Các bài suy niệm Lời Chúa
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm A
Lời
Chúa: Cv 2,14.22-33; 1Pr 1,17-21; Lc 24,13-35
1. Tìm gặp Chúa
2. Emmaus.
3. Mời Ông ở lại với chúng tôi.
4. Đức tin của chúng ta
5. Trên đường Emmau
6. Trên đường Emmau
7. Đường Emmaus – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Đường hy vọng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
9. Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau.
10. Đồng hành với nhau và với Chúa
11. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con
12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
13. Người bạn đồng hành – R. Veritas.
14. Đừng tiếc nuối – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Trên đường Emmau – R. Veritas.
16. Trên đường Emmau – R. Gutzwiller.
17. Nồng cháy.
18. Emmau.
19. Đam mê.
20. Người lữ khách.
21. Chúa sống lại.
22. Suy Niệm của JNK.
23. Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ Emmau
24. Chúa Đã Sống Lại
Có hai chàng thanh niên là anh em ruột
với nhau, nhưng sống rất khô khan nguội lạnh. Vào một buổi sáng, hai cậu lái xe
xuống một dốc núi giữa lúc trời mưa tầm tã. Bỗng hai cậu gặp một cụ già, người
ướt sũng đang khập khiễng bước đi. Hai cậu bèn dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông
cụ đang trên đường đi dự lễ tại một nhà thờ cách đó chừng 5 cây số. Vì trời còn
mưa, nên hai cậu quyết định chờ để chở cụ về nhà. Một phần vì tò mò, hai cậu đã
bước vào trong nhà thờ, thay vì ngồi ở ngoài xe. Và rồi một sự biến đổi đã xảy
ra. Hai cậu quyết định làm lại cuộc đời và trở nên những con người đạo đức sốt
sắng. Cụ già đã nói với hai cậu không phải bằng lời nhưng bằng một hành vi
gương mẫu. Nhìn thấy cụ đi lễ trong buổi sáng mưa bão, tâm hồn các cậu đã bừng
cháy lên. Và rồi trong lúc bẻ bánh nơi nhà thờ, hai cậu đã khám phá ra Chúa
Giêsu mà hai cậu đã đánh mất.
Từ
câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Hai môn đệ trên đường
Emmaus, đã từng có một thời bước theo Chúa. Các ông tin rằng Ngài là Đấng được
Thiên Chúa sai đến để thiết lập vương quốc. Thế nhưng, những giờ phút bão táp
đã xảy đến. Mọi hy vọng, mọi mơ ước đã tan theo mây khói. Sau cái chết trên
thập giá vào chiều ngày thứ Sáu tuần thánh, các ông đã bỏ mặc Ngài nơi nấm mồ
cô quạnh và trở về với nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, các ông đã
gặp người khách lạ trên đường đi Emmau. Các ông lắng nghe vị khách ấy, chăm chú
nhìn vị khách ấy bẻ bánh và rồi một điều gì đó đã xảy ra khiến các ông xúc
động: Vị khách ấy chính là Chúa Giêsu đang sống động trước mặt các ông.
Câu
chuyện hai môn đệ đi Emmaus và câu chuyện hai chàng thanh niên trong buổi sáng
đầy mưa bão phải chăng cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta, bởi vì trong
cuộc sống, chúng ta cũng đã từng gặp phải những giờ phút bão táp, khủng hoảng
về đức tin. Thế rồi một ngày nào đó, chúng ta đã gặp được một người, có thể là
một vĩ khách lạ, nhưng qua người này, chúng ta tìm lại được Chúa giữa lòng Giáo
Hội trong nghi thức bẻ bánh. Để kết luận, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa hãy cùng đi với chúng con
trên vạn nẻo đường đời, như xưa Chúa đã cùng đi với hai môn đệ trên đường
Emmaus, nhờ đó đức tin của chúng con sẽ được nâng đỡ và bản thân chúng con sẽ
trở thành chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa.
2.
Emmaus.
Nhờ
vào đâu mà hai môn đệ trên đường Emmaus đã nhận ra Chúa? Đã tới ngày thứ ba, mà
không thu lượm được một nguồn tin nào chắc chắn. Hai môn đệ này, có lẽ đã thất
vọng, không còn tin tưởng, bèn quay trở về với những người thân yêu nơi quê
hương bổn quán. Vừa đi họ vừa nói về Ngài. Mặc dù Chúa Giêsu đã hiện ra, nhưng
nỗi cay đắng như một bức màn che phủ cặp mắt để họ không còn nhìn thấy. Ngài
vừa đi vừa cắt nghĩa Kinh Thánh cho các ông, thế nhưng lúc bấy giờ đối với các
ông, Ngài vẫn còn là một kẻ xa lạ. Rồi khi chiều xuống họ đã mời Ngài ở lại với
họ, và họ đã nhận ra Ngài trong lúc bẻ bánh.
Từ
đó chúng ta đi tới một ghi nhận cụ thể như sau: Các ông đã được soi sáng và
nhận biết Chúa không phải do sự nghe cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng do
việc làm, nhất là những việc làm mang tính cách yêu thương. Chính vì
thế mà thánh Phaolô đã viết: Không phải những kẻ nghe lề luật mà là những kẻ
tuân giữ lề luật thì mới trở nên công chính. Bởi đó, khi nghe lời Chúa, chúng
ta phải có cái quyết tâm đem ra thực hành, thì lúc bấy giờ lời Chúa mới thực sự
đem lại lợi ích cho chúng ta.
Các
ông đã không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng các ông đã
nhận ra Ngài khi mời Ngài lưu lại với mình nơi quán trọ. Chính vì thế, mỗi
người chúng ta cần phải chăm sóc cho tình thương và cần phải cố gắng thực hiện
những hành động bác ái. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy kiên trì trong
đức ái. Thánh Phêrô thì nói với chúng ta: Hãy rộng lượng đón nhận người khác
chứ đừng lẩm bẩm kêu trách. Còn Chúa Giêsu trong hoạt cảnh phán xét, cũng đã
phán: Vì khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, khi, Ta khát các con đã cho Ta uống,
khi Ta mình trần các con đã cho Ta mặc, khi Ta đau yếu và bị tù đày, các con đã
viếng thăm, khi Ta là khách, các con đã cho Ta ở trọ.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Một
người cha trong gia đình có lòng hiếu khách. Ông thường mời những người xa lạ,
nhất là những người nghèo đói túng thiếu đến nhà dùng cơm. Ngày kia ông múc
nước rửa tay cho một vị khách lạ và đang lúc dẫn vị khách lạ ấy vào bàn ăn thì
vị khách lạ ấy biến mất, khiến ông vô cùng ngạc nhiên. Thế nhưng ban đêm, Chúa
Giêsu hiện ra với ông trong giấc mơ và phán: Những ngày khác con đã đón nhận
những chi thể của Ta, còn hôm nay, con đã đón nhận chính Ta.
Đúng
thế, đến ngày phán xét, chúng ta sẽ được nghe lời phán quyết của Chúa: Những gì
các con làm cho một kẻ hèn mọn nhất, chính là các con đã làm cho Ta. Chúa Giêsu
luôn hiện diện nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau, thế nhưng chúng ta
có nhận biết và giúp đỡ Ngài hay không?
3.
Mời Ông ở lại với chúng tôi.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Dưới dáng dấp một người khách lạ, Chúa
Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau. Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang
bỏ cuộc, quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua. Ngài đi cùng với họ, đi gần bên
họ, khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành. Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu
trả lời lạnh nhạt: "Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy
ra...". Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: "Chuyện gì vậy?" Ngài
giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn. Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe
lời họ tâm sự. "Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng..." Như thế niềm hy
vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ. Cả niềm tin cũng trở nên chai lì, họ đâu có
tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái
gút của vấn đề, những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp. Tại sao một
người của Chúa, người mà họ tin là Đức Kitô lại bị đóng đinh như một kẻ bị
Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu
nhiệm đau khổ. Đau khổ là nhịp cầu mà Đức Kitô phải vượt qua để sang bờ bên kia
là vinh quang bất diệt. Đau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro, nhưng nó
có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt
ngào, khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa
chiều. Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra vị khách lạ
chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng
là của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên. Lúc
ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi. Nhưng chính lúc Ngài biến
mất, ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ. Ngài đi mà
ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Đấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ. Qua họ, Ngài thổi vào lòng
ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với
tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê
gót về Emmau.
Gợi Ý Chia
Sẻ
1.
Chán nản, bỏ cuộc, bỏ cộng đoàn, mất niềm tin
và hy vọng vào Chúa, vào con người. Bạn có gặp ai sống trong tình trạng như vậy
không? Bạn đã lãm gì để giúp họ?
2.
Khi ngắm nhìn Chúa Giêsu đến với hai môn đệ
Emmau, bạn tâm đắc với cử chỉ hay lời nói nào của Chúa? Tại sao?
Cầu Nguyện
Xin ở lại
với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Chúa
thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh
cửu gần đến. Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin
những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại
với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài
việc được yêu Chúa hơn.
4.
Đức tin của chúng ta
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
ĐỨC TIN CỦA
CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ
thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến.
Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện
“hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó
là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các
thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền
khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối
quan tâm của mình. Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch
sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc.
Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên
làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra
một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập
giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử,
chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy,
nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì
Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự
chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng
của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ
Chúa.
Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì
hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố
tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ
thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng
ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế
tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để
sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và
thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa
Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa. Có
một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng
ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi
dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại.
Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ
thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những
khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong
một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta
trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp
thời: “Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ
Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập
giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong
anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi
phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu
rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu
tham khảo Công giáo” số ngày 19/12/1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và
sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành
trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm
cho chúng ta sống.
5.
Trên đường Emmau
Phúc Âm hôm nay nói cho chúng ta một
về một biến cố rất nổi tiếng, đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu với các môn đệ
trên đường Emmau. Luca viết trong năm 80 cho cộng đoàn người Hy Lạp mà phần lớn
họ được hình thành từ những người cải đạo. Những năm 60 và 70 là giai đoạn khó
khăn nhất. Đã có những cuộc bắt bớ lớn của Vua Nê-rô vào năm 64. Sáu năm sau,
vào năm 70, Giêrusalem bị phá huỷ hoàn toàn bởi người La Mã. Trong năm 72, ở
Masada, trong sa mạc Giuđa, đã có vụ thảm sát những người Do Thái nổi loạn cuối
cùng. Vào những năm đó, các Tông Đồ, những chứng nhân của sự Phục Sinh, biến
mất dần dần. Người dân bắt đầu cảm thấy rã rời trên hành trình. Từ đâu mà họ có
thể rút ra lòng dũng cảm như thế để không bị nhát đảm? Làm sao để khám phá sự
hiện diện của Chúa Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn như này? Câu chuyện về sự
xuất hiện của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường Emmau cố gắng đưa ra một câu
trả lời cho tất cả câu hỏi nhức nhối này. Luca muốn dạy cho cộng đoàn cách giải
nghĩa Kinh Thánh để có thể tái khám phá sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc
sống.
Lc 24, 13-24. Bước 1: thoát ra
khỏi thực tại. Chúa Giêsu gặp hai người bạn trong tình trạng sợ hãi và kém đức
tin. Sức mạnh của sự chết, thập giá, đã giết chết niềm hy vọng trong họ. Đây là
tình trạng của nhiều người ở thời của Luca, và cũng là tình trạng của nhiều
người ngày nay. Chúa Giêsu tiến đến gần họ và đi cùng đi với họ; Ngài lắng nghe
trao đổi của họ và hỏi: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì
vậy?" Hệ tư tưởng thống trị, đó là, sự tuyên truyền của chính quyền và tôn
giáo chính thức thời đó, đã ngăn họ nhìn thấy. "Phần chúng tôi, trước đây
vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu chuộc Israen". Đâu là những cuộc
trò chuyện của những người đau khổ ngày nay?
Bước đầu tiên là bước này: tiến gần
đến họ, lắng nghe thực tại của họ, cảm nhận vấn đề của họ: có khả năng đặt
những câu hỏi giúp cho những người này nhìn thực tại với cái nhìn hiểu biết
hơn.
Lc 24, 25-27. Bước 2: sử dụng
Thánh Kinh để thắp sáng cuộc sống. Chúa Giêsu dùng Thánh Kinh và lịch sử loài
người để thắp sáng lên vấn đề mà khiến cho hai người bạn này sầu khổ, và công
bố tình trạng mà họ đang sống. Ngài cũng sử dụng nó để đặt họ vào toàn thể công
trình của Thiên Chúa đến từ Mô-sê và các ngôn sứ. Vì thế, Ngài chỉ ra rằng lịch
sử không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng Thánh Kinh không
phải như một vị bác sĩ biết mọi sự, nhưng như một người bạn đồng hành đến để
giúp những người bạn và gợi nhớ họ những điều họ đã lãng quên. Chúa Giêsu không
đặt ra cho các môn đệ sự phức tạp của sự ngu tối, nhưng cố để thức tỉnh lòng
trí của họ: "Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào
Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang
của Người sao?"
Đấy là bước thứ hai: Bằng Thánh Kinh,
giúp người ta khám phá ra sự khôn ngoan sẵn có trong họ, và biến đổi thập giá,
từ một dấu hiệu của sự chết, thành một dấu hiện của sự sống và của hy vọng.
Điều đã ngăn cản họ tiến bước, thì nay trở thành động lực và ánh sáng trên hành
trình. Làm cách nào chúng ta có thể thực hiện điều này ngày nay?
Lc 24, 28-32. Bước 3: chia sẻ
trong cộng đoàn. Thánh Kinh, tự thân, không làm mở đôi mắt. Nó chỉ làm cho trái
tim họ bị thiêu đốt, điều khiến cho đôi mắt mở ra và làm cho nó thấy được, là
sự bẻ bánh, hành động chia sẻ trong cộng đoàn, và việc cử hành Bữa Tiệc Ly.
Trong khoảnh khắc đó cả hai nhận ra Chúa Giêsu, họ được tái sinh và Chúa Giêsu
biến mất. Chúa Giêsu không chiếm hữu con đường của các bạn Ngài. Ngài không
phải là người gia trưởng. Trỗi dậy, các môn đệ có thể tự thân bước đi một mình.
Bước ba là: để biết làm cách nào tạo
ra một môi trường huynh đệ trong đức tin, của việc cử hành và chia sẻ, nơi mà
Chúa Thánh Thần có thể hoạt động. Chính Ngài khiến chúng ta khám phá và trải
nghiệm Lời Chúa trong cuộc sống và hướng dẫn chúng ta hiểu ý nghĩa của những
lời của Chúa Giêsu (Ga 14, 26; 16, 13)
Lc 24, 33-35. Bước 4: Kết quả:
phục sinh nghĩa là trở về Giêrusalem. Cả hai người họ, cách can đảm, trở lại
con đường về Giêrusalem, nơi mà lực lượng của sự chết, đã giết Chúa Giêsu và,
đã giết hy vọng của họ, sẽ tiếp tục hoạt động. Nhưng, giờ đây tất cả đã thay
đổi. Nếu Chúa Giêsu còn sống, thì trong Ngài và cùng với Ngài có một năng quyền
mạnh hơn cả điều đã giết Ngài. Kinh nghiệm này giúp họ phục sinh! Thật vậy, tất
cả đều thay đổi. Đó là sự trở về chứ không phải sự trốn chạy! Tin tưởng chứ
không phải kém tin! Hy vọng chứ không phải thất vọng! Ý thức hiểu biết chứ
không phải thuyết định mệnh trong sự đối mặt với quyền lực! Tự do chứ không
phải sự áp bức! Tóm lại một lời: sự sống chứ không phải cái chết! Thay vì tin
buồn về sự chết của Chúa Giêsu, thì Tin Mừng của Sự Phục Sinh của Ngài! Cả hai
kinh nghiệm sự sống và sống dồi dào! (Ga 10,10). Đây là dấu chỉ cho thấy Thần
Khí của Chúa Giêsu hoạt động trong họ!
Câu hỏi
·
Cả hai người họ nói rằng: "Phần chúng
tôi, trước đây vẫn hy vọng, nhưng...!" Bạn có bao giờ thấy một tình huống
của sự nhát đảm khiến chúng ta thốt ra rằng: "Tôi đã hy vọng,
nhưng...!"?
·
Bạn đọc, sử dụng và giải nghĩa Kinh Thánh như
thế nào? Có bao giờ bạn cảm thấy con tim mình thiêu đốt khi đọc và suy niệm Lời
Chúa chưa? Bạn có đọc Kinh Thánh một minh hay là thành phần của nhóm Kinh
Thánh?
Lời Nguyện (Tv 105,1-2)
Hãy tạ ơn
Chúa, cầu khẩn danh Người,
vĩ nghiệp
của Người, loan báo giữa muôn dân.
Hát lên đi,
đàn ca mừng Chúa,
và suy gẫm
mọi kỳ công của Người.
6.
Trên đường Emmau
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về
Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp
gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở
về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không
phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây
nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai
người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Đấng Phục Sinh luôn là người đồng
hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên
cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta.
Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi
ngày mới là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy
không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ,
bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận
nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn
được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa
những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong
thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo
khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết.
Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: "Đâu là ý
nghĩa của tất cả những điều đó? Đâu là ý nghĩa của thân phận con người?" Chính
lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải
đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu
lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân
phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói
tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái
chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng
chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp
người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Đây chính là kinh nghiệm mà người bạn
đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường
Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất
là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao
ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố
vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc
sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta
trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và
nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành,
chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và
lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của
cuộc sống. Ước gì sự hiện diện của Đấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên
đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống
của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân
hoan tiến bước với Ngài.
