CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is 58,7-10; 1Cr
2,1-5; Mt 5,13-16
1. Muối
2. Muối và
đèn sáng
3. Thắp sáng
cuộc đời – R. Veritas
4. Sống có
ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
5. Muối và
ánh sáng
6. Vì đời và
cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
7. Là muối,
là ánh sáng
8. Muối cho
đời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
9. Có can
đảm sống trung thực theo con người mình
10. Chiếu
ánh sáng của chúng ta khi cần.
11. Ánh sáng
và bóng tối
12. Ướp mặn
đời và toả sáng trần gian
13. Muối
14. Ánh sáng
15. Nhiệm vụ
của người môn đệ
16. Chú giải
của Noel Quession
17. Chú giải
của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Muối
Ngày nay có những
người thích sưu tầm. Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo,
nào giấy kẹo, nào sách hiếm, nào tiền cũ, nào xe hơi... Trong một cuộc triển
lãm họ, người ta trưng bày hàng trăm chiếc bình đựng muối. Một ông khách viếng
thăm phòng triển lãm, trên tay cầm một chiếc đùi gà quay, vừa đi vừa ăn. Tới
phòng trưng bày những chiếc bình đựng muối, ông bỗng cảm thấy như món gà quay
của mình có phần nhạt nhẽo. Ông đã mở nắp những chiếc bình ấy nhưng chẳng chiếc
nào có được tí muối. Vì thế ông đành phải quay lại quầy hàng bán đồ ăn để xin
chút muối.
Hàng trăm chiếc bình đựng muối mà chẳng có được một hạt muối
nào, phải chăng đó là một hình ảnh sống động, tượng trưng cho cuộc đời của
nhiều người trong chúng ta. Thực vậy, rất nhiều người được coi là có muối,
nhưng sự thực lại chẳng hề có. Sự kiện này giúp cho chúng ta dễ dàng hiểu được
điều Chúa Giêsu xác quyết: Các con là muối cho đời.
Trong cuộc sống hàng ngày, muối được dùng vào nhiều việc
khác nhau. Chẳng hạn muối được dùng như một thứ phân bón để hạ phèn, muối được
dùng để làm giảm cơn đau. Một người có nhiều kinh nghiệm sống trong tù cho tôi
hay: Sau khi bị tra tấn dã man, người ta thường dùng muối để chà xát lên vết
thương và người bị tra tấn sẽ không còn bị đau đớn nhức nhối nữa. Muối được
dùng làm chất khử trùng. Khi trộn muối vào đồ ăn, nó sẽ giữ cho đồ ăn khỏi ươn
thối. Và sau cùng muối sẽ làm cho đồ ăn tăng thêm hương vị đậm đà. Vậy đâu là
sứ điệp Chúa Giêsu muốn gởi đến chúng ta khi xác quyết: Các con là muối cho
đời?
Tôi xin thưa chúng ta trở nên muối bằng một đức tin sống động
để làm cho cuộc đời có một ý nghĩa, có một hương vị đậm đà. Thực vậy, trong
cuộc sống chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người kéo lê đời mình một cách buồn tẻ
và vô nghĩa, không mục đích, cũng giống như món gà quay nhạt nhẽo vì thiếu
muối. Chính nhờ thứ muối đức tin của chúng ta mà họ tìm thấy được hương vị cuộc
đời.
Tiếp đến chúng ta trở nên muối bằng chính đời sống đạo đức và
thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Như muối ướp trong đồ
ăn và làm cho đồ ăn khỏi hư thối, thì nhờ muối gương sáng của mình, người kitô
hữu sẽ giúp cho những kẻ mà họ tiếp xúc thoát khỏi những lầm lạc, những suy
đồi, những xuống cấp. Đồng thời nhờ thứ muối của gương sáng này, mà người kitô
hữu sẽ dần dần cảm hoá được họ, giúp họ sửa chữa những sai lỗi, những khuyết
điểm, cũng như giúp họ tìm thấy nẻo đường trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì lời
nói thì như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo. Đời sống gương mẫu
của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn những
người chung quanh.
Bởi đó, bằng đức tin và bằng gương sáng, chúng ta trở nên
muối cho bản thân chúng ta và cho những người chung quanh khỏi bị ươn thối và
cuộc đời của chúng ta cũng như của những người chung quanh tìm thấy được hương
vị đậm đà.
2. Muối và đèn sáng
Quan đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi.
Bằng hai hình ảnh cụ thể này, Ngài phác hoạ một luật sống mà các môn đệ phải
tuân theo khi Ngài gởi họ đi vào đời.
Hình ảnh thứ nhất: “Các con là
muối ướp thế gian”.
Muối là vật dụng
thường thức dùng trong việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và
lạt lẽo. Nhưng người Do Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo:
Các con là muối đất. Trong Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều
lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối
mà thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi
giao tiếp với anh em.
Các con là muối,
nghĩa là chúng ta hãy sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá
bản thân, nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh.
Nếu chúng ta không sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không
ích lợi gì, chỉ đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái
ngày xưa đổ rác cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.
Người ta hỏi ông Ganhdi, nhà ái quốc Ấn Độ,
rằng: - Trước thảm hoạ nguyên tử, ông sẽ làm gì?
Ganhdi trả lời:
- Tôi sẽ cầu nguyện.
Và được hỏi thêm:
- Vì sao ông không theo đạo công giáo?
Ông trả lời:
- Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng
người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi.
Câu trả lời này
khiến chúng ta nhớ lại lời Chúa: Các con là muối đất, nếu muối đã nhạt đi, thì
biết lấy gì mà ướp cho mặn lại. Chỉ còn ném ra ngoài đường cho người ta chà
đạp.
Hình ảnh thứ hai là đèn soi.
Có lần Chúa Giêsu đã
xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng
sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để
trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng
đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
Chúng ta phải là đèn
soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm
không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp
lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới
sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi
người sẽ ngợi khen Thiên Chúa.
Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà
ở ngoại ô Calcutta. Căn nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy
cửa bước vào, sờ soạng đi lại giường một cụ già tiều tuỵ, đau yếu. Mẹ hỏi:
- Nhà của cụ không có đèn đóm gì à?
- Có một chiếc đèn còn tốt nhưng không có
dầu.
Mẹ lục lọi tìm chiếc đèn, rồi lau chùi, mua
dầu đổ vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh. Ít lâu sau, Mẹ nhận được mấy dòng chữ
sau đây: Nụ cười của Mẹ nhu dầu khích lệ, như đèn thắp sáng đời tôi.
Mỗi người chúng ta
đều được Chúa kêu mời trở nên muối mặn ướp thế gian, và trở nên đèn thắp sáng
cuộc đời mình và cuộc đời người khác.
3. Thắp sáng cuộc đời – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin
Mừng’)
Khi tìm một bài hát về thánh Phêrô và Chúa
Giêsu, tôi đã gặp được một bài rất ý nghĩa mà trước đó không hề biết đến. Đó là
bài hát có tựa đề: “Con Là Đá”. Người quen thuộc bài hát “Con Là Đá” này cũng
nên tìm đọc qua một bài hát tương tự khác có tựa đề “Con Không Là Đá”. Bởi một
sự tình cờ và với sự tò mò thôi thúc, tôi có dịp nghe qua bài hát này và kể từ
đó tôi cảm thấy rất thích bài hát nói về Phêrô: “Con Không Là Đá” đó, tác giả
đã diễn tả ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa Giêsu nói cho Phêrô: “Con là Đá”.
