Đi Tìm Xứ Đạo Đầu Tiên Giáo phận Vinh 1627 - 2003 : Phần Phúc trình Linh mục E. Ferreyra ngày 03 tháng 10 năm 1676 | GIÁO XỨ LỘC THỦY
12 Thánh tông đồ Audio suy niệm Audio truyện Công giáo Âm nhạc Bài Giảng mp3 Bạn có biết bạn trẻ xa nhà Bảo vệ sự sống Blog tips Ca kịch công giáo Các bài giáo lý của ĐTC Phanxicô Các hội đoàn Các mục chính Các Thánh Các thánh địa Công giáo Các thánh khác Các Tuần Cửu Nhật Kính Đức Mẹ Các vấn nạn xã hội Cắm hoa nghệ thuật Câu chuyện Giáng Sinh Châm ngôn công giáo Chiêm ngắm Chúa Chuyện phiếm đạo đời Chuyện về Giáo Lý và Giáo Dục Công Giáo đó đây Cửu Nhật Kinh Nguyện Danh Danh bạ website các giáo xứ - giáo họ việt nam Danh bạ website công giáo Di sản thế giới Du Lịch Đẹp + Để sống đạo hôm nay Đôi nét về Giáo xứ Đời sống cầu nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Đức Mẹ Lama Đức Thánh Cha phanxico Đức Tin và Khoa Học Đường Hy Vọng Gia đình Giải đáp thắc mắc cuộc đời Giao hat Vang Mai Giáo hạt Vàng Mai Giáo Hội Đông Phương Giáo lý - dân ca Giáo lý - kinh thánh Giáo sử Giáo xứ Media góc học tập Góc khám phá Góc nghệ thuật Góc thư giãn Góp nhặt Hạt Giống Lời Chúa Hình ảnh cổ xưa Hình ảnh Giáo xứ Lộc Thủy học tiếng anh Hướng dẫn sử dụng webblog Kết nối websites Kiến thức phổ thông Kính Đức Mẹ Kinh thánh tiếng anh Lẽ sống Lịch sử các Dòng tu Lịch sử Giáo Hội Việt Nam Lịch sử hình thành Giáo xứ Lộc Thủy Lòng Thương xót Chúa Lộc Thủy Lời Chúa qua bài hát Lời chúa theo chủ đề Lời chúc xuân Mùa Vọng - Advent Năm thánh Lòng Thương Xót Nghe và suy gẫm Nghệ thuật Công Giáo Nghệ thuật sống Ơn gọi-tận hiến Phim công giáo Quỳnh lưu Radio Công Giáo Sách Công giáo sách tháng đức bà Sắc màu cuộc sống Sổ tay sinh hoạt suy gẫm Suy gẫm và Cầu nguyện Suy niệm Lời Chúa Suy niệm Lời Chúa mùa Phục Sinh Suy niệm Lời Chúa mùa TN A Suy niệm Lời Chúa năm A Suy niệm mùa chay Sức khỏe - ẩm thực Tài liệu Công Giáo tổng hợp Tài liệu dạy Giáo Lý Tài liệu Tuần Thánh Thánh ca Thánh ca cầu nguyện Thánh Ca Hoàng Diệp Thánh Mẫu học Thánh Mẫu La vang Thế giới Công Giáo Thơ - Truyện Công Giáo Thơ Công Giáo Thơ và cuộc sống Thủ thuật blog Thủ thuật facebook Thủ thuật google + Thư Viện Công Giáo Tiếng anh qua Lời Chúa Tiêu điểm Tìm hiểu phụng vụ Tin Công Giáo Tin Giáo xứ Tin tức Giáo xứ Lộc Thủy Tin Việt Nam và Thế Giới Tổ chức kỳ thi Giáo lý Tông huấn Giáo hội Công giáo Trang Trí Giáng Sinh Trắc nghiệm Giáo lý Trắc nghiệm Kinh Thánh Trắc nghiệm năm đức tin Truyện Công Giáo Truyện về Mẹ Tư liệu Giáo hội Công giáo việt nam Tư liệu Giáo phận Vinh Tư liệu Giáo xứ Lộc Thủy Từ vựng công giáo Anh-việt Tv Công giáo TVs và Radios khắp nơi Vấn đáp đức tin công giáo Videos Đặc Sắc Vietnamese English Prayers Vinh Quang Đức Maria Website Công Giáo bổ ích Xứ đạo đầu tiên

Đi Tìm Xứ Đạo Đầu Tiên Giáo phận Vinh 1627 - 2003 : Phần Phúc trình Linh mục E. Ferreyra ngày 03 tháng 10 năm 1676

PHẦN PHÚC TRÌNH
LINH MỤC E. FERREYRA
NGÀY 03 THÁNG 10 NĂM 1676

Một Nét Tiểu Sử Linh mục dòng Tên Emmanuel Ferreyra:

-  Sinh năm 1631 tại Lisbõa, Bồ Đào Nha.

-  Gia nhập dòng Tên năm ?

-  Lên đường đi truyền giáo ngày 19.4.1658.

-  Ngày 04 tháng 3 năm 1673, đến Phố Hiến cùng với ba linh mục Domenico Fuciti, Filippo Marini và Francisco Pimentel (cụ Chi). Riêng linh mục E. Ferreyra, sau khi trốn thoát nhà cầm quyền ở Phố Hiến, ngài lẻn về Nghệ An, nơi có đến 200 nhà thờ và nhà nguyện.