7. Đường Emmaus – ĐTGM. Giuse
Ngô Quang Kiệt
Đường Emmaus thật lạ kỳ. Cùng một con
đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng
vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến. Lúc về
thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến. Khi đi thì ảo não u sầu. Lúc về lại phấn
khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen. Lúc về trời
đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày. Khi đi tuyệt vọng chán chường. Lúc về
tràn đầy hi vọng. Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là
vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm
nên khác biệt. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp
cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.
Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa
Kitô Phục Sinh? Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong
không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được
Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài. Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta
hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus : bí quyết đó là xây dựng những
cộng đoàn chia sẻ.
Trước hết là chia sẻ Lời Chúa. Hai môn đệ
không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau. Hai môn đệ không nói chuyện vu
vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa.
Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày
thì Thày ở giữa họ”. Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn
đệ. Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời
Chúa.
Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ
muốn đi xa hơn. Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã
chiều và ngày sắp tàn”. Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái
nhà, dù chỉ là quán trọ. Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc. Nếu các môn
đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi. Cảm động trước
tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại. Các môn đệ đã thực hành Lời
Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhờ chia sẻ bác ái,
các ngài đã được gặp Chúa. Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các
ngài.
Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào
bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Đúng
như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể. Mắt các môn đệ mở ra và
nhận ra Chúa. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa.
Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa. Phép Thánh Thể ban
cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn
hơn. Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ
Thánh Thể đi khắp thế giới.
Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ
chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các
môn đệ. Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ
và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái,
và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo. Đó là dấu
hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta. Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo
xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày
càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng. Xin Chúa cho con
đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó
khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm
vui.
Lạy Chúa
Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1.
Có những cuộc gặp gỡ đốt nóng lên ngọn lửa
yêu mến, hăng hái nhiệt tình trong tâm hồn. Bạn có kinh nghiệm này bao giờ
chưa?
2.
Gặp Chúa Giêsu đã biến các môn đệ thành những
con người khác hẳn. Bạn có mong ước được gặp Chúa để thay đổi cuộc đời không?
3.
Để sống tinh thần chia sẻ, bạn phải làm gì?
8.
Đường hy vọng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng hôm nay thật đẹp. Đẹp vì
lời văn óng ả. Đẹp vì tình tiết ly kỳ. Đẹp vì tình nghĩa đậm đà. Đẹp vì những
tư tưởng thần học thâm sâu. Nhưng đẹp nhất là vì bài tin Mừng chất chứa một
niềm hy vọng trong sáng, xua tan mọi bóng tối thất vọng não nề.
Hai môn đệ rời Giêrusalem trở về làng
cũ. Giêrusalem là trung tâm tôn giáo. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của sa sút
niềm tin. Giêrusalem là trung tâm hoạt động. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của
chán nản buông xuôi. Trước kia hia ông đã bỏ nhà cửa, gia đình để đi theo Chúa
Giêsu. Nay hai ông trở về như hai kẻ thua cuộc. Ngày ra đi ôm ấp giấc mộng
thành đạt. Ngày trở về ôm nặng một mối sầu. Sầu vì đã mất Người Thầy yêu quí.
Sầu vì giấc mộng không thành. Hai linh hồn sầu não, thất vọng lê bước trong ánh
mặt trời chiều.
Những giữa lúc buồn tủi, thất vọng ấy,
Chúa Giêsu đã xuất hiện. Lập tức ánh sáng rực lên giữa màn đêm đen. Niềm vui
rộn rã xoá tan u sầu. Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm những trái tim lạnh giá. Vì
Chúa Giêsu đã đem đến cả một trời hy vọng. Đọc trong bài Tin Mừng, ta thấy Chúa
Giêsu đã nhen nhúm niềm hy vọng trong tâm hồn các môn đệ Emmau bằng ba loại ánh
sáng.
1) Ánh sáng
đức tin thắp lên niềm hy vọng.
Hai môn đệ đã chứng kiến cuộc sống và
cái chết của Chúa Giêsu từ đầu cho đến cuối. Các ông đã thấy biết bao nhiêu
phép lạ Người làm. Các ông đã nghe biết bao lời hay ý đẹp từ miệng Người phán
ra. Các ông đã công nhận Người là một “Ngôn sứ đầy uy thế xét về việc làm cũng
như lời nói”. Các ông đã hy vọng Người là Đấng giải thoát Israel. Nhưng cuộc
thương khó và cái chết của Đức giêsu khiến các ông chán nản và thất vọng. Đến
nỗi khi các phụ nữ ra mộ, gặp Thiên Thần báo tin Chúa đã phục sinh, về kể lại
cho các ông vẫn không tin.
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông “Lòng
trí các anh sao mà chậm tin lời các ngôn sứ vậy”. Chúa Giêsu kêu gọi đức tin
trở về. Chúa Giêsu khơi dậy đức tin đã lụi tàn bằng cặp mắt phàm trần và các
ông không hiểu gì. Khi có đức tin, các ông sẽ hiểu tất cả. Đức tin là nguồn ánh
sáng giúp ta nhìn ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời. Đức tin là đốm lửa
thắp lên niềm hy vọng giữa đêm đen tuyệt vọng.
2) Ánh sáng
lời Chúa gieo mầm hy vọng.
Hai môn đệ đã đọc Kinh Thánh. Các ông
thuộc vanh vách sách Lề Luật Môsê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh. Thế nhưng các ông
vẫn thất vọng. Vì các ông đọc Kinh Thánh mà không hiểu Kinh Thánh. Các ông học
Kinh Thánh như học một bài thuộc lòng. Các ông đọc Kinh Thánh như đọc một bản
văn cổ, chỉ có những con chữ vô hồn.
Chúa Giêsu phải giải thích Kinh Thánh
cho các ông. Bắt đầu từ sách Lề Luật, rồi lời các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh.
Khi nghe Chúa nói, tim các ông rộn ràng niềm vui, trí các ông bừng sáng như thể
một ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Chúa Giêsu đã dạy các ông một cách đọc Kinh
Thánh mới mẻ. Phải đọc giữa những hàng chữ để thấy rõ những ý nghĩa nhiệm mầu.
Phải tìm sau những hàng chữ để thấy được ý định kỳ diệu của Thiên Chúa. Phải
đọc Kinh Thánh dưới sự hiện diện của Thiên Chúa. Phải thấy bóng dáng Thiên Chúa
thấp thoáng suốt những trang sách. Và phải đọc Kinh Thánh với một trái tim yêu
mến tha thiết.
Khi trái tim mở rộng đón nhận, lời
Chúa sẽ gieo vào hồn ta những mầm mống hy vọng. Và cuộc đời sẽ thấy lại ý
nghĩa, tìm được niềm vui.
3) Ánh sáng
Thánh Thể nuôi dưỡng niềm hy vọng
Niềm hy vọng trở thành hiện thực khi
Chúa Giêsu bẻ bánh. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra ChúaGiêsu
Phục Sinh. Niềm hy vọng không còn là hy vọng nữa, nhưng đã trở thành hiện thực.
Hết còn những bàn tin bán nghi. Hết còn những hoang lo lắng. Hết còn những thấp
thỏm lo âu. Vì các ông đã gặp được chính niềm hy vọng.
Cuộc gặp gỡ chỉ thoáng qua, nhưng các
ông đã mãn nguyện. Chúa Giêsu bẻ bánh là nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh
Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới. Dường như một linh
hồn mới vừa nhập vào những xác thân mệt mỏi rã rời. Dường như dòng máu đã trở
nên đỏ thắm. Dường như những tế bào đã trở nên tươi trẻ. Dường như trái tim đã
trở nên rộn rã nhịp yêu đời. Lập tức các ông trở lại Giêrusalem. Đường đi khi
trời còn sáng mà thấy xa xôi ngại ngùng. Đường đi về lúc trời đã tối đen mà sao
thấy tươi vui gần gũi. Lúc đi có Chúa ở bên mà vì con mắt đức tin mù tối nên
vẫn thấy buồn sầu. Lúc về tuy vắng bóng Chúa vẫn an tâm vì con mắt đức tin đã
mở ra, vì vẫn biết có Chúa ở bên. Thánh Thể Chúa chính là lương thực nuôi dưỡng
niềm hy vọng.
Nhờ có Thánh Thể, đường xa trở nên
gần. Nhờ có Thánh Thể, đường buồn trở nên vui. Vì nhờ có Thánh Thể, ta luôn
được ở bên Chúa. Đời sống ta không thiếu những giờ phút khó khăn. Cuộc đời đầy
thử thách nhiều lúc đẩy ta vào hố thẳm tuyệt vọng. Ta hãy học bài học Chúa dạy
các môn đệ trên đường Emmau: Hãy biết nhìn các biến cố trong cuộc đời bằng con
mắt đức tin. Dưới ánh sáng đức tin, mị đau khổ sẽ xuất hiện với một ý nghĩa tốt
đẹp cho cuộc đời. Ánh sáng đức tin sẽ thắp sáng niềm hy vọng. Hãy biết nghe,
đọc và suy gẫm Lời Chúa. Đừng đọc Kinh Thánh như đọc tiểu thuyết. Đừng học hỏi
Kinh Thánh như học một lý thuyết. Hãy đọc với tình yêu. Hãy tìm bóng dáng Chúa
xuyên qua các hàng chữ. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Lời Chúa sẽ như
một hạt giống gieo vào lòng ta mầm hy vọng xanh tươi. Và sau cùng hãy đến với
Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Hãy kết hiệp với Chúa Giêsu trong
Thánh Thể. Thánh Thể sẽ là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng của ta. Đường đời
chúng ta cũng như quãng đường từ Giêrusalem đi Emmau. Khi ta không có niềm hy
vọng thì con đường ta đi thật dài, thật xa, thật buồn, thật tối dù ta đi giữa
ban ngày. Nhưng khi ta có niềm hy vọng, con đường sẽ trở nên gần gũi, vui tươi,
và sáng sủa dù ta đi trong bóng đêm.
Lạy Chúa
Giêsu Phục Sinh là niềm hy vọng của con. Xin cho đường con đi trở thành đường
hy vọng vì luôn có Chúa ở bên con.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1.
Chúa Giêsu đã chiếu soi các môn đệ Emmaus
bằng những ánh sáng nào?
2.
Có khi nào đang buồn, bạn cảm nhận được niềm
vui vì gặp Chúa không?
3.
Bạn đọc Kinh Thánh thế nào? Tìm kiến thức hay
tìm Chúa?
4.
Khi tham dự Thánh Lễ, bạn có cảm nhận mãnh
liệt sự hiện diện của Chúa trong phép Mình Thánh không?
9.
Chúa hiện ra
với hai môn đệ trên đường Emmau.
Suy niệm của
ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm
Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một
lời cầu khẩn của hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau: “Xin Thầy ở lại
với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đó là một thực tế về mặt
thời gian, bởi vì lúc đó gần tối rồi. Đồng thời câu nói đó có lẽ nó cũng diễn
tả một thái độ tâm hồn.
Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm
tối sắp đến. Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi
ngờ, đêm tối của thất vọng. Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu
mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt đánh đập, đóng đinh, giết chết trên Thập Giá.
Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng. Đêm
tối ấy đáng sợ hơn là đêm tôi về mặt không gian và thời gian tự nhiên.
Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa
với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp
tàn”. Lời cầu khẩn ấy không phải là lời cầu khẩn của chính chúng ta hay sao?
Những lúc cuộc đời của chúng ta có những thất bại, có những cay đắng, chán nản
đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ
thốt lên lời nguyện xin: "Lạy Chúa hãy ở lại với con”.
Hôm nay thánh Luca muốn nói với chúng
ta: Ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa
Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Luca tường thuật lại suốt trên
con đường đi về Emmau có một người khách bộ hành đi cùng. Hai môn đệ không thể
nhận ra Thầy yêu thương của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho thì hai ông mới nhận ra. Và khi nhận ra thì Chúa
lại biến mất.
Về mặt tín lý chi tiết này rất hay,
rất quan trọng để cho ta hiểu rõ về Bí Tích Thánh Thể. Khi ta cử hành Bí Tích
Thánh Thể nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy tấm bánh bẻ ra và trao cho
nhau. Lúc ấy anh chị em có thấy Chúa không? Thưa không. Trước mặt chúng ta hoàn
toàn là một khoảng không. Ngày xưa hai môn đệ đi bên cạnh Chúa, suốt quãng
đường dài mà họ không nhận ra Chúa, khi biết được Chúa biến mất trước mặt họ
cũng là một khoảng không. Chúa Giêsu không hiện diện một cách gọi là thể lý
theo nghĩa chúng ta thấy Ngài như chúng ta nhìn thấy nhau.
Thực sự, sự hiện diện của Ngài là một
hiện diện bao trùm cuộc sống của chúng ta. Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng
lòng tin của chúng ta. Cho nên ta vẫn có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ta cử
hành Bí Tích Thánh Thể: Cầm bánh, tạ ơn Chúa. bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan
trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu
không hay chỉ còn là một nghi thức?
Vì vậy câu chuyện Tin Mừng hôm nay
nhắc cho chúng ta. Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần chúng ta cử hành Bí
Tích Thánh Thể. Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén
trước màu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống
động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.
10.
Đồng hành với nhau và với Chúa
(Suy
niệm của Lm Louis Hữu Độ)
Một bà già
người Đức thuật lại câu truyện mà chính bà là người trong chuyện: Khoảng năm
1942, bà và một số người Đức bị đưa đi lưu đày xa quê hương. Tất cả là người
Công Giáo và cùng lao động tại một nông trường, nơi ấy không có nhà thờ cũng
không có linh mục. Nhưng mỗi chiều Chúa Nhật, họ được phép tụ họp trong một
nghĩa trang để cầu nguyện với nhau. Khi biết cách đó một ngàn cây số, có linh
mục thì họ quyết định hàng tháng đóng góp một số tiền để mua vé cho một bà già
đi đến nơi đó mang Mình Thánh Chúa về cho họ chịu. Mỗi Chúa Nhật họ đều trung
thành gặp gỡ nhau, sốt sắng cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cuối tháng thì rước
Mình Thánh Chúa. Trong suốt 20 năm dài, cộng đoàn Kitô hữu đó sống đùm bọc, yêu
thương nhau cho đến năm 1962 được trả tự do. Bà già thuật lại câu chuyện trên chính
là người điều khiển cộng đoàn cầu nguyện mỗi chiều Chúa Nhật. Sau khi kể lại
câu chuyện này thì bà thêm: "Mặc dầu được thả về tự do, nhưng chúng tôi ra
về với một niềm lưu luyến sâu đậm và nhớ nhung vô cùng những phút giây đoàn
kết, yêu thương trong tình người và tình Chúa đó."
Câu chuyện cảm động ở trên một phần
nào đã diễn tả được ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay. Hai môn đệ trên đường đi
đến làng Emmau, một làng cách Giêrusalem 7 dặm, một môn đệ tên là Cleopha, còn
môn đệ kia có thể là chính thánh Luca mà các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng
vì khiêm nhường nên thánh sử giấu tên.
Hai môn đệ cùng đi với nhau. "Hai
người" chỉ về ý nghĩa cộng đoàn chứ không phải một người thì lẻ loi, đơn
độc. Con người khi được gửi vào trần gian nầy là để sống cộng đoàn, tương trợ
lẫn nhau, chứ không phải để sống đơn độc và ích kỷ. Xét về mặt xã hội thì sự
tương trợ là một ích lợi cho thương mại, cho hội đoàn, cho pháp luật... Xét về
mặt tôn giáo thì sự tương trợ là một điều đáng ca ngợi, chính Chúa Giêsu đã lên
tiếng, "Nơi đâu có 2, 3 người họp nhau lại vì Danh Ta thì Ta ở giữa
họ". Thiên Chúa đứng về phe những người đoàn kết, quan tâm nhau, chứ Ngài
không về phe những ai chia rẽ, ích kỷ. Ngay từ thời Giáo hội sơ khai, sách Tông
Đồ Công Vụ kể lại các tín hữu một trí một lòng, biết quan tâm đến nhau vì thế
họ được toàn dân mến chuộng và càng ngày Chúa càng làm gia tăng số người vào
Đạo.
Ngày nay khi nói đến từ ngữ
"Emmau" người ta thường nhắm đến ý nghĩa "Đồng Hành" tức :
cùng đi - cùng chia sẻ - cùng hưởng nhận - cùng khích lệ - cùng giúp đỡ - cùng
lo cho nhau. Đời sống "đồng hành" căn bản đến từ đời sống gia đình,
dòng tu, hội đoàn, giáo xứ, rồi Giáo Hội.
Tuy nhiên, nếu chỉ cậy vào sức con
người thôi thì cho dù chúng ta có hợp nhau lại vẫn có nhiều vấn đề không thể
giải quyết được, vì nó ở ngoài khả năng trí óc và bàn tay của chúng ta. Phúc âm
nói rõ 2 môn đệ cùng đi với nhau lúc đầu thì họ buồn bã (có thể họ còn thất
vọng và sợ sệt nữa), thế nhưng khi có Chúa Giêsu cùng đi với họ thì lòng họ ấm
lên và hăng hái khác thường, đến nỗi ngay trong đêm đó họ quay trở lại
Giêrusalem để báo tin cho 11 tông đồ. Chúng ta cũng cần có Thiên Chúa đồng hành
với chúng ta để nhờ "bộ óc và bàn tay" của Ngài giải quyết các vấn đề
cho chúng ta. Hơn nữa chính sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta hăng
hái đi cho trọn con đường trên trần gian này.
