1. SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ
PHÂN CHIA GIÁO PHẬN VINH
BẮC VIỆT NAM
2001 - 2003
TP. HCM, 08/8/2001
Kính gửi:
Thầy Phạm Minh Thanh
Quí vị trong Hội Ái Hữu Vinh, Bắc
California, USA.
1. Mỗi năm đến ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả chúng ta lại hướng về giáo phận Mẹ quê hương Vinh Nghệ - Tĩnh - Bình. Đối với riêng tôi và Quí vị, điều đó càng làm chúng ta nhớ đến một biến cố lịch sử khó quên, ngày 15/8/1996, ngày khai sinh cuốn Lịch Sử Giáo Phận.
Cuốn sách tuy thô sơ, nhiều thiếu sót
chủ quan, khách quan nhưng lại là một công trình không nhỏ của bao công sức,
trong đó phải đặt lên hàng đầu là linh mục Trần Minh Công, cụ Phạm Viết Hùng,
ông Trần Hiếu, thầy Phạm Minh Thanh, Quí vị trong Hội Ái Hữu Vinh Bắc
California, USA và tất cả Quí ân nhân.
2. Nhắc
lại chi tiết này, một tuần trước khi vào Đại Lễ đầu tiên mừng Mẹ của thế kỷ
XXI, tự nhiên tôi cảm động đến chảy nước mắt.
Lý do khởi đi từ
một ý nghĩ riêng tư, thầm kín cá nhân, biết một mà không biết mười, nhưng sức mạnh
Gió Thánh Thần đã thổi nó đi và đến phương trời xa lạ, không hề được dự tính để
trở thành một cái gì đó cho quê hương. Vậy mà nhìn đi nhìn lại, tính từ điểm xuất
phát sơ khai trước 1945, điểm thành hình có tính cục bộ 1975, và điểm ra mắt
công khai 1996, nó trở thành một đầu máy hơi nước thô sơ kéo thêm một số sáng
kiến của các giáo phận:
- Lịch Sử Giáo Phận
Hà Nội, 1994.
- Lịch Sử Giáo Phận
Lạng Sơn, (?).
- Lịch Sử 25 Giáo
Phận, 1995…
- Lịch Sử Giáo Phận
Bùi Chu, 2000.
- Lịch Sử Giáo Phận
Huế, 2000.
- Tổ chức học bổng
Trần Hữu Đức - Nguyễn Trường Tộ, 1996.
Tất nhiên, không
ai trong chúng ta dám tự cao tự đại, nhưng tin vào sức mạnh Thánh Thần không một
việc gì của ai làm ra mà vô ích và cũng không việc nào anh em mình đổ mồ hôi,
công sức, tiền bạc làm mà trở thành vô nghĩa được.
Riêng tôi, trong
những ngày cuối đời, tuy không còn làm được gì nữa nhưng vẫn tin vào sự cố gắng
giúp đỡ của anh em thiện chí bên đó sẽ tận dụng mọi cơ hội thuận hay không thuận,
để làm thêm chút ích gì cho giáo phận Mẹ quê nhà.
3. Tôi
đang băn khoăn, trăn trở về chương trình của Hội Thánh muốn phân chia giáo phận
Vinh ra làm hai, một riêng Nghệ An và một Hà Tĩnh - Quảng Bình. Đã đành là con
cái Hội Thánh, chắc chắn không ai trong chúng ta dám có dự tính gì ngược lại.
Nhưng nếu được phép thì có biết bao suy nghĩ lớn nhỏ vây quanh vấn đề to lớn
như vậy.
Thử hỏi, chia để
làm gì, chia như vậy đã ổn, đã hợp tình hợp lý hoặc đã hợp lý mà chưa hợp tình
hay ngược lại?
4. Có
người suy diễn từ lời nói của Tiên sinh Nguyễn Trường Tộ về một nước Trung Hoa
vĩ đại cả địa lý, cả dân số, vậy mà người ta chỉ giữ lại có hơn chục tỉnh hành
chánh, trong khi Việt Nam chưa bằng một tỉnh nhỏ của họ mà chia ra 63 tỉnh
thành và giáo phận Vinh chia thành hai.
