Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật Thứ Ba Mùa Chay năm A 23.3.2014
“Xa người nhớ cảnh tình lai láng,”
“vắng
bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ga 4:
5-42
Ảnh từ: http://gpcantho.com |
Nơi
nhà thơ, thiếu bạn ngâm thơ thì có bia rượu cũng bẽ bang nhiều nỗi nhớ. Nơi nhà
Đạo, tình lại phổ biến nhiều để dàn trải cho người trong ngoài Đạo, rày vui
hưởng.
Tình
nhà Đạo, nay còn thấy ghi ở trình thuật thánh Gioan hôm nay. Trình thuật, nay là
truyện kể khá dài dòng về người nữ phụ xứ Samari rất chân chất, thật lòng, dù
rối rắm.
Truyện
xảy ra ở đất miền ngoài Do thái thuộc xứ Samari, rất “ngoài luồng”. Theo tích truyện,
nguời đọc đoán ra được đây là thôn làng nhỏ bé có tên là Sychar, gần Sychem có giếng
Gia-cóp ở cách đó 1,5 cây số, về phía Bắc. Sự việc xảy đến vào buổi trưa rất
nóng cháy. Các thánh tông-đồ để Chúa đó, đi mua thức ăn; nhưng không bỏ gầu múc
lại cho Ngài sử-dụng, khiến Chúa có khát cũng chẳng múc được nước. Và, nữ-phụ
nọ đến chuyện vãn với Ngài, theo cung cách rất lạ.
Lạ,
ở chỗ: Chúa bắt chuyện trước và đưa câu chuyện vào cuộc bàn-luận theo kiểu của đấng
bậc hiểu biết rất nhiều điều mà dân thường miền quê tuy không nói nhưng Ngài
vẫn có thể đoán được. Ví như: cụm từ “nước hằng sống” ý nói giòng nước chảy
cuộn không cần vò múc cũng có được. Và, Chúa còn hỏi người nữ phụ xem chị có
gia đình chưa? Chị nói mình vẫn không có chồng vào thời-điểm đó, nhưng kỳ thực
chị có đến năm ông, trong quá khứ. Điều này khiến chị thấy câu chuyện bàn-luận hấp
dẫn đến độ chị cố tình bỏ lại vò múc ở đó, để có lý do quay lại chuyện vãn tiếp
với Chúa.
Và,
dân làng nghe kể cũng thấy câu chuyện quá hấp dẫn, bèn chạy đến xem chuyện lạ,
do người từ xa đem đến. Chuyện lạ đây, là câu nói: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu
độ trần gian". Nên, cảnh-trí diễn ra khó có thể là mẩu lịch sử ở Do
thái, bởi hầu hết cấu trúc của truyện đều rút từ Kinh Sách Do thái. Như chuyện
nữ phụ tên gọi là Rebecca ở Sách Sáng Thế đoạn 24, là bản văn dài nhất sách, cũng
giông như trình thuật đây, là truyện dài nhất trong Tin Mừng do thánh Gioan
viết.
Hai
nguồn văn đều kể về sự kiện nam-nhân hành trình đi đến xứ người, cũng gặp
nữ-phụ xa lạ không chồng không con. Và, một người trong truyện, lại cũng đi múc
nước giếng, và người nữ-phụ trong cả hai chuyện cũng đều chạy về nhà loan tin
kèm theo yêu cầu mọi người ra xem. Tiếp theo lại cũng có truyện kể về bữa tiệc ăn
uống, theo sau là nghi-lễ hứa hôn. Nói chung, thì đại ý bài học rút từ truyện
kể ở đây, là: hãy tránh khỏi nước và cũng tạm lánh xa đám lạc đà cứ la cà đây
đó. Đây, là điều hấp dẫn người đọc lẫn người nghe kể truyện.
Tuy
nhiên, ở đây vẫn thấy có sự khác biệt giữa cốt truyện ở Kinh Sách Do thái và
câu chuyện mà thánh-sử Gioan viết về Đức Giêsu đi đến xứ Samari có nữ-phụ lạ
không còn trinh trong, nề nếp. Chị đến với truyện vào giữa trưa nóng nực, chứ
không phải buổi chếch bóng. Và lúc ấy, chẳng thấy ai đến múc nước như chị hết.
