Các bài suy niệm Lời Chúa- Chúa nhật VI Phục Sinh - năm A
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A
Ảnh từ: http://www.mtgthuduc.net |
Lời
Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21
MỤC LỤC
1. Thiên Chúa Ở Cùng
2. Điều răn Chúa dạy
3. Sự sống mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Anh em cũng sẽ sống
5. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu6. Mối tình Châu Long
7. Chúa Giêsu không để các đồ đệ mồ côi8. Đấng Bảo Trợ – R. Veritas
9. Cặp mắt của trái tim
10. Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân – Lm. Trần Ngà.11. Mồ côi
12. Giữ giới răn
13. Yêu mến Chúa
14. Suy niệm của JKN
15. Tuân giữ các điều răn của Thầy
16. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1.
Thiên Chúa Ở Cùng
Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi. Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa đã
thực hiện điều Ngài đã phán hứa là ở cùng nhân loại chúng ta. Thực vậy, với ông
Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo:
Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở
với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc
lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các
môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Còn
chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã than phiền: Nếu
Thiên Chúa thực sự hiện diện, thì Ngài ở đâu bây giờ? Tại sao Ngài lại xa cách
và dường như lại còn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết
của chúng ta? Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng
ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn
sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng
đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây
phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.
Sau khi đã thoát khỏi một cơn cám dỗ
nặng nề, và được Chúa hiện ra, thánh nữ Catarina đã thân thưa với Chúa: Lạy
Chúa, giữa lúc con đang phải chiến đấu, thì Chúa ở đâu? Và Chúa đã trả lời: Cha
ở trong trái tim con, vì nếu cha không ở bên con để giúp đỡ, thì con đã sa ngã,
đã vấp phạm từ lâu. Sở
dĩ chúng ta không nhận ra Ngài là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng
đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không và chẳng chạy đến xin
Ngài phú trợ. Chúng ta nên nhớ rằng: Ngài đã trao ban cho chúng ta sự tự do,
nên Ngài sẽ không bao giờ bắt ép chúng ta, ngay cả với ơn cứu độ, nếu như chính
bản thân chúng ta lại không muốn. Có lẽ con mắt đức tin của chúng ta đã khép
lại, đề rồi chúng ta không còn nhận ra Ngài.
Nhiều lúc chúng ta quá chú trọng đến bản thân và những nhu cầu của mình,
nên khi gặp phải khổ đau và thử thách, chúng ta thường than thân trách phận.
Chúng
ta hãy nhớ lại những hậu quả kỳ diệu của ơn Chúa trợ giúp. Các tông đồ đánh cá
ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng
vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài
sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì
lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người
đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành
rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để
nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị
em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không
còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu
nỗi đớn đau tang tóc.
Chúng
ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên một chặng đường đời, nhưng con
đường sắp tới chắc chắn sẽ có những chông gai, những khúc quanh, những triền
dốc, chúng ta nên nhớ rằng: Điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa
luôn ở bên cạnh chúng ta. Và một khi đã có Chúa cùng đi, chắc chắn thuyền đời
chúng ta sẽ cặp bến hạnh phúc. Có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức
mạnh và ánh sáng, để vượt thắng mọi trở ngại, bởi vì như lời Ngài đã phán:
Không có Thầy, các con chẳng làm được gì. Hay như lời Thánh Vịnh: Ví như Chúa
chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cùng là uổng công.
Ai
yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn
luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh
muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng
các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã
nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương
nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông
hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã
yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của
Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau:
“Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt
vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ
là người được Chúa yêu thương.
Mặt
sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng chiều hôm nay: “Ai
yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những
quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu
thương hay chưa?”
Thực
vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân
giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương
tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không
muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho
bản thân, gia đình và xã hội.
Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa
trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao
đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự
thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền
tài, danh vọng, lạc thú.
Chẳng
hạn điều răn thứ IV:
“Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ,
là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó
đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.
Chẳng
hạn điều răn thứ V:
“Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi
điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay
giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ
đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã
hội một sự ổn định và trật tự.
Và
như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc
tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ
tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc
làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy
chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.
3.
Sự sống mới
– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và
Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào
tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền
ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm
ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết
hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu
mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không
phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu
với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền
lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin.
Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức
tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt
giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ
không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho
anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không
thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn
giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng
của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận
dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải
là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên,
nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa. Tin và Yêu, như vậy, là con đường
dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
-
Với đức tin và tình yêu, người môn
đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng
gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng
thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn
tha thứ cho ta.
-
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp
được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo
huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
-
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm
nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta
ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng
cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu
là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy
Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó
là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy,
người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu
mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa
Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba
Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được
người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm
hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận
Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ
không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở
thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô
độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa
Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà
còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba
Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã
hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy,
anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu.
Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1.
Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm
bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2.
Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện
của Thiên Chúa trong đời sống không?
3.
Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự
hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
4.
Anh em cũng
sẽ sống
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Marina
Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu
nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật
là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.
Năm 1990, bà
nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn
học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của
nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống
lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”
Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh
nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau
của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được
chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm
thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống
lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Đức Giêsu phục sinh không
chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự
hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong
anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh
em cũng sẽ sống” (c.19). Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ
thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống
nơi mình. Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu
thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.
Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống
được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy
nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo... Cuộc sống
bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực. Nếu
chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho
thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia
Sẻ
1.
Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can
đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi
nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?
2.
Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau
riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu phục sinh, Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi
xanh tươi. Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng
gió cuộc đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con
luôn tươi tắn. Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái
lên đường. Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại
đời con.
5.
Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha
khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế
nào? Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con
người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo
chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương
pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem
hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài:
"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha".
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các
môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết.
Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi
miệng Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra.
Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.
(Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành
động của Chúa Cha...
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa
Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
ÙÙÙ
Thánh Athanasiô đã diễn tả chân lý nầy
như sau: "Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua
Giáo Hội." Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn
Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của
Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
Theo nhật
báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục
bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù
nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ
và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh
tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần
ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn. Những lúc trời rét buốt xương,
tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo
len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp
cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm
hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ
những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem
ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.
Trong trại
tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi
người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào. Vị linh mục khả ái từng bước
tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng
thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong
ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một
hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà
chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt
con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi
chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài
quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở
thành người con Chúa. Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố,
đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu". Cậu
thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể
kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"
Biết mình
không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh
mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn
đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố
đây!" Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân
thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con
sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta không
còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các
trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một
mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính
nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử
tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa
Giêsu,
Đã bao lần
chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó
thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho
chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân
mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ
đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
6.
Mối tình Châu Long
(Trích trong ‘Cùng
Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có
đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham
chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng.
Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học
hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu
Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói
khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu
vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu
Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã
theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu
Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống
với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ.
Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần
đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên
nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến
chuyện trăm năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là
vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.
Cuộc
đời ky-tô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để
canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian
nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu. Không để lòng mình buông theo
những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn. Trong
kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng
ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ. Chúa không bảo
chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa
thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa. Như Châu Long sống với Lưu
Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.