Con đường Emmau là hình ảnh của con
đường trên trần gian này. Kinh nghiệm lịch sử và chính cảm nghiệm cá nhân dạy
chúng ta biết, con người không thể sống và phát triển ở môi trường lẻ loi, đơn
độc được, trái lại con người cần tương trợ, đồng hành với nhau. Quan trọng hơn
nữa là có Thiên Chúa đồng hành với chúng ta để dù đường có quanh co, hiểm trở
cũng đừng lo, vì Chúa là "Đường" dẫn về đích dù trên đường có tối
tăm, hang hóc cũng đừng lo vì chính Chúa là "Sự Sáng", dù cuối cùng
tử thần có nhào tới bên chúng ta cũng đừng lo vì chính Chúa là "Sự Sống
Lại."
11.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ít ai biết đến "một làng tên là
Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm" (Lc 24, 13), nếu không có một
Người Bộ Hành mà hai môn đệ coi là "khách hành hương" cùng đi với họ
thì ngôi làng Emmaus ấy đã bị lãng quên từ lầu rồi. Theo hai ông thì đây là
khách hành hương duy nhất "không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong
thành mấy ngày nay"(Lc 24, 18).
Chúng ta không biết tên của một trong
hai môn đệ, chỉ biết một người tên là Clêophas, còn người kia thì không, có thể
là mỗi người trong chúng ta, vào những giờ đen tối nhất của nghi ngờ, buồn
thảm, mệt mỏi và chán nản, cuộc sống dường như thất bại, không thay đổi được
quá trình của các sự kiện. Chúng ta không tiến bước, mà lại quay về với thực
tại của quá khứ, trở thành gánh quá nặng, hoặc một mớ rối bòng bong, trốn chạy
bằng con đường Emmaus. Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô Phục
Sinh trong đời sống chúng ta. Hai môn đệ trên đường Emmaus đã gắn bó với Đức
Giêsu thành Nagiarét "với hy vọng Người sẽ cứu Israel" (Lc 24, 21).
Rõ ràng, hai ông đã không "nghe" những lời cảnh báo lặp đi lặp lại
của Thầy dành cho tất cả những ai muốn theo Người: "Phàm ai không vác khổ
giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta" (Lc 14,27). Trong
sự hào hứng của mình, họ đã "không ngồi mà trù liệu phí tổn, xem có đủ vốn
đến lúc hoàn thành hay không?" (Lc 14, 28). Họ đã đặt nền móng, nhưng khi
có thử thách về cuộc Khổ Nạn, họ bỏ dở: làm thế nào họ có thể tiếp tục mà không
có một kế hoạch và không có người đứng đầu, tức là thợ cả? Bằng chứng lời Chúa
chứng minh rằng họ thiếu cái gì đấy để tiếp tục và đi đến cùng việc xây dựng
Nước Trời ở giữa họ.
Vì đã tham gia vào cuộc hành trình
buồn bã của họ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm
trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện: "Các ông có truyện gì vừa
đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" (Lc 24,17) Nghe hỏi thế, họ đã
bộc bạch về sự đau khổ, thất vọng, đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết,
các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra
đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngúm. Chúa nói chuyện với hai ông
và "giải thích" Kinh Thánh. Chúa chủ động trình bày cho họ, "bắt
đầu từ Môsê và các tiên tri", mà tất cả Sách Thánh đều hướng về mầu nhiệm
Con Người (x. Lc 24,27), làm cho tâm hồn họ “bừng cháy”. Chúa đã đem lại một
tia sáng khơi lên niềm hy vọng, đưa họ ra khỏi bóng tối của phiền muộn và thất
vọng, đánh thức nơi họ lòng khao khát muốn được ở gần Người, khiến họ nài ép:
"Mời ông ở lại với chúng tôi", với lý do "vì trời đã về chiều và
ngày sắp tàn" ( Lc 24,29 ).
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì
trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24,29). Đây là lời mời xin tha thiết
của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn
nản, đang trên đường trở về quê. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy
lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ
với một hành vi "bẻ bánh" đơn giản (Lc 24,35). Khi trí khôn được
chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến
và thôi thúc họ "chỗi dậy trở về Giêrusalem" (Lc 24,33) để thuật lại
tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho "mười một tông đồ và các bạn
khác đang tụ họp" (Lc 24,33).
Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus
có thể hình ảnh của mỗi gia đình chúng ta trong năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này.
Giữa biết bao vấn đề và khó khăn, ngay cả những thất vọng nặng nề, Người Bộ
Hành Thần Linh vẫn tiếp tục đồng hành bên cạnh chúng ta, mở ra cho chúng ta
những trang Kinh Thánh và hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn những mầu nhiệm của
Thiên Chúa. Chúng ta hãy van nài : Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Chúa luôn
ở với chúng ta, hãy năng đến gặp Người nơi Bí tích Thánh Thể và lắng nghe Lời
Chúa. Chính Đấng Cứu Thế đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện hữu hình của
Người ở giữa chúng ta, ngang qua Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Lời Chúa giúp tâm
hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp
các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu (x. Lc 24,35).
Chúng ta cũng vậy, bàn tiệc Lời Chúa
và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ
và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Đức
Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà
họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh.
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta:
"Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của
Chúa cho tới khi Người đến" (1Cr 11,26). Như thế, chúng ta phải nỗ lực
phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh
của Đức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Niềm vui ấy
phải lây sang người khác làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh nhờ
những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan
báo. Đó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa. Cùng với Mẹ Maria trong tháng hoa
này, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp
chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say
loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
12.
Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
CHÚA GIÊSU
PHỤC SINH VÀ
HAI MÔN ĐỆ
TRÊN ĐƯỜNG EMMAU
Bài
Tin Mừng hôm nay (Lc 24,13-35) kể cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động về
sự hiện diện và về vai trò của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống của các đồ đệ
Chúa Kitô.
“Hôm ấy, có hai người trong nhóm môn
đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây
số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả
những sự việc mới xảy ra [tức là về biến cố Đức Giêsu bị đóng đinh và về sự
kiện ngôi mộ trống]. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu
tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra
Người. Người hỏi họ: "Các anh vừa
đi vừa tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn
rầu. Một trong hai người tên là Clêôpas trả lời: "Chắc ông là người duy
nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong
thành mấy bữa nay"
(cc.13-18).
“Đức
Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?" (c.19a). Câu hỏi này của Đức Giêsu dẫn
trình thuật vào một câu trả lời rõ ràng mang tính chất một lời rao giảng của
Hội Thánh tiên khởi, nhưng còn thiếu lời công bố mầu nhiệm phục sinh và thiếu
quy chiếu Thánh Kinh: “Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một
ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn
dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng tôi đã nộp Người để Người bị án
tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy
vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy
ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm
chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy
xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn
sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy
nói; còn chính Người thì họ không thấy" (cc.19b-24).
Sự thất vọng
do bởi cái chết của Đức Giêsu đã không hề khiến các đồ đệ đưa ra những phán
đoán tiêu cực về Ngài. Các ông đã không hề coi Ngài là một ngôn sứ giả chẳng
hạn. Cuộc khổ nạn đã không làm cho cuộc sống thế tạm của Đức Giêsu, vốn đầy uy
thế trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, trở nên không còn giá trị. Ngài vẫn là
một ngôn sứ vĩ đại “trong việc làm cũng như trong lời nói”. Cái chết của Đức
Giêsu, mặc dù là cái chết thập giá, không hề bị coi là dấu hiệu của sự chúc dữ
của Thiên Chúa như cách hiểu sai lầm của “các thượng tế và thủ lãnh của chúng
tôi”. Nhưng cái chết ấy quả thực đã đặt dấu chấm hết cho sự kỳ vọng của các đồ
đệ, sự kỳ vọng về một cuộc giải phóng theo nghĩa phục hưng dân tộc Israel.
Những dấu hiệu của sự phục sinh cũng được nhắc đến, nhưng chính Đấng Phục Sinh
thì họ chưa được gặp. Và vì thế, họ chán nản và thất vọng.
“Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông
rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời
các ngôn sứ!” (c.25).
Chúa Phục Sinh, vốn từ đầu câu chuyện chỉ là người lắng nghe, bây giờ trở thành
chủ thể hành động và dẫn dắt sự tình. Trước tiên, Người khiển trách các ông
chậm tin vào lời các ngôn sứ. Đoạn Ngài nói tiếp: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải
chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (c.26). “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn
sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách
Thánh” (c.27). Ở đây, chúng ta gặp một chủ đề quan trọng trong Lc: việc
giải thích Sách Thánh trong Hội Thánh. Tác giả khẳng định rằng: chính Chúa
Giêsu Phục Sinh là Đấng giải thích “những gì liên quan đến Người trong tất cả
Sách Thánh”. Ngài mở ra cho các đồ đệ sự hiểu biết đích thật về Sách Thánh, và như
thế, Ngài chính là nguồn mạch của những suy niệm Kitô giáo về Sách Thánh. Tác
giả Tin Mừng không đề cập đến một đoạn Sách Thánh cụ thể nào, nhưng nghĩ tới
Sách Thánh trong tính cách toàn thể của Sách Thánh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh
hiện diện ở ngọn nguồn của việc giải thích mang tính Kitô luận về Sách Thánh
Cựu Ước. Việc đọc Sách Thánh của các Kitô hữu và lời rao giảng của Hội Thánh
tìm thấy nơi chính Chúa Phục Sinh những đảm bảo chắc chắn cho tính chính thực
của mình.
“Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức
Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại
với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới
vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc
tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người
lại biến mất” (cc.28-31).
Có lẽ Chúa Giêsu đã bẻ bánh như là một hành động mang tính nghi lễ trong bữa ăn
bình thường của người Do Thái. Nhưng đối với những người đọc là Kitô hữu, các
hạn từ được tác giả Lc lựa chọn để miêu tả hành động này lại rất có ý nghĩa:
chúng rõ ràng là những cách nói về việc cử hành Thánh Thể; và thực chất, đối
với Lc cách riêng, “bẻ bánh” là thuật ngữ chuyên dùng để chỉ bữa tiệc Thánh Thể
(x. Cv 2,42.46; 20,7). Đàng khác, ngữ cảnh cũng hướng đến cách đọc theo nghĩa
Tiệc Thánh Thể, và do đó, nhấn mạnh đến ý nghĩa giáo lý hơn là giá trị sử học
của hành động bẻ bánh mà Chúa Giêsu thực hiện ở câu 30. Chính trong Tiệc Thánh
Thể, cuộc gặp gỡ trong lòng tin của các đồ đệ với Đức Chúa Phục Sinh đã được
thực hiện. Họ chợt nhận ra rằng Ngài vẫn hiện diện gần gũi với họ từ trước,
trong cuộc hành trình cuộc đời họ. “Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?" (c.32).
“Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở
lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó” (c.33). Bất chấp đêm tối, trong ánh sáng của
lòng tin và của kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục Sinh, các đồ đệ quay trở về nơi đã
xảy ra biến cố Phục Sinh, điểm xuất phát của lời rao giảng của các Tông Đồ. Đó
là cuộc trở về hiệp thông với Nhóm Mười Một và các anh em khác, tức là với hạt
nhân của Hội Thánh vừa được khai sinh.
Nhưng
trước khi hai đồ đệ Emmau có thể kể lại trải nghiệm của chính họ, thì họ được
nghe Nhóm Mười Một công bố tin mừng phục sinh. “Những người này bảo hai ông:
"Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn" (c.34). Rõ ràng
tác giả Tin Mừng muốn nói: lòng tin của các chứng nhân chính thức (Nhóm Mười
Một) và của cộng đoàn tiên khởi không dựa trên lời chứng của các nhân vật nào
khác nếu không phải trước hết là kinh nghiệm thiết thân của chính ông Phêrô,
người đứng đầu tập thể các Tông Đồ. Chính kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh của
Nhóm Mười Một mà ông Phêrô đứng đầu đó sẽ xác định giá trị của chứng từ mà hai
đồ đệ Emmau công bố, chứ không phải là những câu chuyện của các phụ nữ về ngôi
mộ trống.
Bấy giờ, “hai ông thuật lại những gì
đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (c.35). Hai đồ đệ Emmau đã kể lại cho
Nhóm Mười Một và các anh em đang quây quần bên Nhóm Mười Một những trải nghiệm
của họ. Tuy nhiên, chứng từ của họ lúc này sẽ chỉ là chứng từ thêm vào và xác
nhận chứng từ của các Tông Đồ mà thôi. Đáng chú ý là tác giả Tin Mừng đã cố ý nhấn
mạnh hai điểm quan trọng trong kinh nghiệm Emmau: (1) “những gì đã xảy ra dọc
đường” tức là việc Đức Giêsu đồng hành và giải thích Sách Thánh cho các đồ đệ;
(2) việc các ông “nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh”. Rõ ràng là đối với cộng đoàn
Kitô hữu, Thánh Kinh và Thánh Thể chính là nơi gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1.
Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng hiệp nhất cộng đoàn các đồ đệ của Ngài.
Trong
phần thứ nhất của bài Tin Mừng (cc. 13-24), một trong những yếu tố nổi bật là
sự chia tách. Hai đồ đệ rời khỏi Giêrusalem, nơi xảy ra biến cố Phục Sinh, và
rời xa nhóm các đồ đệ (c.13); giữa hai ông hình như cũng xảy ra những sự bất
đồng (c.17: động từ antiballein có thể được hiểu là tranh luận) và nhất là
khoảng cách lớn lao giữa hai ông với Chúa Phục Sinh mà các ông tưởng là một
người xa lạ, và giữa hai ông với những biến cố cứu độ mà các ông chưa hiểu
thấu. Vì thế, các ông buồn bã (c.17), nói cách khác, các ông đang ở trong một
tình trạng bi đát và thất vọng ê chề. Chúa Giêsu đến trong tình cảnh bi đát ấy.
Ngài đi vào tận điểm trung tâm của tình cảnh chia ly và xa cách đó. Và từ câu
25 của trình thuật, tất cả đã thay đổi. Chúa Giêsu Phục Sinh đảm nhận vai trò
là chủ thể hành động và chính Ngài làm chủ tình hình. Ngài giải thích cho hai
đồ đệ những biến cố xảy ra dưới ánh sáng Thánh Kinh, rồi chính Ngài “bẻ bánh”.
Lập tức, những khoảng cách được xoá bỏ. Chúa Phục Sinh được các đồ đệ nhận
biết, tâm hồn các đồ đệ “bừng cháy lên”, họ quay trở lại Giêrusalem, trở về
trong cộng đoàn các chứng nhân. Rất nhiều khi, trong cuộc sống thực tế của cộng
đoàn Hội Thánh, xảy đến những tình trạng chia rẽ và xa cách… Chính Chúa Phục
Sinh, trong Lời và Thánh Thể của Ngài, là nguyên lý thiết yếu và tối hậu kiến
tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn Hội Thánh. Sự gặp gỡ thiết thân của mỗi người
chúng ta với Chúa Phục Sinh chính là yếu tố quyết định đưa chúng ta đến sự hiệp
thông và hiệp nhất đích thực trong lòng Hội Thánh.
2.
Thánh Thể, dấu chỉ tuyệt hảo về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa những kẻ
thuộc về Ngài, chính là đỉnh điểm và là xuất phát điểm của đời sống Kitô hữu.
Câu
chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Kinh Thánh chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ
với Đức Chúa Phục Sinh, và Đức Chúa Phục Sinh được các đồ đệ nhận biết trong
Thánh Thể. Để vượt thắng những chướng ngại vật đang ngăn cản các đồ đệ nhận ra
Chúa Giêsu, rõ ràng phải có sự lắng nghe lời Kinh Thánh được giải thích trong
Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô; và một khi tâm hồn của các ông đã “bừng cháy lên”
nhờ lời Kinh Thánh đó, thì chính trong hành động “bẻ bánh” nhiệm mầu của Chúa
Giêsu, các ông nhận ra Người. Rồi từ cuộc gặp gỡ thiết thân trong Thánh Thể ấy,
lòng tin bừng sáng. Chính trong Thánh Thể, các tín hữu được mời gọi tham dự bàn
tiệc do Chúa Kitô Phục Sinh chủ toạ. Ở đó, họ sẽ được trải nghiệm sự hiện diện
mầu nhiệm và rất thực của chính Ngài.
3.
Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta.
Một
trong những sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Tin Mừng hôm nay là chủ đề “hành trình”,
vốn là một chủ đề quan trọng trong Lc. Trình thuật Emmau hôm nay khai triển chủ
đề này cách đặc biệt. Trong cuộc hành trình của mình, người đồ đệ không cô độc.
Theo một cách thức vô hình nhưng rất thực, Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành với
người đồ đệ trên những nẻo đường cuộc sống, và đưa họ đến chỗ gặp gỡ chính
Ngài. Chính Ngài giúp đỡ người đồ đệ nhận ra Ngài trong lòng tin đã được soi
sáng bởi Kinh Thánh và trong ân huệ Thánh Thể. Nhưng một khi người đồ đệ đã
được trải nghiệm sự hiện diện gần gũi và rất thực của Ngài, thì Chúa Phục Sinh
liền thoát khỏi sự chiếm hữu của anh ta, để lại mời gọi anh ta lên đường làm
chứng cho sự hiện diện thực sự của Ngài. Đó cũng là thực tại vẫn đang diễn ra
trong cuộc sống hiện tại của chúng ta hôm nay vậy.