Vấn đề đặt ra là
đã thêm việc thì phải thêm người, thêm cơ sở, thêm tiện nghi, trong khi cả giáo
phận nói là lớn nhất miền Bắc hôm nay nhưng cứ kiểm điểm lại xem có bao nhiêu
chất lượng trong đó?
Việc phân chia
giáo phận nguyên nó là đúng, nhưng chỉ đúng trong một thời kỳ, một hoàn cảnh nhất
định nào đó. Chẳng hạn hồi trước 1945, hay sau 1975, khi mọi việc từ trên xuống
dưới gây khó khăn, nhất là phương tiện giao thông liên lạc giữa các miền liên hệ.
Còn bây giờ, ở thế
kỷ XXI, từ mặt đất người ta có dư phương tiện để quan sát các thiên thạch, các
mẫu đất đá từ xa nhiều năm ánh sáng, thì công việc chia đôi giáo phận Vinh là một
việc làm xem ra không đúng mà còn làm lãng phí, thiếu thực tế chăng?
5. Ngày
xưa chỉ với chiếc ghe ọp ẹp, linh mục Đắc-lộ là người đầu tiên và các nhà Truyền
Giáo dòng Tên, các Vị Thừa Sai kế tiếp đã đi hầu như khắp ba tỉnh: Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình. Các Ngài đã đi, đi không kể ngày, tháng, năm và đã làm nên
bao nhiêu công việc.
Ngày nay, nhất là
ở thời điểm đường nhựa bóng loáng, cầu cống hiện đại, điện thoại bàn, điện thoại
di động, ti vi, vi tính, hệ thống mạng internet v.v.. chỉ cần bấm nút là có tất
cả, chỉ cần bấm con chuột, gõ bàn phím là biết, là liên lạc đến tất cả các hang
cùng ngõ hẻm xứ họ trong giáo phận.
Cụ thể nhất là
chuyện mới xảy ra đầu tháng 5/2003. Hôm đó giáo xứ Gia Hưng, Quảng Bình tổ chức
lễ khánh thành nhà thờ giáo họ Hà Thanh, một họ giáo thuộc địa bàn hạng cuối địa
phận. Vậy mà Đức Giám mục giáo phận cho biết, 5 giờ kém 15 phút lên xe nhà ở Xã
Đoài và đến bến đò Mệ Nhiệm, sông Son, Bố Trạch, Quảng Bình lúc 8 giờ rưỡi hơn,
nghĩa là chỉ đi mất 4 giờ đồng hồ, để cử hành thánh lễ như chương trình đã định
lúc 9 giờ cùng ngày 01/5/2003.
Hoặc mới hơn,
sáng 05/6 nghĩa là sau 1 tháng, cũng với thời gian ấy ngại lại trở vào xứ Gia
Hưng, tại họ giáo Hội Nghĩa, cách Hà Thanh 5 cây số, cách cầu Xuân Sơn - Phong
Nha 1 cây số để cử hành thánh lễ khởi công xây dựng nhà thờ họ này.
Như vậy việc chia
giáo phận còn cần thiết nữa hay không? Cho nên cũng một việc làm mà có người
làm hay, người làm dở, có lúc làm đúng, có lúc chẳng đem lại lợi ích gì.
Đó là chưa nói đến
việc chia Nghệ An đứng riêng ra một giáo phận và giáo phận thứ hai là Hà Tĩnh
và Quảng Bình với đèo Ngang nằm giữa. Đối với người xa lạ, không biết tình hình
thì việc chia như thế hay hơn kém như thế chẳng thấy gì trở ngại. Còn đối với
người trong cuộc thì ngược lại, sự chia cắt ấy là điều hơi thiếu tâm lý.