Có
thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thuỷ chung lắm mới có
thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ. Người ky-tô hữu
cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới
răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất
trung, phản bội với Chúa. Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà,
một thế gian sa đoạ, tội lỗi, người ky-tô hữu phải có một tình yêu sắt son
trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đoá sen "Gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn".
Lời
Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ
lời Thầy". Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến
Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận
của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám
thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ
đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: "Dân này chỉ thờ Ta
bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta". Tuân hứa giới răn Chúa
không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể
diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa
Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu
cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi,
mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.
Nhìn
vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ,
khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ
của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám
dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên
nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí
đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi
lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng
ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám
dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để
chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì
Chúa đã hứa hằng: "Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu
hèn của con".
Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn
đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng
ta mãi trung thành với Chúa. Amen.
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài
Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Ga 14, 1-12) nói về cộng đoàn các đồ đệ của Đức
Giêsu trong hành trình đi đến cùng Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14,
15-21) sẽ nói về sự gắn bó nên một của cộng đoàn và của từng thành viên trong
cộng đoàn với Thiên Chúa.
1.
Thần Khí sự thật luôn ở giữa cộng đoàn (cc.15-17)
Sự
hiện diện thể lý và thế tạm của Đức Giêsu giữa cộng đoàn các đồ đệ sẽ chấm dứt.
Nhưng Thần Khí sự thật sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người ở mãi với các đồ đệ,
ở bên cạnh và ở trong các đồ đệ.
Trước
khi nói đến việc Thần Khí sự thật đến, Đức Giêsu nói đến tình yêu của các đồ đệ
đối với Người, và về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người: “Nếu
anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Tình yêu đối
với Đức Giêsu là điều kiện để giữ các điều răn của Người (nếu A thì B), và đàng
khác, việc thực hiện những lệnh truyền của Đức Giêsu sẽ là bằng chứng của tình
yêu đối với Người (c. 21: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là
kẻ yêu mến Thầy). Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói về tình yêu của các đồ đệ
đối với Người. Lòng tin vào Chúa Giêsu đạt đến đỉnh cao trong sự gắn bó thiết
thân và đầy tình yêu mến đối với Người. Sự gắn bó ấy được thể hiện trong việc
thực hiện những điều răn của Người. Ở 13,34 Đức Giêsu nói về điều răn mới của
Người, và bây giờ, Người nói về “các điều răn” của Người (14,15.21; 15,10).
Điều răn mới (“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”) là
mẫu gộp tóm tất cả mọi điều răn khác. Và tuân giữ các điều răn là đón nhận
trong lòng tin toàn bộ Lời của Đức Giêsu và ký thác bản thân cho Người (x. 14,
23-24).
Với
các đồ đệ yêu mến Đức Giêsu như thế, Người hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người
sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần
Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha
để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ
thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh
Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Người sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng
đoàn đồ đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng
đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức
Giêsu đã truyền dạy (14,26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người
làm chứng về Đức Giêsu trước các đồ đệ (15,26). Người tôn vinh Đức Giêsu và
loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16,14). Còn trong cuộc đối diện
của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các
đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11). Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác.
Khi còn ở với các đồ đệ, Đức Giêsu gìn giữ, bảo vệ và dạy dỗ họ (17,12). Từ
nay, Thánh Thần sẽ đảm nhận vai trò đó.
Người
là Thần Khí sự thật. Có hai cách hiểu danh ngữ “Thần Khí sự thật” (to pneuma
tês alêtheias): (1) Thần Khí là sự thật; và (2) Thần Khí thông ban sự thật.
Cũng có thể hiểu theo nghĩa Thần Khí là sự thật, thông ban sự thật và làm cho
sống trong sự thật. Trong tư cách là Thần Khí sự thật, Người cũng là Thần Khí
giải thoát, vì sự thật đem đến sự giải thoát (8,31-32). Thế gian không biết
Thần Khí sự thật. Người là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian
không thấy và cũng chẳng biết Người” (c.17b). Hạn từ “thế gian” ở đây được sử
dụng theo nghĩa xấu, chỉ trật tự bất chính, đối nghịch với Thiên Chúa. Thế gian
này tin tưởng vào sự dối trá và kềm hãm con người trong bóng tối của sự dối
trá. Nó phục tùng ma quỷ. “Ngay từ đầu, ma quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không
đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói
theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (8,44).
Vì vậy, thế gian không thể biết Thần Khí sự thật và càng không thể đón nhận
Thần Khí sự thật.
“Còn
anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (c.17c). Các
đồ đệ biết Thần Khí sự thật là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng ở trong
Chúa Cha (14,10). Một khi được Đức Giêsu sai đến (7,39), Thần Khí sẽ luôn ở
giữa các đồ đệ và ở trong mỗi đồ đệ.
2.
Chúa Giêsu trở lại và cộng đoàn được Chúa Cha yêu mến (cc.18-21)
Đứng
trước sự ra đi của Đức Giêsu, các đồ đệ xao xuyến (x. 14,1). Vì thế, khi chuẩn
bị cho các đồ đệ đối diện với thực tại là sự vắng mặt của Người, Đức Giêsu muốn
giúp các ông tránh khỏi sự xao xuyến ấy. Người tuyên bố: “Thầy sẽ không để anh
em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy
Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được
sống” (cc.18-19). Đức Giêsu sẽ không bỏ các đồ đệ mồ côi. Hạn từ “mồ côi” mang
một sắc thái nghĩa khá đặc biệt trong Cựu Ước. Kẻ mồ côi được hình dung như là
một dạng điển hình cho những người không có ai bảo vệ và luôn phải đối diện với
nguy cơ bị đối xử một cách bất công (x. Is 1,17-23; 10,2; Gr 5,28; 7,6; 22,3;
Ed 22,7; Hs 14,4). Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ không để các đồ đệ rơi vào tình
trạng bi đát đó.
Đức
Giêsu đang đi đến cái chết. Nhưng sự vắng mặt của Người sẽ không phải là một
tình trạng vĩnh viễn. Người hứa sẽ đến cùng các đồ đệ. Có lẽ nên hiểu cặp đối
lập “thấy – không thấy” ở đây trong liên kết với cắp “tỏ mình ra – không tỏ
mình ra” trong 14, 21-22. Thế gian sẽ không còn được thấy Đức Giêsu sau khi
Người đi vào cõi chết là bởi vì Người không tỏ mình ra cho thế gian. Nhưng các
đồ đệ sẽ được thấy Người, vì Người yêu mến họ và tỏ mình cho họ, như lời Người
sẽ nói ở cuối bài Tin MỪng: “Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho
người ấy” (c.21c). Thực tại “thấy” Đức Giêsu lại được miêu tả như là sự hiệp
thông sự sống với Người. “Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng
sẽ được sống” (c.19). “Thấy” ở đây, như thế, là tham dự vào sự sống của chính
Đức Giêsu. “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em ở
trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (c.20). Đó là kết quả của sự tình các độ đệ
được tham dự vào sự sống của Đức Giêsu. Đó cũng chính là hiệu quả của việc Đức
Giêsu ban Thần Khí cho các đồ đệ. Thần Khí, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và làm
chứng về Chúa Giêsu (15,26) sẽ làm cho các đồ đệ biết rằng Đức Giêsu và Chúa
Cha là một (10,30), tức là biết rằng “Thầy ở trong Cha của Thầy”. Và các đồ đệ,
trong Thần Khí sự thật, sẽ nên một với Đức Giêsu. Khi ấy, “anh em ở trong Thầy,
và Thầy ở trong anh em”.