13.
Người bạn đồng hành – R. Veritas.
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nói đến những người không nhà không
cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre,
người đã sáng lập cộng đoàn Emmaus giúp những người bần cùng tự tay xây dựng
cuộc sống của họ. Phong trào Cộng đoàn Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở
vòng đai của thành phố Paris vào hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Những người khách đầu
tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không
cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích. Câu nói đầu tiên của cha Pierre với
những người mới đặt chân đến cộng đoàn là: “Bạn không được may mắn, nhưng tôi
cần bạn để giúp đỡ những người khác…”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người
khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác.
Đó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy
vọng.
Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng
đoàn của cha là để nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Chúa Giêsu trong buổi
chiều Phục Sinh. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả,
Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những
người bạn đầu tiên của ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những
mất mát ê chề của cuộc sống. “Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống”, đó là khẩu
lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát.
Chính vì thế mà cộng đoàn Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải,
các vật dụng cũ kỹ, giấy rác, ve chai, bao bì nylon, lon hộp… để chế biến và
bán lại như một sản phẩm do chính tay mình làm nên.
Hiện nay phong trào Emmaus đã có mặt
tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đoàn. Tất cả những người
trong cộng đoàn đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc
sống.
Anh
chị em thân mến,
Tin
Mừng của Thánh Luca hôm nay thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó có hai môn đệ của
Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus trở về làng cũ của họ. Cái chết của Chúa Giêsu
là một chấm hết đối với họ: hết mong “công hầu khanh tướng”, hết giấc mơ của
một nước Israel thịnh vượng, hết mong hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với
thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái
chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại
đã trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân
hoan. Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống
một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở
bất cứ nơi đâu và ở bất kỳ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường
hát lên điệp khúc: “Hãy xây dựng lại từ đổ nát!”. Đó là niềm tin mà hơn bất cứ
lúc nào chúng ta cần phải bám lấy… Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề
trong cuộc sống ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư? Chúa
Giêsu của làng Emmaus đang nói với bạn: Đừng thất vọng! Ngài đang đồng hành với
bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thưa
anh chị em,
Nếu
ngày xưa, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Chúa khi Ngài ngồi vào bàn ăn bẻ bánh
trao lại cho hai ông, thì hôm nay nơi Bàn Tiệc Thánh này, Ngài cũng làm lại cử
chỉ đó để chúng ta nhận ra Ngài đang sống và hiện diện giữa chúng ta, với chúng
ta, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Và sau khi vui mừng nhận ra Chúa đã sống
lại, hai ông đã vội vã ra đi gặp anh em để thông đạt niềm vui và niềm tin yêu
nơi họ. Cũng vậy, sau khi hiệp lễ, chúng ta được sai phái ra đi đem Tin Mừng
Chúa sống lại, đem niềm vui Phục Sinh đến các anh em đang đau khổ, buồn sầu,
chán nản, thất vọng, để mọi người cùng chia sẻ niềm tin. Thiên Chúa vẫn là
người bạn đồng hành của con người, Ngài vẫn cảm thông với những ưu tư, đau khổ
của con người, Ngài đang hoạt động với con người. Chỉ có con người không nhận
ra Ngài, không biết lắng nghe Lời Ngài và không giữ Ngài ở lại với mình khi
ngày đã xế bóng và màn đêm tăm tối đang bao phủ mặt đất, che khuất ánh mặt
trời. Vì trong đêm tối, người ta khó tin có mặt trời, nhưng sự thực mặt trời
vẫn luôn có đó. Trong đau khổ, người ta khó tin có Thiên Chúa, nhưng sự thực
Thiên Chúa vẫn luôn có đó, vì Chúa Kitô đã sống lại và đang sống bên cạnh chúng
ta giữa những đêm tối, giữa những khổ đau, mặc dầu chúng ta không trông thấy
Ngài.
Anh
chị em thân mến,
Hãy
nhận ra sự gần gũi thân thương của Chúa Giêsu trong Lời Chúa và Thánh Thể chúng
ta chia sẻ cho nhau mỗi lần họp mặt mừng Chúa sống lại. Và cùng với Ngài, chúng
ta ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh, niềm vui và hy vọng làm nền tảng cho cả cuộc
đời của mọi người Kitô hữu.
14.
Đừng tiếc nuối – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có
những lúc trong cuộc đời trước những bất hạnh, rủi ro hay lầm lỡ, chúng ta
thường thốt lên một lời thật xót xa: "giá mà!". Giá mà tôi đừng như
vậy thì đời tôi đâu đến nông nỗi này! Giá mà tôi không đầu tư vào việc đó thì
tôi đâu thất bại ê chề như thế này! Giá mà tôi chịu nghe lời cha mẹ, giá mà tôi
đừng gặp người đó, đừng bằng lòng lấy người ấy thì đời tôi đâu khổ sầu như ngày
hôm nay! Giá mà tôi đừng trèo cao danh vọng hay "vung tay quá trán"
thì đời tôi đâu khốn khó như ngày hôm nay!
Có
lẽ, vẫn còn nhiều câu nói xót xa tương tự như thế trong cuộc đời chúng ta. Nhất
là trong những quyết định sai lầm để rồi "sẩy một ly đi một dặm", đã
khiến cuộc đời mình trở nên khánh tận tột cùng. Lúc đó hai tiếng "giá
mà" lại càng đau đớn xót xa hơn!
Ngược
với sự xót xa tiếc nuối, người ta có thể đặt bản lề cho vận mạng mới của mình
bằng hai tiếng "tuy nhiên". Tuy nhiên tôi có thể làm lại từ đầu. Tôi
có thể đứng lên từ trong biến cố đau thương này. Trong hoạ vẫn có phúc. Trong
đau khổ vẫn có mầm hy vọng. Trong thất bại vẫn có con đường để tiến lên, miễn
là biết kiên nhẫn và chờ đợi sẽ có ngày gặt hái thành công.
Hai
môn đệ đi làng Emmau hôm nay lòng cũng tơi bời, nát tan trong tuyệt vọng và
tiếc nuối. Giá mà ngày nào họ đừng gặp Thầy Giêsu, đừng đi theo Người, đừng lặn
lội sương gió phò tá Người thì hôm nay đâu phải trắng tay và trốn chạy như thế
này! Giá mà Đức Giêsu, người từng làm cho sóng gió biển cả phải im lặng, cho ma
quỷ phải khiếp sợ, đừng chấp nhận một định mệnh quá cay nghiệt là cái chết ô
nhục trên thập giá, thì mộng ước bấy lâu nay của họ đã thành hiện thực. Tuy
nhiên, giữa lúc họ đang đặt ra biết bao giả thuyết đầy nuối tiếc, bi quan,
tưởng chừng như cuộc đời họ đã chấm dứt như "dã tràng xe cát biển
đông", Chúa đã đến với họ như một người khách lạ cùng nhịp bước với họ,
nhưng lại nhìn những biến cố đang diễn ra khác họ. Người khách lạ đã giúp các
ông nhìn biến cố này từ Thánh Kinh. Gợi lại cho các ông những dòng Kinh Thánh
từ thời Abraham, Mô-sê và các tiên tri để các ông hiểu được con đường của Thầy
Chí Thánh Giêsu: là Đức Giêsu phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Đức Ky-tô
là Đấng Messia. Ngài phải thực hiện toàn bộ các lời kinh thánh đã nói về Ngài.
Nghe
người khách lạ nói, lòng trí các ông bừng sáng một niềm tin lạ thường. Niềm tin
giúp các ông chấp nhận sự thật trong an bình, trong thánh ý của Thiên Chúa.
Lòng họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ muốn mời người khác lạ ở lại với họ. Họ
muốn tri ân. Họ muốn bầy tỏ lòng biết ơn đối với người khách lạ. Vì nhờ người
khách lạ giải thích Kinh Thánh mà họ hiểu được ý nghĩa của biến cố đang xảy ra.
Bao lâu nay họ học Kinh Thánh, bao lâu nay họ nghe giảng Kinh Thánh nhưng họ
lại không biết nhìn sự kiện dưới cái nhìn của Kinh Thánh. Họ muốn Thiên Chúa
hành xử theo ý mình. Họ muốn Đức Giêsu đáp lại nguyện vọng của họ mà họ đâu
biết rằng Người đến trần gian là để thực thi ý Chúa Cha. Họ thất vọng vì những
điều xảy ra không theo ý họ. Chúa đã chết thay vì làm vua. Cái chết của Chúa đã
làm tan biến mọi mơ ước trong lòng họ. Tuy nhiên, hôm nay họ đã hiểu, dù có
muộn màng nhưng mặc cho trời còn tối. Bóng tối của trời đất chẳng là gì với ánh
sáng của tâm hồn. Tâm hồn họ bừng sáng lên niềm hy vọng. Tâm hồn họ tràn ngập
ánh sáng hân hoan. Họ đứng dạy trở về Giêrusalem, trở về với các tông đồ trong
sự hiệp thông với Chúa và với nhau.
Câu
chuyện hai môn đệ đi làng Emmau, thánh sử Luca chỉ giới thiệu cho chúng ta một
nhân vật có là Lê-o-pha, và một người khuyết danh. Người khuyết danh đó phải
chăng là mỗi tín hữu chúng ta? Có thể là chính chúng ta cũng có lúc đang đi
trên đường Emmau. Đoạn đường có quá nhiều chán chường. Đoạn đường dài đầy bất
trắc dồn dập xảy đến trong cuộc đời. Ốm đau, bệnh tật, làm ăn thua lỗ luôn làm
chúng ta chưa hết cái lo này đến cái lo khác. Khiến chúng ta thất vọng. Muốn
buông xuôi. Mặc cho dòng đời đưa đẩy. Thánh Luca muốn ghi lại biến cố này để
mời gọi những ai sầu khổ tư bề hãy biết nhìn biến cố trong đời bằng ánh sáng
tin mừng. "Sau đêm dài là ánh bình minh". "Sau cơn mưa trời lại
sáng". Hãy tin tưởng vào Chúa. Thiên Chúa luôn làm những điều tốt đẹp nhất
cho cuộc đời chúng ta. Vì Chúa là người Cha hiền sẽ không bao giờ bỏ rơi con
cái của mình.
Ước
gì trong thánh lễ hôm nay, chúng ta được nghe Lời Chúa, được hiểu Lời Chúa,
được hiệp thông với Chúa và với nhau qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng được
sự bình an và niềm vui có Chúa ở cùng như hai môn đệ đi làng Emmau năm xưa.
Amen.
15.
Trên đường Emmau – R. Veritas.
(Trích trong
‘Sống Tin Mừng’)
Qua các báo
chí, đài truyền thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, có lẽ
ngày nào chúng ta cũng thấy tận mắt hình ảnh vô cùng thảm thương của những
người tị nạn Kosovo, đã có trên nữa triệu người gốc Albani bị bắt buộc phải rời
bỏ quê hương mang theo không biết bao nhiêu câu chuyện, hay những hành động
ngược đãi, hãm hiếp, tàn sát dã man mà Tổng thống Nam Tư đã trút xuống trên họ.
Những hành động tội ác xuất phát từ chủ trương thanh lọc chủng tộc này không
thể không gợi lại cho chúng ta các trại tập trung, những lò hơi ngạt mà Hitler
đã từng dựng nên để sát tế trên sáu triệu người Do thái. Chúng ta cũng không
thể quên được các quần đảo Gu-lắc của Stalin tại Liên Xô, những nhà tù của Mao
Trạch Đông tại Trung Quốc, những cánh đồng giết người của Pôn-Pốt tại
Campuchia. Dĩ nhiên, làm sao chúng ta không liên tưởng đến không biết bao nhiêu
người vì chủng tộc, vì niềm tin tôn giáo, vì lương tâm, vì quan điểm chính trị
mà đã phải bị kỳ thị, bị ngược đãi, bị bách hại trong các chế độ độc tài xây
dựng trên các ý thức hệ độc đoán.
Ở vào thời
điểm của xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng để tạo ra về các giao lưu kinh
tế, văn hóa, chính trị, xã hội, tôn giáo thì chủ trương loại trừ, bách hại và
tiêu diệt người khác chỉ vì chủng tộc, chỉ vì niềm tin tôn giáo, vì quan điểm
chính trị, quả là một hành động lạc hậu dã man. Thế giới đã nhìn về tội ác của
Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pôn-Pốt như những cơn ác mộng nhất của lịch sử
nhân loại và sẽ mãi mãi lên án bất cứ chủ nghĩa nào tước đi quyền cơ bản của
con người. Giờ đây nhân loại càng ý thức rằng, gặp gỡ, chia sẻ, tôn trọng những
khác biệt mà điều kiện tối cần cho sự sống còn là nền hoà bình đích thực của
thế giới.
Riêng các tín hữu Kitô chúng ta, ánh
sáng đức tin soi dẫn chúng ta biết rằng, nền tảng những sự tôn trọng, những
khác biêt nơi người khác là phẩm giá con người. Chúng ta tin rằng, một con
người sinh ra trên cõi đời này đều mang lấy hình ảnh Thiên Chúa. Trong ánh sáng
của việc cử hành mầu nhiệm Phục Sinh, các tín hữu Kitô chúng ta còn biết rằng,
con người có một phẩm giá cao trọng là bởi vì chính Chúa Kitô Phục Sinh đã tự
đồng hóa với mọi người, nhất là với những người nghèo hèn nhất trong xã hội. Từ
nay trong ánh sáng Phục Sinh, chúng ta biết rằng, con người là con đường gặp gỡ
ưu việt với Chúa Kitô Phục Sinh. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở với
chúng ta trong Tin Mừng chúng ta lắng nghe trong Chúa Nhật hôm nay.
Chúa Giêsu đã đến với hai môn đệ đi về
làng Emmau như người khách đồng hành, đồng hành nhưng xa lạ, đây chính là cách
thể hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh trong cuộc sống của chúng ta, Ngài đến
với chúng ta như một người đồng hành, Ngài luôn đi bên cạnh chúng ta, thế nhưng
người đi bên cạnh ấy lại là một người xa lạ, rõ ràng là Chúa Giêsu muốn mời gọi
chúng ta nhận diện Ngài trong tất cả mọi người và từng người chúng ta gặp gỡ
mỗi ngày. Có biết bao nhiêu người sống bên cạnh chúng ta mà vẫn là người xa lạ
hay vô danh, có biết bao nhiêu người đồng hành với chúng ta mà vẫn như vô hình
vì sự dửng dưng của chúng ta, nhất là biết bao nhiêu người đau khổ bên cạnh
chúng ta mà trái tim của chúng ta vẫn khô cứng chai lì.
Hai người môn đệ không nhận ra Chúa
Kitô Phục Sinh khi Ngài đồng hành với họ và chuyện vãn với họ, thế nhưng khi
Chúa Giêsu ngồi vào bàn ăn, lấy bánh bẻ ra trao cho hai ông thì mắt của hai ông
bỗng mở ra để nhận biết Ngài. Bẻ bánh trao ban vốn là cử chỉ đặc thù và cá biêt
trong dung mạo của Chúa Giêsu, cử chỉ ấy thể hiện nhân cách và sứ mệnh của
Ngài, Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để chia sẻ cho mọi người. Hai người môn
đệ đã nhận ra Chúa Giêsu và tâm hồn của họ tràn ngập niềm vui.
Khi thông hiệp vào sự trao ban ấy của
Chúa Giêsu, cử chỉ bẻ bánh trao ban của Chúa Giêsu đã trở thành trọng tâm của
đời sống Giáo Hội. Giáo Hội được qui tụ để không ngừng lập lại cử chỉ ấy của
Chúa Giêsu, đồng thời cũng được mời gọi để trở thành tấm bánh được bẻ ra trao
ban cho tất cả mọi người. Thế nhưng cử chỉ ấy của Chúa Giêsu chỉ có ý nghĩa và
trở thành hiện thực qua chính sự bẻ bánh và trao ban của các tín hữu Kitô chúng
ta mà thôi. Sự bẻ bánh hay Thánh Lễ mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày sẽ trống rỗng
và vô nghĩa nếu không được thực hiện bằng cuộc sống bẻ ra và trao ban của chính
các tín hữu Kitô chúng ta.
Có được bẻ ra, có được vỡ ra, chúng ta
mới có thể ra khỏi vỏ ốc ích kỷ, hận thù, dửng dưng của chúng ta. Có được bẻ ra
mới mở ra để nhận diện được ngày đang đến trong mỗi một người anh chị em chúng
ta.
Cũng chính lúc đó cùng với cử chỉ trao
ban ấy, sự hiện diện của Đấng Phục Sinh mà chúng ta nhận ra nơi tha nhân để
mang lại cho chúng ta niềm vui đích thực.
Nguyện cho niềm vui đích thực của trao
ban ấy làm tràn ngập tâm hồn chúng ta. Amen.
16. Trên
đường Emmau – R. Gutzwiller.
Theo trình thuật của thánh Luca, Chúa
hiện ra lần đầu tiên với các môn đệ trên đường đi Emmau, tác giả trình bày
nhiều chi tiết hơn mọi lần và nêu rõ đoạn văn diễn tả nỗi buồn phiền được chuyển
thành niềm vui nơi những người tưởng rằng mình bị bỏ rơi, một đoạn văn cho thấy
việc Chúa phục sinh là một sự kiện tỏ tường không chỉ đối với các môn đệ trên
đường Emmau mà còn với mọi Kitô hữu nữa.