Và, chị cũng chẳng trao cho Ngài ngụm nước nào khả dĩ khiến Ngài thấy dịu cơn
khát.
Chúa đến, không bằng
lạc đà, xa hoa gì, thế mà chị ta cũng chẳng thiết tha chuyện kết-thân mật thiết
với đấng biết rõ chuyện của chị, ngay ở giếng nước. Ngài không xin chị thứ nước
mà uống rồi vẫn khát. Ngài cũng chẳng yêu cầu được người cho ăn, dù bụng dạ
Ngài cồn đói cào, sau cơn mệt vì đi bộ. Và, cũng chẳng thấy ai thết-đãi Ngài
bằng những tiệc tùng, ăn uống thỏa thuê, cả.
Ở đây, lại thấy có sự
đồng-thuận “kép” ở mỗi đọan, trong truyện kể. Nơi nền văn-hóa tương-tự ở Trung
Đông, người ở đây thường cấm-kỵ không cho người khác uống thức uống nào không
thuộc về mình hoặc gia đình mình kiếm múc. Đây là nghiêm cấm nói về lòng ao ước
hỗn-tạp của dục-tình, nên mới thế. Với nền văn-hóa tương-tự, người phụ-nữ được
hiểu ở đây là nguồn sự sống vẫn tuôn chảy đầy thứ nước giúp sống còn.
Điều lý-thú ở truyện
kể hôm nay, là ở đoạn cuối của tryện kể khi người nữ-phụ trong truyện lại trở
thành người loan báo tâm-tư của Chúa qua tin vui mừng chị ta phát-hiện được rồi
chuyển cho mọi người trong làng được biết đến.
Tin Mừng Chúa nhật
mùa Chay hôm nay, chừng như cũng yêu cầu người đọc chúng ta hãy suy-tư về sức
mạnh của lòng đam mê cuốn hút đến hăng say, thích thú. Đam mê, thật ra không
phải lúc nào cũng mang tính tình-dục, hết. Đam mê ở đây, còn tạo sự ngỡ ngàng
coi đó như sự việc vướt quá sức lực và có thể làm rối lọan sự quân bằng của
nhiều việc. Sự việc đây, là phản-ứng bất ngờ nay “bật nắp” đến độ ta chẳng thể
làm chủ được tình-huống mà đôi lúc không ai biết sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ hết.
Lịch-sử nhân-lọai
luôn bao gồm nhiều giai-đọan khá lôi cuốn. Ở thời mà người xưa gọi là “Baroque”
kéo dài từ năm 1600 đến 1750 và còn tiếp tục vào nhiều năm sau đó, lại đã có
thời khai sáng nữa. Thời-đại ấy, bao gồm nhiều ngỡ ngàng đến lôi cuốn hấp dẫn
người trong/ngoài cuộc đến độ không cần biết là nó mang tính tích-cực hay
tiêu-cực, có khi cả hai.
Theo kinh-nghiệm thông
thường của mọi người, thì khía-cạnh tích-cực nhất về thời đại lôi cuốn hấp dẫn
con người là như tình-huống xuất thần chứng tỏ mình tạo được chỗ đứng tư riêng,
ít khi thấy. Tính tích-cực là như thế, còn tình-trạng tiêu-cực quá sức đến mức
tạo sự trầm-thống dễ dẫn đến trạng-thái tự hủy-họai.
Điều bí-hiểm đến khó
hiểu là: ở mỗi tình-huống như thế, thường mang tính trữ-tình vốn dẫn-dụ con
người vào trạng-thái nào đó giống như thế, khó cưỡng lại. Người rơi vào
tình-huống hấp-dẫn lẫn lôi cuốn dễ bị ám-ảnh chuyện kiếm tìm sự vui sướng không
thấy ở thế-giới này. Có khi họ còn kiếm tìm cảm-giác lạ trong chính sự khó khăn
cùng cực mà nhiều người chưa từng cảm-nghiệm. Điều đó thấy rõ nơi nghệ-thuật,
ngôn-ngữ, văn-chương và những điều tưởng-tượng về các chủ-thuyết rất “người
phàm”.
Rõ ràng là, tinh-thần
đạo-giáo ở thời kỳ này lại rơi vào thời Phục hưng cải-cách qua đó đạo Công
–giáo quyết chống-trả mọi chủ trương canh-cải, về nhiều thứ. Rõ ràng là, vào
thời đó đã thấy xuất-hiện sự-kiện các dòng tu kín/khắc kỷ có cải-tân như
trường-hợp thánh Têrêxa, Gioan Thánh-Giá và Dòng Tên thời của thánh Y-Nhã.