Xét về nguồn gốc
Nghệ An, Hà Tĩnh cả hai là một đất đai, một sông núi, một tiếng nói, một tính
tình, một cách sống, nhất là một ý chí quật cường thiên phú. Bởi mỗi khi nghe
nói đến Dân Nghệ Tĩnh, thì tất nhiên đã hàm chứa một ý nghĩa gì trong đó rồi.
Cũng như khi mới nghe nói đến hai chữ “cá
gỗ”, “dân cá gỗ”, sự so sánh tuy
thô sơ hơi thiếu tế nhị, nhưng đó là sự thật khiến nói ra hay không nói ra Nghệ
An, Hà Tĩnh là một khối thuộc đất Hoan Châu.
Hơn nữa, xét về đất
đai thổ nhưỡng, trừ phần Trường Sơn cố hữu gồ ghề, khúc khuỷu, quanh co chỗ nào
cũng có, nhưng riêng Nghệ An, Hà Tĩnh Tạo Hóa vẫn dành cho một phần đồng bằng
khá đẹp chạy dài từ giáp ranh Thanh Hóa vào đến Kỳ Anh. Vùng đất khá lý tưởng ấy
bây giờ đem cắt ráp vào một phần đất cũng là anh em từ 375 năm, thời Trịnh -
Nguyễn phân tranh, đúng hơn từ hồi linh mục Đắc-lộ đến 1629.
6. Thực
ra việc Hội Thánh quyết định có tính bắt buộc mọi người phải nghe, nhưng phải
nghe không đồng nghĩa với nghe một cách thoải mái, hợp lý hợp tình. Điều không
xuôi chèo mát mái là chia làm sao mà còn để Đèo Ngang dài 20 cây số hơn kém nằm
vắt ở giữa, gây khó khăn, lãng phí khi phân chia giáo phận Quy Nhơn - Nha Trang
phải tránh đèo Cả và khi phân chia giáo phận Huế - Đà Nẵng phải tránh đèo Hải
Vân.
Bây giờ đây cũng
thế, sự phân chia hợp lý nhất vùng này thiết tưởng phải dành hoàn toàn đèo
Ngang cho Quảng Bình và nội dung cao điểm là Quảng Bình Bắc và Quảng Bình Nam
là một giáo phận.
Sự phân chia ấy
xét với hôm nay, lúc này có phần khó khăn về nhiều phương diện, nhưng lại là một
giải pháp ổn định đem lại nhiều hứa hẹn về sau. Còn nói về một khó khăn, trước
mắt là nhân sự, không quan trọng lắm vì tin vào sự quan phòng nhiệm mầu của
Thiên Chúa là yếu tố quyết định. Kinh nghiệm cho hay khắp cả Giáo Hội hoàn cầu,
nơi nào cũng có bước đi đầu tiên yếu ớt, xiêu vẹo như vậy trước khi tiến lên mức
độ khả quan.
Đó là chưa nói đến
mô hình chia cắt, thứ nhất làm cho Nghệ An quá nhỏ, dân số ít hơn một nửa, đường
hoạt động theo chiều dài chỉ còn lại khoảng 150 cây số từ giáo xứ Gia Hòa trở
ra giáo xứ Hoàng Mai. Trong khi Hà Tĩnh, Quảng Bình lại có đến 220 ngàn giáo
dân, với chiều dài khoảng 250 cây số kể từ ranh giới Nghệ An vào đến ranh giới
Quảng Trị. Nếu cứ để Nghệ An - Hà Tĩnh nguyên một giáo phận, Quảng Bình riêng một
giáo phận thì sẽ tránh được Đèo Ngang. Đàng khác, quý hơn là bảo toàn được tính
đồng nhất, về chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt là tính gia phả tôn giáo do
chính công lao của linh mục Đắc-lộ bằng chiếc thuyền nhỏ thô sơ đã vào ra, ra
vào các cửa biển như: cửa Gianh, cửa Khẩu, cửa Sót, cửa Hội, cửa Lò, và đã đặt
nền tảng cho 195 giáo điểm đầu tiên, hồi 1676 trong đó còn các giáo xứ trọng điểm
ngày nay.