Qua lời ca của bài hát, “Con Không Là Đá”,
Chúa Giêsu nói với Phêrô, theo ý của tác giả, thì “con chỉ là Đá khi con nương
tựa vào Chúa, sống kết hiệp với Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, thật sự con
chỉ là cát bụi; con chỉ có thể là Đá trên Thiên Chúa là Viên Đá Thật”.
Kể từ đó, bài hát
nói về Phêrô “Con Không Là Đá” đã thấm nhập vào tâm hồn tôi, và hôm nay, khi
đọc lại bài Phúc Âm thánh Mátthêu (Mt 5,13-19), nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Chúng
con là ánh sáng thế gian”, tôi lại nhớ đến bài hát nói về Phêrô “Con Không Là
Đá”. Tôi có thể chia sẻ với anh chị em rằng, tất cả chúng ta phải là ánh sáng
mà Chúa Giêsu Kitô nói, Ngài là ánh sáng thật đã đến trần gian, đã soi chiếu
cho mọi người và chúng ta chỉ là ánh sáng trong Chúa Kitô là ánh sáng thật.
Chúng ta chỉ là ánh
sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình,
để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của
Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để
chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người
phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để
trở thành một Chúa Kitô khác.
Nhân dịp này, chúng
ta tự suy nghĩ lại câu nói chúng ta thường nghe qua: “Tốt đời đẹp đạo”. Người
ta đến với đạo qua hành động, việc làm đời thường của chúng ta, họ muốn nhìn
thấy việc làm tốt của chúng ta để đến với Đạo, để sống theo như lời Chúa nói: “Để
ngợi khen Cha chúng con Đấng ngự trên trời”. Đó là cái nhìn của người ngoài từ
đời đến đạo, và cái nhìn này có thể hiểu lệch lạc đến độ lấy đời làm méo mó đạo
để thỏa mãn yêu cầu không đạo đức của đời. Là người Kitô, chúng ta hãy nhìn từ
một quan niệm mới không phải từ đời đến đạo mà phải bắt đầu từ đạo đến đời. Tôi
muốn nói từ đời sống đạo của mỗi người chúng ta, đời sống như Chúa Kitô đã sống
để rồi chúng ta lan tỏa cho đời. Chúng ta phải là người đồ đệ đích thực của
Chúa, sống đức tin chân chính, sống đức bác ái của Chúa, sống như Chúa sống,
sống sức mạnh của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô Tông đồ diễn tả trong bài
đọc hai: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Thánh Phaolô đã để
cho ánh sáng của Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của
ngài trở thành ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của
Chúa, sống như Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của
Chúa. Để làm tốt cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho
đời được tươi đẹp, như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng
ta phải tốt đạo để đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải
thực hiện đức bác ái của mình cách hoàn hảo.
Bài đọc thứ nhất từ
sách tiên tri Isaia hôm nay, là một bản kê khai những việc làm tốt mà chúng ta,
những đồ đệ của Chúa cần phải biến đổi để trở thành ánh sáng, để mang ánh sáng
của Chúa đến cho anh chị em. Chúng ta không phải là Ánh Sáng; chúng ta là ánh
sáng thế gian khi nào chúng ta sống kết hợp với Chúa là Ánh Sáng Thật.
Xin Chúa giúp mỗi
người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức tin, được vững mạnh
trong đức ái, để chúng ta sống trọn vẹn đức tin của chúng ta, sống tốt đạo của
chúng ta để chúng ta làm đẹp cho đời.
4. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người ta kể đoạn kết
của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào
cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao
ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại
nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: "Ngày mai chúng ta vào cõi
Phật rồi, sao Thầy không vui?". Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: "Ngộ
Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy
đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà
chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa
hay không?".
Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang
hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi
bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không
thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp
người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa
thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu
tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn
phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật,
dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện
lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn
hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. "Tu thân tích đức -
tề gia - trị quốc - bình thiên hạ". Một em học sinh muốn trở thành những
nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh
gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập
được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống
đúng bản chất con người là "nhân chi sơ tính bản thiện" thì cũng chỉ
là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho
đời.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô
hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là
một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại
thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc
thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ
đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.
Các con là muối cho đời - là ánh sáng cho trần gian. Muối
thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ
thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta
thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người
thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là
những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.
Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới
thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do
tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng
thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh
bỉ.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người
âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi
người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động
tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu
chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người.
Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao
sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài
khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.
Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giáng Sinh, tiên tri
Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời:
Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại
bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia
cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh
phúc...
Và "Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng
đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như
giữa ban ngày".
Một buổi chiều, Mẹ
Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên
trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy
đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng
không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm
ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít
lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: "Nụ cười vui tươi của
Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về".
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc
đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho
anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm
thông. Vì:
"Làm thân cây nến
vào đời
Càng tiêu hao cháy,
càng ngời vinh quang"
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn
của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân
từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức
sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám
hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.
5. Muối và ánh sáng
(Tổng hợp từ R.Veritas)
Sau một thời gian dài
học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:
- Thưa thầy, đâu là sự
khác biệt giữa kiến thức và giác ngộ?
Thầy mỉm cười và ôn
tồn giải thích:
- Khi có kiến thức,
giống như con có “ánh sáng” soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con
sẽ trở thành “ánh sáng” soi đường cho người khác.
Bạn thân mến!
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mời gọi ta trở nên “Ánh Sáng
và Muối Đất”. Đó cũng là lệnh truyền cấp bách mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người
chúng ta hôm nay.
“Chính anh em là muối cho đời”. (Mt. 5,13) Muối là một sản
phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất
đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản
thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết
chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất
mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu
thương và tha thứ …
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là
lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh
Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta
muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được
toả sáng.
Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và
cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng
mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em
phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe
khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).
Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả
một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến
bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng
vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được
loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.
Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa và cho
đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải giống như vậy. Nhưng
trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: “Tôi đang nhận điều gì trong
cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người anh em xung quanh tôi?”
***
Vì tôi là muối nhạt
nên thế giới này vô vị.
Vì tôi là đèn hết dầu,
nên thế giới còn nhiều bóng tối.
Thế giới này sẽ mang
bộ mặt mới nếu tôi thực thi lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật
hôm nay: “Anh em là muối cho đời …Anh em là ánh sáng cho trần gian ”.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin giúp con lắng nghe
tiếng Chúa
và nỗ lực thực thi Lời
Ngài trong cuộc sống của con hôm nay. Amen!
6. Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Muối
Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói
đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ
và gìn giữ”
những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con
người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá
không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.
Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ
đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để
cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ
vôi”.
Ánh Sáng
Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm
ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.
Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời
mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình
an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những
cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.
Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi
mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm
hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có
thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu
tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ
đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối,
tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới
nhiệm mầu của riêng họ.
Điểm chung của muối và ánh sáng
Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và
tránh những điều xấu có thể đến.
Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn
mà và tươi sáng.
Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự
hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để
có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt
trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.
Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món
ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp,
người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.
Vì đời và cho đời
Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối
không?
Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu
sáng, thì có còn là ánh sáng không?
Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy,
thì có còn là môn đệ thầy không?
Chúa Giê-su, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở
trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.
Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.
Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem
đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?
Nên môn đệ Chúa Giê-su phải là “muối” và “ánh sáng” theo
gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giê-su.
Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.
Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giê-su Ki-tô.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
(Ga.1,14).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường
con đi. (Tv 119,105).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy
Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ
hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai
đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).