-  Năm 1675, làm bề trên dòng Tên ở Đàng Ngoài, liên tục hoạt động tại đây từ 1673 đến 1684 là năm phải bỏ Đàng Ngoài về Rôma theo lệnh của Tòa Thánh. Emmanuel Ferreyra cho hay, chỉ trong 4 tháng đầu năm 1676, ngài đã rửa tội cho 900 người lớn. Nếu tính 11 năm ở Đàng Ngoài, ngài rửa tội hơn 20 ngàn người.

-  Năm 1676, chỉ còn lại một mình ngài là thừa sai dòng Tên còn lại giúp giáo dân Đàng Ngoài, đặc biệt là vùng Nghệ An. Vì biết rõ địa lý của vùng này ngày 03.10.1676 tại một nơi có tên là Kẻ Vó thuộc tỉnh Thanh Hóa ngài đã viết bản phúc trình dài và chi tiết liệt kê 195 giáo điểm tiên khởi đã có người theo đạo Công giáo do các linh mục dòng Tên, hội thừa sai Paris Pháp và các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

-  Tháng 4 năm 1696, đời Đức Giáo Hoàng Innocens XII, linh mục E. Ferreyra cùng với hai linh mục Linô Borgia Lịch và Antong Loyola Năng, cả hai vừa được thụ phong tại Áo Môn có dịp trở lại Đàng Ngoài lần thứ hai.

-  Ngày 15 tháng 5 năm 1699, ngài qua đời tại Kẻ Sặt, tỉnh Hải Dương.


BÀI BỐN 
NGHIÊN CỨU PHÚC TRÌNH

1. Tầm Hiểu Biết Của Người Địa Phương

Chúng tôi rất lấy làm tiếc, bởi vì trong cuốn “Lịch Sử Giáo Phận Vinh”, 1996 của chúng tôi đã không có mặt bản phúc trình này. Cho nên dầu muốn dầu không phải công nhận đây là một thiếu sót lớn, làm cho việc điều tra nguồn gốc của giáo phận nói chung và nói riêng các giáo xứ liên hệ thiếu phần lý lịch chính xác[1]. Cho nên chúng tôi đã bỏ công tìm hiểu và nghiên cứu bản phúc trình này được bao nhiêu hay bấy nhiêu nhằm góp phần bổ túc cho sự thiếu sót bất khả kháng của cuốn sách nói trên.

Đã nhiều lần chúng tôi đích thân đem bản phúc trình này đi tham khảo ý kiến một số người gốc Nghệ - Tĩnh hiểu biết đang sống tại miền Nam, trong số đó có một vài vị linh mục chẳng hạn như: linh mục N V K[2], linh mục Lê Xuân Hoa, linh mục Lê Đức Trung… và mấy giáo dân có tiếng hiểu biết nhưng chẳng được mấy khích lệ.

Nhìn vào bản phúc trình này, chúng ta thấy có những tên rất rõ ràng, có những tên đọc chứ trước mất chữ sau hay ngược lại. Hoặc có những tên rất khó đọc, thiếu chữ, thiếu nét, mù mờ, mối ăn… đến nỗi chúng tôi phải dùng đến kính phóng đại truy tìm mà vẫn không đọc được nên chúng tôi đành phải chấm dấu hỏi (?) nhường lại cho những người hiểu biết hơn, hoặc có dịp liên hệ với người địa phương nơi đó.

Đàng khác, nếu so sánh vị trí một số địa danh trên bản phúc trình và vị trí tự nhiên hiện tại chúng ta thấy không ăn khớp, không liên cư liên địa với nhau cho nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tra cứu. Ví dụ: TRANG NỨA (số 45), MĨ DỤ (số 47)… trong phúc trình chỉ cách nhau một cây số, vậy mà trong khi thực tế hiện nay lại cách nhau đến hơn 20 cây số: Mĩ Dụ ra thành phố vinh 7 cây số, thành phố Vinh ra Trang Nứa 13 cây số. Hoặc trường hợp khác như Bùi Chu - Phúc Chu (số ), Bùi Ngọa - Kẻ Gốm (số ), Kẻ Nủi (số 177), Kẻ Cường (số 179), Chợ Gát (số 195) v.v…

Hơn nữa, có những nơi bản phúc trình nói có Thánh Giá (X) là có nhà thờ, có giáo dân mà ngày nay lại không thấy một vết tích nào về đạo Công giáo tại đó nữa.

Phải chăng họ di cư đi làm ăn sinh sống nơi khác?

Hay họ đã sáp nhập vào một nơi nào đó có Công giáo gần và lớn hơn?

Hay là thời ông bà có đạo mà xuống hàng con cháu không còn nữa?

Hoặc do sự khủng hoảng trong các biến cố như: bắt đạo thời các vua chúa, thời Văn Thân, thời chiến tranh…?

Đó là chưa nói đến sự phân bố dân cư không hợp lý giữa các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, làng, trang, trại, giáp, tích, vạn, kẻ, sở… Hơn thế nữa, ngày xưa đường sá giao thông lại nhỏ hẹp, quanh co khiến cho công cuộc truyền giáo khó khăn đã đành mà còn gây cho việc làm phúc trình của tác giả nhiều khi mất phương hướng.

Dầu vậy với chủ trương khiêm tốn, không tìm được cả trăm phần thì ít ra cũng phải cố làm sao đạt được đôi ba chục cũng đáng quí rồi, miễn là công việc này được coi như bước đầu giúp cho những ai có tinh thần thiện chí, biết cách tìm hiểu về sau.

Riêng chúng tôi, năm 1996, khi may mắn được cầm bản phúc trình của linh mục Emmanuel Ferreyra này trên tay, chúng tôi hết sức bỡ ngỡ và lạc lõng như chim chích giữa rừng xanh, không biết thể thức, không biết phương pháp, cơ sở nào để tìm cho ra manh mối từng nơi một.