Vì tính keo sơn gắn
bó 375 năm như vậy, cho nên đối với người hiểu chuyện, thì sự chia cắt Nghệ An
- Hà Tĩnh nói trên, đang gây nên một điều đáng tiếc vô cùng đáng tiếc.
Đối với Quảng
Bình Bắc, đáng lẽ cũng không nên làm như thế. Vì cả ba nơi, ba chữ Nghệ - Tĩnh
- Bình suốt 155 năm, kẻ từ năm 1846 đến nay đã trở thành ba cột đồng trụ chống
đỡ cho giáo phận có tên xưa là Nam Bắc Kỳ.
Bây giờ hoàn cảnh
mới, người con gái dù muốn dù không, trước sau cũng phải đi theo quy luật Tạo
Hóa, bỏ nhà cửa cha mẹ theo chồng lập thành một gia đình mới, cụ thể là giáo phận
Quảng Bình Bắc, Quảng Bình Nam hợp thành giáo phận Quảng Bình.
Việc này có thể
gây ngạc nhiên nơi người nghe, nơi người đọc và dễ bị hiểu nhầm, nhưng nếu ai
chịu khó đọc kỹ hai cuốn “Lịch Sử Đàng Ngoài” và “Hành Trình và Truyền Giáo” của
linh mục Đắc-lộ sẽ thấy:
Ngài tryền giáo lần
thứ nhất, ở Đàng Trong cuối tháng 12/1624 đến tháng 7/1626 (30 tháng), và ở
Đàng Ngoài từ 19/3/1627 đến tháng 5/1630. Từ đó ngài đi truyền giáo ở Macao,
Trung Quốc từ tháng 5/1630 đến đầu năm 1640. Sau đó trở lại truyền giáo ở Đàng
Trong từ:
- Tháng 01/1642 đến
tháng 7/1643 (19 tháng)
- Tháng 12/1640 đến
tháng 7/1614 (08 tháng)
- Tháng 3/1641 đến
tháng 7/1645 (17 tháng)
Chính trong thời
gian 17 tháng cuối cùng này, Ngài đã đích thân đến truyền giáo tại thị xã Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình và làm việc ở đó 17 tháng. Chính tại đây, ngài đã gặp được
phái đoàn 10 giáo dân Bắc Quảng Bình do ngài đích thân rửa tội cách 16 năm trước
vào thăm và bắt liên lạc, hứa hẹn nhiều lần gặp gỡ khác, tuy lịch sử không thấy
nói đến một cách công khai.
Dầu vậy mọi người
đều có quyền nghĩ đến một cách tích cực và như đó đây có lần đã nói, sự kiện
này đã vô tình trở thành con đường hầm tiềm ẩn, đưa Quảng Bình lên địa vị một
giáo phận, xứng đáng với công trình của linh mục Đắc-lộ như: Hà Nội, Nghệ An,
Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn là những nơi ngài đã từng đến và đã đặt nền
móng. Hy vọng suy này không phải là giấc mơ, mà là sự thật không cho hôm nay,
năm 2003 mà sau năm 2005, 2010…
Thầy
Phạm Minh Thanh
Quí vị
trong Hội Ái Hữu Vinh kính mến!
7. Đọc
xong lá thư, chắc Thầy và Quí vị sẽ không đến nỗi cho đó là dài dòng, lẩm cẩm của
một con người mang nhiều hoài cổ, sắp đi vào dĩ vãng.
Được lắm, không
sao cả, miễn là Quí vị không bõ công, uổng thời giờ để tìm ra trong đó có ít nhật
một vài phần trăm sự thật, bởi vì với bản tính cố hữu, nông dân chất phác, ăn
chắc mặc bền, có sao nói vậy, không dám thuyết phục ai, nhưng rất muốn nghe hết
mọi người.
