Suy tư Tin Mừng Chúa nhật Thứ Hai Mùa Chay
năm A 16.3.2014
“Ta là mảnh trăng đến hồi le lói,”
“nằm
trên cao thương hại kẻ trần gian.”
(Dẫn từ thơ Tế Hanh)
Nhà thơ ấy, khi xưa vẫn
thương hại người người chốn gian trần. Nhà Đạo đây, lâu rày vẫn đầy lòng xót thương
cả vũ trụ lẫn dân-gian, một đời người.
Trình-thuật, thánh
Mát-thêu nay ghi tâm-tình thương-mến gửi đến người đọc ở mọi nơi, mọi thời.
Tình thương thánh-sử bày-tỏ, còn hiện rõ nơi thánh Phêrô tông-đồ bộc phát khi Chúa
biến-hình thành Tình thương-yêu muôn người. Ngài biến-hình, là: có được
hình-dạng rất đúng-đắn, phải lẽ.
Trình-thuật “Biến-hình”
sẽ rất nguy-hiểm nếu mọi người lại cứ thích diễn-tả theo kiểu vật-chất, rất
thân-xác. Bởi làm thế, lại sẽ về với câu hỏi: xác người sống lại có biến-hình
không? Có đổi dạng như hồi mới sinh ra không? Và, Sống lại là hồi-sinh như thời
mới đẻ, hệt như tiên-tri Êlya xưa chỉ biến-đổi hình-hài thân xác chứ không chết!
Và biến-hình Phục sinh, có là hình-thù tuy đã biến-đổi nhưng vẫn giống như khi trước,
chứ?
Mọi câu trả lời đều
không chắc. Chỉ chắc mỗi điều, là: biến-hình đích-thực không mang tính vật-chất/xác
thể, mà chỉ là trạng-thái tâm-linh chứ không là sự việc tư riêng cá thể theo kiểu
Narcisse chỉ biết soi gương xem mặt
mình có gì biến đổi? Biến-hình, là trạng-thái tâm-linh đặt nặng lên tình thương-yêu;
để rồi xem tình thương-yêu làm được gì cho ta, mà thôi. Tình thương-yêu biến-đổi
hình-hài con người. Tinh thương-yêu, làm cho con người trở thành người khác hẳn.
Nhất là khi con người có chút tình đối với ai khác, chứ không chỉ với chính
mình. Nói rõ hơn, đó là tình thương-yêu đối với Chúa, đến từ Chúa.
Người Công-giáo vẫn
thường nghĩ: với con người, giới lệnh trước tiên và duy nhất, là tình thương-yêu.
Điều này cũng không hoàn toàn đúng, một cách tuyệt-đối. Bởi khi xưa, giới-lệnh
đầu-tiên đặt cho người Do thái, là: “shema”,
tức: “lắng nghe”. Đây, là cụm-từ đầu
trong lời cầu mà người Do thái cứ lặp đi lặp lại, mỗi ngày. Với người Do thái, “lắng nghe” là chú tâm tin-tưởng vào
những gì mình không thể đạt, nếu không để lòng mình ra mà nghe.
Điều đạt được, khi
người người để lòng mình ra mà nghe ngóng? Đó, là lời đoan-quyết, bảo rằng: Đức
Chúa, Thiên Chúa của ta là Một. Người Do-thái, khi nói về Gia-vê Thiên Chúa, họ
không dám nói thẳng Danh Ngài mà chỉ quanh co nói rằng: khi lắng nghe, ta khám
phá ra rằng Thiên-Chúa Đấng-Là-Một, ta không thể phát âm thành tiếng, được.