Sự
gắn bó nên một như thế với Chúa Giêsu chính là điều kiện để các đồ đệ tuân giữ
các điều răn của Người, như đã được khẳng định từ câu đầu tiên của bài Tin
Mừng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Và
đàng khác, “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến
Thầy” (c.21a). Tình yêu đối với Đức Giêsu hệ tại ở chỗ người đồ đệ sống chính
những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử.
Khi
ấy, chính người đồ đệ sẽ được Chúa Cha yêu mến: “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ
được Cha của Thầy yêu mến” (c.21b). Chúa Cha yêu mến họ bằng chính tình yêu mà
Ngài yêu mến Đức Giêsu. Trong lời cầu nguyện ở Ga 17, Đức Giêsu thưa với Chúa
Cha như sau về các đồ đệ của Người: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ
được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con
và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,23).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1.
Tình
yêu đích thực đối với Đức Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Đức Giêsu. Ý
muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai
yêu mến Đức Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (x. c.21). Và đàng
khác, chính trong lòng yêu mến đối với Đức Giêsu mà chúng ta mới có thể sống
chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử
(x.c.15). Hai yếu tố “yêu mến Đức Giêsu” và “tuân giữ lời Đức Giêsu” có mối
tương quan biện chứng.
2.
Thần
Khí sự thật được Chúa Cha ban cho các đồ đệ yêu mến Chúa Giêsu. Người là sự
thật và Người thông ban sự thật, giúp các đồ đệ sống trong sự thật của Chúa
Giêsu. Người là Đấng Bảo Trợ, sẽ dạy dỗ, bảo vệ, hướng dẫn… các đồ đệ của Chúa
Giêsu.
3.
Chúa
Giêsu hứa không để các đồ đệ mồ côi. Ở giữa thế gian, họ có thể sẽ phải hiện
diện như là đối tượng của những cách hành xử bất công, bạo tàn. Nhưng Chúa
Giêsu luôn đến với họ và cho họ được hiệp thông với chính sự sống thần linh của
Người. Chính nhờ đức tin mà các đồ đệ sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện của
Chúa Kitô Phục Sinh và sẽ được hưởng sự sống của Người.
8.
Đấng Bảo Trợ – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Cuốn phim có
tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu
truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào
trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội
đồng minh đến giải thoát.
Cuốn phim
hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và
nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm
lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân
lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể
tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
Bác sĩ Brand
đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người
trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc
lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc
nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế
nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không
thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho
đến cùng và được sống còn.
Tìm hiểu sự
khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính
mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong
những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân,
bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục
tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ
mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh
nghiệm như sau:
Không có gì
có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của
tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ
ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng
lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh
tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ
Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các
trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một
điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh
còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng
ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc
nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải
là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không
phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một
con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện
trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của
mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua
trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại
khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện
diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài
đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài
hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin,
là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống
của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã
tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến
cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh
Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”
Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời
gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong
bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh
của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện
diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy
sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã
cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát
và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng
không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự
hiện diện ấy của Chúa Giêsu.
Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được
Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ
sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô
tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống
công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền
của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu
thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế
nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của
Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ
yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa
Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của
mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục
sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác
động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của
chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng
để chúng ta tiếp tục tiến bước.
9. Cặp mắt của trái tim
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa
và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với
thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai
người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người
hành khất:
-
Nếu tôi chữa cho anh thấy và đi được
thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
-
Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến
ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất
xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:
-
Đấy anh thấy không, người hành khất
này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh,
anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại còn
chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của
anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?
Thưa
anh chị em, yêu mến Chúa là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là
yêu mến Chúa? trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta
câu hỏi này. Trước hết, yêu là thấy. Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn
thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng
sẽ được sống”. Thực thì ngay trong cuộc sống của xã hội con người, chúng ta
cũng có thể gặp những trường hợp một người đã ra đi một chuyến đi xa, nhưng
những người còn ở lại vẫn cảm thấy người đó như đang hiện diện ở đâu đây, thật
gần gũi, nơi từng sự vật, trong từng căn phòng, nơi mỗi lối đi. Chính tình yêu,
sự quen thuộc, sự cảm thông đã tạo nên cái điều lạ lùng này. Giữa những người
thân yêu, sự vắng mặt không tạo nên sự xa cách: “Xa mặt mà không cách lòng”. Vì vậy, Đức Giêsu đã nói: “Thế gian sẽ không thấy Thầy, còn anh em,
anh em sẽ được thấy Thầy”. “Cái thấy” Chúa Giêsu muốn nói ở đây
không còn là cái thấy ngang qua cặp mắt của thân xác; cái thấy ấy có những giới
hạn nhất định, ở ngoài tầm nhìn thì không thấy được nữa. Còn “cái thấy” ở đây
là cái thấy bằng con tim, bằng sự cảm nhận, bằng sự hoà nhập. Tình yêu làm cho
người xa cách trở nên gần gũi. Vì yêu mến Thầy, các môn đệ vẫn cảm thấy Thầy hiện
diện ở khắp nơi.
Nguyên
trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu lặp lại đến năm lần từ “yêu
mến”. Yêu mến trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy, giữa môn đệ và
Thiên Chúa Cha. Yêu mến đưa đến sự hoà nhập: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” và “Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em thấy Thầy”.
Thì
ra, trái tim cũng có “cặp mắt” của nó. Cặp mắt của trái
tim thấy được những cái mà cặp mắt thể xác không thể thấy được. Chính cái thấy
bằng cặp mắt của trái tim sẽ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa
sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của một người Kitô hữu và của cộng
đoàn. Có yêu mến Chúa, chúng ta mới thấy được sự hiện diện thân thiết của Chúa
ở giữa chúng ta.
Yêu
còn là tuân giữ:
Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy. Tình yêu sẽ dẫn tới hành động. Không
có hành động, tình yêu chỉ là giả dối. Hành động mới là bằng chứng của tình yêu
đích thực. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến
Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là
người yêu mến Thầy”. Nói rằng: “Tôi yêu mến Chúa” thì ai cũng có thể nói
được. Nhưng nếu không tuân giữ các giới răn của Chúa thì những lời nói đó chỉ
là những lời nói dối.
Tất
cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những
gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên
làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu
mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý
Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc
sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.
Nhưng
các giới răn của Chúa là gì, thưa anh chị em? Các giới răn của Chúa là chính
Chúa Giêsu với các giáo huấn, với những chọn lựa của Ngài. Tất cả cuộc sống của
Chúa Giêsu trở thành mẫu mực cho cuộc sống của người Kitô hữu. Giữ các giới răn
ở đây là biến đổi chính con người của mình để có thể trung tín với Chúa trong
cuộc sống. Như thế, giữ các giới răn là sống trong tình yêu của Chúa.