1) Nếu không
có Chúa.
Các môn đệ không phải là những người
không tin tưởng, tức là những người không hề nghe nói về Chúa Giêsu hoặc chẳng
hề nhận được sứ điệp của Ngài. Họ là những tín hữu, những người có niềm tin. Họ
đã nhận Ngài ‘như một vị tiên tri, quyền năng trong việc làm và lời nói trước
mặt Thiên Chúa và toàn dân’. Hơn nữa, họ còn hiểu rằng: ‘chính Ngài là Đấng sẽ
giải thoát Israel’. Nhưng cuộc khổ nạn của Ngài làm cho lòng tin của họ bị lung
lạc. Họ không thể hiểu nổi một vị cứu thế lại phải chịu khổ nạn. Nói cho cùng,
họ chối không nhận sự kiện. Họ không hề tin vào biến cố phục sinh. Họ đã nghe
các bà loan tin về biến cố ấy, nhưng họ vẫn lưỡng lự, hồ nghi. Thực tại thập
giá đã khiến họ phải tháo chạy, hơn nữa họ đã phải rời bỏ Giêrusalem, và vì
thất vọng họ đã để mất lòng cậy trông.
Khổ đau vẫn luôn là chướng ngại vật,
là cớ vấp phạm lớn lao, khiến những người đã tin tưởng cũng dễ lung lay. Người
ta khó có thể dung hoà đau khổ với lòng tin vào quyền năng và tình yêu của
Thiên Chúa, lòng tin từ thời ấu thơ của họ dường như trở thành ảo tưởng, hão huyền
bởi sự khổ đau ấy, vì gắn bó với những chán chường do cuộc sống khắt khe gây ra
nên đi đến chỗ cứng tin, chán ngán. Con đường các môn đệ đi về Emmau xa cách
Giêrusalem, cũng chính là con đường mà biết bao người đang gặp phải.
2) Chúa
Giêsu hiện ra
Ngài giải thích Kinh Thánh cho họ, và
qua Kinh Thánh, Ngài giải thích ý nghĩa của đau khổ như điều Chúa dùng để thực
hiện chương trình cứu độ. “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi
điều các tiên tri đã nói! Thế thì Đức Kitô không phải chịu khổ nạn như thế đã,
rồi mới vào vinh quang của Ngài sao?” Cuộc khổ nạn và thập giá của Đấng Thiên
Chúa Xức Dầu đáp lại kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Và suốt cả Kinh Thánh
đều tỏ rõ kế hoạch ấy. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải
cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh”. Chắc chắn rằng,
lối chú giải đích thực phải nhắm đến Đức Kitô. Ngài nhấn mạnh rõ rằng chính
Môsê cũng như mọi tiên tri và ‘toàn bộ Kinh Thánh’ đều nói về Đấng Thiên Sai.
Ai giải thích Cựu Ước theo nhãn quan lấy Đức Kitô làm trung tâm ắt không phải
là gò áp bản văn, trái lại giải thích bản văn theo cách thức của nhà chú giải
đích thực. Lối giải thích dựa trên Đức Kitô, lối chú giải Cựu Ước lấy Ngài làm
trung tâm bắt nguồn từ chính Đức Kitô, và chính Ngài đã biện minh cho lối chú
giải ấy. Chỉ dưới cái nhìn ấy mới hiểu được ý nghĩa đích xác của Kinh Thánh,
bất cứ lối giải thích nào chỉ căn cứ vào nghĩa chữ bề ngoài, thì không hiểu
được sâu xa mầu nhiệm và tinh thần sâu đậm nhất của Kinh Thánh.
Hơn nữa, Đức Giêsu mặc khải chính mình
qua việc bẻ bánh “Khi ấy mắt họ mở ra và nhận biết Ngài” thêm vào những lời
giải thích Kinh Thánh là mầu nhiệm bẻ bánh, cả hai sự việc ấy đều là một sự hy
sinh mà nhờ đó Chúa tỏ mình ra. Con người có thể tìm hiểu, suy nghĩ, kiếm tìm
và cầu nguyện để nhận ra Chúa. Nhưng dù sao, con người cũng cần được Chúa ban
ơn cách riêng mới nhận ra Chúa Kitô. Nếu Chúa chẳng ban cho đặc ân ấy, con mắt
ta vẫn khép kín. Và chỉ khi nào Chúa tỏ mình ra cho biết thì mới được, cũng như
đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmau: “mắt họ mở ra và nhận biết Ngài”. Bẻ
bánh chính là dự phần vào bàn tiệc của Chúa. Chỉ ai được Chúa mời tham dự yến
tiệc mới nhận ra Ngài cách đích thực.
3) Với Chúa
Giêsu.
Trước khi các môn đệ thành Emmau nhận
ra Ngài, thì Ngài đã ở giữa họ và đã có ảnh hưởng nơi họ rồi: “Lòng chúng ta
lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa
Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” Tâm hồn họ ngầm cháy. Theo nguỵ thư ghi lại:
“Ta là lửa cháy, Ngài nói, ai gần Ta là gần lửa cháy”. Sự kết hợp với Chúa Kitô
nung nấu các linh hồn mà nếu không có Ngài, các tâm hồn đó sẽ lạnh ngắt và chết
mất.
Khi nhận ra Chúa Giêsu họ liền “chỗi
dậy trở về Giêrusalem”. Đó là một kết quả trước mắt, một biến đổi tận gốc rễ đã
xảy ra: họ đổi buồn thành vui, sầu tan vui đến, tuyệt vọng biến thành hy vọng,
tản lạc quy tụ về, nhát sợ kinh hoàng thành tin tưởng sướng vui. Khi họ gặp
được nhóm Mười Một trong phòng hội, họ hiểu rằng Chúa đã hiện ra với ông Simon.
Các trình thuật khác nhau đều quả quyết sự kiện không thể chối cãi được: Chúa
đã sống lại thật. Trình thuật về các môn đệ đi làng Emmau cho thấy cuộc sống
khi không có Chúa, sự can thiệp của Ngài, và sức biến đổi trọn vẹn cuộc đời.
Sau kinh ngạc trước ngôi mộ trống, sau sững sờ trước sứ điệp các thiên thần,
giờ đây thực sự đã hoàn tất: Chúa đã sống lại thật và còn hiện ra cho những kẻ
thân cận: trước nhất và đặc biệt nhất là hiện ra với ông Simon rồi với hai môn
đệ thành Emmau và sau với toàn thể các môn đệ đang hội họp.
17.
Nồng cháy.
Có một câu chuyện nhỏ về một nhà sư Phật giáo khi sắp chết, đã yêu cầu
một vị linh mục Công giáo hướng dẫn ông về những chân lý đức tin. Vị linh mục
này làm hết sức mình để thỏa mãn những mong ước đó của nhà sư.
Sau đó, nhà sư này cám ơn vị linh mục, nhưng ông còn nói thêm “Ông đã
đem đến cho tâm trí tôi đầy những tư tưởng hay đẹp, nhưng ông vẫn để cho tâm
hồn tôi còn trống rỗng” – Như vậy, tâm hồn nhà sư này vẫn còn trống rỗng –
trống rỗng cái gì thế? Ông thực sự mong muốn điều gì? Tôi đặt giả thiết là ông
bị trống rỗng niềm an ủi và sự an tâm. Nói tóm lại, ông bị trống rỗng tình yêu.
Những tư tưởng đẹp có thể nuôi dưỡng tâm trí. Nhưng chúng không thể nuôi dưỡng
tâm hồn. Chỉ có cảm nghiệm về tình yêu mới nuôi dưỡng được tâm hồn.
Câu chuyện về
cuộc hành trình của hai môn đệ đi Emmau chủ yếu là một câu chuyện về tâm hồn.
Trong khi hai môn đệ này lên đường trở về nhà, họ nói chuyện về Đức Giêsu.
Tương tự như chúng ta không thể ngưng nói về một người mà chúng ta yêu dấu đã
qua đời, cũng vậy, hai môn đệ này không thể không nói về Đức Giêsu. Người đã
đem đến ý nghĩa, hy vọng và niềm vui cho cuộc sống của họ. Và bây giờ, Người đã
chết, họ đã bị ám ảnh vì sự vắng mặt của Người.
Khi còn đang
trên đường đi, tâm hồn họ lạnh lẽo và trống trải, nặng trĩu ưu phiền, bị thương
tích vì nỗi thất vọng, và tê liệt do nỗi đau khổ. Họ tin tưởng chắc chắn rằng
Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhưng cái chết của Người, và đặc biệt là cách thức
Người chết, đã làm cho niềm hy vọng nơi họ bị tan tành. Một Đấng Mêsia bị sỉ
nhục, chịu đóng đinh! Đó là một điều không thể được, thật không thể hiểu nổi.
Nhưng Đức
Giêsu đã cùng đi với họ, và Người mở tâm trí họ đến với ý tưởng về một Đấng
Mêsia chịu đau khổ. Nhờ những lời của Đức Giêsu, ánh sáng và hơi ấm bắt đầu
thấm nhập vào tinh thần tăm tối và lạnh lẽo của họ. Đến bữa ăn tối, ngay khi
Người tự mặc khải chính Người, họ đã được biến đổi, và biến đổi quá nhiều, đến
nỗi họ quay trở lại Giêrusalem ngay tức khắc. Ngay cả mặc dù bóng đêm tối tăm,
nhưng trái tim của họ vẫn bừng sáng. Ngay cả cho dù đôi chân của họ còn nặng
nề, nhưng trái tim của họ vẫn nhẹ nhỏm.
Điều gì xảy ra
với họ? Đức Giêsu làm gì cho họ? Chắc chắn Người đã soi sáng tâm trí họ – không
còn thắc mắc gì về điều đó nữa. Nhưng Người còn làm một điều gì đó tốt đẹp hơn
nữa. Người nhóm lửa trong tâm hồn họ. “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải
thích Kinh thánh cho chúng ta, phải chăng tâm hồn của chúng ta không bừng cháy
lên sao?”.
Đức tin liên
quan đến trí tuệ, đến nỗi tác động đến các chân lý, giáo điều, học thuyết, lòng
tin, giáo lý. Nhưng đức tin thậm chí còn liên quan nhiều hơn đến tâm hồn. Đức
tin cốt yếu hệ tại ở tương quan tình yêu với Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương
chúng ta trước. Nếu không có tình yêu, thì đức tin giống như một lò sưởi không
có lửa.
“Chúng ta sẽ
không bao giờ biết tin tưởng bằng một đức tin mạnh mẽ và không hề đặt vấn đề,
trừ phi Thiên Chúa tác động vào trái tim của chúng ta. Tiếng gọi của Thiên Chúa
xuất phát từ chính tâm hồn con người”.
Điều chính yếu
đã đến với hai môn đệ trên đường Emmau là gì? Đó là niềm tin rằng Đức Giêsu yêu
thương họ. Chính niềm tin này làm cho tâm hồn họ bùng cháy lên. Câu chuyện trên
chứng tỏ lòng từ ái của Thiên Chúa Đấng làm cho những ước mơ sâu thẳm nhất nơi
chúng ta trở thành hiện thực, bằng một cách thức đáng kinh ngạc nhất. Và câu chuyện
trên cũng cho chúng ta biết tất cả sứ vụ của Đức Giêsu Người luôn song hành với
con người, hiện diện bên cạnh họ, và lắng nghe họ – đây chính là những “công
trình tốt đẹp” chủ yếu của thời đại ngày nay.
18. Emmau.
Tin Mừng hôm
nay ghi lại cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai môn đệ đang trên đường tiến về
làng Emmau. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ
trên đường về làng cũ. Chúa Kitô đã xuất hiện không phải để chỉ mang lại giải
đáp cho những câu hỏi được đặt ra, nhưng như một người nêu lên thắc mắc và giúp
họ đi đến tận cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về
Đấng Phục sinh của hai môn đệ cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của
mỗi người chúng ta. Chúa Kitô Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta
trên mọi nẻo đường của cuộc sống; Ngài luôn đi bên cạnh để chuyện vãn, hỏi han,
tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống mỗi ngày chính là
nơi Ngài đến gặp gỡ con người, là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người.
Bên kia niềm vui là nỗi khổ, bên kia thành công là thất bại, con người vẫn nhận
ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình, để rồi từ đó nêu lên câu hỏi
đâu là ý nghĩa của thân phận con người.
Chúa Kitô Phục
Sinh xuất hiện, nhưng không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết như một
người giữa chúng ta, một người cũng đã từng nêu lên câu hỏi ấy về thân phận con
người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn, Ngài đã nói với tất cả
và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy, và cuối cùng, với cái chết
đau thương trên thập giá xem ra Ngài cũng đành bỏ cuộc. Thế nhưng, chính lúc
ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống
trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Ngài chính là
kinh nghiệm mà người bạn đồng hành là Chúa Kitô Phục Sinh đã chia sẻ với hai
môn đệ trên đường Emmau. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm
của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ
bánh và trao ban. Mắt của hai môn đệ đã mở ra để nhận ra Ngài, hiểu được các
biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay,
trong từng biến cố cuộc sống của chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến.
Ngài đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ, Ngài có mặt trong
từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như một người
bạn đồng hành để chia sẻ và chuyện vãn, thì đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở
ra, và lúc đó trong ánh sáng Phục sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của
cuộc sống.
Ước gì sự hiện
diện của Đấng Phục sinh mà hai môn đệ trên đường Emmau đã cảm nhận được cũng
lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không
lầm lũi bước đi trong đơn độc, nhưng hân hoan tiến bước với Ngài.
19. Đam
mê.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng
ta nhận thấy mặc dù Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Emmaus,
nhưng các ông đã không nhận ra Ngài. Vậy tại sao các ông lại không nhận ra
Ngài?
Nếu không lầm, thì chúng ta thấy hai
môn đệ này cũng như phần đông các tông đồ và những người Do Thái khác có một
quan niệm lệch lạc về Đức Kitô… Họ nghĩ rằng Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu vớt
dân tộc họ phải là một người hùng mạnh như Đavid, khôn ngoan như Salomon, với
binh đội hùng hậu, giải thoát họ khỏi sự kìm kẹp của đế quốc La mã và dẫn đưa
dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim.
Trong khi bước theo Chúa, hai môn đệ
này, cũng như phần đông các tông đồ khác, đều ươm mơ một giấc mộng phù phiếm,
nặng mùi địa vị và xôi thịt. Một mai khi Chúa thành công, thì họ sẽ được ngồi
bên tả và bên hữu Chúa, nghĩa là họ sẽ được nắm giữ những vai trò, những chức
vụ quan trọng trong triều đình, trong vương quốc của Chúa.
Thế rồi Chúa đã bị bắt và bị giết trên
thập giá, như một tên tội phạm, như một kẻ phản loạn. Giấc mơ mà họ đã vun xới
từ bấy lâu nay, bỗng dưng sụp đổ và tan theo mây khói. Giữa lúc chán nản và
tuyệt vọng ấy, họ đã tính đến chuyện rã ngũ, trở về quê cũ để làm ăn, với một
giấc mộng bình thường mà thôi. Chính nỗi tuyệt vọng ấy đã che lấp cặp mắt của
họ, và họ đã không nhận ra Chúa, mặc dù Ngài đang đồng hành, đang sóng bước,
đang cùng đi với họ.
Từ kinh nghiệm của hai môn đệ ấy,
chúng ta dọi chiếu vào cuộc đời, và chúng ta cũng nhận thấy, có nhiều lúc Chúa
ở thật gần với chúng ta mà chúng ta vẫn không nhận biết Ngài. Ngài cùng bước đi
với chúng ta mà cõi lòng chúng ta vẫn nguội lạnh băng giá. Sở dĩ như vậy là vì
có những đam mê mù quáng đã che lấp cặp mắt chúng ta.
Đam mê ấy có thể là giấc mộng vinh
quang về chức tước, về địa vị xã hội, như hai môn đệ Emmaus. Chúng ta muốn có
một chỗ đứng ngoài xã hội với bất cứ giá nào, mặc dù có phải bỏ quên Chúa, mặc
dù có phải chà đạp lên kẻ khác. Tuy nhiên chúng ta nên nhớ, danh vọng và chức
tước như của đồng lần được chuyển từ người này sang người khác, như tục ngữ đã
nói:
-
Quan nhất thời, dân vạn đại.
Đam mê ấy có thể là giấc mộng về tiền
tài. Chúng ta vật lộn, nai lưng ra để tìm tiền kiếm bạc, cho dù có phải vùi dập
bản thân, gia đình và hành động bất công với những người chung quanh. Tuy nhiên
chúng ta nên nhớ, chữ tiền thường đi đôi với chữ bạc. Khi còn là một tên đầy
tớ, nó sẵn sàng phục vụ chúng ta. Nhưng một khi đã lên ngôi ông chủ, nó sẵn
sàng bóp nghẹt con tim chúng ta, để rồi chúng ta quên lãng Thiên Chúa, và cư xử
bất công với những người anh em.