Cuối cùng xin
kính chúc Thầy và Quí vị trong Hội Ái Hữu Vinh, Quí Ân Nhân được mọi ơn lành của
Chúa và Đức Mẹ.
Nhớ
nhau!
LM. JB. CAO VĨNH PHAN
LỜI CUỐI
Trên đây là
mấy nét phác họa một công trình lớn của người đi tìm xứ đạo đầu tiên ở giáo phận
Vinh gồm hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và một nửa tỉnh Quảng Bình.
Riêng về Nghệ
An, bao gồm cả Hà Tĩnh, vào thời 1676 có ít nhất 195 giáo điểm. Một số không
còn thấy tên, một số khác đổi tên, số khác nhỏ nhập vào số lớn hơn và dần dần
phát triển thành những giáo xứ có tên tuổi, có tiếng tăm đã và đang làm nòng cốt
cho cơ cấu hữu hình của Giáo hội Chúa tại phần đất này.
Với tiêu đề
“Đi Tìm Xứ Đạo Đầu Tiên Giáo Phận Vinh”, chúng tôi muốn tiếp nối dòng tư tưởng
của vị linh mục thừa sai Sajot Hậu để nhắc nhở bất cứ ai từ trên xuống dưới
trong giáo phận này phải tìm cho ra vị trí của người và của mình hầu sống xứng
đáng vai trò của người thừa kế và là người chứng nhân:
“… Nhưng dầu thế nào đi nữa, đối với giáo phận
Vinh, việc cần thiết là phải tìm trong những cửa biển Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình
Chính có những họ giáo nào cổ xưa nhất của giáo phận. Nhiều nơi cũng tự hào là
đã được thành lập từ hồi giáo sĩ Đắc-lộ…”[1]
Chúng tôi
không có tham vọng nhiều và cũng không dám tự phụ mình đã tìm ra gốc ngọn của từng
xứ đạo, hoặc đúng hơn quá trình phát triển của từng giáo điểm. Đây chỉ là một
đóng góp có tính gợi ý để các nhà giáo sử uyên thâm tiếp tục tìm cho ra manh mối,
ngọn nguồn tất cả các giáo điểm đầu tiên của giáo phận Vinh.
Các khó khăn
như chúng tôi đã trình bày là phần nhiều các địa danh cũ do vô tình hay hữu ý
đã được đổi ra tên mới. Vả lại, tuy chúng tôi cũng là con cái của giáo phận
Vinh, nhưng sinh ra tại miền cực Nam của giáo phận, chỉ hân hạnh sống ở Nghệ An
một thời gian ngắn rồi đi xa quê hương. Do đó không nắm địa lý rộng lớn của hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nên chắc chắn các phỏng đoán trong tập này không thể
tránh khỏi khiếm khuyết hoặc sai sót.
Tuy nhiên phần
nào chúng tôi đã đạt được mong muốn là bất cứ giá nào không thể để cho hai công
trình vĩ đại của linh mục Đắc-lộ và linh mục Emmanuel Ferreyra bị quên lãng, bị
coi thường, bị bỏ vào xó tủ và tệ hơn bị quăng vào giỏ rác. Điều làm chúng tôi
trăn trở và phải cố gắng đến mức tối đa là để khỏi trở thành người vô ơn, “uống
nức” mà không “nhớ nguồn”, “ăn quả” mà không nhớ “kẻ trồng cây”, cũng không biết
để thực hiện lời “ăn cây nào rào cây ấy”.
Đã một lần,
nhờ biết ý thức và cảnh giác trước nên dịp Lễ Phục Sinh 15.4.1999, toàn giáo hạt
Bình Chính đã long trọng tổ chức cuộc Đại hội kỷ niệm mừng 370 năm linh mục Đắc-lộ
đến truyền giáo tại vùng này. Lễ kỷ niệm qui tụ trên mười ngàn giáo dân của 26
giáo xứ tập trung về nhà thờ giáo hạt ở giáo xứ Hướng Phương với hàng ngũ chỉnh
tề. Hai Đức Giám mục chánh phó giáo phận là Phêrô Trần Xuân Hạp và Paulô Cao
Đình Thuyên cùng trên 40 linh mục đã long trọng cử hành thánh lễ đồng tế tạ ơn.