Chúa
Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn
của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và
ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là
lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu
người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều
người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông
cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ
trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo
đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi
mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.
Anh
chị em thân mến, người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim. Tình yêu
làm cho cuộc sống đầy sức sáng tạo và năng động. Chính cuộc sống tích cực và
đầy sức sáng tạo này mới thực sự là một bằng chứng về sự hiện diện của Chúa
Giêsu, Đấng đã chết nhưng đã sống lại và đang tiếp tục hoạt động nơi những kẻ
tin ở Ngài, và là bằng chứng của lòng tin nơi sự hiện diện sống động của Ngài.
Chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực
của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự
hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái
đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được
thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.
10.
Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân – Lm. Trần Ngà.
(Trích trong
‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa
con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ
lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại
đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không
an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ
chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho
đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà
quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không
màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng
lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp
bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà
là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng
không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và
làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng
dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu
của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau.
Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn
thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi
xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
ÙÙÙ
Chính
Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương
trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho
các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ.
Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước
gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
Thế
nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa
Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé
nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi.... Thầy ban cho
anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của
Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)
Biết
rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em
ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù
địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến
mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng
cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu
mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong
tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy
truyền... là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Kế
đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giêsu lặp
lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người
ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.”
Qua
những lời trên, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực
tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ
những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù
chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy
vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.
Đó
cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến,
xin hãy cùng khấn nguyện với nhau:
“Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng
hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì
Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
11.
Mồ côi
Mỗi khi đi
tham dự đám tang của một người cha, hay của một người mẹ trẻ vừa mới nằm xưống,
nhìn giải khăn xô buộc hờ hững trên mái đầu xanh, chúng ta cảm động như muốn
khóc lên được. Đứa bé ngây thơ nhìn những nắm đất được ném xuống lòng huyệt
lạnh. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó đâu có biết rằng chết là ra đi vĩnh viễn, hai bờ
bến ngàn trùng xa cách. Nó tưởng rằng ba nó hay mẹ nó đi thăm ông bà nội ngoại,
mai mốt sẽ về và cho nó thật nhiều quà. Người khác nhìn vào sẽ cảm thấy chua
xót và khóc thầm cho cuộc đời của nó. Ngày mai nó sẽ ra sao? Lớn lên, nó mới
hiểu được rằng: mất cha, mất mẹ là một nỗi bất hạnh quá lớn không thể lalm cho
vơi giảm, là một mất mát quá to không thể nào bù đắp.
Vì thế,
người Âu châu có một ngày lễ rất đẹp vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, đó
là là ngày lễ của những người mẹ. Ngày lễ này được tổ chức để ghi nhớ công ơn
mẹ hiền. Và những ai còn mẹ, khi đi ra ngoài đường sẽ được cài một bông hồng
trên áo, để nói lên rằng người ấy thật hạnh phúc vì còn được sống bên người mẹ
của mình.
Nếu có dịp
ghé thăm một cô nhi viện, chúng ta sẽ thấy những em bé mồ côi quấn quít bên
chúng ta, mong muốn được nói chuyện với chúng ta vì các em thiếu vắng một tình
yêu thương chăm sóc.
Từ những kinh nghiệm cụ thể ấy, chúng
ta dễ dàng hiểu được lời Chúa phán:
-
Thầy không bỏ các con mồ côi.
Thực vậy. Trước khi từ giã các môn đệ,
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông, đã căn dặn các ông những điều cuối cùng
và nhất là đã trăn trối cho các ông bổn phận phải yêu thương nhau. Ngài đã phác
họa cho các ông thấy cả một tương lai đen tối:
-
Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các
con.
Tuy nhiên, để các ông được yên tâm,
không hoảng sợ, không thất vọng, Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông và
nhất là đã hứa ở với các ông một cách mầu nhiệm:
-
Thầy không bỏ các con mồ côi.
Bây giờ, chúng ta đi vào lãnh vực cá
nhân của mỗi người. Thực vậy, đời sống giống như một mặt biển đầy bão táp. Vậy
bão táp ấy là gì? Đó là những tội lỗi, những khuynh hướng xấu xa, những lo lắng
về tiền bạc vật chất… Tất cả là như những con sóng mốn nhận chìm con người bé
bỏng chúng ta. Thế nhưng, người Kitô hữu không hề hoảng sợ và thất vọng, bởi vì
chúng ta không chiến đấu đơn độc một mình, nhưng chúng ta chiến đấu bên cạnh
những người anh em khác và nhất là chúng ta chiến đấu cùng với Chúa Giêsu. Ngài
luôn ở bên chúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ làm được tất cả. Có Ngài, chúng ta sẽ
vượt qua được mọi gian nan thử thách. Có Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng vẻ vang.
Chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi, lạc lõng giữa chợ đời, nhưng chúng
ta bước đi trong tình thương của Chúa, một người Cha nhân từ và giàu lòng xót
thương.
Người ta kể
lại rằng: Sau nghi lễ đăng quang, Đức Piô XI đã trở về phòng riêng, ngồi vào
chiếc ghế vị tiền nhiệm là Đức Bênêdictô XV, tự nhiên một nỗi lo âu xâm chiếm.
Ngài nhìn thấy con đường trước mặt thật tăm tối: Một Giáo hội bị tấn công về
mọi mặt. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng chiếc ngòi
nổ vẫn còn âm ỉ. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một
người lo âu có thể làm, đó là quì xuống cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện như
thế, tay ngài đưa ra và chạm vào một bức ảnh còn lại trên bàn giấy của đức
Bênêdictô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và bổng nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn ngài
tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng.
Từ đó, ngài luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi lo âu chuyện gì, ngài liền
nhìn vào và nhớ lại rằng: Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là sóng yên biển
lặng.
Chúa Giêsu ở trong chúng ta và Ngài đã
mang lại sự bình an cho tâm hồn. Bởi đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc đời,
chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Ngài và nài xin: Lạy Chúa, xin
cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất. Chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta mồ
côi, nhưng Ngài sẽ nâng đỡ để chúng ta vượt thắng được những gian nan thử thách
và luôn trung thành phụng sự Ngài.
12. Giữ giới răn
Điều Chúa Giêsu dạy ta hôm nay là:
“Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy”. Lời dạy xem ra nghe
không êm tai mấy, bởi vì giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc với nhau.
Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi
thoải mái, trong khi đó các giới răn, các luật lệ lại gây cho ta một cảm giác
gò bó, trói buộc và mất tự do. Thánh Augustinô cũng đã nói: “Hãy yêu đi rồi
muốn làm gì thì làm”. Nói như thế có nghĩa là trong tình yêu thì không cần lề
luật gì nữa. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu
thương như một điều kiện không thể thiếu. Điều này xem ra không ổn.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy
lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có
thể nói: Yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và
rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên
trong. Chẳng hạn:
-
Vâng phục cha mẹ là cách diễn tả rất tự nhiên
của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ.
-
Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm áo cho
con cái, chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình là một tỏ
bày tình yêu con cái của những bậc làm cha mẹ.