Lạy Chúa,
Xin dạy cho con,
và soi sáng cho con,
biết suy nghĩ và hành
động,
theo thánh ý Chúa.
Amen.
7. Là muối, là ánh sáng
Suy Niệm
Anh em là muối cho
đời: một định nghĩa tuyệt vời về người Kitô hữu.
Kitô hữu gắn liền
với cuộc đời, hòa mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn, giữ cho nó
khỏi hư và thêm đậm đà.
Vị mặn của muối là
yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.
Muối nhạt chẳng đáng
gọi là muối, vì chẳng ướp được gì.
Khi đánh mất bản
chất của mình, nó cũng hoàn toàn trở nên vô dụng.
Anh em là ánh sáng
cho trần gian: một định nghĩa kinh khủng về người Kitô hữu, bởi lẽ chỉ Thiên
Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga 1,5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga
8,12).
Anh em là ánh sáng
vì anh em gần Thầy, gần đèn thì sáng.
Thế giới hôm nay
tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất ý nghĩa,
một thế giới tối tăm và vẩn đục. Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp, suy
đồi, nhưng người Kitô hữu ít khi nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực
trạng đó.
Vì tôi là muối nhạt
nên thế giới này vô vị. Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.
Thế giới sẽ mang bộ
mặt mới, nếu chúng tôi sống đúng định nghĩa của Đức Giêsu.
Khi hoà mình với
đời, chúng ta có thể trở thành muối nhạt, ngọn đèn chúng ta có thể bị hết dầu.
Cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu của
Người.
Phải liên tục trở
lại với Đức Giêsu để đừng đánh mất bản sắc Kitô hữu của mình.
Anh em ở trong thế
gian, nhưng không thuộc về thế gian.
Vẫn còn nhiều Kitô
hữu, có khả năng nhưng lại rụt rè, đặt ngọn đèn đời mình dưới thùng. Họ không
dám dấn thân vào đời, vì sợ nguy hiểm, vì thiếu tự tin vào bản lãnh của mình,
hay vì hiểu sai thế nào là khiêm tốn thực sự.
Cần có nhiều Kitô
hữu làm băng video, viết kịch, quay phim. Cần nhiều người là văn nghệ sĩ, làm
nhà nghiên cứu.
Cuộc sống chúng ta
phải tỏa sáng, qua bao điều tốt đẹp, để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Nguồn
ánh sáng và cất tiếng ngợi ca tôn vinh.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về cha
Đắc Lộ, người có công lớn trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ của dân tộc Việt
Nam?
Nhiều Kitô hữu đã bị
biến chất khi dấn thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính
mình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh
sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng
tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà
Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và
bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng
con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để
cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
8. Muối cho đời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Trong những dịp cuối
năm, các bản tổng kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội
đặc biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo
sinh sống, tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên,
tôi rất vui vì thấy anh chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối
cho đời như lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Khi nói đến muối
Chúa Giêsu có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.
Đó là một hiẹn diện khiêm
nhường
Hạt muối thật bé
nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối
chỉ đóng vai phụ. Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu
những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối
trong bữa tiệc lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó
là một hiện diện quên mình.
Muối có đó nhưng
không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến
đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi
thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được.
Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải,
người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ,
muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có
ích.
Đó là một hiện diện tích cực.
Tuy bé nhỏ khiêm
nhường và vắng mặt, nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích
cực vì góp phần bảo trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích
cực vì là một thành phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không
thấy và không nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.
Khi dùng muối làm
hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có
những đặc tính của muối.
Người muốn các môn
đệ của Người sống giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn
đệ của Người hiện diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn
các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan
trong thực phẩm.
Nhưng để sự hiện
diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn
của muối.
Vị mặn, đó là lòng
yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối
Phúc như Chúa dạy trong bài Tin Mừng tuần trước.
Giữ được vị mặn của
Phúc Âm và hiện diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực
sự góp phần bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh
sáng soi trần gian.
Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã gọi con
là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho đời
hương vị tình yêu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn nghĩ gì về hình
ảnh hạt muối?
2- Làm muối, dễ hay
khó?
3- Bạn đã bao giờ
cảm thấy niềm vui được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?
9. Có can đảm sống trung thực theo con người mình
(Trích từ ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chân lý, nhất là
chân lý do đức tin mang tới, là muối và ánh sáng. Chân lý, tự nó, không thể nên
lạt lẽo và tối mờ. Nhưng thực tế thì chân lý trở nên “khả giác” khi đi vào trí
khôn và cõi lòng con người. Chính những con người mang chân lý và đức tin, là
muối và ánh sáng gian trần. Bởi vì nhà ở của chân lý và đức tin là con người
với tất cả sự phức tạp của nó, bản năng, sở thích của nó, cho nên sự biến chất
lạt lẽo và tình cảnh bị bóp nghẹt vẫn là những mối đe doạ thường xuyên. Chúa
nói với môn đệ rằng họ là muối và ánh sáng mà không để cho bị lạt lẽo và che mờ
đi.
Muối được dùng nhiều
trong các nghi thức tôn giáo, hẳn là vì nó chữa lành, không bị hư thối, vì nó
cho hương vị. Sách Lêvi (2,13) nói đến muối của Giao Ước để chỉ rằng Giao Ước
phải bền vững, không thể hư hỏng. Tiên tri Êlisê “tẩy sạch” một giòng suối bằng
cách bỏ vào muối vào. (2V 2,21). Ánh sáng là để soi chiếu. Để rọi chiếu, ánh
sáng chỉ cần là ánh sáng. Bài Phúc Âm nói tới cái thùng, có lẽ gợi lại tục lệ
của mấy người nghèo thường đặt đèn trên một cái thúng lật ngược. Nếu lấy thùng
chụp đèn lại, người ta giam hãm ánh sáng và làm nó phải tắt.
- Để suy niệm, chúng
ta sẽ hiểu muối và ánh sáng như những biểu tượng của người Kitô hữu.
1) Người Kitô hữu phải là muối thế gian. Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập
vào nền văn minh với những giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và
thoái hoá trong bạo lực. Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc
dục… Lắm người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không
biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi còn có gì… Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì
thế giới sẽ nên hủ bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh
con người, để góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia
đình, nghề nghiệp, chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như
lòng tin nơi Đức Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như
thế, nếu trở nên lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể
lôi kéo họ vào sự ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc
Âm nói thế.
2) Người Kitô hữu phải là ánh sáng gian trần. Vấn đề không phải là phô trương mình ra.
Những cũng là ánh sáng soi chiêu vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả
ánh sáng Tin Mừng bằng cách là người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm
đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu “sự quy
chiếu” của mình về Chúa Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh
sáng mà người tin Chúa mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay
sao? Trả lời thực tế cho câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm
dạy thì hành động được thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ
ngợi khen Cha trên trời.
10. Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trong một cuộc phỏng
vấn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi ngài: “Đức Thánh Cha
cầu nguyện cho những ai và cho điều gì?” Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích
dẫn đoạn văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công
đồng Vatican II. Đoạn văn ấy như sau: “Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo
âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hay những người bị
bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người
theo Chúa Kitô” (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20).
Thật ra Đức Thánh
Cha đã trả lời câu hỏi không chỉ như ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là
một người Công giáo, một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta.
Chắc chắn những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa.
Dĩ nhiên cầu nguyện phải dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân
nữa.