Sở dĩ có được
biến cố lịch sử ấy là vì nhớ đến những giai đoạn phát triển của vùng này bắt đầu
từ tháng 4 năm 1629, linh mục Đắc-lộ đã rửa tội cho 25 tân tòng và đặt cơ sở nền
mong cho họ đạo đầu tiên tại vùng đất có tên Ke Hoa (Kẻ Hòa), thuộc xã Trung
Hòa, nơi mà ngày nay có giáo xứ Mỹ Hòa hay Tân Mỹ của huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình.
Để rôi năm
1645, nhóm này được trưởng thành nhờ sự dìu dắt của ông cử thông nho Simon, người
được chính linh mục Đắc-lộ rửa tội và đặt làm trùm trưởng coi sóc cộng đoàn nhỏ
bé cách 16 năm trước. Chính ông đã giúp cho cả làng Kẻ Hòa, Trung Hòa trên một
ngàn người trở lại mặc dầu không có một linh mục, không có một thầy giảng nào.
Năm 1676,
nghĩa là 31 năm sau, con số này được tăng lên thành 30 giáo điểm với trên 4
ngàn giáo dân như được thấy nói đến trong phúc trình linh mục Emmanuel
Ferreyra.
Năm 1999,
giáo đoàn này phát triển đến mức độ trưởng thành là 26 giáo xứ với trên 80 ngàn
giáo dân, nghĩa là gấp đôi giáo phận Huế hôm nay.
Năm 2000, mấy
giáo xứ của Nam Quảng Bình, trực thuộc giáo phận Huế cũng được Tòa Thánh cho
sát nhập vào giáo phận Vinh trong đó có những giáo xứ đang xây dựng nhà thờ
như: Hà Lời, Thanh Hải (Thanh Bồ). Đặc biệt hai giáo xứ Kẻ Sen và Kẻ Bàng đang
cùng nhau xây dựng chung một ngôi thánh đường 14x36m. Chính Đức Giám mục Cao
Đình Thuyên với 10 linh mục giáo phận đã chủ sự thánh lễ khởi công xây dựng đầu
năm 2003 và sẽ khánh thành vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15.8.2003. Cùng với
Hà Tĩnh và Bắc Quảng Bình, phần đất này đã được Tòa Thánh quyết định lập thành
giáo phận mới, giáo phận Tĩnh Bình, biệt lập với giáo phận Vinh chỉ gồm nguyên
tỉnh Nghệ An mà thôi.
Phần chúng
tôi, tuy biết công việc còn dang dở, chưa đạt cả trăm phần ước nguyện nhưng vẫn
hy vọng một ngày nào đó, một đứa cháu chắt nào đó hay quí hơn một người thiện
chí nào đó bắt nhịp được vấn đề và khai triển thành sự thật hoàn hảo. Nếu được
như vậy thì không những riêng cá nhân mà cả tập thể giáo phận Vinh đồng vui mừng
vì ai cũng nhận thức được trách nhiệm của mình là “kẻ đi sau” phải tiếp nối
công việc của “người đi trước”.
Chúng tôi
càng hy vọng gấp bội vì nhiều lần trước đây, chúng tôi đã xin Tòa Giám Mục Xã
Đoài cung cấp một số tư liệu và một số hình ảnh nhà thờ xứ họ, đến nay việc ấy
đã thành hình. Trong sách “ALBUM GIÁO PHẬN VINH”, 1999, người đồng hương được
thấy và biết thêm nhiều nhà thờ khác trong giáo xứ, giáo hạt của giáo phận.
Có những
giáo điểm đã tìm được tên tuổi của mình và được xếp hạng cao về giá trị, địa
lý, lịch sử cũng như nhân sự tài năng đóng góp cho sự trưởng thành của Đạo Chúa
đồng thời cho nền văn hóa các địa phương lớn nhỏ.