Nhất là khi tác giả nói đến rất nhiều điểm trải dài trong 4 phủ bằng tiếng Việt cổ xưa, trộn lẫn tiếng Bồ Đào Nha được nêu tên tổng quát mà không có căn cứ cụ thể. Vì thế chúng tôi hải tự xin phép tác giả đánh số theo thứ tự từ 1, 2, 3… đến 195 trên các địa danh của bản phúc trình, một phần cho khỏi lẫn lộn, phần khác cho khỏi trùng lặp, gây khó khăn cho những ai muốn làm việc sau này.

Nói đến điểm này, chúng tôi phải một lần nữa nhớ đến và thành tâm cám ơn linh mục tiến sĩ Đỗ Quang Chính, dòng Tên, người đã tìm được bản phúc trình này tại Tổng Văn Khố dòng Tên, Rôma năm 1959 trong thời gian còn du học tại đó. Ngài đã sao chụp, thân tặng, giải thích và viết dùm thành bản văn tiếng Việt kê rõ tên các giáo điểm trong bản phúc trình đó.

Tuy nhiên, theo thiển ý chúng tôi, việc làm này rất công phu, rất giá trị nhưng chưa phải là tuyệt đối so với một vài nét chữ nguyên bản và kiểu chữ hiện đại.

Thực tế có những chữ trong văn bản viết rõ ràng, đọc và đối chiếu rõ ràng với các tài liệu lịch sử về tên làng, xã, chợ chút, cầu cống tại địa phương xưa cũng như nay thấy còn y nguyên.

Ví dụ: Kẻ Sò, Kẻ Mành, Trang Nứa, Mỹ Dụ, Kẻ Sót… những tên như vậy vừa có trong văn bản vừa có trong hiện tại.

Hoặc có những tên viết lại, đọc lại hay nói lại chữ trước, chữ sau mà vị trí không thay đổi. Ví dụ: Vàng Mai là Hoàng Mai; Văn Thai nay là Văn Thới; Kẻ Vinh nay là Vĩnh Giang; Kẻ Thương nay là Chợ Thượng…

Ngoài ra có những tên biến thể như: Kẻ Nhuôm nay là La Nham; Kẻ Rùm - Kẻ Rầm nay lầ Cầu Rầm…

Trái lại, có những tên khác hẳn như: Kẻ Cuông nay là Đông Cường; Kẻ Lứ nay là Yên Lý; Kẻ Đòn nay là Qui Chính.

2. Hình Thức Phúc Trình

Đây là bản phúc trình hết sức quí giá cho phần đất tỉnh Nghệ An và cũng rất quí giá cho bất cứ ai muốn tìm hiểu lịch sử thời sơ khai của đạo Công giáo tại vùng này.

Nói bản phúc trình hay bản báo cáo cũng được vị tác giả chỉ nhắm một mục đích là tường trình về cho Linh mục dòng Tên Filiciano Pacheco, giám sát hai tỉnh dòng Tên Nhật - Hoa[3] biết kết quả những hoạt động của các thành viên ở các nơi thăng trầm như thế nào.

Điều lưu ý hy hữu là bản phúc trình này viết trong thời gian không có Đức Giáo Hoàng, bởi vì theo lịch sử Giáo hội cho biết thì Đức Giáo Hoàng Clemente XI được chọn ngày 11.5.1669, mất ngày 22.7.1676, mãi ba tháng sau mới có Đức Giáo Hoàng kế vị tên là Innocente XI, được chọn ngày 04.10.1676, mất ngày 12.8.1689. Nghĩa là bản phúc trình này viết xong được một ngày trước khi có Đức Giáo Hoàng mới. Muốn biết thêm chi tiết này xin xem thêm bảng Danh Sách Các Vị Giáo Hoàng Rôma “SUMMI PONTIFICI ROMANI” gồm 246 vị tính đến Đức Giáo Hoàng Gioan Paulô II đương kim.

Phúc trình này được viết rất công phu, rất khoa học. Tác giả đã tỏ ra là một con người có năng khiếu về địa lý và hiểu biết rõ về địa lý chính trị của tỉnh Nghệ An thời đó.

Nói cách khác, thời này đang là thời Nhà Trịnh - Nhà Nguyễn cầm quyền. Ranh giới Đàng Trong và Đàng Ngoài là sông Gianh. Tỉnh Bố Chính đang bị chia đôi, Nghệ An đang là một tỉnh duy nhất (chưa có Hà Tĩnh như bây giờ), gồm bốn phủ lớn trong đó có nhiều huyện nhỏ, nhưng không được nói ra.

Bốn phủ lớn được kể từ ranh giới tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An trở vào cho đến giáp ranh giới hai tỉnh Nghệ An - Bố Chính (tức Quảng Bình ngày nay), tất cả gồm 195 giáo điểm[4] được phân bố trong bốn phủ lớn.

1. Diễn Châu Phủ

-  Có nhiều huyện nhỏ mà ngày nay chúng ta biết rõ tên, tính từ ngoài vào là: Quỳnh Lưu, có nơi gọi là Thanh Lưu; Đông Thành nay gọi là Yên Thành và Diễn Châu.

-  Gồm 42 giáo điểm: tác giả khéo chia thứ tự thành 7 hàng ngang và 6 cột hàng dọc.

2. Anh Đô Phủ

-  Có 4 huyện Anh Sơn, Nghi Xuân, Hưng Nguyên và Chân Lộc nay là Nghi Lộc.

-  Gồm 22 giáo điểm: 4 hàng ngang và 6 cột hàng dọc nhưng chỉ có con số 22 vì hai ô không tên.

3. Đức Quang Phủ

-  Có 3 huyện Đức Quang nay là Đức Thọ, Hương Sơn và Can Lộc.