-
Không ngoại tình, không phản bội là một đòi
hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.
-
Chính Chúa Giêsu cũng đã thể hiện tình yêu
đối với Chúa Cha qua việc thi hành mọi sự theo ý muốn của Cha.
Và mọi mối liên hệ yêu thương khác
cũng thế. Chỉ yêu trong lòng mà thôi thì chưa đủ, nếu không muốn nói đó chưa
phải là yêu mến thật sự.
Do đó, lòng yêu mến Chúa thực đòi ta
giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn
sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm
theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc
ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng
đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào
cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng
thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự
sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và
ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người. Phải chăng
chủ trương đạo tại tâm lại chẳng phản ảnh việc chối từ thực thi giới răn của
Thiên Chúa đó sao?
Chúa Giêsu cũng biết những khó khăn và
ngại ngùng ấy của ta. Chính vì vậy, Người đã hứa ban cho ta Chúa Thánh Thần,
Đấng sẽ ở với chúng ta, sẽ trợ lực, sẽ ban sức mạnh để giúp ta sống và thực thi
những điều Người đã dạy ta. Chúa Thánh Thần đã đến với ta ngày ta lãnh nhận bí
tích Rửa tội và đặc biệt qua bí tích Thêm sức. Người vẫn còn ở với ta để hướng
dẫn và nâng đỡ ta trong suốt cuộc đời. Chỉ có điều là ta có đón nhận sự hiện
diện, sự nâng đỡ, có lắng nghe sự hướng dẫn của Người hay không mà thôi.
13. Yêu mến Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho
biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa:
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các
điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì
giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.
Các điều răn Chúa nói gì? Và giữ các
điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chật, đó là
bản giao ước được ghi vào bia đá. Bản giao ước đó chính là Mười Điều răn, mà
dân Do thái gọi là “Những lời của giao ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa
rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta
cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời,
sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng
ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay
từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt
tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến “
Mến Chúa, yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác,
trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu
người thì kể như không giữ gì cả.
Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để
biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều
răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét
xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế
nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được
thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ
tích Ả Rập kể rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì
tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách
để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường,
thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra
một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào
miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt
nhìn thấy, chạy ra túm áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi
đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên:
“Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi
nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan tòa truyền cho
người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu,
ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh
ta, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.
Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng
ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẩn của người bán thịt, thế nhưng
rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam
chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ
dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba
cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng
bằng nhau”.
Tình thương không chia sẻ, không liên
đới là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những
nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng
những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”. Hay “Để lúc khác,
bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người
ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình
thương của mình.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu
lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn
Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu
Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu
hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất
là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để lòng yêu mến Chúa không chỉ
giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được
thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho
chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự
làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
14. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh
em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. “Các điều răn của Thầy” ở đây là những điều
răn cụ thể nào? Hãy lấy Kinh Thánh chứng tỏ điều ấy.
2.
Đức Giêsu có đưa ra một tiêu chuẩn nào để dựa
vào đó ta có thể biết ai là người yêu mến Thiên Chúa đích thực, là môn đệ đích
thực của Ngài không?
3.
Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai?
Bạn quan niệm thế nào về Thánh Thần? Và muốn lãnh nhận Thánh Thần ta phải làm
gì?
Suy tư gợi
ý:
1.
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Ki-tô hữu, theo định nghĩa, là
người có Đức Ki-tô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Người không yêu mến Ngài,
không theo Ngài, thì không có Ngài, nên không phải là Ki-tô hữu đích thực. Khi
yêu mến Ngài, thì ta sống trong tình trạng: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở
trong anh em”. Thật vậy, người ta chỉ sống trong nhau, vì nhau, cho nhau, khi
người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Ki-tô, và
được Đức Ki-tô sống trong ta, khi ta yêu mến Ngài.
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được, khi
mà một cách hữu hình ta không hề thấy Ngài, nghe Ngài nói, động chạm đến Ngài?
Ngài cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay
không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Nhưng
điều răn của Ngài là gì? Có phải là đi lễ, đọc kinh hay cầu nguyện hằng ngày?
Điều ấy chắc chắn là đúng, nhưng có thể chưa phải là điều cốt yếu. Điều cốt yếu
trong giới răn của Ngài đã được chính Ngài xác định rõ ràng như sau: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Ngài
cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (nt). Như vậy, câu nói của Ngài “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em
sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em
phải yêu thương nhau”. Nói khác đi, ai yêu thương những người lân cận hay những
người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu.
Nói cách khác nữa, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp
gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn
giải điều này rõ hơn nữa: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh
em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
2. Làm sao
phân biệt Ki-tô hữu đích thực và không đích thực?
Đức Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để
nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Đọc lời
Kinh Thánh trên, tôi nghĩ ngay đến những tiêu chuẩn mà tôi thường dùng để phân
biệt hàng hoá nào là thật, hàng nào là giả mạo. Hiện nay, trên thị trường có
rất nhiều hàng giả mạo, thậm chí tiền cũng bị giả mạo nữa. Nhưng những người có
kinh nghiệm nghề nghiệp vẫn luôn luôn có những tiêu chuẩn để phân biệt, nhờ vậy
họ ít khi bị lầm. Chẳng hạn tôi đã có dịp so sánh hai loại tiền 50.000đ thật và
giả. Loại giả thì giấy mỏng hơn, không cứng và dai bằng loại thật, màu sắc cũng
không tươi nhuận bằng. Nhờ tiêu chuẩn ấy, cứ nhìn và cầm tiền giả trong tay là
tôi biết ngay.
Cũng vậy, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu
chuẩn để mọi người có thể nhận ra ai là môn đệ đích thực của Ngài và ai là
người chỉ mang danh hiệu môn đệ Ngài mà thôi. Đó là dựa trên tình yêu của người
ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình
yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo
Đức Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Đức Giêsu. Ai
không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ
môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi. Thánh Phao-lô nói: “Người Do-thái
chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính
hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác. Nhưng
người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu
là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo
chữ viết của Lề Luật” (Rm 2,28-29). Nếu đúng như vậy, thì một cách tương tự,
không thể căn cứ vào danh hiệu Ki-tô hữu, vào việc có rửa tội hay không để xác
định người ấy có phải là Ki-tô hữu đích thực hay không, mà phải căn cứ vào việc
người ấy có tình yêu đối với tha nhân hay không.
3. “Thầy sẽ
xin … cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác”
Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những
ai giữ các điều răn của Ngài là yêu thương tha nhân: “Nếu anh em yêu mến Thầy,
anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho
anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật,
Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết
Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”.
Như vậy, phần thưởng lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Đức
Giêsu, được thể hiện cụ thể bằng việc yêu thương tha nhân, chính là được Ngài
ban Thánh Thần cho. Nhưng Thánh Thần là ai? Được ban Thánh Thần thì có gì đặc
biệt?