Điều đáng tiếc
là một số cơ sở kiến trúc đáng được bảo tồn để minh chứng giá trị lịch sử lâu đời
của mình thì không may đã bị đập phá tan tành để xây lại bằng những ngôi nhà mới
toanh làm cho khách thập phương tưởng rằng giáo phận Vinh mới được xây dựng khoảng
vài chục năm chứ không phải đã được xây dựng trên 150 năm thời các vị thừa sai
Paris Pháp. Và càng không phải là một quá trình dài 375 năm kể từ khi linh mục
Đắc-lộ vào cửa Bạng, Thanh Hóa và đặt chân đến vùng đất Vàng Mai, Hoàng Mai,
Nghệ An, nơi giáp ranh với Thanh Hóa. Chẳng hạn, ngôi nhà thờ quí vào hạng nhất
nhì giáo phận là họ Trường Cửu, xứ Cầm Trường được xây dựng năm 1735, gần 300
tuổi, đã bị đập bỏ một cách oan uổng năm 1998. Giả sử ngôi nhà này còn nguyên
trạng thì chắc chắn Bộ Văn Hóa phải ghi vào danh sách, những di tích văn hóa phải
được bảo tồn.
Điều đáng tiếc
thứ hai là một số người nào đó đã vô ý thức đổi tên tùy tiện, không giải thích
lý do làm cho công việc sưu tầm gặp nhiều khó khăn phức tạp. Dầu vậy với sức cố
gắng kiên trì đến nay chúng tôi đã hình thành được tập tư liệu nghiên cứu kể từ
bản thảo sơ khởi đầu tiên chỉ có mấy trang nháp thô sơ, vội vã và những lá thư
tham khảo gửi đó đây mà không một ai trả lời.
Nói tóm lại
khi làm việc này, vô tình hay hữu ý tất cả chúng ta, người viết cũng như người
đọc đã đạt được một số chỉ tiêu là tìm lại được phần nào lịch sử của cha ông,
nói lên được lời tri ân cảm mến đối với các nhà truyền giáo mọi thời và nhất là
học được bài học cao giá của linh mục Đắc-lộ.
Do đó nếu có
ai chịu khó suy nghĩ một chút để so sánh hai phong cách làm việc xưa và nay: một
của linh mục Đắc-lộ, vị tông đồ lừng danh và một của hàng Giám mục, Giáo sĩ Việt
Nam nói chung hôm nay thì sẽ thấy kết quả hoàn toàn ngược lại.
Nói rõ hơn,
về phía linh mục Đắc-lộ, ngài chưa vội dựng nhà thờ, chưa vội dâng thánh lễ… và
cả không có nhà để trú trọ ngoài một chiếc ghe ọp ẹp nay đây mai đó để làm cơ sở
giáo dục đào tạo, làm nền tảng cho việc giảng truyền đạo Chúa tại vùng này.
Cho nên những
ai quan niệm rằng làm linh mục xứ chỉ biết dâng thánh lễ sáng trưa chiều tối,
xây dựng nhà thờ, nhà xứ, rước kiệu, ca hát mà coi thường việc dạy giáo lý và
trực tiếp đi truyền giáo là điều không thể chấp nhận.
Nói cách
khác, linh mục Đắc-lộ đã đi, hoàn toàn đi bộ hoặc chỉ đi đò ghe chút ít trong 8
tháng, đúng hơn 6 tháng rưỡi mà ngài đã đặt chân lên hầu hết các vùng đất quan
trọng trong giáo phận Vinh.
Thời gian
ngài đi và ở chỉ có bằng ấy nhưng kết quả, với Ơn Chúa, không thể lường được đối
với giáo phận Vinh nói riêng và của cả đất nước Việt Nam thân thương nói chung.
Đường lối làm việc của ngài là truyền giáo, nhiệm vụ ưu tiên của một tông đồ.