Biến lời cầu nguyện
thành hành động là giáo huấn của tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay: “Hãy
chia bánh với người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức và không nhà. Mặc
quần áo cho kẻ mình trần khi thấy họ, đừng xoay lưng lại với những khốn khổ
đang xảy ra”. Những lời cảm động này muốn nói tới những người Do Thái bị lưu
đày, họ trở về sau khi thoát ách nô lệ ở Babylon. Họ tìm thấy quê hương họ đã
bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, một dân không chia sẻ cùng một tôn giáo hay
nền luân lý của họ. Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trong một khu
vực thù địch.
Chúng ta không giống
như họ nơi xã hội của chúng ta, những người Công Giáo không phải là một nhóm
người thiểu số, nhưng một số người đang lớn dần lên chung quanh chúng ta có vẻ
như trái tim họ bị xơ cứng trước những nhu cầu của người anh em, ví dụ như những
người đói khát, những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ
cấp xã hội. Các nhu cầu giúp đỡ sẵn sàng bị loại bỏ như là việc vô giá trị và
không đáng được phục vụ. Ở một số nơi, tinh thần này đã thay thế cho sự thương
xót. Những người Công Giáo chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến
chứng này. Đôi khi những hiệu quả thì rất tinh tế mà chúng ta không hề ý thức
đên chúng.
Ngày nay, một số
người nghèo khổ và thích cuộn mình nằm nơi góc tối, nơi đó họ không bị nhìn
thấy. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt
lành của chúng ta trên những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng, tiên
tri Isaia đã giúp chúng ta hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói bằng việc nói với
chúng ta: “Nếu các người rời khỏi nơi áp bức, sự kết án gian dối và những bài
giảng ác tâm, nếu các ngươi cho những kẻ đó bánh ăn, an ủi những kẻ ưu phiền,
thì ánh sáng sẽ bùng lên ngay giữa nơi tối tăm của các ngươi”.
Chúng ta có thể cần
tự nhủ phải trở lại với lối suy nghĩ của người Công Giáo và hành động theo Đức
Kitô, những người mà niềm vui hay những đau thương, nhu cầu và những lo âu của
họ trong thời đại này, đặc biệt là của những người nghèo khó hoặc những người
đau khổ là những người có liên quan đến chúng ta.
Thật ra, tất cả
chúng ta đều có những nhu cầu lớn lao, không có mức độ tài chánh nào có thể đáp
ứng cho đủ cả. Chúng ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không
hề quay mặt đi khỏi chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời
cầu xin của chúng ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu trong Thánh Lễ. Người
gọi chúng ta ra khỏi tình trạng không nhà của thế giới trần tục để vào trong
nhà của Người là Giáo Hội. Ở đây, Người tiếp đón chúng ta bằng những lời êm dịu
và yêu thương trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Con của
Người. Có phải chúng ta xứng đáng với tất cả chuyện đó chứ? Chúng ta làm gì để
xứng đáng với điều đó? Chắc chắn những hồng ân quảng đại của Thiên Chúa hằng
ban xuống trên chúng ta, sẽ khiến chúng ta đi theo sự hướng dẫn của Đức Thánh
Cha và làm cho những nhu cầu của tha nhân thật sự trở nên của chính mình.
11. Ánh sáng và bóng tối
Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich bên Ấn
Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi
thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?
Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy chổi
bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên
trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo.
Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi,
nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ.
Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy đập
bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba,
thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan
cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.
Sau cùng thầy bảo các môn sinh:
- Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy
đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến.
Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức
bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm
cúng.
Anh chị em thân mến,
Văn sĩ Locke, người
Anh, cũng nói: “Thà bật lên một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Và
trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính anh em là muối cho
đời, là ánh sáng cho người”.
Bóng tối của tà thần
vây phủ khắp nơi bằng nhiều hình thức: gian dối, hận thù, chiến tranh, bất
công, bóc lột, tệ nạn xã hội, sách báo tranh ảnh đồi truỵ… Người ta đã tốn
biết bao công sức, đổ biết bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi. Tất cả hầu như đã không
được gì. Bóng tối vẫn là bóng tối vây phủ con người. Ngoài ánh sáng ra, có gì
xua đuổi được bóng tối? Nỗ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi. Cần
phải khơi dậy nguồn sáng. Mỗi con người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng
lên. Mỗi người cần phải tự mình thắp sáng lên cây đèn của mình. Một ngọn đèn
cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế
giới tối tăm này sẽ bớt tối đi. Tất cả mọi người đều thắp sáng ngọn đèn của
mình, cuộc đời này sẽ sáng rực lên nguồn sống mới, vui tươi và ấm cúng biết
chừng nào?
Tuy nhiên, thưa anh
chị em, có người đã tự hỏi: “Tại sao tôi lại phải là muối cho đời và ánh sáng
cho người?”. Tôi chỉ muốn sống bình thường như mọi người, muốn đi lẫn vào đám
đông chứ không muốn đi đầu như một người lãnh đạo. Tôi không muốn chơi nổi,
không muốn chường mặt ra cho mọi người nhìn vào như ngọn đèn trên giá hay ngọn
đèn đường trên cao nơi góc phố. Trở thành muối, thành ánh sáng có lẽ là nhiệm
vụ của linh mục, tu sĩ hãy một số người đặc biệt nào đó chứ không phải là tôi.
Chúng ta được quyền
tự hỏi như thế khi ý thức mình chỉ là con người tội lỗi, yếu đuối như mọi
người. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay không muốn chúng ta từ chối nhiệm vụ này, khi
Ngài nói: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Người Kitô hữu
là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian, không có nghĩa là phải có thái độ
cha chú, lên mặt dạy đời, tự phụ phô trương quảng cáo như kiểu bọn Biệt phái
Pharisêu giả hình. Trái lại, là muối, là ánh sáng, người Kitô hữu phải có cung
cách khiêm tốn, tan biến, lắng chìm giữa lòng đời, như hạt muối thấm vào thức
ăn, như ánh sáng chan hoà trong không khí, và có như thế thì món ăn mới thêm
đậm đà, không gian mới xinh đẹp, tươi vui.
Lẽ tất nhiên, muối
phải luôn mặn từ bên trong, và đèn phải chiếu sáng từ trên cao. Bằng không,
chúng sẽ trở thành đồ vô dụng, đồ phế thải, bỏ đi… Vậy, người Kitô hữu phải
luôn sống đức tin của mình, phải thực thi Tin Mừng của Chúa Kitô ngay giữa các
môi trường mình đang sinh sống hằng ngày. Trái lại, nếu sống bê tha, bất công,
gian ác, thì sẽ trở thành bóng tối, sẽ bôi nhọ khuôn mặt của Chúa Kitô, của
Giáo Hội: Muối đã biến chất, nhạt nhẽo, vô vị. Đèn đã cạn dầu, tắt ngúm, đứt
bóng, còn ích gì?
Ngôn sứ Isaia trong
Bài đọc 1 hôm nay đã kê khai cách tỉ mỉ những việc cần làm để cho “ánh sáng
chúng ta bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”,
đó là hãy chia cơm, sẻ áo cho người đói rách, tiếp nhận người không cửa không
nhà. Đó là loại bỏ những xiềng xích bất công, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu (x. Bài
đọc 1). Chúa đã ban cho chúng ta thời giờ, sức lực và phương tiện đủ để chúng
ta ướp mặn và soi sáng, nhưng nhiều người chúng ta bỏ quên, không sử dụng những
ân huệ này.