Chợt cũng thấy nơi
các thày tu khi xưa càng muốn tách rời khỏi nhu-cầu đòi kinh-nghiệm sống
phúc-hạnh mường-tượng về trường-hợp xuất-thần. Đó là cảnh-huống tách rời khỏi
niềm cảm-xúc mới có quyết biến mình ra hư không/trống rỗng. Tính cá-nhân
tập-trung vào với cá-thể riêng mình và kinh-nghiệm sống biệt-lập không được áp-dụng.
Các thày tu thuộc
dòng khắc kỷ, lại đã tìm cách đến với Chúa theo cung cách cổ lỗ, tức: vẫn “bình
chân như vại” không nhận-chân ra Ơn cứu-rỗi đối với cá-nhân từng người; nên, vì
thế không có tiềm-lực bị lên án. Các vị ấy vẫn yên tâm kết-hợp với Chúa theo
cung-cách đơn-thuần, giản-dị dù cổ xưa. Sống thỏai mái kết-hợp với Chúa theo
cung cách cá-nhân vẫn không là lối diễn tả đầy lôi cuốn hấp dẫn! Ngay đến việc
yêu-cầu sống giản-đơn như người bình-thường lại cũng không được chiếu cố để đi
vào với kinh nghiệm tư riêng, khắc kỷ.
Tác-giả Rudolf Otto
lại đã diễn-tả sự việc có các cá-nhân riêng lẻ cảm thấy run sợ đến độ mỗi khi
cá-nhân nào đó xuất-thần tiếp xúc với Chúa đều được xem là điều thật lôi cuốn
hấp dẫn như kinh nghiệm tư riêng, rất quí hiếm. Dù có rơi vào tình-huống thế
nào đi nữa, các thày dòng khi xưa cũng có kinh-nghiệm về một tiếp-xúc với Chúa,
thật lôi cuốn hấp dẫn.
Thiên-Chúa đây, không
phải hiểu theo nghĩa thần-học tốt đẹp nhất hoặc như niềm tin theo truyền-thống
thánh-thiêng, nhưng Thiên-Chúa được hiểu theo nghĩa là Đấng luôn có đó để con
người phàm tục có kinh-nghiệm tiếp xúc thần-thiêng, độc-đáo rất hiếm hoi. Chính
đây là ý-nghĩa đặc-trưng của sự việc “tìm kiếm Chúa một mình Ngài” mà thôi. Và
đây có thể cũng là phương-án tốt đẹp để Chúa và ta có lien-hệ mật thiết, theo
kiểu mới/cũ nào đó.
Phải chăng, nữ-phụ
“ngoài luồng” ở trình-thuật truyện kể đã đạt kinh-nghiệm tiếp xúc chuyện vãn
với Chúa trong mật-thiết sau khi Chúa đã ra đi theo đường lối của riêng Ngài?
Có lẽ, cũng nên hy vọng và tưởng tượng ra tình-huống Ngài vẫn có ở đó, chờ đợi
con người đến tiếp xúc, chuyện vãn trong riêng tư, mật thiết? Nói gì đi nữa, người
nữ-phụ trong truyện-kể vẫn không đi vào con đường có vườn xanh tươi tốt để đến
với Chúa.
Từ những suy-tư này,
mỗi người con hoặc người bạn đường của Chúa cũng nên tự hỏi xem lâu nay mình
tìm kiếm Chúa ngang qua con lộ nào? Có xum xuê vườn xanh mướt rất dễ chịu? Hay,
vẫn đầy gai góc, khó đi và khó tưởng-tượng?
Trong tinh thần chay
kiêng tự kiểm, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, rằng:
“Xa
người nhớ cảnh tình lai láng,”
vắng
bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng.”
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá,
Hòa đàn sẵn có dế bên tường.”
(Hàn Mặc Tử - Bài Cửa Sổ Đêm Khuya)
Cửa sổ đêm khuya vẫn
để ngỏ, để người người có cơ hội tiếp xúc với Chúa trong chốn tư riêng,
mật-thiết, rất thiên-đường.
Lm Kevin
O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch
Đăng nhận xét