-  Gồm 90 giáo điểm: 15 hàng ngang và 6 cột hàng dọc.

4. Hà Hồng Phủ[5]

-  Có 2 huyện Thạch Hà, Hà Hoa cũng là huyện Kỳ Hoa nay là Kỳ Anh.

-  Gồm 41 giáo điểm: 7 hàng ngang và 6 cột hàng dọc vì 1 ô không tên.

3. Nội Dung Phúc Trình

Căn cứ theo tinh thần văn bản chúng ta thấy tác giả có dụng ý điểm danh đến mức tối đa những xóm làng đã và đang có sự hiện diện của Đạo Chúa trên phần đất tỉnh Nghệ An và được phân phối trong 4 phủ như đã nói trên.

Nói chung chỉ trong 49 năm (1627 – 1676), toàn bộ Nghệ An đã có được những xóm làng theo đạo kỷ lục như vậy là nhờ công ơn Giáo sĩ Đắc Lộ và các nhà truyền giáo dòng Tên đi trước cùng các vị khác trong hội thừa sai Paris Pháp tiếp tay.

Tuy vậy cũng không lấy làm lạ lắm, bởi vì nếu nói cho đúng thì nguyên bản thân Giáo sĩ Đắc Lộ cũng chỉ có vỏn vẹn trong một thời gian ngắn mà ngài đã đi hầu hết tỉnh Nghệ An. Không hiểu ngài đi bằng cách gì? Đi bộ, khó khăn, mất giờ, không được mấy nơi! Đi biển, có thể lắm, nhưng việc đó không phải dễ vì thời gian ngài đến tính theo Dương Lịch là tháng 5, 6, 7 thời tiết tương đối; còn từ tháng 8, 9, 10 thường có bão tố, lụt lội. Đi sông, cũng thế nhưng có phần đỡ hơn và chỉ đi được giữa tỉnh Nghệ An là nơi có sông Lam, sông La, sông Cấm; phía trong có sông Cương Gián, sông Hộ Độ và phía ngoài có sông Bùng, sông Mai Giang. Vì hồi đó chưa có kênh Sắt, kênh này mới được Tiên sinh Nguyễn Trường Tộ giúp đào năm 1866, nên việc nối liền các sông trong với các sông ngoài là điều không thể.

Vậy mà trong bản đồ chính tay Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ đã có địa danh ngoài hết là Vàng Mai nay là Hoàng Mai, Yên Hòa thuộc phần đất giáp ranh với tỉnh Thanh Hóa, trong cùng là Cua So, Cửa Sót và lên đến vùng Kẻ E, Kẻ Mui, Phố Quát…

Nói tóm lại, việc nghiên cứu lại cuộc hành trình của Giáo sĩ Đắc Lộ trên phần đất tỉnh Nghệ An cách đây 375 năm về trước là một việc làm hết sức ý nghĩa, hết sức quí giá, đòi hỏi nhiều sự đóng góp nơi những người thiện chí, những người hiểu biết địa phương và các thế hệ tương lai.

4. Giá Trị Phúc Trình

Như nhiều lần, nhiều nơi chúng tôi đã nói đến bản phúc trình này, bởi vì phải công nhận đây là một tài liệu hết sức quí giá chỉ có riêng tại phần đất tỉnh Nghệ An mà không có nơi nào khác trong Nam ngoài Bắc, ngay cả tỉnh Bố Chính kề bên cũng không được như thế.

Sở dĩ phải nói bản phúc trình hết sức quí giá là vì tuổi thọ 327 năm (1676 - 2003) và do một linh mục thuộc hội dòng Tên người Bồ Đào Nha viết, vừa bằng tiếng Việt cổ xưa khi chữ Quốc ngữ mới được thành lập thời Giáo sĩ Đắc Lộ đến Việt Nam (1624 - 1645).

Những xóm làng có đạo được nêu tên trong bản phúc trình này lẽ dĩ nhiên nơi trước, nơi sau, ít nhiều năm như thế nào không rõ, nhưng theo pháp lý mà nói thì tất cả 195 giáo điểm này đều có chung một số tuổi như nhau là 327 năm tính đến năm 2003 này.

Nói đến khai sinh, chúng ta phải liên tưởng đến những địa danh mà Giáo sĩ Đắc Lộ đã ghi tên trên bản đồ của ngài là: Vàng Mai (Hoàng Mai), Ke Len (Khi Lan), Ke En (Làng Ênh), Cvaciva (Cửa Chúa), Cua Rum (Cửa Rùm), Rum (Cầu Rầm), Ke Vinh (Kẻ Vĩnh), Cua So (Cửa Sót) của tỉnh Nghệ An và địa danh thứ chín là Ke Hoa (Trung Hòa) của tỉnh Bố Chính (Quảng Bình), tất cả đều có chung số tuổi là 375 năm.

Như vậy, theo chữ nghĩa giấy tờ mà nói thì bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ là bản khai sinh thứ nhất; bản phúc trình của Linh mục Jean Cabral, thừa sai MEP là bản khai sinh thứ hai; và bản phúc trình của Linh mục Emmanuel Ferreyra là bản khai sinh thứ ba, cũng là bản đầy đủ nhất.

Nói cách khác, bản phúc trình này được coi như là bản “khai sinh tập thể” cho tất cả các xóm đạo có tên trong bản phúc trình. Do đó nói rằng xứ này có trước, xứ kia có sau là điều khó có thể chứng minh vì cho đến nay chưa có ai tìm được văn bản nào khác hơn để minh chứng điều đó, ngoại trừ những địa danh được chính thức nêu tên trong bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ. Vì thế, khi viết lịch sử cho một giáo xứ hiện có trong ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình hôm nay bắt buộc phải soi chiếu trên bản phúc trình này mới có thể tìm ra nguồn gốc chính xác và tên tuổi của mình.