Anh chị em thân mến,
hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta phải là những cây đèn đặt trên giá đèn để xua tan
bóng tối và chiếu sáng cả nhà. Căn nhà thế giới, căn nhà Giáo Hội, căn nhà của
mỗi gia đình chúng ta cần thứ ánh sáng ấy biết bao!
Là môn đệ chân chính
của Chúa Kitô, chúng ta không thể quên lời Ngài đã quả quyết: “Chính anh em là
muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Xác tín vào Lời Chúa, chúng ta sẽ gắng
công dùng mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên Chúa ban để ướp mặn đời, để toả
sáng cho mọi người bằng một cuộc sống thánh thiện xứng đáng với tư cách là
những người con của Cha trên trời.
Nếu mỗi người chúng
ta đều thấm nhập chất mặn của Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô,
thì thế giới này làm sao còn bóng tối, cuộc đời này làm sao không rực sáng lên
hy vọng và nguồn vui sống? Được Lời Chúa soi sáng, được Thánh Thể bồi dưỡng,
chúng ta hãy sống gắn bó với Chúa, thấm nhập tinh thần của Ngài để rồi hoàn
thành sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta hôm nay, đó là làm muối cho đời,
làm ánh sáng cho người.
12. Ướp mặn đời và toả sáng trần gian
Chúa Giêsu đưa ra
hai hình ảnh để định nghĩa cho Đời Sống Tông Đồ, đời sống Kitô-hữu. Là một Kitô-hữu,
tôi phải sống thế nào? Chúa Giêsu dạy tôi: “Chính con là muối cho đời, là ánh
sáng cho trần gian”.
Muối là một loại vật
chất khá cần thiết cho mọi người trong nhiều lãnh vực. Muối bảo quản thức ăn,
cũng là gia vị cho thức ăn - thức uống. Muối còn được dùng để trị bệnh: đắp vào
chỗ trặc gân, bong gân; muối sát trùng, để giúp tiêu hóa, để lưu giữ và chuyển
tải I-ốt, ngăn ngừa bệnh tật... Muối cũng có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho
các loài động và thực vật.
Nhờ vào tính chất
nào của muối mà nó hữu ích cho cuộc sống chúng ta như vậy? Chắc chắn câu trả
lời - ai cũng biết - là vị mặn của muối. Nhưng giả như muối mà không mặn, thì
chắc là không còn hữu dụng nữa. Những viên muối không mặn, người ta không đem
ướp cá mắm gì được, không sát trùng được, không làm phân được,... và có thể
nói: người ta cũng không muốn trải trên đường đi? vì giẫm lên làm đau chân.
Như vậy, bản chất
của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Kitô là rao giảng Tin
Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.
“Cá không ăn muối -
cá ươn” “Con cãi cha mẹ - trăm đường con hư”
Thế gian không sống
Tông Đồ, không sống đời Kitô hữu, thế gian phải chết!
Tôi là một Kitô hữu,
vậy tôi phải có “vị mặn Kitô”. Nếu tôi không có “vị mặn Kitô” thì tôi không
giúp gì cho thế gian cả. Lạy Chúa, xin Chúa hãy “ướp” con bằng chính cái bản
chất Kitô của Chúa, xin cho con luôn được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô
trong tư tưởng, lời nói, việc làm - để con thực sự là môn đệ của Chúa, là muối
cho đời.
Ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận
thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh
sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không
có ánh sáng - không thể có sự sống. Ngày thứ nhất trong công trình sáng tạo,
Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng trước hết.
Khi có ánh sáng,
người ta không thể che giấu được vật gì, tốt cũng như xấu. Để diễn tả điều này,
Chúa Giêsu nói: “Một thành phố xây dựng trên núi, không tài nào che giấu được”.
Một sự kiện lớn khi được ánh sáng chiếu vào, thì không ai là không thấy. Ơn Cứu
Độ của Chúa phổ quát, sức sống của Hội Thánh mãnh liệt như vậy, không thể không
được mọi người biết đến.
Chúa Giêsu chính là
ánh sáng cho muôn dân (Lễ Nến vừa qua, ngày 2.2) đã tác động vào Hội Thánh, làm
cho Hội Thánh cũng trở nên ánh sáng cho muôn dân; Chúa nói: “Chính các con là
ánh sáng cho trần gian”. Cũng như “hữu xạ tự nhiên hương”, Chúa đã thắp sáng
trần gian bằng chiếc đèn Hội Thánh, thì lẽ đương nhiên trần gian nhờ Hội Thánh
mà thấy được Ơn Cứu Độ cho mình, nhờ Hội Thánh mà phân biệt tốt xấu, mà nhận
biết việc phải làm, nhận biết con đường dẫn tới hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu dùng sự
kiện thắp đèn để khẳng định điều này: “Không ai thắp đèn rồi lấy thúng úp lại”.
Chúa muốn chúng ta, những Kitô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh
sáng Chúa Kitô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận
biết Chúa Kitô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.
Cuối cùng, với câu
nói định nghĩa của Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời, chính anh em là
ánh sáng cho trần gian”, chúng ta đã biết Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hãy
dùng đời sống mình mà sinh lợi Nước Trời cho trần gian. Mỗi người chúng ta có
một hoàn cảnh sinh sống khác nhau, hãy dùng nó để phục vụ anh em đón nhận Tin
Mừng. Xin được mượn lời bài hát “Tâm tình hiến dâng” của cha Oanh Sông Lam để
cảm tạ Chúa và quyết tâm sống như người môn đệ Chúa Kitô.
“Biết lấy gì cảm
mến, biết lấy chi báo đền, hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.
Thương con tự ngàn
xưa, một tình yêu chan chứa, và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian.
Cho con say tình mến, và này con xin đến: một đời trung trinh làm muối đất ướp
cho mặn đời.
Trao cho con Lời
Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem Lời Chân lý đền cho mọi nơi. Ra đi
đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho
mọi người...”
13. Muối
Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh của
những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng
đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người
nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập
tức”. Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành phố
Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo. Một vị thánh giống như
Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên Chúa.
Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản
thân mình”.
Hôm nay trong bài
Phúc âm, vai trò của người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa
bởi hai tiếng: Muối và Ánh sáng. “Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà
nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?... Các con là ánh sáng cho trần gian,
một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.
Theo William
Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng một lối
diễn tả đặc biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là
nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm giá của một người. Thời xưa muối rất có giá
trị. Người Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng
Latinh, người Lamã đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích
hơn là mặt trời và muối”. Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức
tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.
Người Lamã nghĩ rằng
muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển
cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc
một ngày, những lễ vật của người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô
hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.
Thời cổ xưa, muối là
một phương tiện phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối. Plutarch đã
dùng một lối diễn tả lạ lùng khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ
thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống
như một linh hồn mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt
khỏi bị mục rữa. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống
lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.
Nhưng đặc tính vĩ
đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn
thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên
ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.
Thế nhưng điều trái
ngược đã xảy ra trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất
hương vị của cuộc sống. Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến
Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc Lamã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi,
ông lại muốn đưa các thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng: “Các bạn có
nhìn kỹ vào những người Kitô hữu này chưa? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt
nhạt, bộ ngực xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng:
mặt trời chiếu rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ
cho họ, nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ
mọi sự và chấp nhận đau khổ cho đến chết”.
Thực ra không phải
vì Kitô giáo đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời,
nhưng bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và
đã trở nên sa đọa!
Theo các nhà chú
giải Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một
là từ các bờ biển sản xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi
là muối biển. Người đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm
thử, nếu đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ
từ sẽ trở nên lạt, và giảm dần sự mặn mà.