Thứ đến làm mở mang văn hóa như công trình chữ QUỐC NGỮ VIỆT NAM chúng ta hôm
nay đã và đang chứng minh những lời nói, những việc làm vĩ đại của ngài.
Nói tóm lại,
với tiêu đề đi tìm xứ đạo đầu tiên, cơ bản chúng ta đã thấy được lộ trình thành
lập các giáo xứ đầu tiên ở giáo phận Vinh:
- Thứ nhất xứ đạo Vàng Mai (Hoàng Mai,
Yên Hòa).
- Thứ hai xứ đạo cửa Chúa (cửa Lò, Lộc
Mỹ, Tân Lộc).
- Thứ ba xứ đạo Ke Hoa (Kẻ Hòa, Mỹ Hòa,
Quảng Bình).
- Thứ tư xứ đạo Kẻ Sót (cửa Sót, Kim
Đôi, Trung Nghĩa).
- Thứ năm xứ đạo Rum, Cua Rum (cửa Rùm,
Cầu Rầm, thành phố Vinh).
- Thứ sáu Ke En (Làng Ấn, Làng Ênh).
- Thứ bảy đồng hạng là những xứ đạo được
nói đến trong phúc trình 1676 của linh mục E. Ferreyra và còn giữ nguyên tên của
mình cho đến bây giờ hoặc thay đổi chữ trước sau như:
·
PHỦ DIỄN CHÂU: Kẻ Mành (Mành Sơn), Vạn Phần, Kẻ
Lân (Đức Lân), Kẻ Dừa, Kẻ Sò (Phú Linh).
·
PHỦ ANH ĐÔ: Kẻ Ngói (Bùi Ngọa - do tiếng Hán Ngọa
là Ngói),
Trang Nứa, Mỹ Dụ, Kẻ Hòu (Nhân Hòa), Kẻ Nhuôm (La Nham), Kẻ Đòn (Qui Chính), Đô
Lương (Bột Đà), Văn Lang (Quan Lãng + Lãng Điền).
·
PHỦ ĐỨC QUANG: Trang Cảnh, Cương Gián (Kim Lân),
Kẻ Phuống (Chợ Phuống - Văn Thành), Kẻ Mui, Kẻ Thượng (Nghĩa Yên + Thọ Ninh),
Làng Thou (Làng Truông), Kẻ Hạ (Giáp Hạ), Kẻ Bảo (Tri Bản), Thổ Hoàng, Trại Cày
(Nam Huân - Tân Thành), Vức Mu (Thọ Vực), Vạn Tác (Đông Tràng).
·
PHỦ HÀ HOA: Trai Vo (Tiếp Võ), Kẻ Bàng (Kẻ
Vang), Kẻ Khoai (Kẻ Khẩu - Cửa Khẩu, Quí Hòa), An Nghiên (An Nhiên), Kẻ Nhím
(Văn Hạnh), Kẻ Cường (Hòa Thắng), Kẻ Mùng (Kẻ Mắt - Tràng Lưu), Dinh Cao (Dinh
Cầu - Kỳ Anh).
Xứ đạo chính
tòa Xã Đoài, tuy mới được chiêu mộ trong thời các vua chúa bắt đạo năm 1833
nhưng cũng được xếp vào danh sách các giáo xứ đồng hạng thứ bảy này vì có hai họ
giáo kỳ cựu là Phúc Chu (Bùi Chu) và Trang Gốm (Kẻ Gốm, Trung Hậu).
Rồi mới đến
các xứ đạo được nêu tên trong thời gian còn lệ thuộc vào giáo phận Tây Đàng
Ngoài (Hà Nội) và những nơi khác trong bản tổng sắp thời Đức Giám mục Gauthier
Ngô Gia Hậu năm 1846 như Thuận Nghĩa, Đông Tháp, Bảo Nham, Bột Đà, Tân Lộc, Trại
Lê, Nhượng Bạn…
Đăng nhận xét