Trước hết, theo Đức Giêsu, Thánh Thần
là “một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Theo tinh thần của câu
này, thì Đức Giêsu là một Đấng Bảo Trợ đến trước, còn Thánh Thần là “một Đấng
Bảo Trợ khác” đến sau Ngài. Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”. Ai yêu sự thật,
muốn biết rõ sự thật, ắt hẳn sẽ thấy “Thần Khí sự thật” này rất cần thiết cho
mình và xã hội, hay thế giới. Nhưng vì thế gian không yêu sự chân thật, nên Đức
Giêsu mới nói Thánh Thần là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận”.
Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa
là một thực tại được nói đến rất nhiều trong Thánh Kinh, nhất là Tân Ước. Có
thể nói Thánh Thần là sức sống, là tình yêu, sức mạnh, là sự khôn ngoan, thánh
thiện của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Ngài cho Giáo Hội,
cho chúng ta, nhất là cho những ai yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu, được thể
hiện qua việc yêu thương tha nhân.
Đọc sách Tông đồ Công vụ, ta nhận thấy
mọi hoạt động trong Giáo Hội thời ấy đều do Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn,
thúc đẩy. Ngài tác động trực tiếp trên tâm trí người này người kia. Và những
người được tràn đầy Thánh Thần qua việc đặt tay của các tông đồ để được biến
đổi một cách kỳ diệu: họ trở nên yêu mến Thiên Chúa, Giáo Hội và sẵn sàng hy
sinh cho tha nhân một cách hăng say, trở nên mạnh mẽ, can đảm, không sợ khó
khăn, nguy hiểm, hay cả cái chết, trở nên khôn ngoan, sáng suốt phi thường, có
thể làm nên những phép lạ. Đặc biệt họ trở nên bình an, hạnh phúc bất chấp
những hoàn cảnh khó khăn bên ngoài như bị bách hại, ghen ghét. Tư cách của
những người được tràn đầy Thánh Thần hết sức phi thường. Thánh Phao-lô đã diễn
tả những đức tính mà những người đã lãnh nhận Thánh Thần có được như sau: “Hoa
quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung
tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
Theo lời Đức Giêsu hứa, nếu ta tuân
giữ các giới răn của Ngài, cụ thể là yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu
thương ta và yêu thương họ, thì ta sẽ nhận được Thánh Thần. Nhờ đó, đời sống
của ta sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu và phi thường. Và chắc chắn ta sẽ đạt
được sự sống vĩnh cửu, vì “kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8).
Vậy muốn được tràn đầy Thánh Thần, ta phải yêu thương tha nhân.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, qua bài Tin Mừng trên, con
nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Cha và Đức Giêsu yêu mến, tỏ mình ra cho,
đồng thời được ban tràn đầy Thánh Thần, đó là tuân giữ giới răn yêu thương của
Đức Giêsu. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Cha hay Đức Giêsu
phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người
trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xưởng thợ, những
người hàng xóm, những bạn bè con gặp hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng
sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy
sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
15. Tuân
giữ các điều răn của Thầy
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Tình yêu không hệ tại các lời nói, các
tình cảm hoặc các kỷ niệm, nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng
và bước theo.
1.- Ngữ cảnh
Bản văn chúng ta đọc hôm nay cũng
thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ
cáo biệt thứ nhất” (Ga 13,31–14,31), tại điểm c triển khai thứ năm (Ga
14,15-24; xem bốn điểm trước: 13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14).
Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu hứa
tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Thần Khí sự thật đến (14,15-17);
2) Đức Giêsu đến (trở lại) (14,18-21).
Mở đầu và kết luận là hai câu nói về tình
yêu đối với Đức Giêsu và sự cần thiết phải đi theo các giới răn của Người (c.
15 và c. 21).
3.- Vài điểm
chú giải
- giữ các điều răn (15): “Giữ”
(têreô) có nghĩa là “chu toàn”, “thực hành”. Ở đây và ở c. 21, Đức Giêsu nói
đến “các điều răn” (số phức), ngược lại với “điều răn mới” (số đơn) ở 13,34 (x.
15,10.12). Các điều răn của Người không phải chỉ là những giáo huấn về luân lý,
mà là cả một lối sống trong tình hiệp thông yêu thương với Người. Ở đây chúng
ta ghi nhận có một tiếng vọng của “điều răn lớn” của Dnl 6,4tt ở đây: các từ
ngữ của đoạn văn này dựa vững chắc trên sách Đnl. Chúng ta đã thấy điểm giáo lý
này trong Ga 5,41-44 và 8,41t: những ai yêu mến vì Thiên Chúa duy nhất chân
thật, thì cũng yêu mến Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến; còn nếu họ từ chối
cả hai tình yêu ấy, thì họ vẫn là những kẻ không tin (“con hoang”). Ở Ga
14,15tt, cũng vẫn một chiều hướng giáo lý như thế.
- Người sẽ ban cho (16): Thánh
Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, điều này được diễn tả bằng hai kiểu
nói: “Chúa Cha sẽ sai đến” (14,26) và “Thầy sẽ sai đến” (15,26; 16,7). Động từ
“(ban) cho” (didômi) thường được Tân Ước nối kết với Chúa Thánh Thần (x.Rm
5,5), do đó “ân huệ” (dôrea, gift) đã trở thành một tên gọi của Thánh Thần (“ân
ban Thánh Thần” = Thánh Thần là một ơn: x. Cv 2,38; 8,20; 10,45; 11,17).
- một Đấng Bảo Trợ khác (16): “Vị
bảo trợ” (paraklêtos) là từ ngữ được dùng tại tòa án, có nghĩa là người đứng
bên cạnh bị cáo, bên cạnh người đang gặp khó khăn. TM IV trình bày vụ kiện giữa
ánh sáng và bóng tối, giữa Đức Giêsu và những kẻ chống đối Người, giữa thế gian
và các môn đệ, nhưng Đấng Bảo Trợ soi sáng hướng dẫn các môn đệ khi các ông ra
trước tòa thế gian, chứ Người không đối đầu trực tiếp với thế gian. Những công
việc của Người là “ở lại”, “ở với” và “ở trong” các môn đệ (14,16-17). Người
dạy các ông mọi điều và giúp các ông nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói (14,26).
Người làm chứng cho Đức Giêsu trước các môn đệ (15,26). Người làm cho các môn
đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11). Người dẫn các môn đệ đi trong chân lý
toàn vẹn (16,13). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các ông những gì là
của Đức Giêsu (16,14).
Tuy bản văn Hy-lạp allon paraklêton có
thể dịch là “một Đấng khác, một Đấng Bảo Trợ” [LÊ MINH THÔNG đề nghị chuyển ngữ là “Đấng Pa-rác-lê”, vì dịch sang
tiếng Việt không diễn tả hết ý nghĩa (Tin Mừng thứ tư song ngữ Hy-lạp – Việt
[2008] 15)], nhưng truyền thống chấp nhận kiểu dịch “một Đấng Bảo Trợ
khác”. Vậy, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ đầu tiên. Thư 1 Ga (2,1) giới thiệu Đức
Giêsu như là Đấng Bảo Trợ có vai trò chuyển cầu trước nhan Chúa Cha sau khi
sống lại, nhưng Ga cũng hàm ý Đức Giêsu đã là một Đấng Bảo Trợ khi Người thi
hành sứ vụ trên mặt đất. Thần Khí sự thật là một Đấng Bảo Trợ chính là vì Người
hoàn tất công trình của Đức Giêsu.
