
người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn
có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo
sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta
phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện
để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng
yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền
giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ
truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và
không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay
không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một
nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây
là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo
Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo
thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách
nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách
này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân:
Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan
trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu
nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận
ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong
bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền
giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy
các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê.
Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi
hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc
truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót,
bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính
đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền
giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo
bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống
đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm
gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt
đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời
nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ:
đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho
đạo không?
19. Khiêm nhường trong truyền giáo
(Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần)
Người truyền giáo tốt có thể
là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa,
nhưng nhất định phải là người có sự sống của
Chúa trong mình.
Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi
có kinh nghiệm như thế.
Người ta không nhìn thấy Chúa
trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào
sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ.
Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn,
đó là sự khiêm nhường.
Trước khi khiêm nhường được
nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức
tính nhân bản. Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường
vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt
Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn
đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một
yếu tố của đạo làm người.
Trong xử thế, khiêm nhường là
chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ
thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã
chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ
dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón
nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày
Tin Mừng cứu độ.
Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến
người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là
đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì
bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là
trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa
chọn liên quan.
Người tự tôn, hay khinh miệt
người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng
và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho
chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ
làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ
trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng
lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ
Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi
lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống
lại Nước Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa
Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình
thức kiêu căng như:
Đừng thích tìm địa vị cao
trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7). Đừng giả
hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì
dơ bẩn (Mt 23,5-25). Đừng căn cứ vào mấy việc đạo
đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).
Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen
người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là
những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều
điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn
ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa
Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với
Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”
(Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong
hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn
làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực,
nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.
Do đó, sự khiêm nhường của
người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính
nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ
từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền
sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ
sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ
của Người.
Chính ở điểm này, mà đến
lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần
được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây
chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người
được truyền giáo.
Kinh nghiệm cho thấy người được
truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn. Thuở xưa, các
thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt
phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận
mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người
trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn
thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết
Người. Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được,
chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng
họ.
Thời nay cũng thế. Những người
đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới
mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải
khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm
nhường.
Để có đức khiêm nhường,
chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về
nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện
kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư
hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành
công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước
mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn
thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.
Không những chúng ta cần tập
luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện
khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho
kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn
thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi
người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự
Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của
Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm
thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu
ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và
chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng,
phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo
không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây
nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những
điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.
Một điều lợi nữa, mà ơn
khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp
ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng
và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có
hai bổn phận đó. Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống,
Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón
nhận thế nào?
Trong địa vị cụ thể của ta
và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng
ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan
báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc
bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện
bổn phận đó thế nào?
Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm
tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền
giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi
mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và
biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có
thể gặp.
Nếu ta ý thức được như vậy
và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa
cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
Đăng nhận xét