Nguồn cung cấp muối
thứ hai đến từ Biển Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển
Chết có pha trộn nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó
không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ
ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp dưới chân”.
14. Ánh sáng
Chúa Giêsu dùng một
hình ảnh cụ thể khác để nói về vai trò của các môn đệ: “Các con là ánh sáng cho
trần gian”. Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: “Ta là ánh sáng
thế gian”. Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?
Điều có vẻ mâu thuẫn
này được giải quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: “Bao lâu Thầy còn
ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện
diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế
của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế
gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản
ảnh lại ánh sáng đó.
Xưa kia, có một người đàn ông mua được một
hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong đêm
tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng quá
thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như
người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm
sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng
lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: “Anh đã quên
làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: “Hãy đặt tôi dưới ánh mặt trời
ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn”. Hộp nữ trang đó đã không
tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày. Nó phải nhận
được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.
Trong bài đọc thứ 2,
thánh Phaolô chỉ cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh
sáng. Đó là từ thập giá của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị
giảng thuyết tài ba đã đến với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi
lạc, người thì dựa vào tài hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức
tính cá nhân của họ. Còn ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: “Tôi xác định rằng hồi
còn ở với anh em, tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà
chính Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”.
Ngày chịu phép rửa
tội, mỗi người chúng ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô.
Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô
đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng
của đức tin trong đời sống Kitô hữu.
Sách Giáo lý Công
giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy
Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng
như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.
Công đồng Vatican II
khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng
Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được
làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với
Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như
vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.
Ước gì trong cuộc
đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa
dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng
lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa,
chúng ta chẳng là gì cả.
15. Nhiệm vụ của người môn đệ
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay
nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ
“trong thế gian”. Bản văn được trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5,3-12).
Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp.
Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc với từ “anh em” ở c. 13. Những
người nhận bản văn này không phải là mộthạng tín hữu đặc biệt, nhưng là các môn
đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và được ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12.
Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
làm hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu
là “muối cho đời” (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu
là “ánh sáng cho trần gian” (5,14-16).
3.- Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ
Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là mộtgợi ý về mộtchiều hướng
nên theo, nhưng là một khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng có thể thấy cụm từ
này có liên với Xh 19,6 (“Còn các ngươi, các ngươi sẽ là mộtvương quốc tư tế
cho Ta và mộtdân tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh) đã chọn dân Ngài giữa các dân
nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng đã chọn các môn đệ trong loài
người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối
cho đời… ánh sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là “muối của đất
(gê)” và “ánh sáng của thế gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng song
song với “trần gian”, nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là
“trái đất”, tương tự với “trần gian”, “thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần
gian” ở đây đều có nghĩa là “toàn thể nhân loại”, tức có mộttầm mức phổ quát.
- để họ
thấy những công việc tốt đẹp anh em làm (16): Dường như câu này mâu
thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra hai
lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý
do là việc chúc tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính khoe
khoang của mình (x. 6,2-5). Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự khác
nhau: ở đây, người môn đệ chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô, là
Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để lôi
kéo sự chú ý của người khác.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng
liên hệ đến những người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc
này được Đức Giêsu lấy lại mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang
ở ngay bên Người, và với đám đông đang nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi
vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,11). Đức
Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản ứng tiêu cực của môi
trường, nếu họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự công chính và quy
hướng lối sống của họ theo chương trình của Người. Họ phải trả lời thế nào? Ai
cũng coi trọng việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng các môn đệ
phải thích nghi với môi trường của họ, để được môi trường chấp nhận? Phải chăng
họ phải giới hạn quan hệ với mộtvòng những người có cùng những ý tưởng như
nhau, để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay
còn đang thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của mình và tìm thích nghi,
hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm
muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11),
họ vẫn đưa được người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho
đời” (13)
Khi khẳng định rằng
các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền
giáo. Do ơn gọi, họ phải đóng mộtchức năng đối với những người khác tương tự
muối đối với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không
có muối, thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất mộtsức
mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang
muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không
đáng kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu
không thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu
đi. Tác giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo
đi. Họ cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng
cho trần gian” (14-16)
Hình ảnh ánh sáng
(cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả
Gioan gán cho Đức Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm
tối, trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt
8,12; Lc 22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như
Môsê khi xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh
34,35). Không thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể
dửng dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như
ánh sáng, Kitô hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim
con người và đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.
Lời khẳng định được
minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành xây trên núi” có thể gợi ý đến
Giêrusalem thiên sai, là điểm thu hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5;
60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như mộtnguồn ánh sáng từ đó
mọi người có thể nhận được sự nâng đỡ và định hướng. “Thành xây trên núi” nêu
bật tính khả thị (thấy được), điểm quy chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức
Kitô cho tất cả mọi người. Hình ảnh này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt
trên đế. Căn phòng trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ
ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn
đệ. Do ơn gọi, người môn đệ phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không
được thiếu ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được
mộtảnh hưởng tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của
các lời nói, cũng chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh
sáng của “các việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề cập đến (4,23-25) và đã làm (5,3-11)
và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ của Người.
Khi đó người ta nhận
ra rằng những ân huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc
tụng ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người
hành động để tán dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô
chứng tỏ rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa “tuyển chọn”
(x. Mt 5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của
nhiệm vụ được ký thác cho họ, các môn đệ phải là như ánh sáng và muối cho người
khác. Bởi vì nhiệm vụ của họ là thúc bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt
người ta, chứ không tránh né. Bởi vì bổn phận của họ là đưa đến mộtcái hoàn
toàn mới, họ phải duy trì chân tính của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi
trường của họ. Chính các “việc tốt” giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và
ánh sáng.
Đời sống của các môn
đệ đi theo các huấn thị của Đức Giêsu được coi như là mộtnhiệm vụ lớn. Không ai
có thể thay thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian nhận được
hương vị và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ phải bày tỏ
cách thức hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các đứa
con với Chúa Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm
hương vị; muối thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và
được phân phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối
lượng thực, nhưng muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu
của mình. Giống như muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường
và liên kết với môi trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách
cách thức sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là mộtviên ngọc, mộtnén bạc
phải được cất giữ hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là mộtchất gia vị. Nó
sinh tác dụng khi nó chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực phẩm. Kitô hữu là
muối cho đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào mộtcuộc sống tách biệt,
xa rời những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến mình đi trong đại
gia đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối chống lại mọi thứ
tinh thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ ngôn men vui trong
bột (13,23). Kitô hữu không những là người của những người khác, mà còn được gọi
sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô (bạn của người tội lỗi
và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh
sáng đi song song với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống
của con người. Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào
trong bóng tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của người
Kitô hữu là không thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng phải
đánh đuổi sự dữ đi lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của
Đức Giêsu phải đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và
đó là mối quan tâm đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó
họ làm chứng về Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa
loài người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người
cũng hòa với họ trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước
cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của họ, bản chất của Chúa
Cha mới được mạc khải ra và nhận biết. Nhờ những người sống như là con của
Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày
càng nhiều người đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức
Giêsu phải là mộtđiểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện ra
trong bộ mặt thật của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào
mộtvị trí dễ thấy. Kitô hữu không được quên và càng không được cắt đứt sự thông
truyền các ân ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung tung để tìm
người theo phe mình. Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu
mình vào trong đám đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không đi trốn hoặc đi
ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết như là Cha nhân
lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục vụ mới có thể trở
thành ánh sáng cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô
phải là mộtngọn đèn đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị
trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách khoe
mình (x. 6,1-18) vì những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc tốt đã
làm không phải để được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta trung
thành sống bản tính con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được khen
ngợi (5,16).