5. Nguyên Bản Phúc Trình

Một Cuộc Gặp Gỡ Vòng Vo Hy Hữu

Tôi không nhớ ngày tháng nào của năm 1996, nhân dịp đến thăm một người bạn ở dòng Phanxicô, phường Đa Kao, quận 1, Sàigòn. Khi ra về, linh mục Vương Đình Khởi trao cho tôi một bản photocopy viết dày đặc và hỏi tôi ý nghĩa làm sao.

Vì là lần đầu tiên và hoàn toàn bất ngờ, tôi cầm trên tay mà không hiểu gì hết. Về nhà, tôi bắt đầu suy nghĩ và nhận thấy không phải tiếng Pháp, không phải tiếng La Tinh, và phỏng đoán tiếng Tây Ban Nha, cộng với tiếng Việt với kiểu chữ lạ. Dầu vậy tôi cũng hiểu được một chút về nội dung nhờ mấy chữ na ná tiếng La Tinh, tiếng Pháp.

Nhưng bằng ấy không đủ, tôi phải nhờ đến những người khác. Trước tiên là Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, làm việc tại UNESCO, cơ quan văn hóa thế giới, tại Thụy Sĩ, nơi tập trung cả trăm thứ ngôn ngữ, về thăm nhà tại Gò Vấp năm 1996. Ông đã nhận lời nhưng vì sợ xa quá, lâu quá đành phải nhờ đến một linh mục khác gần hơn. Vị này không hiểu nên đã giới thiệu qua linh mục Bùi Đức Sinh, dòng Đa Minh, thành phố Hồ Chí Minh. Vị này cũng không hiểu nữa và đã đưa đến linh mục Tiến sĩ Đỗ Quang Chính - chuyên nghiên cứu những văn bản tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Việt cổ xưa. Biết rõ đây là tài liệu chính mình đã sưu tập và ghi chú hồi tháng 5 năm 1968, linh mục Đỗ Quang Chính đã viết lá thư phúc đáp đề ngày 30.12.1996 qua linh mục Bùi Đức Sinh.

Sau khi biết rõ nguồn gốc, tôi đã trực tiếp đến gặp linh mục Đỗ Quang Chính tại nhà riêng, số 43 đường Lê Phát Đạt, quận Tân Bình để nhờ giúp phiên dịch toàn bộ ba trang số: 373U + 373V + 374 rút từ gốc lưu trữ tại Tổng Văn Khố Dòng Tên Roma. Vì là bạn đồng lớp, đồng trường ở Đại chủng viện di cư Lê Bản Tịnh, số 2 đường Làng 21, Gia Định, linh mục Đỗ Quang Chính đã ân cần giúp đỡ như sẽ thấy trong hai lá thư dưới đây:

·  Lá thư thứ nhất:

Tân Bình, 30.12.1996

Thưa Cha đáng kính,

Cách đây mấy ngày, cha Bùi Đức Sinh đã trao cho tôi mấy tờ giấy cha gửi cho tôi. Vâng, tôi xin trả lời, theo sự hiểu biết của tôi:

1.    Chính bản photocopy cha gửi cho tôi, nguồn gốc như sau: Tháng 5 năm 1968 tôi đã làm việc ở Archivum Romanum Societas Jesu, tại Borgo S. Spirito ở Roma. Và tôi đã chụp tài liệu này. Khoảng ba năm trước đây (1993), tôi đã gửi cho linh mục Vương Đình Khởi một bản. Chắc cha Khởi in ra, gửi cho cha Cao Vĩnh Phan - xin cha xem ở trang 1 là nét chữ của tôi đấy - Tài liệu này hiện lưu trữ ở Roma.

2.    Còn một bản khác, cũng giống tới 99% (thời xưa, khoảng 1745 ở Áo Môn người ta chép lại) hiện được lưu giữ ở Lisbõa (Lisbon): Bibliotica da Ajudana Asia, 49 -II- 31, fol. 44 - 46.

3.    Tác giả tài liệu là cha Emmanoel Ferreyra [Emmanuel Ferreyra], tiểu sử như sau:

-   Sinh 1631 tại Lisbõa, gia nhập dòng Tên năm ?

-   19.4.1658 đi truyền giáo - ở Đàng Ngoài lần I: 1673 - 1684.

-   1684, bỏ Đàng Ngoài về Roma vì bị Tòa Thánh gọi về.

-   1696, trở lại Đàng Ngoài sau khi Tòa Thánh cho phép.

-   15.5.1699, qua đời tại Kẻ Sặt.

Tài liệu Ferreyra viết năm 1676, là lúc E. Ferreyra một mình (S.J) hoạt động ở vùng Nghệ An.

4.    Tài liệu bằng Bồ ngữ Quốc ngữ, không phải Tây Ban Nha như ai đó đã viết.

Emmanuel Ferreyra không phải là “thanh tra”, nhưng thực sự hoạt động ở Nghệ An…

5.    Dòng đầu: Provincia do     Reino de       Tonkim

                     Tỉnh của       vương quốc   Đông Kinh

             chamada    Nghean,    ou Guian

                gọi là       Nghệ An   hay Guiam

[Nghệ An, viết chữ Bồ cũng giống như Tonkim bởi Kinh Thành]

6.    Còn mấy dòng sau, xin dịch (trang 1)

“Được chia ra trong bốn khu vực [phủ] với tất cả xóm làng của các Kitô hữu.

“Dấu k chỉ những nơi, bổn đạo theo dòng Tên.