Sau cùng đam mê ấy có thể là những vui
thú phần xác. Vì nó mà đời sống đạo đức của chúng ta trở nên nhếch nhác, vì nó
mà chúng ta sẵn sàng bỏ ngoài tai những dư luận, những lời nhắc bảo và cảnh cáo
của người khác. Phần đông giới trẻ ngày nay mất đức tin, không phải vì thiếu
hiểu biết, nhưng vì đã sống một đời sống bê bối và sa đọa về luân lý. Tất cả
những đam mê ấy đã bịt chặt đôi mắt tâm hồn, để chúng ta không còn nhận ra
Chúa, và có nhận ra thì cũng chẳng có đủ can đảm bước theo Ngài.
20. Người lữ khách.
“Sáng mai,
ta sẽ mổ tim của cháu ra”, bác sĩ giải phẫu tim nói với em bé trai. Em trả lời,
“Ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu ở đó”. Bác sĩ ngước mặt lên nhìn, buồn bã. “Tôi sẽ
mổ tim của em ra”, ông nói tiếp, “để xem xem nó đã bị bệnh gì”. “Nhưng khi ông
mở tim của cháu ra”, em bé nói, “ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu ở đó”. Bác sĩ giải
phẫu lại nhìn vào cha mẹ của em đang ngồi im lặng bên cạnh giường bệnh và nói:
“Khi tôi trông thấy trái tim bị bệnh như thế nào, tôi sẽ khâu trái tim và ngực
cháu lại, rồi tôi sẽ dự định phải làm gì”. Nhưng ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu
đang ở trong trái tim của cháu”, em bé cố nhấn mạnh. “Thánh Kinh nói rằng Người
ở đó mà. Tất cả những bài ca Thánh Vịnh đều nói Người sống ở đó. Ông sẽ tìm
thấy Người trong trái tim của cháu”. Bác sĩ cảm thấy đã đủ, bèn lạnh lùng nói:
“Ta sẽ nói cho cháu biết ta sẽ tìm thấy cái gì trong trái tim của cháu. Ta sẽ
tìm thấy cơ bắp nào bị hỏng, làm cho máu chảy chậm và những động mạch nào bị
yếu. Và ta sẽ tìm ra cách để làm cho cháu khỏe lại”, “Ông sẽ thấy Chúa Giêsu ở đó”,
đứa bé tiếp tục nói, “Người sống ở đó mà!” Bác sĩ giải phẫu bỏ phòng bệnh nhân
bước ra đi. Sau cùng, bác sĩ đã ngồi trong văn phòng làm việc, ghi lại những
chi tiết về cuộc giải phẫu, “Van tim bị hỏng, động mạch phổi bị hỏng, sự suy
thoái của cơ bắp thịt trong tim lan rộng. Thay tim không hy vọng gì, cũng không
mong điều trị được. Phương pháp điều trị: thuốc giảm đau và nghỉ ngơi. Tiên
đoán…” Viết tới đây, ông ngừng lại suy nghĩ, “chết trong vòng một năm”. Ông
ngừng bản báo cáo, nhưng cảm thấy còn có điều gì nữa để nói. Ông hỏi lớn: “Tại
sao?” Rõ ràng rằng ông đang nói chuyện với Thiên Chúa. “Tại sao Ngài đã làm như
vậy? Ngài đã mang nó tới đây; Ngài đã đặt nó vào cơn đau đớn này; và chính Ngài
đã chúc dữ cho nó chết sớm. Tại sao?” Những giọt nước mắt nóng hổi chảy xuống,
nhưng cơn giận của ông còn nóng hơn nữa. “Ngài đã tạo dựng nên em bé, và Ngài
đã làm nên trái tim đó. Nó sẽ chết trong vòng vài tháng nữa. Tại sao?” Cuộc đối
thoại giữa ông bác sĩ giải phẫu và Thiên Chúa đã bắt đầu. Trong cuộc đối thoại
đó, ông bác sĩ tuyệt vọng này đã khám phá ra sự hiểu biết mới về tình yêu và sự
quan phòng của Thiên Chúa. Rồi ông khóc. Bây giờ ông đang ngồi bên cạnh giường
bệnh của em bé trai; cha mẹ của em ngồi đối diện với ông. Bỗng chú bé thức dậy
thì thầm, “Ông đã mổ trái tim của cháu ra chưa?” “Rồi”, Bác sĩ trả lời. “Ông đã
tìm thấy cái gì?” em bé hỏi. “Tôi đã tìm thấy Chúa Giêsu ở đó”. Bác sĩ thành
thật trả lời.
Trong cuộc hành trình trên trần gian,
Thiên Chúa luôn hiện diện để đồng hành với con người, nhưng nhiều khi con người
không nhận ra Ngài. Thánh Luca diễn tả “Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì
chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản,
không nhận ra Người”. Mắt họ bị ngăn cản bởi cái gì? Có lẽ bởi sự buồn rầu và
tuyệt vọng vì cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu. “Trước đây chúng tôi vẫn
hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel”.
Theo sự giải thích của Wiliam Barlay,
Emmau ở hướng tây của Giêrusalem. Hai môn đệ đi về Emmau vào lúc trời chiều.
Anh mặt trời chiếu chói lòa vào mắt họ nên họ đã không nhận ra Chúa Giêsu. Mang
tính cách biểu tượng, người Kitô hữu luôn lên đường hướng về ánh bình minh với
hy vọng, không bao giờ quay trở về phía hoàng hôn với bóng tối, buồn rầu, và
thất vọng! Xưa kia, dân Israel đã du hành trong hoang địa đi về phía ánh bình
minh để tiến vào đất hứa.
Điểm cốt yếu của câu chuyện là việc
Chúa Giêsu đã làm họ nhận ra Ngài. Ngài đã cắt nghĩa cho họ hiểu ý nghĩa của
khổ nạn: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong
vinh quang của Người sao?” Và chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được mạc
khải trong Thánh Kinh: “Bắt đầu từ Môsê và các tiên tri, Người giải thích cho
hai ông tất cả lời Thánh Kinh nói về Người”. Rồi họ ngồi vào bàn tiệc: “Người
cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”. Sau cùng họ đã nhận ra
Người. Sự hiện diện của Ngài đã làm cho cuộc đời trở nên có ý nghĩa, đêm tối
trở thành ánh sáng.
“Trong khi con người cố gắng tìm biết
Thiên Chúa, nhìn thấy thánh nhan Ngài, và cảm nghiệm được Ngài hiện diện thì
Thiên Chúa hướng tới con người và cho con người nhận biết sự sống của Ngài.
Công đồng Vatican II bàn rất rộng rãi về tầm quan trọng của việc Thiên Chúa can
thiệp vào thế giới. Công đồng giải thích rằng: “Qua mạc khải, Thiên Chúa muốn
tỏ mình ra và thông ban chính Mình Ngài, cũng như những điều Ngài đã muốn ấn
định từ muôn thuở về phần rỗi của con người”.
Qua lời Chúa và Bàn tiệc Thánh Thể,
hai môn đệ đã tìm thấy ý nghĩa của biến cố. Họ đã quay trở lại Giêrusalem nơi
cuộc khổ nạn và cái chết bi đát đã xảy ra và can đảm đối diện với nó bằng đức
tin và niềm hy vọng.
Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh
Thể “làm thành một hành vi phụng tự duy nhất” của Giáo Hội. Người hướng dẫn ta
qua lời Chúa được ghi chép trong Kinh Thánh, và trở nên nguồn sức mạnh nuôi
dưỡng linh hồn ta trong Bí tích Thánh Thể.
Vì thế, thánh Giêrônimô đã nói: “Không
hiểu biết Thánh Kinh là không hiểu biết Chúa Kitô”. Và Bí tích Thánh Thể làm
cho mầu nhiệm của Chúa Kitô “trở nên hiện tại” cho chúng ta, để “đặt chúng ta
trong niềm hiệp thông” với Thiên Chúa, hầu giúp chúng ta “sinh nhiều hoa trái”.
21. Chúa sống lại.
Đối với con mắt trần gian của chúng ta
thì chết thật là buồn thảm, thật là chán nản, vì chết là hết, chết thì không
còn gì nữa trong trần gian này. Sự nghiệp của một người thường chấm dứt khi
người ấy nhắm mắt xuôi tay. Giả như sự nghiệp của người ấy có vĩ đại, công
trình của người ấy có lớn lao và quan trọng, thì may ra còn để lại ảnh hưởng
nào đó cho những người kế tiếp. Nhưng khi chết như một tên trộm cướp, một tên
đại gian ác, vỏn vẹn chỉ có dăm ba người thân thích dám có mặt lúc bị hành
hình, thì thực không còn gì mà tin tưởng nữa. Đó là trường hợp của Chúa Giêsu.
Thập giá đã kết liễu cuộc đời đầy hứa hẹn của Chúa, thập giá đã chôn vùi mọi hy
vọng và tin tưởng trong lòng những người theo Chúa, mọi sự đã sụp đổ và tiêu
tan hoàn toàn.
Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu, sau
khi Chúa chết, tâm trạng của các ông là như thế. Nhưng thực sự chưa hẳn thế,
biết đâu Chúa đã sống lại thật như Ngài đã nhiều lần tuyên bố trước đây? Nhất
là sáng sớm hôm nay, ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi Chúa chết, mấy người phụ
nữ đến viếng mộ Chúa, họ không thấy xác Chúa, và họ quả quyết Chúa đã hiện ra
với họ. Đó là những điều đang làm cho các môn đệ của Chúa băn khoăn suy nghĩ. Cụ
thể là hai môn đệ mà bài Tin Mừng kể lại, hai ông không hiểu ra sao nữa, thôi
đành tạm rời Giêrusalem về quê cũ, rồi sau sẽ hay, nhưng trên đường về làng
Emmau, Chúa Giêsu hiện ra cùng đồng hành với hai ông và trò chuyện với hai ông.
Nhưng hai ông chưa nhận ra đó là Chúa
Giêsu Phục Sinh mà chỉ tưởng là một người bộ hành nào đó tình cờ gặp trên
đường, nên các ông mời ghé lại quán bên đường dùng cơm và tiếp tục câu chuyện.
Vào quán, khi dùng bữa, Chúa Giêsu phải dùng đến những cử chỉ quen thuộc, cầm
lấy bánh, nói lời chúc tụng Thiên Chúa, bẻ ra, trao cho hai ông, lúc ấy hai ông
mới nhận ra Ngài. Vừa nhận ra thì Chúa Giêsu “tàng hình” đã biến mất. Các ông
vui mừng quá, quay trở lại Giêrusalem để báo cho các bạn khác biết: Chúa Giêsu
đã sống lại thật rồi.
Câu chuyện hai môn đệ đi về làng Emmau
cũng là câu chuyện của hết thảy chúng ta, của mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng
đi theo Chúa Giêsu, cũng đã tin tưởng vào Ngài. Trong biết bao ngày tháng chúng
ta đã nghe những lời Chúa giảng dạy, nhưng cũng như các môn đệ, nhiều khi chúng
ta chán nản, vì điều chúng ta trông mong, điều chúng ta cầu xin, mặc dầu rất
thiết thân, nhưng cầu mãi, trông hoài mà vẫn chưa được, có khi chúng ta cảm
thấy thất vọng, Chúa Giêsu mà chúng ta tin tưởng, xem ra không thắng nổi cuộc
thử thách: chúng ta đau, chúng ta chán, chúng ta buồn, chúng ta khổ, đủ thứ cả,
thế mà nghe giảng, cầu nguyện cũng không làm cho chúng ta hy vọng gì hơn, giống
như hai môn đệ nói: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là
Đấng sẽ cứu chuộc Israel, nhưng việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi”, hai
ông đợi đến ngày thứ ba thì đâm ra thất vọng. Cũng thế, chúng ta đợi, chúng ta
chờ, có khi đã hơn ba ngày, ba tuần, ba tháng, ba năm mà vẫn không thấy gì,
chúng ta đâm ra thất vọng, chán nản, phàn nàn, kêu trách Chúa, thậm chí có
người còn ra điều kiện với Chúa hoặc bỏ Chúa.
Nhưng thế nào chăng nữa chúng ta cũng
hãy bắt chước hai môn đệ này, hai ông đã thưa với Chúa: “Xin Ngài ở lại với
chúng tôi”. Dù hoàn cảnh ra sao, chúng ta cũng hãy xin Chúa: Xin Chúa luôn ở
lại với chúng con trên đường đời đầy chông gai và gian khổ này. Xin Chúa ở lại
với chúng con trong cái thế giới nhiều hận thù và ghen ghét, còn muốn đóng đinh
Chúa nữa này. Xin Chúa lưu lại đây với chúng con, để dạy chúng con biết sống
như những Kitô hữu “hồi sinh” và “biết chết” như những kẻ thừa kế của nước
trời.
Chúng ta cần phải biết nhạy cảm ngạc
nhiên trước mỗi bất ngờ Chúa gửi đến, để trước hết chúng ta cất tiếng ngợi khen
cảm tạ Chúa, cũng như khám phá được điều Chúa muốn và rồi đến lượt chúng ta
cũng trở thành những bất ngờ cho anh em, trong mục đích hướng lòng họ về với
Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Và như vậy, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời,
chúng ta không bao giờ chán nản, thất vọng, buồn phiền, vì biết rằng Chúa luôn
có những bất ngờ cho chúng ta, vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Cha nhân
từ thương yêu chúng ta vô cùng.
22. Suy Niệm của JNK.
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Có bao giờ bạn nghĩ: rất có thể mình cũng sẽ
gặp trường hợp tương tự như hai môn đệ làng E-mau: một người nào đó nói chuyện
với mình, yêu cầu mình giúp đỡ, lại chính là Đức Giêsu không? Có thể rút ra bài
học gì từ bài Tin Mừng hôm nay về sự đồng hóa giữa Đức Giêsu và tha nhân (tha
nhân là Đức Giêsu, Đức Giêsu là tha nhân của ta)?
2.
Có người chủ trương: yêu người chính là yêu
Thiên Chúa. Chủ trương ấy có nền tảng trong Kinh Thánh không? Hãy trưng dẫn một
vài câu tiêu biểu.
Suy tư gợi
ý:
1. Hai tông đồ ở E-mau không nhận ra Đức
Giêsu nơi người bộ hành cùng đi với mình
Một điều khá kỳ thú trong bài Tin Mừng
hôm nay, đó là các tông đồ đã sống với Đức Giêsu suốt ba năm, đã từng nghe Ngài
nói, giảng dạy, thế mà nay, khi Ngài sống lại, cùng đi với các ông, giảng dạy
cho các ông, các ông lại không nhận ra Ngài. Có lẽ Ngài đã mang một bộ mặt xa
lạ, đã đội lốt một người bộ hành như bao bộ hành khác. Điều các ông không ngờ
được là người mà các ông tưởng là một bộ hành xa lạ ấy lại chính là Đức Giêsu,
Thầy mình. Các ông chỉ nhận ra Ngài khi Ngài đồng bàn với họ, chính xác là khi
Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Nghĩa là khi các
ông thấy có sự giống nhau giữa người bộ hành này với Thầy mình. Rất may là các
ông đã đối xử với người bộ hành ấy rất tốt: chăm chú nghe người ấy nói, mời ở
lại dùng bữa… Nếu không thì thật đáng tiếc.
2. Coi chừng kẻo chính chúng ta cũng không
nhận ra Đức Giêsu nơi những người chung quanh ta
Điều kỳ thú đó cũng xảy ra một cách
tương tự biết bao lần trong đời sống chúng ta. Chúng ta sống với những người
chung quanh mình, mà không bao giờ hoặc rất ít khi ta nhận ra Thiên Chúa hay
Đức Giêsu ở nơi họ. Dường như đối với ta, Thiên Chúa hay Đức Giêsu là người ở
đâu đâu, ở trên trời, ở trong nhà tạm của nhà thờ, hoặc ở khắp nơi một cách
thiêng liêng. Ngài có vẻ là một thực tại rất trừu tượng, nếu có cụ thể thì chỉ
là những ảnh vẽ, những bức tượng bất động, vô hồn. Và tình yêu của chúng ta đối
với Ngài cũng rất trừu tượng, rất bí tích, chỉ được thể hiện bằng sự hướng
thiện, bằng việc năng cầu nguyện, năng tham dự và lãnh nhận các bí tích.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại
cho chúng ta một chân lý hết sức quan trọng. Thiên Chúa hay Đức Giêsu có thể
chính là người bộ hành mà mình ngỡ là rất xa lạ. Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy
những bộ mặt khác nhau, hình dáng khác nhau, với những tính tình khác nhau, tư
cách điệu bộ khác nhau nơi những người ta gặp trên đời, nơi những người sống
chung quanh ta. Và tình yêu của chúng ta - nếu có - đối với Ngài thì phải được
thể hiện cụ thể nơi những con người cụ thể ấy, chứ không phải một cách trừu
tượng. Có thể nói: muốn yêu Đức Giêsu, thì cách tốt nhất, cụ thể nhất và chắc
chắn nhất là yêu những người chung quanh ta, và bất kỳ người nào ta gặp trong
cuộc đời. Và cũng có thể nói một cách chắc chắn: nếu ta không yêu những người
ấy, thì ta không thật sự yêu Đức Giêsu hay yêu Thiên Chúa. Nếu ta tưởng rằng
mình yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giêsu bằng cách này hay cách khác, nhưng ta không
hề yêu Ngài nơi những con người cụ thể chung quanh ta, thì tình yêu ấy chắc
chắn chỉ là một ảo tưởng. Rất có thể ta đang yêu chính bản thân mình một cách
ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy một hình thức khôn khéo là yêu Thiên
Chúa hay Đức Giêsu một cách trừu tượng.
3. Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân
của ta
Có thể nói những người chung quanh ta
là những Đức Giêsu rất sống động, rất cụ thể. Hay nói một cách khác, trong một
mức độ nào đó, họ chính là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Chân lý này
có một nền tảng rất vững chắc trong Kinh Thánh.
a. Tha nhân là
hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26.27; 9,6): Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa
hay Đức Giêsu mà không yêu hình ảnh hay hiện thân của Ngài. Khi hai người yêu
thương nhau, họ rất quí hình ảnh của nhau, và hình ảnh đó là một biểu trưng có
tính đại diện cho chính người trong ảnh. Coi thường hay xúc phạm đến hình ảnh
của một người luôn luôn được coi là xúc phạm đến chính con người ấy. Hai môn đệ
làng E-mau nhận ra người bộ hành là Đức Giêsu khi người ấy bẻ bánh giống như
Đức Giêsu. Con người được tạo dựng "giống như" Thiên Chúa (St 1,26;
5,1), điều ấy có làm ta nhận ra Ngài nơi họ không?
b. Tha nhân là
con cái Thiên Chúa (x. Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga
3,1.2.10;): Tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, đều gọi Thiên Chúa là
Cha, và cùng là anh em với nhau. Con cái một cách nào đó là hiện thân của cha
mẹ. Kinh nghiệm đời sống cho ta thấy: ai yêu cha mẹ tất nhiên cũng yêu thương
anh chị em mình. Và ai không yêu thương anh chị em mình, chắc chắn tình yêu đối
với cha mẹ cũng rất nhạt nhẽo hoặc giả tạo.
c. Từ những
căn bản trên, Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân của ta (x. Mt 10.40;
18,5; 25,40.45; Lc 10,16): Ta làm gì cho tha nhân của ta, trước tiên là những
người gần gũi ta nhất, rồi đến những người sống chung quanh ta, những người ta
thường gặp, và tất cả mọi người, chính là làm cho Ngài. Ta yêu họ chính là ta
yêu Ngài, ta ghét họ chính là ta ghét Ngài, hy sinh cho họ là hy sinh cho Ngài,
làm hại họ là làm hại chính Ngài.
4. Yêu tha nhân là yêu Thiên Chúa, và là chu
toàn luật Chúa
Trong Cựu Ước, khi trình độ con người
còn thấp, có sự phân biệt rõ rệt giữa Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, có hai
điều răn quan trọng nhất là: "Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em,
hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5) và "hãy yêu người khác như
chính mình" (Lv 19,18). Đức Giêsu đã nhắc lại hai điều răn ấy như hai điều
luật căn bản của Lề Luật cũ. Nhưng qua thời Tân Ước, khi trình độ của con người
cao hơn, hai điều răn ấy được tóm lại thành một: hễ yêu Chúa tất nhiên phải yêu
tha nhân, và hễ yêu tha nhân thật tình tất nhiên là đã yêu Chúa rồi. Thánh
Gio-an viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét
anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga
4,20). Vì thế, thánh Phao-lô viết: "Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề
Luật" (Rm 13,8.10), "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là
anh em chu toàn luật Đức Ki-tô" (Gl 6,2). Thánh Gia-cô-bê cũng nói:
"Anh em làm điều tốt nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh được đưa lên hàng
đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Gc 2,8).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở
chúng ta chân lý quan trọng này: tha nhân chính là hình ảnh, hay một cách nào
đó, là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy tập nhìn họ
là "Em-ma-nu-el" (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Thiên Chúa hay Đức
Giêsu đang ở giữa chúng ta, ở với chúng ta qua những người chung quanh ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bài
Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời, nó cho con thấy và nhắc lại cho con một
chân lý kỳ diệu: Những người gần gũi với con, sống chung quanh con một cách nào
đó là hiện thân của Cha, của Đức Giêsu. Vì thế, yêu Cha, yêu Đức Giêsu tất
nhiên phải yêu những người ấy. Và chỉ khi con yêu họ, con mới chứng tỏ được
rằng con thật sự yêu Cha và yêu Đức Giêsu. Xin giúp con yêu họ thật sự bằng
hành động cụ thể.
23. Đức
Giêsu hiện ra với hai môn đệ Emmau
(Suy niệm của
Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi các phụ nữ đã mang sứ điệp
Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô tả hai cuộc hiện ra
của Đức Giêsu Phục Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai môn đệ Emmau
(24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn (24,36-53).
Riêng cho truyện Emmau, chúng ta không
có đoạn văn Nhất Lãm song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi các phụ
nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta
biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và đang sống, nên không thể gặp Người giữa kẻ
chết. Nhưng ta không biết là có thể gặp Người ở đâu và gặp Người cách nào.
Chính Đức Giêsu đã lấy sáng kiến và hiện ra trong những hoàn cảnh khác nhau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Hai môn đệ đi về Emmau (24,13-14);
2)
Đồng hành và đối thoại với Đức Giêsu (24,15-27);
3)
Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh (24,28-32);
4)
Trở lại Giêrusalem (24,33-35).
3.- Vài điểm
chú giải
- Emmau (13): Bản văn
cho biết Emmau cách Giêrusalem 60 dặm (stadious), tức 11,5 cây số (mộtdặm =
192m). Đến nay người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn đây là làng nào: là
làng Amwas = Nicôpôli (176 dặm = 32,5cs; 1 Mcb 3,40.57: Ammaous), hay là làng
Kulonje (30 dặm = 5,5 cs; Phơlaviô Gioxép, Chiến tranh Do Thái VII 6,6 § 217:
Ammaous), hoặc là làng Kubêbe (64 dặm = 12cs; vào thời các thập tự quân:
Castellum Emmaus)?
- (Và) xảy ra là đang lúc (15): Trong
chương 24, có bốn lần tác giả Luca dùng cụm từ “kai egeneto en tô…”, mà Bản
dịch CGKPV không dịch, còn cha Thuấn thì dịch là “đang khi…”, “xảy ra là đang
lúc…”, “và xảy ra là khi…”, “và xảy ra là đang khi…”. Tác giả dùng công thức
này để dẫn vào những sự cố đặc biệt: hai chứng nhân xuất hiện (c. 4), Đức Giêsu
đến cùng đi với hai môn đệ (c. 15), Đức Giêsu tỏ ra như là người chủ tọa bữa ăn
(c. 30), và Đức Giêsu được đưa lên trời (c. 51).
- trò chuyện và bàn tán (15): Homilein,
“trò chuyện”; syzêtein, “tìm với nhau, tranh luận, tranh cãi; bàn tán”; động từ
syzêtein lại được dùng trong Cv 15,7.10, là nơi nhắc đến những tranh cãi kịch
liệt trong Hội Thánh tiên khởi về vấn đề cắt bì. Như thế, câu chuyện tỏ ra sôi
nổi và dường như các ông không hoàn toàn đồng ý với nhau.
- vẻ mặt buồn rầu (c. 17): Skythrôpos
do skythros, “buồn rầu” và ôps, “gương mặt”.
- chẳng hiểu gì (25): Anoêtos có
nghĩa là “thiếu khả năng suy nghĩ; không có đầu óc; kém thông minh; ngu xuẩn”
(x. Gl 3,1: ô anoêtoi Galatai, “hỡi những người Galát ngu xuẩn”). Sau này, ở
24,45, tác giả cho biết Đức Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.
- lòng trí thật là chậm tin (25): dịch sát
là “chậm (bradeis) về trái tim để tin”. “Trái tim” (kardia), trung tâm của ý
chí, trí tuệ và tình cảm của con người (x. 24,25.32.38). Động từ pisteuein,
“tin” (Mt 11x, Mc 14x, Lc 9x, Ga 98x) chỉ được Lc dùng ở đây (danh từ pistis,
“đức tin”: Mt 8x, Mc 5x, Lc 11x, Ga 0x). Trong Lc, động từ này luôn quy về lời
nói, ở đây là lời các ngôn sứ. “Tin” có nghĩa là cương quyết chấp nhận giá trị
của lời nói.
- Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình (26): “Phải” đây
là động từ dei ở thì vị hoàn (edei): động từ nay diễn tả mộtđiều cần thiết
thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa. Xem 9,22; 17,25; 22,37; 24,7.44.
- trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông
Môsê và tất cả các ngôn sứ (27): “Ông Môsê” là Bộ Ngũ Thư; “các ngôn
sứ” là các sách sử và các sách ngôn sứ; “tất cả Sách Thánh” là những sách còn
lại của Cựu Ước. Xem cách chia Kinh Thánh Do Thái thành ba phần ở 24,44.
- giải thích (27):
Diermêneuein có nghĩa là “giải nghĩa, giải thích, chú giải”. Động từ này chỉ
được Lc dùng ở đây; ở Cv 9,36, động từ này có nghĩa là “dịch”, và ở 1 Cr 14,
5.13.27, có nghĩa là “giải thích điều được nói bằng các tiếng lạ; giúp hiểu
điều người ta không tự mình hiểu được; đưa đến chỗ hiểu biết”. Những công thức
có nghĩa tương tự là: “giải thích (dianoigô tas graphas, “mở trọn vẹn, mở toang
Kinh Thánh”) Kinh Thánh cho chúng ta” (24,32) và “Người mở trí (dianoigô ton
noun, “mở rộng trí”) cho các ông hiểu Kinh Thánh” (24,45).
- Mắt họ liền mở ra (31): Dịch sát
là “mắt họ đã được mở ra” (diênoichthêsan, aor. pass. của động từ dianoigô, “mở
trọn vẹn”). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Hai môn đệ đi về Emmau (13-14)
Bản văn mở ra với “hai người trong
nhóm môn đệ” đang bước đi và trò chuyện. Sau đó, ta được biết mộtngười tên là
Cơlêôpát (c. 18). Họ không thuộc về Nhóm Mười Một, nhưng thuộc về nhóm những
người khác đang cùng ở với Nhóm Mười Một (x. 24,11). Qua lời họ kể (24,22-24),
họ chứng tỏ họ biết tất cả những gì đã được kể ở 24,1-12; họ biết những gì cộng
đoàn biết và sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết này gia tăng thêm.
Về thời gian, đây “cũng ngày hôm ấy”,
tức ngày thứ nhất trong tuần (24,1). Họ cho biết là họ chỉ ra đi khi đã kiểm
chứng tất cả các sự cố của 24,1-12. Bây giờ họ đang tiến về mộtlàng tên là
Emmau, cách Giêrusalem khoảng mười mộtcây số.
Trong khi đi đường, họ trò chuyện sôi
nổi với nhau. Đối tượng của cuộc bàn tán được mô tả tổng quát: “tất cả những sự
việc mới xảy ra” (c. 14; x. c. 18) và ta hiểu nhờ những phần tường thuật trước
đó của tác giả Tin Mừng.
* Đồng hành và đối thoại vớiĐức Giêsu (15-27)
Hai môn đệ cùng đi với nhau, họ chia
sẻ các tâm tình với nhau, nhưng dường họ cũng không đồng quan điểm với nhau; có
chuyện gì đó đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và họ vẫn chưa có thể đồng ý với
nhau về chuyện ấy hoặc tìm lại được bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với họ,
rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu theo quan
điểm của họ (cc. 19b-24). Sau đó, Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả
những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh Thánh (cc. 25-27).
Sau khi Đức Giêsu đã trở thành bạn
đồng hành của họ, dù họ vẫn không biết Người là ai (cc. 15-16), hai bên đã trao
đổi ba câu hỏi (cc. 17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện rõ ràng hơn. Tác giả nhắc
lại rằng con người đến gần hai môn đệ và bắt đầu bước đi với họ đúng là Đức
Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi
kêu lên với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các hành động mới của Người
là: đến gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người thật sự đang sống (x. 24,5) và
quan tâm trước tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng Đức Giêsu đến như mộtngười lữ
khách bình thường, nhưng hai người môn đệ không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa
vào ba câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của Đức Giêsu, Người tham gia vào
cuộc thảo luận của họ (c. 17).
Phản ứng đầu tiên của họ là dừng lại.
Cho tới nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c. 13), cùng đi (c. 15), đi (c.
17). Việc dừng lại dường như là do sự ngạc nhiên được diễn tả trong câu hỏi
tiếp sau (c. 18). Tác giả cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản ứng thứ hai là
câu hỏi của mộtông tên là Cơlêôpát (Kleopas là dạng tắt của Kleopatros). Ông
này cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có thể nói về một chuyện duy
nhất, nên mộtngười lạ cũng phải biết; thế mà người bạn đồng hành này lại không
biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời
bằng một câu hỏi thứ hai, rất ngắn: “Poia? (Những chuyện gì vậy?)”. Là nhân vật
chính trong các biến cố ấy, Người lại tỏ ra như không biết. Người chứng tỏ sẵn
sàng lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn tả các tư tưởng và các mối bận tâm.
Họ bắt đầu kể. Có thể nói phần tường
thuật của họ là một bản tổng hợp hành trình của Đức Giêsu và của TM Lc. Phần
tường thuật có chủ đề “Chuyện ông Giêsu Nadarét”, với mở đầu cô đọng nhưng càng
lúc càng rõ hơn. Hoạt động công khai của Người (x. Lc 4–21) được tổng hợp trong
câu nhận định: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói
trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (c. 19; x. Lc 7,16). Dân chúng đã nhận biết
Người là mộtngôn sứ vĩ đại. Về cuộc Thương Khó của Người, hai ông nhắc đến các
vị có trách nhiệm: “các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta” và diễn tả biến cố
này bằng hai từ, “nộp” và “đóng đinh” (x. 24,7). Đến đây, họ ngưng phần kể
truyện mà đưa vào mộtlời bình diễn tả nỗi thất vọng của họ: “Phần chúng tôi,
trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (c. 21).
Họ đã nghĩ đến mộtcuộc giải phóng dân tộc Do Thái mang tính chính trị. Ở c. 47,
Đức Giêsu sẽ cho hiểu đây là cuộc giải phóng muôn dân khỏi tội lỗi.
Và cứ thế, họ đi đến giờ phút hiện
tại: các sự việc xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi (c. 21). Phải chăng họ đang gợi
tới các lời tiên báo về Phục Sinh vào ngày thứ ba (9,22; 18,33; 24,7.46) và
muốn ám chỉ rằng các lời ấy đã không thành sự? Phải chăng họ đang quy chiếu về
niềm tin dân gian Do Thái cho rằng linh hồn vẫn ở gần thân xác cho đến ngày thứ
ba, rồi mới vĩnh viễn tách ra? Dù thế nào, nhận xét ấy vẫn cho thấy nỗi thất
vọng của họ.
Họ lại kể lại câu truyện và lần này kể
rộng rãi hơn: đoạn 24,22-23 tương ứng với 24,2-11, còn đoạn 24,12 tương ứng với
24,24. Họ kể chi tiết kinh nghiệm của các phụ nữ: các bà này đến mộ từ sáng
sớm, không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả, nhưng lại nói là đã thấy các thiên sứ
hiện ra bảo rằng Người vẫn sống (x. 24,5t). Quả thật, các phụ nữ trở về, kể
truyện, đã làm cho cộng đoàn sửng sốt. Họ kể lại sứ điệp của các phụ nữ (c.
24); rồi cũng cho biết có “mấy người trong nhóm chúng tôi” đã đến và thấy mộ
trống, nghĩa là “thấy sự việc y như các bà ấy nói”. Để kết luận, họ nêu mộtnhận
định cho đến nay chưa nói ra: “còn chính Người thì họ không thấy”. Trong khi họ
nói ra điều này, họ nhìn Đức Giêsu mà không nhận ra Người (x. c. 16). Rồi họ sẽ
là những người đầu tiên thấy Người (c. 31). Trong cuộc hiện ra với các môn đệ,
chính Đức Giêsu cũng nhấn mạnh trên việc thấy: ở 24,39, hai lần động từ idete,
“hãy nhìn xem”, được dùng (Có thể dịch lại 24,39 như sau: “Hãy nhìn xem (idete)
tay chân Thầy đi, vì chính Thầy đây mà! Hãy rờ Thầy và nhìn xem (idete) đi, vì
ma đâu có thịt có xương như anh em thấy (theôreite) Thầy có đây?”).
Kế đó, tác giả ghi lại giọng văn trực
tiếp của Đức Giêsu, trước hết là một tiếng than và một câu hỏi mang tính hùng
biện (cc. 25-26), rồi cách thức Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh cho hai ông (c.
27). Trong khi các ông đã tóm các biến cố, Đức Giêsu lại cho thấy liên hệ của
các biến cố ấy với Kinh Thánh, là nơi tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa.
Trong tiếng than, Đức Giêsu đã đánh
giá hai ông là “chẳng hiểu gì và lòng trí thật là chậm tin”; đây là một lời trách:
trí tuệ và trái tim của các ông không sao tin được tất cả những gì các ngôn sứ
đã nói. Trong câu hỏi mang tính hùng biện, Đức Giêsu nhấn mạnh trên sự kiện là,
thể theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất thiết Đức Kitô phải (dei) đi
qua cuộc Thương Khó để vào vinh quang. Họ nói về Đức Giêsu như là vị ngôn sứ
lớn (c. 19), Đức Giêsu lại nói về Đấng Kitô (cả 24,46): quả thật, trong cuộc xử
cũng như khi chế giễu Đức Giêsu, người ta tập trung vào “Đấng Kitô” (22,67;
23,2; 23,35.39). Trong câu “chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của
Người”, cụm từ thứ hai đã thay thế động từ “trỗi dậy” trong những đoạn tương tự
(x. 9,22;24,7.46): như thế, “trỗi dậy”, hay “sống lại”, có nghĩa là “đi vào
trong vinh quang”, tức là đi vào sự hiện diện trực tiếp của Thiên Chúa và thông
phần vào vinh quang của Người.