- Thần Khí sự thật (17): Trong
cụm từ to pneuma tês alêtheias, alêtheias là thuộc-cách chỉ đối tượng
(objective genitive): Thần Khí thông ban sự thật (x. 16,13). Nhưng cũng có thể
hiểu theo nghĩa thuộc-cách đồng-chức-ngữ (appositive genitive): Thần Khí là sự
thật (1 Ga5,6[7]). Đây không phải là một mô tả về yếu tính của Thần Khí.
- Người luôn ở giữa anh em (17): Có
Thánh Thần ở với và nhận biết Người, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
- mồ côi (18): Kiểu
nói này không xa lạ với người đương thời: người ta quen nói là môn đệ của các
kinh sư bị mồ côi khi các vị này qua đời. Kiểu nói này phù hợp với ngôn ngữ của
Đức Giêsu trong Diễn từ cáo biệt, vì Người gọi các môn đệ là “những người con
bé nhỏ của Thầy” (13,33).
- chẳng bao lâu nữa (19): Công
thức này không cho biết gì về quãng thời gian dài ngắn cả, vì nó được dùng cả ở
7,33 để nói rằng Đức Giêsu còn sống sáu tháng, lẫn ở đây khi mà Đức Giêsu chỉ
còn sống có vài giờ. Đây là một công thức của Cựu Ước được các ngôn sứ dùng để
diễn tả niềm lạc quan khi thấy rằng chẳng còn bao lâu nữa rồi ơn cứu độ của
Thiên Chúa sẽ đến (x. Is 10,25; Gr 51,33).
- Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống (19): Được
thấy Đức Giêsu Phục Sinh và được sống, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
- Ngày đó (20): Công
thức này xuất hiện 3 lần trong TM Ga (ở đây, và 16,23.26). Mặc dù trong Cựu
Ước, “ngày đó” là một công thức truyền thống để mô tả lúc Thiên Chúa can thiệp
lần cuối cùng (x. Mc 13,32), trong TM Ga, thành ngữ này dường như được áp dụng
cho cuộc sống của người Kitô hữu đã đạt được nhờ “giờ” (= cuộc Khổ Nạn và Phục
Sinh) của Đức Giêsu.
- Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của
Thầy yêu mến (21): Trong cách trình bày nhị nguyên của Ga, bởi vì tình
yêu của Thiên Chúa đối với loài người được diễn tả bằng việc ban tặng Con của
Ngài, nếu người ta quay lưng lại với Người Con, người ta không có tình yêu của
Thiên Chúa.
4.- Ýnghĩa
của bản văn
Các môn đệ cảm thấy đau lòng bởi cuộc
chia ly. Các ông tự hỏi là làm thế nào các ông có thể tiếp tục sống với Đức
Giêsu nếu Người ra đi. Đức Giêsu hứa là Người sẽ không bỏ các môn đệ một mình,
không người che chở, không ai hướng dẫn. Người loan báo có một sự trợ giúp khác
sẽ đến, đó là Thần Khí sự thạt (14,15-17) và chính Người cũng sẽ đến
(14,18-21). Người tuyên bố rằng tất cả những giáo huấn Người đã ban cho các ông
từ trước đến nay sẽ không bị lỗi thời, nhưng vẫn có giá trị mãi mãi. Chỉ người
nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra
với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha.
*
Thần Khí sự thật đến (15-17)
Ở chỗ khởi đầu (c. 15) và ở cuối bản
văn này (c. 21), Đức Giêsu nói đến tình yêu đối với Người và sự cần thiết phải
tuân giữ các điều răn của Người. Trong nỗi đau đớn các môn đệ cảm thấy khi phải
xa cách Thầy, các ông đã tỏ lộ tình yêu thương đối với Đức Giêsu. Nay các ông
được biết là các ông phải chứng tỏ là các ông chân thành ước muốn có Đức Giêsu
hiện diện và được hiệp thông với Người, bằng cách tuân giữ các điều răn của
Người. Chỉ có lời khuyên yêu thương nhau được minh nhiên gọi là điều răn (x.
13,34). Nhưng cả những gì Đức Giêsu làm, trong lời nói và hành động, là lời
nhắc và lời khuyên cho loài người chúng ta. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là
lấy đức tin mà đón nhận toàn bộ Lời Người (x. 14,23-24), bằng cách ký thác bản
thân cho Người dẫn dắt. Đức Giêsu luôn hiện diện trong Lời Người và trong lời
nhắc về Người. Ai gắn bó với Đức Giêsu như thế, Thiên Chúa sẽ theo lời Đức
Giêsu thỉnh cầu mà ban Chúa Thánh Thần cho họ như là một Đấng trợ lực mới.
Các câu 16-17 là đoạn đầu trong năm
đoạn nói về Đấng Bảo Trợ trong Diễn từ cáo biệt. Cho tới nay, Đức Giêsu đã là
Đấng trợ giúp các môn đệ, săn sóc họ, hướng dẫn, khuyến khích họ, ban sức mạnh
cho họ. Nay cho dù Đức Giêsu ra đi, các ông vẫn không bị bỏ mặc một mình, bởi
vì Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho các ông, để Người ở luôn mãi với các ông, ở
bên cạnh và ở trong các ông. Thánh Thần/Đấng Bảo Trợ khác Đức Giêsu Đấng Bảo
Trợ ở chỗ người ta không thể thấy Thánh Thần theo cách thể lý và Người chỉ hiện
diện bằng cách cư ngụ trong các môn đệ mà thôi. Đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta” (immanuel của Is 7,14) nay được thể hiện nơi Đấng Bảo Trợ/Thánh Thần, Đấng
ở lại mãi mãi với các môn đệ, để che chở các ông trong những lúc gặp khó khăn.
Thánh Thần này được xác định như là
“Thần Khí sự thật”. “Sự thật” đối với tác giả Ga luôn luôn có nghĩa là chính
Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra qua Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ đưa vào trong “sự
thật”, nghĩa là hoạt động trong tim chúng ta để chúng ta có thể chấp nhận mạc
khải của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Đức Giêsu. Ngài sẽ giữ các môn đệ ở lại trong
sự thật đã được Đức Giêsu truyền đạt và sẽ che chở các ông khỏi các ông thầy
gian tà và khỏi những chọn lựa sai lầm. Thế gian, vì khép kín lại với Đức
Giêsu, thì không thể đón nhận Người. Chỉ khi tin vào Đức Giêsu và giữ kỹ các
điều răn của Người, chúng ta mới mở ra với Chúa Thánh Thần và có thể nhận ra
Người và có kinh nghiệm về hoạt động của Người. “Thế gian” đây là tất cả những
ai đang còn nuôi thù hận, mưu toan trả thù; nhưng “thế gian” cũng chính là phần
của trái tim chúng ta đang còn có những tâm tình gian ác đó. Thế gian có tinh
thần của nó (x. 1 Cr 2,12), tinh thần này thúc bách chúng ta làm điều dữ, sống
ích kỷ. Còn Thánh Thần Thiên Chúa thì thúc bách chúng ta yêu thương, quảng đại,
phục vụ kẻ khác. Thế gian không thể đón nhận Thánh Thần này.