Và, điều ta khám-phá
ra, là: Đức-Chúa-mà-ta-không-phát-thành-tiếng, lại nên MỘT. Một đây, không có
nghĩa: chỉ một Chúa Hiện-Hữu, nhưng: Thiên-Chúa-Đấng-Là-Một mang tính Duy-Nhất
trong Thiên-Chúa-là-Đấng-Duy-Nhất, tức: bí-mật của mọi thực-tại. Nếu biết để
tâm lắng nghe, thì: may ra ta nghe được như thế. Nên, hãy “Lắng Nghe” và sống thực
như đó chính là trọng-tâm cuộc sống của ta. Làm thế, người người mới có thể bắt
đầu “biến-hình” thành người.
Làm thế, bí-nhiệm về
Đấng-Là-Một sẽ thuộc về ta. Đức Chúa là Chúa của ta, Đấng-Là-Một có tương-quan sống-động ở nơi ta và với ta, rất thực-sự
và mật-thiết. Và, Ngài đòi có tương quan-hai chiếu với ta và mời ta đi vào sự
mật-thiết với Ngài, tràn đầy như quà tặng có đáp trả.
Đó là lý-do khiến ta
phải trân trọng và yêu-thương tính Duy-nhất của Đấng-Là-Một vẫn thương-ta. Giới
lệnh đầu và lớn nhất, không là làm bất cứ thứ gì không thể kể ra, hoặc tránh-né
những thứ không định-nghĩa được. Mà là, biết thương-yêu. Là, lòng xót thương đích-thực.
Là, cảm-giác hướng về người khác, lôi kéo ta hoà mình với Đấng-Là-Một mà ta
yêu-thương và Ngài cũng từng thương-yêu ta rất mực. Người Do-thái không làm
thế, tự khắc không là người Do-thái của Thiên-Chúa. Bởi, như thế là họ không
biết lắng nghe tiếng kinh lời cầu của chính họ khi nguyện cầu.
Nếu biết thương yêu
Đấng-là-Một từng thương ta, thì tình thương-yêu sẽ làm điều gì đó cho ta. Sẽ
biến-hình đổi-dạng ta. Ta sẽ chú tâm đặt nặng con người của ta vào Đấng-là-Một.
Tình thương-yêu của ta, bằng tất cả tâm-can/thần-trí với tâm-hồn, sẽ giúp ta
khám phá ra nơi chính con người mình, sự hiệp-nhất rất trọn vẹn mà ta chưa từng
biết, cũng như chưa từng có. Ta sẽ như Đấng-là-Một mà mình yêu mến. Ta, là
ảnh-hình của Thiên-Chúa của ta. Ta tìm ra được chính mình ở khoảnh-khắc khi
mình ngưng tìm kiếm con người mình mà lắng nghe tiếng Chúa. Điều này, và chỉ
mỗi điều này thôi, mới là một biến-hình thực thụ.
Khi Chúa bảo: giới
lệnh thứ hai ở luật Torah, giống như giới-lệnh đầu, là Ngài muốn nói về sự cân
bằng/đồng đều, cả chất-lượng lẫn tầm quan-trọng như giới-lệnh đầu. Lệnh thứ
hai, không là thứ-yếu thua kém lệnh thứ nhất. Và, thương-yêu đây, không là
yêu-thương toàn thể thế-giới hoặc thương-yêu những gì trừu-tượng, hoặc thứ gì
đó xa vời như người lạ ở nơi xa, mà là yêu và thương người cận thân và cận lân.
Yêu-thương, theo nghĩa như ta vừa thấy, là: biết lắng nghe người cận thân và
cận lân từng nói cho ta nghe. Là, khám phá ra nơi người ấy Thiên-Chúa-Đấng-là-Một
từng yêu ta và yêu cả người cận lân của ta như Ngài từng yêu ta rất mực.
Hướng trọn con người
mình vào người cận thân và cận lân mang tính Chúa, bằng tất cả tâm-hồn,
tâm-thần và tâm can, thế mới đúng. Cũng nên nhớ, đó là người cận lân ngay cạnh
ta, hay ngoài đường phố, tức: những người có diện-mạo không đẹp đẽ, dễ thương
như ta tưởng. Có thể, họ là những người chưa “biến-hình” đủ, nhưng đã đầy tính
Duy-nhất của Thiên-Chúa. Bởi Thiên-Chúa với họ đi đôi với nhau, làm một cùng
nhau.