16. Chú giải của Noel Quession
Bài giảng trên Núi
đã bắt đầu từ Chúa nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong
năm Chúa nhật. Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và
Luca đã đặt vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những
lời giải thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón
nhận nhiều ý nghĩa khác nhau.
“Chính anh em là muối cho đời”
Đức Giêsu nói với
những người sống theo các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây
dựng Hoà bình, người bị bách hại.. “chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này
gợi cảm và rất cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức
Giêsu, muối dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón... Như
một loại phân bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng
để bảo quản thực phẩm… nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò
thông thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy... không có
muối, tất cả thành nhạt nhẽo.
Đức tin dùng để làm
gì? Liệu tin vào Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức
Giêsu trả lời: “Đem lại hương vị cho đời?”
Con người hiện đại,
còn hơn cả con người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm
thường và buồn chán mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm
việc theo dây chuyền... những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những…
những đồ vật được tiêu chuẩn hóa 'bằng nhựa dẻo...” sự nhạt nhẽo trong rất
nhiều câu chuyện trao đổi thường ngày... sự cào bằng trước những ý thức hệ...
Đời sống có còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về “chất lượng đời sống”
thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?
Chính trong bối cảnh
hiện tại này mà NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là
muối cho đời! Anh em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm
thường mỗi ngày. Anh em hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có
nguy cơ trở thành nhạt nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực
tế ấy. Anh em hãy thách đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi
“khả đăng siêu việt”, tức là muối, của nhân loại... để rồi sau đó không ngừng
tuyên bố rằng đời sống là “phi lý” và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự
đâu có thể mang một ý nghĩa, một “hương vị”; dù là sự đau khổ, sự bách hại, cả
cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết đã viết như
thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu của thử thách
đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?
“Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy
cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra
ngoài cho người ta chà đạp thôi”.
Đức Giêsu đòi hỏi
các môn đệ của Người phải “chính thống” không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu
đã đánh mất “mùi vị Thiên Chúa”, mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô dụng
“Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó”. Paul Claudel
đã cao rao như thế.
Đức Giêsu mạnh mẽ
cảnh báo chúng ta: sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của
chúng ta có thể bị biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là “nhạt đi” hay biến
chất cũng có nghĩa “trở nên mất trí”... đánh mất lương tri trở thành điên đại!
Theo nghĩa của Kinh Thánh…nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào Thiên
Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”:
“Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương”
(Cl 4, 5-6).
Nếu chúng ta trở nên
quá vô vị, đó là vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng
yếu đi trong đời sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết
ấy cho tôi và đời sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa
thì người ấy trở nên vô dụng, Người Kitô hữu “con tắc kè” chấp nhận mọi phương
thức và mọi tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy
sống, và trở nên vô dụng. “Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế...
bởi vì khắp mọi nơi, người ta làm như thế”; chúng ta có đánh mất tất cả nhân
cách để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ
lợi từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ
không hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung
quanh chúng ta?
Đối với những người
trở nên vô vị, với những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không
mùi vị, Đức Giêsu nói: “Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối
cho thế gian”..
Một yêu sách, đúng
vậy. Nhưng trong một sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu
mà người ta tự động là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết
những giới hạn và những tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem
lại cho thế gian không phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải
sự cao siêu của chúng ta mà chính là “điều ' Thiên Chúa đã làm trong chúng ta”.
Chính anh em là ánh sáng cho
trần gian.
Cách nói bóng bẩy
thứ hai này có cùng một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả
hơn nữa! Phải là “mặt trời” cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu
sắc, vẻ đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học
không biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và
cũng hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta,
nhờ khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy;
mặt trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên
hành tinh chúng ta.
Không có sự quang
hợp các chất diệp lục trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh
vật hoặc con người nào. Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện
năng... bởi vì không có rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất
về Thiên Chúa: suối nguồn của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một
ánh sángtràn trề chiếu soi mọi vật. “Hãy có ánh sáng!” (St 1,2)
Đức Chúa là ánh sáng
và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1) “Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu
đã nói: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Trở
thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.
Bản thân chúng ta
rất ít tỏa sáng. Chớ lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.
Lạy Chúa, xin ban
cho chúng con ánh sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền
Giê-ru-sa-lem mới được gọi là “ánh sáng”. Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi
thường mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn,
tật nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23).
Đó không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người
nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không
sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: “Chính anh em là
ánh sáng cho trần gian!”. Chính họ không phải là “ánh sáng” nhưng họ chỉ để ánh
sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu
tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con người khi người để cho Thiên
Chúa phong chức cho mình!
Một thành xây trên núi khống
tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái
thùng, nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”
Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a,
người ta thấy thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được
xây trên những núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra
xung quanh. Đức Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt
trời chiếu sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn
thấy Mẹ Người. Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng
đất nung nhưng đủ để soi sáng “cả nhà” trong gian nhà duy nhất của những nhà
người nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.
Vấn đề ở đây không
phải là sự phô trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì
sau đó, Đức Giêsu sẽ khuyên chúng ta: “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải
coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Không phải chính
chúng ta tự tôn giá trị của mình như những cách phô trương của những người
Pha-ri-sêu mà Đức Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa
mới có thể soi sáng anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua
chúng ta. “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối
tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho
thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô.
Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ
quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”. (2
Cr 4, 6-7).
“Ánh sáng của anh em phải chiếu
giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn
vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
Đây là lần đầu tiên
trong Tin Mừng của Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về “Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời”. Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to
lớn của các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành “muối cho thế gian, mặt
trời của hoàn vũ…
không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy dùng để tôn vinh
Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã là một
người hoàn toàn tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về
Chúa Cha. “Tôi không cần người đời tôn vinh”, Đức Giêsu đã nói như thế (Ga
5,41)
Về phần chúng ta là
những người tội lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là “muối” và “ánh sáng”,
điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng đại và tự
nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn
là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội lỗi mà Thiên
Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh huyện, một người
hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật sâu xa đến tiền
bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của “cải của mình. Nếu bạn là một
trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều trong mọi thứ công việc
mà vẫn hạnh phúc” bởi niềm vui của các mối phúc thật... lúc đó, trường hợp của
bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì sự khốn khổ của bạn cũng là của
anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng được cứu chữa. Khi nhìn thấy
điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã làm, họ có thể tôn vinh Cha của
bạn, Đấng ngự trên trời.
17. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Có lẽ các câu này
là lời đả kích đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh thái quá thế gian (do ảnh
hường của nhóm Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những cám dỗ thường
xuyên của Kitô giáo không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?
2. Đâu là tầm quan
trọng của muối trong thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa biểu trưng
đặc biệt? Một công dụng đặc biệt?
3. Vì sao một thành
phải được ưu tiên tọa lạc trên ngọn núi?
4. Đâu là ý nghĩa
của chữ “ánh sáng các con “ trong thành ngữ “ánh sáng các con phải chói lọi
trước mặt mọi người?
5. Các câu này có
tạo nên mối liên hệ giữa người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của họ không?
Mối liên hệ nào?
6. Người Kitô hữu là
muối cho đời theo nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).