“Nơi nào không ghi dấu gì riêng, là nơi bổn đạo theo các giáo sĩ [người Đàng Ngoài] (tức theo nhóm M.E.P) (clerigos = clercs).

“Dấu X xóm làng có nhà thờ đàng hoàng”.

7.    Dịch 9 dòng đầu trang 2:

“Desdas 22 aldeas sò sinco [v.v…]:

“Trong 22 xóm làng này, chỉ có 5 theo các Clergos, còn 17 theo dòng Tên.

“Khu vực thứ ba: Đức Quang Phủ gồm 90 xóm làng [có] Kitô hữu.

“Trong làng Khi Lân là trung tâm tỉnh, có nhà riêng của cha dòng Tên [ lúc ấy là Ferreyra], và từ đó cha đi ra ngoài thăm viếng các Kitô hữu trong tất cả các xóm làng của Nghệ An”.

8.    Dịch trang 3:

“Khu vực thứ bốn: Hòa Hòă phủ gồm 41 xóm làng [có] Kitô hữu”

Lưu ý:

·          Tác giả (người chép) viết sai; phải viết Hạ Hoù (Hồng) phủ. Vậy phải viết Hạ Hồng Phủ.

·          Thời đó, cũng có Thượng Hồng Phủ.

9.    Những dòng cuối trang 3, xin tóm tắt (vì con bận quá):

“Tổng số 195 xóm làng của Nghệ An, chỉ có 39 theo Clerigos, còn 156 theo dòng Tên.

“Ở Bố Chính còn 30 xóm làng có Kitô hữu, hoàn toàn theo dòng Tên. Tổng cộng 186 làng theo dòng Tên.

“Ở Nghệ An có 53 nhà thờ được xây dựng do các cha dòng Tên, nhưng cách Clerigos chiếm mất 18.

“Chưa có giờ làm thống kê 5 tỉnh [xứ] còn lại. Phần nhiều ở tỉnh [xứ] Đông, Bắc, Tây đều theo dòng Tên”.

Chúc Cha khỏe luôn.

Xin lỗi Cha, con bận quá, nên viết lạn như thế.

Kính

- Xin nhớ đây chỉ là bản do 1 copiste (Alvares) chép lại, không phải nguyên bản với nét chữ của E. Ferreyra.

- Phải hiểu bối cảnh Giáo hội Đàng Ngoài thời ấy, mới hiểu rõ bản báo cáo này hơn.

·  Lá thư thứ hai:

Tân Bình, 14.01.1997

1.    Đây là những điều linh mục Emmanuel Ferreyra viết ở cuối trang ba về bản báo cáo các xóm làng có Kitô hữu ở Nghệ An, tôi xin dịch:

“Tổng cộng tất cả những nơi có bổn đạo sống trong bốn phủ của Nghệ An (Guião) là 195. Trong số những nơi này chỉ có 39 theo các giáo sĩ, và các nơi khác, tức là 156, theo các cha dòng Đức Chúa Giêsu.

“Lại còn phải thêm 30 xóm làng trong lãnh thổ Bố Chính, là nơi gần biên thùy của Đàng Trong. Tại các làng này, người ta chỉ chấp nhận các cha dòng Đức Chúa Giêsu, và không chấp nhận các giáo sĩ bất cứ cách nào; như vậy tổng số là 186 xóm làng theo chúng ta (S.J) trong tỉnh (xứ) Nghệ An; chưa nói đến nhiều bến thuyền của các nhà buôn và dân đánh cá, là những người luôn luôn sống trên sông nước, và hầu hết họ lại theo chúng ta (S.J).

“Các nhà thờ được xây dựng trong Nghệ An là 53: các giáo sĩ Đàng Ngoài (linh mục Việt Nam theo phe M.E.P) đã chiếm dụng 18 nhà thờ mà các cha cựu Thừa sai của dòng chúng ta (S.J) đã xây cất trong tỉnh này.

“Người ta chưa có thời gian làm một bản báo cáo giống như thế về 5 tỉnh (xứ) khác của Vương Quốc Đàng Ngoài; sẽ làm báo cáo với dịp tới. Lúc này chỉ biết cách tổng quát rằng, nhìn chung các tỉnh (xứ) Đông, Bắc, Tây theo dòng Đức Chúa Giêsu.

“Trong tỉnh (xứ) Nam (vùng Nam Định, Bùi Chu) các giáo sĩ có gần tới một nửa các họ đạo và phần lớn của Thanh Hóa, nhưng họ không có được các họ đạo đó, nếu ở đây có nhiều thừa sai (Dòng Đức Chúa Giêsu) hơn để ở tại đây và lo cho tất cả các tỉnh (xứ). Vậy hãy xin cùng Chúa mùa màng, để Ngài phái nhiều thợ làm mùa màng của ngài.

Tại Đàng Ngoài ngày 03 tháng 10 năm 1676.

Emmanuel Ferreyra

2.    Dựa trên các manuscrits tôi chụp được về ghi ra từng xóm làng Công giáo, cuối thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVIII, chỉ thấy ghi vắn tắt trong “bán tỉnh” (Semi - Provincia) Bố Chính có số bổn đạo trên 4.000.

Sau này, nếu thấy được đâu đó có tên các họ đạo Bố Chính vào cuối thế kỷ XVII, sẽ thưa với cha.

Kính chúc cha khỏe luôn.

                                                           Kính:

                                         Linh mục Đỗ Quang Chính

6. Cách đọc Phúc Trình

Như đã nói trên, bản phúc trình này được viết bằng tiếng Việt cổ xưa vào thời kỳ đầu mới thành hình. Thêm vào đó, với thời gian, nó không còn nguyên vẹn như xưa, nên khá khó khăn trong việc tìm hiểu, tra cứu, kể cả cách đọc. Tuy nhiên, nhờ căn cứ theo cách ghi chép chữ “quốc ngữ” vào thời đó của một số vị, nhất là những vị cùng dòng Tên với tác giả bản phúc trình.