Sau đó, Đức Giêsu rảo qua toàn bộ Cựu
Ước để giải thích cho hai môn đệ những điều liên quan đến Người: trong tư cách
là “nhà chú giải” (diermêneuein, “giải thích, chú giải”), Đức Giêsu cho hai ông
thấy Kinh Thánh đã nói về Người ở đâu và nói như thế nào. Câu 24,27 và 24,44 có
cùng nội dung là “những gì liên quan đến Đức Giêsu”, nhưng câu đầu thì Đức
Giêsu nói mà chưa được nhận ra, còn câu sau thì Người nói sau khi đã được nhận
biết.
* Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh(28-32)
Trong phần đầu, hai môn đệ tha thiết
thuyết phục Đức Giêsu ở lại với họ (24,28-29). Trong phần giữa, Đức Giêsu bẻ
bánh, được nhận biết và biến mất (24,30-31). Cuối cùng là lời bình luận của hai
môn đệ (24,32).
Ba người đã đến gần mục tiêu hai môn
đệ nhắm tới (x. 24,13). Đức Giêsu làm bộ (“làm ra vẻ, giả bộ”) muốn đi tiếp,
nghĩa là Người tiếp tục tỏ ra như là người bạn đồng hành ngẫu nhiên. Họ tha
thiết xin (“ra sức, ép buộc”) Người ở lại với họ và Người đã thuận theo lời họ
xin. Họ viện lý do là trời đã xế chiều, nhưng sự khẩn khoản của họ chứng tỏ họ
hết sức quý trọng người bạn đồng hành này. Những chi tiết được lặp đi lặp lại
trong cc. 29 và 30 cho thấy có nguyện vọng được ở lại với nhau (“Mời ông ở lại
với chúng tôi”: 24,29; “Người vào và ở lại với họ”: 24,29; “Khi đồng bàn với
họ”: 24,30). Sự hiệp thông giữa ba người trở thành mộtsự hiệp thông trong bàn
ăn (c. 30).
Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã xử sự như
người chủ tọa; Người đã làm bốn hành động: Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng,
bẻ ra, trao cho. Ta không thể không thấy Người xử sự y như trong Bữa Tối cuối
cùng (Lc 22,19-20. So sánh 22,19 // 24,30), tuy ở đấy Đức Giêsu có nói mộtsố
lời và cho phân phát mộtchén rượu. Ta cũng thấy Người xử sự như thế khi nhân
bánh và cá ra nhiều (9,12-17), chỉ có điều là ở đấy, sau khi cầm lấy, Người lại
ngườc mắt lên trời (9,16). Các môn đệ đã nhận ra Người. Khó có thể cho rằng các
ông đã nhận ra Người vì nhớ lại Bữa Tiệc cuối cùng, bởi vì các ông không có mặt
ở đấy. Hợp lý hơn, có thể nói là vì các ông đã có mặt khi Đức Giêsu nhân bánh
ra nhiều hoặc đã thường thấy Đức Giêsu làm cử chỉ này. Còn mộtcâu hỏi khác:
Phải chăng Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai môn đệ Emmau? Người ta thường
trả lời là “không”, với các lý do: cử chỉ Đức Giêsu làm là mở đầu thông thường
cho mộtbữa ăn Do Thái; Lc không ghi lại mộtlời giải thích nào của Đức Giêsu;
thiếu việc trao mộtchén rượu; hai môn đệ này không có mặt trong Bữa Tiệc cuối
cùng, vì chỉ dành cho các tông đồ (22,14). Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ
nhận là có tương quan chặt chẽ giữa 24,30 và 22,19. Thế rồi, hai môn đệ ấy đã
nói đến “việc bẻ bánh” của Đức Giêsu (24,35). Cụm từ ấy chỉ xuất hiện ở đây và
ở Cv 2,42. Vậy không thể chứng minh được là Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai
ông, nhưng 22,30.35 là những câu nhắc các độc giả Lc nhớ tới Bữa Tối cuối cùng
và những buổi cử hành Thánh Thể của họ. Và hẳn là khi nghe hai ông kể lại kinh
nghiệm vừa trải qua, Nhóm Mười Một cũng nhớ lại Bữa Tối cuối cùng, trong đó quả
thật Đức Giêsu đã ban Mình Người cho các ông (22,14.19). Như thế, Bữa Tối cuối
cùng, với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên sống động trong tâm khảm của cộng
đoàn.
Kết quả mà hành vi của Đức Giêsu tạo
ra là tương quan của hai môn đệ với Người được đảo ngược: Trước kia, ở 24,16,
mắt của các ông còn bị ngăn cản, nay ở 24,31, mắt các ông đã mở ra để nhận biết
Người, nhưng thật ra là Thiên Chúa mở mắt cho các ông (thái bị động thay tên
Thiên Chúa). Người ta không thể nhìn thấy và nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh
bằng cặp mắt nhân loại; nhận ra Đức Giêsu hiện diện và chân tính của Người là
mộtơn Thiên Chúa ban. Hai ông đã hưởng nhờ ân huệ lớn lao từ cách xử sự của Đức
Giêsu. Các ông đã kết thúc truyện kể ngược lại quá khứ với mộtnhận định buồn
rầu: “còn chính Người thì họ không thấy” (24,24). Bây giờ họ là những người đầu
tiên của cộng đoàn (nhưng x. 24,34) được ban cho ơn thấy Đức Giêsu Phục Sinh và
đang sống. Và khi đã nhận biết Đức Giêsu đang sống, họ mới có thể nhận ra là
Đức Giêsu đã làm gì cho họ, khi đi bên họ, giải thích Kinh Thánh và trao bánh cho
họ. Nhưng cũng ngay khi đó, Đức Giêsu biến mất. Họ phải học biết rằng nay đã
chấm dứt hình thái hiện diện của Người theo kiểu loài người và trần thế, mà họ
đã quen.
Trong lời bình luận (24,32), hai ông
đã nêu bật kinh nghiệm vừa trải qua với Đức Giêsu, khi Người giải thích Sách
Thánh cho họ (24,25-27). Họ ghi nhận mộtsự thay đổi trong tim, vì bây giờ con
tim họ bắt đầu nóng cháy lên.
* Trở lại Giêrusalem (33-35)
Trong phần kết luận này, tác giả kể
lại chuyến quay trở lại Giêrusalem của hai môn đệ (24,33), tại đó họ được loan
tin là Chúa đã sống lại và đã hiện ra với Simôn (24,34). Rồi các ông cũng nói
đến kinh nghiệm trải qua với Đức Giêsu Phục Sinh (24,35).
Vì
giờ đã muộn, hai môn đệ đã xin người bạn đồng hành ở lại. Nay chính họ lại lên
đường quay trở lại Giêrusalem. Chuyến đi được kể chi tiết (24,13-27), còn
chuyến về chỉ được nêu lên bằng sự kiện. Hai môn đệ hết sức ao ước được thông
tin cho cộng đoàn, cho Nhóm Mười Một và những người khác đang cùng ở với các
ông (x. 24,9), nhưng trước khi có thể nói ra, các ông đã nhận được một lời loan
báo với hai thông tin: (1) “Chúa trỗi dậy thật rồi” (x. 24,6) (2) “và đã hiện
ra với ông Simôn” (x. 1 Cr 15,5). Hành vi cuối cùng của Chúa (kyrios) mà Lc ghi
lại là ở 22,51: “Chúa quay lại nhìn ông Phêrô; ông Phêrô sực nhớ lời Chúa đã
nói với mình”. Sự thông cảm đầy yêu thương của Chúa đối với người tông đồ đầu
tiên đã chịu thua sự yếu đuối, đã bắt đầu lại ngay sau khi ông chối Người
(22,54-62) và được hoàn tất với cuộc hiện ra của Đức Chúa Phục Sinh (x. cả
5,8-l1; 22,31-32). Phêrô là chứng nhân đầu tiên thông tin cho cộng đoàn biết
Đức Chúa đã sống lại và đang sống. Hai môn đệ Emmau có thể xác nhận. Hai ông có
thể làm chứng về kinh nghiệm hai điểm của mình: (a) về những gì đã xảy ra cho
họ trên đường (24,15-27); (b) về những gì họ đã trải nghiệm tại bàn ăn
(24,28-32).
Sau khi hai môn đệ đã tường thuật,
cộng đoàn có ba chứng từ về cuộc sống lại và về cuộc sống của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Trong thời gian hoạt động công khai,
Đức Giêsu không sao đưa các môn đệ đến chỗ hiểu Kinh Thánh được (18,31-34). Chỉ
trong tư cách là Đấng Phục Sinh, Người mới mở được ý nghĩa của Kinh Thánh ra
cho họ (x. 24,32.45). Như thế, người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ
cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Chìa khóa giúp giải thích những gì Kinh Thánh nói
về hành trình của Đức Giêsu chính là cuộc Phục Sinh của Người; Đấng giải thích
là Đức Giêsu Phục Sinh.
Trong khi Đức Giêsu Phục Sinh giải
thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ đã nóng cháy (24,32), nhưng chỉ sau khi Người
bẻ bánh, mắt họ mới mở ra (24,31). Hai hành vi này không đưa vào những yếu tố
mới, nhưng nhắc lại những gì đã được ban cho các môn đệ, và bây giờ lại được ký
thác cho họ theo cách mới. Từ nay, Đức Giêsu không ở trong những hoàn cảnh sống
trần thế nữa. Do đó, họ phải đọc Kinh Thánh từ quan điểm của Đức Giêsu Phục
Sinh. Khi đón nhận Mình và Máu Người, họ phải nhận ra tình yêu vô biên của Đức
Giêsu đối với các môn đệ Người.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Qua những chia sẻ cho Đức Giêsu,
hai môn đệ nói về “chúng tôi” bằng nhiều cách (“mấy phụ nữ trong nhóm chúng
tôi”, “mấy người trong nhóm chúng tôi”): họ chứng tỏ là họ rất gắn bó với cộng
đoàn. Cộng đoàn xuất hiện ra trong bài Tin Mừng này như là mộtđiểm quy chiếu
vững chắc và như là nơi quy tụ tất cả các chứng từ và kinh nghiệm. Các thành viên
của cộng đoàn chưa được tiếp xúc trực tiếp với Đức Chúa Phục Sinh, nhưng cộng
đoàn là nơi chuẩn bị cho họ nhận biết chính Đấng Phục Sinh khi Người hiện ra
giữa họ (24,36-53).
2. Lộ trình của hai môn đệ là “đi từ
Giêrusalem về Giêrusalem”, hay “Giêrusalem-Emmau: chuyến đi khứ hồi”. Khi họ đi
về Giêrusalem, họ đã rời bỏ cộng đoàn, Đức Giêsu đi bên họ mà họ không nhận ra
Người. Khi họ quay trở lại Giêrusalem, họ muốn được liên kết trở lại với cộng
đoàn, Đức Giêsu không còn đi với họ nữa, nhưng trái tim của họ chan hòa kinh
nghiệm đã trải qua. Đã có mộttiến trình đào sâu trong đó Đức Giêsu nổi bật hoặc
như là đối tượng hoặc như là chủ thể. Kết quả là từng cá nhân và cộng đoàn đạt
được mộtsự hiểu biết ngày càng sâu hơn về hành trình của Đức Giêsu và mộtsự
nhận biết ngày càng chắc chắn hơn về sự Phục Sinh của Người.
3. Đọc truyện này, tôi cũng nhận ra
được bố cục của mộtcuộc cử hành Thánh Thể: phần thứ nhất là Phụng vụ Lời Chúa:
lắng nghe Lời Chúa và tìm hiểu ý nghĩa (Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh), phần
thứ hai là Phụng vụ Thánh Thể (Đức Giêsu bẻ bánh). Chính Thánh lễ cũng sẽ đưa
người tín hữu đến chỗ gắn bó với cộng đoàn hơn, làm chứng cho nhau để củng cố
niềm tin, rồi lên đường tiếp tục chứng từ ấy giữa muôn dân.
4. Đức Giêsu đã làm mộtsố hành vi: đến
gần, cùng đi, hỏi, giải thích Kinh Thánh, bẻ bánh, mở mắt cho hai môn đệ, biến
mất. Ba hành vi đầu có thể tóm lại bằng công thức “đi tìm con chiên lạc”. Hai
môn đệ giống như con chiên trong bài dụ ngôn, đã bỏ đàn, và Đức Giêsu như người
mục tử đi tìm con chiên lạc để đưa nó về đàn (x. 15,4-7). Trước khi tỏ mình ra
cho toàn thể cộng đoàn (24,36-53), Đức Giêsu đã tìm lại được hai kẻ đã bỏ đi.
Như thế, Đức Giêsu Phục Sinh cũng vẫn quan tâm đến những gì đã mất (đối với
Phêrô cũng vậy: 22,61; 24,34).
5. Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa
nói với dân Ngài là thẩm quyền cao nhất cho họ và là điểm quy chiếu mà mọi
người đều biết. Khi cho thấy Sách Thánh nói về Người và về những biến cố chính
của hành trình đời Người, Đức Giêsu giúp ta thấy rằng các biến cố ấy không phải
là những biến cố xa lạ và phi lý, nhưng thuộc về tương quan và lịch sử của
Thiên Chúa với dân Ngài. Khi đó ta mới vượt qua được chướng kỳ là Đức Kitô bị
nộp và bị đóng đinh (23,35-39; 24,20-21).
6. Lời của hai môn đệ đúng là kêrygma:
cho dù ở dạng không mấy minh nhiên (như ontôs êgerthê ho kyrios, “Chúa sống lại
thật rồi”, Lc 24,34), kêrygma này có các yếu tố căn bản: ba ngày, các phụ nữ
tại mộ, các thiên sứ, tin nói rằng Đức Giêsu vẫn sống. Nhưng ở đây kêrygma được
kể ra như là mộtđiều không hiểu được, mộtđiều hẳn là không thể nào đã xảy ra và
lại là mộtbi kịch cho tất cả những ai đã đặt tin tưởng vào Người. Các lời thì
có đó, nhưng con tim thì không; phải nói là con tim chỉ đầy phiền muộn, thất
vọng, khiến cho người nói cảm thấy cay đắng, và do đó không thuyết phục được
người nghe. Cần phải nghe câu trả lời của Đức Giêsu, mộtcâu trả lời diễn tả
kêrygma đích thật. Đức Giêsu hành động như người loan báo Tin Mừng và như vị
tôn sư; Người sử dụng khả năng nhà chú giải và huấn giáo viên để cung cấp lời
giải thích các môn đệ đang chờ.
24. Chúa
Đã Sống Lại
(Trích trong ‘Suy
Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Trên đường về làng Emmau có hai kẻ
song hành. Họ âm thầm bước đi bên nhau, mỗi người một suy nghĩ nhưng có cùng
một mẫu số chung là tuyệt vọng. Và tuyệt vọng cũng là điều dễ hiểu vì Thầy họ, một
người đầy uy quyền mà phải đầu hàng trước hội đường Do Thái, phải gục ngã trước
uy quyền của thần chết.
Bởi thế, dù bước đi bên nhau mà tưởng
chừng như độc hành. Cùng trên đoạn đường đi ấy, một người thứ ba xuất hiện đi
cùng và đối thoại trao đổi cách thân tình. Vì thế, lòng họ ấm áp lại và rồi tâm
hồn họ đã hồi sinh thực sự khi Ngài bẻ bánh trao cho họ. "Trao bánh"
là ban một cử chỉ thông hiệp thân mật và là mối dây thông cảm thân tình giữa
Thầy và Trò.
Thế giới hôm nay cũng không thiếu
những tâm hồn cô độc tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, vì không thấy ý
nghĩa cuộc đời. Tuyệt vọng vì chiến tranh bạo lực, vì những cấu xé tranh giành
giữa con người cùng chung một dòng máu. Tuyệt vọng vì nghèo đói, bị khinh bỉ,
bị đặt ra ngoài lề xã hội.
Giữa những cảnh tuyệt vọng ấy, bổn
phận người Kitô hữu là gì nếu không phải là đốt lên ngọn lửa yêu thương để sưởi
ấm tâm hồn. Bổn phận này không đòi hỏi phải có những tổ chức rộng lớn, nhưng
phương tiện tân kỳ hoặc những khả năng phi thường, nhưng chỉ cần những đối
thoại trao đổi đơn sơ nhưng đầy tình Chúa và tình người cũng mang lại những giá
trị của nó: "Phải chăng trong lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong
khi Ngài đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Một cử chỉ cầm tay và ngồi bên giường
bệnh nhân hàng giờ của người nữ y tá chẳng là gì, nhưng nếu không có cử chỉ ấy
thì giá trị của cuộc giải phẫu sẽ chẳng lường trước được.
Lạy Chúa,
nếu cuộc sống đã làm cho con đau lòng tuyệt vọng thì xin Chúa cho con biết tìm
về Lời Chúa và Mình Chúa để lấy lại sức mạnh cho tâm hồn. Vì Lời Chúa sẽ hâm
nóng tâm hồn giá lạnh của con; và bàn tiệc Thánh Thể sẽ cho con được hồi sinh.
Để như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã được hồi sinh, con sẽ đến với
người anh em để nói cho họ về niềm tin vui Phục Sinh, về tình thương của Chúa.
Amen.
Đăng nhận xét