7. Làm sao dung hòa
các câu 14- 16 với Mt 6, 1-18?
***
1. Trong thế giới cổ
xưa, muối và ánh sáng được xem như là hai thực tại chẳng ai có thể bỏ qua:
không gì ích lợi hơn muối và mặt trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102).
Cả hai cũng thường được nhắc đến trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm cần thiết
bậc nhất của dân Bedouin (Ả Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì
xấu (2V 2, 19- 21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6) Nó nên
thực phẩm (G 6, 6; Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi
hy tế (Xh 30, 35; Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành biểu hiệu của sự
hiếu khách, của minh ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau hết nó
là biểu tượng của sự khôn ngoan (xem Phụng vụ Bí tích rửa tội - liên hệ với Ed
16,4) mà thỉnh thoảng nó được nối kết với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ;
bấy giờ nó chỉ sự khôn ngoan hoàn hảo mà người hiền triết sẽ thủ đắc trong thời
thiên sai.
2. Ánh sáng cũng
năng được sử dụng như là một biểu tượng trong Thánh kinh, nơi nó thường chỉ sự
mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị, người Tôi tớ Giavê được
công bố là” ánh sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân
ngoại (42, 6). Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, “ánh sáng thế gian” được gán
cho Thiên Chúa, cho Ađam, cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho
Giêrusalem. Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian”
(Lc 2, 32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ phải trở nên ánh
sáng của nhân loại (P 12, 15; so sánh với Ep 5, 8-14).
Kiểu nói trực tiếp
trong Mt “Các con là muối... là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện dụ ngôn
đi tiếp theo Tám mối phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ của cải, biết sống
hiền lành khiêm nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử thách, kiên quyết theo
đuổi sự hoàn thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta mới có thể nói thực với họ: “Các
vị là muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian”. Phần tiếp của Diễn từ sẽ cụ
thể cho thấy cách thức của người môn đồ tự tỏ mình là muối, là ánh sáng.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các con là”: Thành ngữ có lẽ mượn ở Xh 19, 6: “Các ngươi
sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh cho Ta”. Giavê đã nói với dân
Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây nói với môn đồ Người đã chọn giữa
loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi của tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh
định sứ mệnh của các môn đồ Người.
“Muối cho đời “: “Đời”, ám chỉ loài người, là một từ ngữ quen
thuộc với Cựu ước. Ở đây “đời” song song với “thế gian” của câu 14. Người môn
đồ chẳng phải là muối của đất, vì không bao giờ muối được dùng như phân bón,
nhưng là muối cho đời cho thế gian. Ở đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng “muối”
không chỉ cần thiết cho bản thân người môn đồ, như là một phẩm chất nội tại,
song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh của mình đối với nhân loại. Do đó phẩm
chất cấu thành môn đồ không thể tách rời khỏi chức vụ truyền giáo của kẻ ấy.
Đây là một nét nói lên chiều hướng phổ quát và truyền giáo mà Mt thích dùng.
“Nếu muối ra lạt”: Có thể giải thích hai cách:
1. Hình ảnh dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy ở phía
Tây-Nam Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc Djebel-ousdeum). Loại muối màu
xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến thành bùn vô đụng dưới tác
dụng của ẩm ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối, nhưng thực ra không phải là muối
nữa.
2. Đúng hơn, có lẽ Chúa Giêsu đã muốn gợi lên
một hình ảnh không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến tính cách nghịch lý của
một môn đồ đã đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn đồ.
“Thì lấy gì muối nó lại”: Phàm kẻ phải trở nên nguyên nhân hoàn thiện
cho bao người khác thì không thể nhận lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho
họ. Nếu y đánh mất nhân đức, người khác không thệ hoàn lại cho y.
“Nó không còn ích gì”: Muối nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay cả làm
phân bón. Người môn đồ cũng vậy. Đánh mất sự cao quý của mình, kế đó trở nên
đối tượng khinh khi, như thế mảng trong mình một sự thối nát đặc biệt; tình yêu
ngày trước của y đi dần tới chỗ tiêu tán. Câu “Chỉ có việc đổ ra ngoài cho
người ta dẫm đạp đi thôi “ gợi lên cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn bã ở
phương Đông ngay xứ. Đây là hình ảnh nói lên việc kết án người môn đồ đã mất
tinh thần của ơn gọi mình.
“Ánh sáng của thế gian”: ánh sáng của thế gian có nghĩa là cho thế
gian, chứ không phải thuộc về thế gian hay là bản chất của thế gian. “Một thành
tọa lạc trên núi”: đây là hình ảnh của một xứ mà các thị trấn thôn làng thường
được xây trên các cao điểm (để có vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc tấn công
từ bên ngoài vào). Điều đó đặc biệt đúng đối với Giêrusalem, thành mà ta có thể
thấy từ rất xa. Trong trường hợp này, tuyệt đối không thể che dấu thành được. “Ánh
sáng của các con”: Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô đem đến thì sống trong môn đồ
và đơm hoa kết trái trong cách ăn nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô,
Đấng đóng ấn người trên các môn đồ. Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải
tỏ hiện ra trong các việc họ làm. Các hành động này phải có một phẩm chất, một
tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ khơi dậy được, lời những kẻ chứng kiến,
lời ngợi ca Thiên Chúa.
“Ngõ hầu họ thấy việc lành các
con làm”: Làm sao dung
hòa câu này với 6, 1-18 (nhất là các câu 1-2. 5. 16)? Thưa động lực khác nhau
trong hai bản văn: ở đây động lực là vinh quang Chúa Cha trên trời; còn trong
6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời khen ngợi bản thân để thỏa mãn lòng khoe
khoang tự phụ (x. 6, 2-5: “hầu được vinh vang nơi người đời... hầu được bày ra
cho người ta thấy...”). Cách hành động cũng khác nhau: ở đây, người môn đồ phải
tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục
đích làm người ta chú ý.
KẾT LUẬN
Môn đồ Chúa Kitô
nhất thiết phải ảnh hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh phúc theo quan
điểm của Chúa Kitô, thứ hạnh phúc của Bát phúc, thì người môn đồ mới có thể tỏa
chiếu trong thế gian và ướp mặn môi trường sống của mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người Kitô hữu
toan thất vọng trước kết quả nghèo nàn của nỗ lực mình, phải can đảm lên bằng
cách nhớ rằng mình thực sự quan trọng đối với thế giới hôm nay, mặc dầu bề
ngoài có vẻ trái ngược, nhớ trong mình là muối và ánh sáng của trần gian. Nhân
loại sẽ mất hết ý nghĩa nếu không có sự hiện diện là hành động của người Kitô
hữu trong thế giới.
2. Người Kitô hữu
toan nhụt chí và bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, cũng phải nhớ lại
rằng, vì là muối và ánh sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận đào ngũ hay buông
thả mà không phản lại với bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.
3. Chính việc can
đảm thực hiện Bát phúc giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và ánh sáng
của vũ trụ. Còn tất cả mọi đường lối hoạt động khác chỉ đưa đến sự lạt lẽo vô
vị hay tăm tối u minh.
4. Lương dân sẽ trở
lại trong mức độ thấy chung quanh họ có nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô
trương cũng chẳng khiếp nhược cuộc sống môn đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt
đều đặn khiêm tốn thường ngày. Đó là “chứng tá của Kitô hữu, là hành động
truyền giáo duy nhất có hiệu quả trong một thế giới tin vào việc làm nhiều hơn
vào lời nói.
Đăng nhận xét