Đây, lại là ý-nghĩa
của Giao-ước mới giữa Chúa và ta. Giao ước, rằng: Thiên-Chúa trở thành
Thiên-Chúa của tất cả mọi người trong ta, cạnh ta và nơi ta đã trở-nên-một,
được Chúa thương và sở-hữu làm Một với Ngài. Đây không là ngoại-lệ, mà là
chuyện xót-thương người cận thân và cận lân đang thiếu thốn rất nhiều thứ.
Đấy, chính là yêu-cầu
cần có sự công-chính cũng một loại như Thiên Chúa từng yêu cầu. Tức, cũng một
tính Duy-Nhất là loại-hình của Tình thương. Là, giới lệnh bằng vàng. Là, cuộc biến-hình
đích-thực, ta phải hiểu.
Duy trì giới lệnh đó,
ta cũng biến-hình đổi dạng để “nên-một” cùng Chúa, với Chúa. Đó chính là cuộc biến-hình
đích-thực. Biến đổi hình, để Chúa “nên-một” với ta và trong ta. Tất cả đều ra
thế.
Về tình thương, người
người thường nói đến thứ tình của tính-dục. Đó không là những gì được kinh-thánh
nói. Thương-yêu, là sự tử tế/dễ-chịu ta dành để cho nhau và cùng lúc, biết rằng
còn nhiều thứ hơn chỉ mỗi đối xử lịch-sự với nhau, mà thôi. Thương-yêu, ngay từ
đầu, vẫn là giới-lệnh duy nhất đối với mỗi người và ta không cần làm theo kiểu
của người khác từng làm. Thương-yêu, có thể cũng có qui-định hoặc luật lệ để
thực-hiện; nhưng khi đã yêu và thương rồi, ta quên mất những luật-lệ đó. Bởi, đó
là do ta đang biến-hình đổi-dạng hết mọi sự.
Biết yêu thương nhiều
Mùa Chay tịnh, ta sẽ sẵn-sàng hơn với Phục sinh hơn. Bởi, Phục sinh dạy rằng:
Thiên-Chúa-là-Cha yêu thương ta nơi Đức Giêsu, là Con Ngài. Tình thương-yêu của
Ngài nhắc ta nhớ rằng: ta là người phải như thế, không chỉ vì Thiên-Chúa-là-Cha
đã thương ta ngay từ đầu, nhưng vì Ngài yêu thương Đức Giêsu ngay từ đầu, đã
bao gồm cả ta trong Đức Giêsu nữa. Và, Ngài đã biến-hình cho ta được ở trong
Đức Giêsu, Con Ngài.
Chính vì thế,
Thiên-Chúa-là-Cha sẽ bảo vệ ta và tháp-nhập ta vào cuộc sống của Đức Giêsu-Con-Ngài
như Cha đã biến tất cả nên một, trong Ngài nữa.
Cảm-nghiệm tình
thương-yêu đến như thế, ta sẽ ngâm lên lời thơ còn để dở, rằng:
“Ta là mảnh trăng đến hồi le lói,
“nằm trên cao, thương hại kẻ trần gian.
Nhân-nghĩa thờ ơ, thú vui mê mải,
Thấy ta tươi, không thấy thuở ta tàn.”
(Tế Hanh – Trăng tàn))
Trăng le lói, chỉ “le lói” thứ tình
thương-nên-một khiến ta biến-hình cùng Chúa. Tình thương ấy, biến hình-hài của
ta thành niềm Vui an-hoà đến độ người người sẽ “thấy ta tươi, không thấy thuở ta tàn” bao giờ, như ở đời.
Lm Kevin
O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch
Đăng nhận xét