Dưới đây, chúng tôi xin phép trích thư của một số vị:

·   Igesico Văn Tín:

Ngày 12.9.1659, tại Kẻ Chợ, thầy giảng Igesico Văn Tín viết một bức thư nói về tình hình giáo đoàn Đàng Ngoài, gửi thừa sai Marini lúc bấy giờ đang ở Rôma:

“Từ nam thầ [Marini] tlẻi [trảy] vè khỏy thì hay [hai] thầ ở lạy [lại] chịu nh sự


TẤM BIA LỊCH SỬ GIÁO PHẬN VINH

1.    Nhà Truyền giáo đầu tiên: Linh mục Jean Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) 1627 - 1629.

2.    Hai Thầy sư trở lại đầu tiên: Bênêđictô quê Vàng Mai, Nghệ An và Anrê Tri quê Kẻ Sót, Hà Tĩnh 1627.

3.    Ba tín hữu đầu tiên cũng là ba Giáo lý viên đầu tiên: Simon quê Cửa Chúa (Cửa Lò), Nghệ An và Phêrô, Anrê Tri quê Cửa Sót (Kẻ sót, Trung Nghĩa), Hà Tĩnh 1627 - 1629.

4.    Xứ đạo đầu tiên: Vàng Mai, Quỳnh Lưu, Nghệ An 1627.

5.    Ông Trùm đầu tiên: Simon, quê Kẻ Hòa (Trung Hòa, Mỹ Hòa), Bố Chính (Quảng Bình) cuối tháng 4.1629.

6.    Thánh lễ đầu tiên: tại Kẻ Rùm (Cầu Rầm), Nghệ An, trên tàu buôn người Bồ Đào Nha 28.10.1629.

7.    Linh mục địa phương đầu tiên: Bênêđictô Hiền, quê Đông Kiền (Yên Đại), Nghệ An 1668.

8.    Linh mục quản xứ đầu tiên: Mactinô Mật, ở Làng Cầu, Đức Thọ, Hà Tĩnh 1670.

9.    Nhà đại cách tân đầu tiên Công giáo: Phêrô Nguyễn Trường Tộ quê Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An) 1830 - 1871.

10.              Tử đạo đầu tiên: Thánh Phêrô Lê Tùy, tại Kẻ Đòn (Qui Chính), Nghệ An 11.10.1833.

11.    Giám mục Thừa sai đầu tiên: Gauthier Ngô Gia Hậu 1846 - 1877.

12.    Giám mục địa phương đầu tiên: Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, quê Thổ Hoàng, Hương Khê, Hà Tĩnh 1951 - 1971.

                                                    Người nghiên cứu lịch sử

                                                 LM JBT. CAO VĨNH PHAN

                                                      Gia Hưng, Quảng Bình

                                                               Sàigòn 2003

_____________________

Phủ thứ nhất

Diem chu phủ [Diễn châu phủ]

Gồm 42 xóm đạo

X 🙵 Vàng mai   X      Hỏi dà         🙵 Kẻ mành         🙵 Kẻ qoèn

   🙵 Kẻ tru            🙵 Kẻ quát        🙵 Thiên an      X      Kẻ lứ

   🙵 Van thôi        🙵 Trang hậu     🙵 Văn phàn        🙵 Côn đòŭ

   🙵 Kẻ rân            🙵 Kẻ dưa      X 🙵 Kẻ cuôi       X 🙵 Bến đền

X 🙵 Càu lửa          🙵 Kẻ ngói        🙵 Ngã ba        X 🙵 Dinh tlo

   🙵 Trang chè      🙵 Ban ho         🙵 Kẻ sừng      X 🙵 Văn tlaỏ

   🙵 Kẻ sen           🙵 Trang lao      🙵 Trang lang      🙵 Trang can

   🙵 Trang nóŭ      🙵 Trang nàn     🙵 Câu dài           🙵 Chấm chốt

X 🙵 Núi tlon         🙵 Kẻ tràm        🙵 Làng dắp    X      Kẻ sò

   🙵 Kẻ saŏ           🙵 Trăn gió       🙵 Kẻ nguôi     X      Trang mau

   🙵 Cây quao       🙵 Trang trai

Trong 42 xóm làng này, chỉ có 4 theo các Giáo sĩ còn 38 theo Dòng [Đức Chúa Giêsu].

Phủ thứ hai

Anh đồ phủ

Gồm 22 xóm đạo

X 🙵 Kẻ ngói          🙵 Trang mối             Trang nứa    🙵 Kẻ ràng

X 🙵 Mi du             🙵 An phúc             Kẻ rùm         🙵 Kẻ sét

   🙵 Kẻ hòŭ               Kẻ leŏ            🙵 Kẻ sao           🙵 Mi trùm

   🙵 Kẻ táp            🙵 Kẻ giôi           🙵 Kẻ vạc           🙵 Kẻ tanh

   🙵 Kẻ nhuôm      🙵 Kẻ đòn        X 🙵 Bao cỏ                Kẻ nghen

       Dồ lương    X 🙵 Van lang

Trong số 22 xóm làng này, chỉ có 5 theo các Giáo sĩ, còn 17 theo Dòng [Đức Chúa Giêsu].

Phủ thứ ba

Đức quang phủ

Gồm 90 xóm đạo

Trong làng Khi lan, là trung tâm của tỉnh, Cha Dòng Tên [Đức Chúa Giêsu] có nhà riêng, từ đó Cha đi thăm viếng tất cả xóm [đạo] của Nghệ An.