*
Đức Giêsu đến (trở lại)
(18-21)
Bây giờ, Đức Giêsu đảm bảo với các môn
đệ là các ông sẽ không phải mồ côi, như khi cha mẹ chết thì họ vĩnh viễn mất
cha mẹ. Đức Giêsu bỏ họ lại mà đi đến cái chết, nhưng rồi sẽ trở lại với họ.
Người báo trước rằng họ sẽ gặp lại nhau, khi họ được gặp Người như là Đức Chúa
Phục Sinh. Đức Giêsu chết, nhưng không biến mất trong cái chết. Người sẽ trở
lại với các môn đệ, như Đấng vẫn sống, như là Đấng Phục Sinh, và họ sẽ được
thông phần vào sự sống của Người. Điều kiện là các ông phải “có và tuân giữ các
điều răn” của Đức Giêsu. Có một sự song đối giữa phần này với phần trên:
(1) Những điều kiện cần thiết: yêu mến
Đức Giêsu; giữ các điều răn Người:
15//21
(2) Ban Đấng Bảo Trợ; Đức Giêsu trở
lại: 16//18
(3) Thế gian không thấy Đấng Bảo Trợ
hoặc Đức Giêsu: 17//19
(4) Các môn đệ sẽ nhận biết Đấng Bảo
Trợ và thấy Đức Giêsu: 17//19
(5) Đấng Bảo Trợ và Đức Giêsu sẽ ở
trong các môn đệ: 17//20. Đấy là
cách tác giả Ga dùng để nói rằng sự hiện diện của Đức Giêsu sau khi Người trở
về với Chúa Cha được thực hiện trong và qua Đấng Bảo Trợ. Đây không phải là hai
sự hiện diện nhưng chỉ là một sự hiện diện duy nhất.
+ Kết luận
Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ rằng
chỉ sau khi Người sống lại, các môn đệ mới thật sự hiểu sự hiệp thông của Người
với Chúa Cha và với các ông. Qua sự Phục Sinh, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa ở
bên cạnh Đức Giêsu với tất cả tình yêu và quyền lực của Thiên Chúa, và xác nhận
giá trị các lời Người đã nói và các việc Người đã làm. Nhưng sự Phục Sinh cũng cho
thấy rõ ràng dây liên kết đặc biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ: khi đó Người
chỉ tỏ mình ra với các ông và được các ông nhận biết như là Đấng đang sống. Để
đạt tới sự hiệp thông với Người, Đức Giêsu nhắc các môn đệ, cũng như nhắc toàn
thể nhân loại mọi thời: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ
yêu mến Thầy” (c. 21). Luôn luôn có giá trị việc đi tìm liên kết với Đức Giêsu
mà dựa trên sự nhận biết các điều răn của Người và để cho các điều răn ấy tác
động trên cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta sống như thế, chúng ta sẽ gặp được
tình yêu của Chúa Cha và Chúa Cha sẽ đón tiếp chúng ta. Chúng ta cũng sẽ gặp
được tình yêu của Đức Giêsu, vì Người sẽ tỏ mình ra cho chúng ta để chúng ta
nhận biết Người một rõ ràng hơn và sâu sắc hơn, để rồi chúng ta được liên kết
với Người ngày càng bền chặt và sống động.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Các môn đệ phải chứng tỏ rằng họ
chân thành ao ước có Đức Giêsu hiện diện và được hiệp thông với Người qua việc
giữ các điều răn của Người. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là tin tưởng đón
nhận toàn bộ các lời nói của Đức Giêsu (x. 14,23-24), bằng cách để cho Người
hướng dẫn. Tình yêu không hệ tại các lời nói, các tình cảm hoặc các kỷ niệm,
nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng và bước theo.
2. Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”,
tức là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí thông ban sự thật và cũng là chính sự
thật, sẽ giúp các môn đệ ở lại trong sự thật mà Đức Giêsu đã truyền đạt và bảo
vệ họ khỏi những thầy xấu và những chọn lựa sai lạc. Nhưng để nhận được Thần Khí
này, chúng ta phải mở ra với Đức Giêsu, tin vào Người và tuân giữ các điều răn
của Người.
3. Bằng cớ cho thấy Thánh Thần chân lý
đang hiện diện trong Hội Thánh, đó là dọc theo các thời đại, đã có những linh
mục, giám mục và thậm chí Đức giáo hoàng cư xử không đúng đắn, nhưng không một
vị nào có thể làm cho Tin Mừng trở nên không đáng tin nữa. Thánh Thần không chỉ
ngăn ngừa sai lầm trong việc truyền đạt sứ điệp của Đức Giêsu, Người còn đưa
các môn đệ vào trong chân lý toàn vẹn.
4. Với cái chết của Người, Đức Giêsu
đã mãi mãi biến mất đối với thế gian: thế gian chỉ biết rằng Người đã chết trên
thập giá. Thế gian chỉ biết cái chết chứ không biết sự sống. Đức Giêsu sẽ chỉ
trở lại với các môn đệ và cho các ông thấy Người là Đấng (đang) Sống. Khi đó,
các môn đệ sẽ hiểu rõ những lời Đức Giêsu đã nói và những hành vi Người đã làm
trước đây.
5. Chỉ Đức Giêsu mới là con đường dẫn
đến với Chúa Cha. Mạc khải và các lời kêu gọi mà Người đã bày tỏ khi Người còn
sống ở trần gian sẽ mãi mãi là con đường đưa tới Chúa Cha. Chỉ khi chúng ta gắn
bó với những điều ấy và để cho những điều ấy hướng dẫn, chúng ta mới được nối
kết với Đức Giêsu và mới sẵn sàng đón nhận ân huệ Thánh Thần và được hiêp thông
trọn vẹn trong tình yêu với Chúa Con và Chúa Cha.
16. Chú
giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
HỨA
BAN THẦN KHÍ
Chú giải chi tiết
“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các
lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái
hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự
vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x.
15, 10).
“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được
mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa
đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi
hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ
các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những
tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa
Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một
trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa:
Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng
chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).
“Và Ngài ở trong các
con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở
thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để
bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây
xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.
“Ta sẽ không bỏ các con
mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có
thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những
orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.
“Ai yêu mến Ta, sẽ được
Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói
riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều
ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong
lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín
hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời
họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa
Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ
trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga
4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu
nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.
KẾT LUẬN
Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn
hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất
cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông
hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ
tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối
với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn
tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung
hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp
đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm
diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới
là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm
nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có
trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một
kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó
có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ... Khi Chúa Giêsu nói đến một
vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là
Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ
là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn
cám dỗ và bách hại của thế gian.
2. “Thần khí...
mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các
quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế
gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm
độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn,
một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả
đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí
ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các
môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.
3. “Ai yêu mến
Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và
đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong
Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với
Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện
với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận
thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa
Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga
16, 33).
4. Sự hiện diện
hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội
tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng
sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những
vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.
5. Thánh Thần là hồng ân được ban cho
chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người.
Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng
ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói:
“Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế,
không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng
anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba,
Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa
(Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”.
Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng
con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
Đăng nhận xét