X 🙵 Khi lan                  🙵 Kẻ nẫy              X     Kẻ rách                🙵 Kẻ cấm

X 🙵 Kẻ lần                    🙵 Trang gốm           🙵 Nhà cao             X 🙵 Hàng đâu

X     Kẻ lò                      🙵 Trang gio          X 🙵 Kim đôi                🙵 Láp cao

       Nha ngà                🙵 Làng ấn               🙵 Làng hin                    Làng hưa

X     Trang cảnh       X 🙵 Phúc thọ               🙵 Kẻ vĩnh                🙵 Phúc chu

X 🙵 Be nao                   🙵 Dồ huien              🙵 Của mẩy              🙵 Trang bao

   🙵 Trang mây            🙵 Lai xoŭ                🙵 Cang gián          X 🙵 Kim dôi xã

X 🙵 Kim dôi môm      🙵 Kẻ sót                   🙵 Kẻ đòŭ khì           🙵 Chợ chế

X 🙵 Phù tăch                🙵 Hat la                   🙵 Phù tăm                🙵 Phi caỏ

   🙵 Nam hŏa đòŭ        🙵 Nam Hŏa tứ            Làng cau                   Kẻ phuống

X     Kẻ rố                  X     Hà dĕang                Dang sơn             🙵 Kẻ đăõ

   🙵 Trai bãi                      Kẻ trải              X     An ấp                         Kẻ gồi

X     Vức nam            X 🙵 Bên lôi               X 🙵 Kẻ mui              X     Kẻ phố

X     Deo dù                  🙵 Tam sã              X 🙵 Kẻ thuong            🙵 Hà nhà

X 🙵 Hŏa huien         X     Lang thŏũ        X     Câu lim                     Câu cáõ

   🙵 Ngay làng                  Kẻ hạ                   🙵 Trăng cao             🙵 Kẻ nuốt

   🙵 Kẻ bảo                   🙵 Ba dề                 X 🙵 Thổ hoăng           🙵 Trai cay

   🙵 Lăm thao              🙵 Bâu kê                  🙵 Bang tro                🙵 Vưc mu

   🙵 Van túc                      Van soŭ            X 🙵 Hà đoŭ                 🙵 Trang bôŭ

   🙵 Nhà dào                 🙵 Nhà douc             🙵 Lai tăch                🙵 Kiét tách

   🙵 Làng giữa              🙵 Bặt tặc                 🙵 Kẻ cưa                  🙵 Làng tlước

       Dái mouc              🙵 Ngã kẻ                  🙵 Chợ dinh              🙵 Ốc kê

   🙵 Cây sou                 🙵 Đàŏ xơ

Trong 90 xóm làng, chỉ có 21 theo các Giáo sĩ, còn 69 theo Dòng [Đức Chúa Giêsu].

Phủ thứ tư

Hà Hŏa phủ [Hạ hồng phủ]

Gồm 41 xóm đạo

 X 🙵 Kẻ nghèn              🙵 Con tlóŭ               🙵 Bên chăn           X 🙵 Trai vo

X 🙵 Tam cháy             🙵 Hŏa đàŏ            X 🙵 Kẻ lả                     🙵 Trai rôm rôm

   🙵 Kẻ loi                     🙵 Kẻ bàng               🙵 Kẻ nèn                  🙵 Kẻ khŏai

   🙵 Kẻ trển               X     Hŏa thu            X 🙵 An nghiên            🙵 Kẻ cốt

X     Kẻ nhien           X     Thinh bói             🙵 Kẻ sổ                     🙵 Trai dất

   🙵 Kẻ gác                   🙵 Nhà lá                   🙵 Kẻ nủi                X 🙵 Kẻ sò

X 🙵 Kẻ cuồng              🙵 Kẻ báy              X     Kẻ khinh                   Chợ bức

   🙵 Kẻ mùng           X     Tang cho                 Cây la                   🙵 Van xếp

       Van cảnh              🙵 Van cao               🙵 Dinh cao              🙵 Vàn trô

   🙵 Kẻ trum                 🙵 Cửa soŭ                🙵 Van khi xuênh

   🙵 Trang lô                 🙵 Chợ gát

Trong 41 xóm làng, chỉ có 8 theo các Giáo sĩ, còn 33 theo Dòng [Đức Chúa Giêsu].

PHÓNG ẢNH BẢN ĐỒ AN NAM

Thời Các Thừa Sai

bản đồ Annam thời các thừa sai

Sau khi lui về Macao và ở đó mười năm (1630-1640), giáo sĩ (Đắc Lộ) lại được phái tới Đàng Trong. Trong năm năm, ông đã đi đi về về tất cả bốn lần… Theo bản đồ “Nước An Nam gồm có hai nước Đang Ngoài và Đàng Trong do các cha Dòng Tên vẽ tại Paris tức Bản Đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ…”… (HT & TG, lời của dịch giả Hồng Nhuệ trang XI)


Lưu ý: Phóng ảnh hai tỉnh Nghệ An Bố Chính do Lm. Cao Vĩnh Phan trích từ nguyên bản (1999) để chứng minh chính cha Đắc Lộ đã đến truyền giáo tại những nơi có tên trong bản đồ như: Vang Mai, Cua Rum, Ke Hoa…

VỊ TRÍ CỬA CHÚA (CỬA LÒ)
Trích sách Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615-1777
của tác giả Đỗ Quang Chính

Vị trí cửa chúa cua civa ngày nay


BÀI NĂM 
LÝ LỊCH TỪNG GIÁO ĐIỂM

Để khỏi mang tiếng lý thuyết suông, để khỏi mất đi một công trình quí giá và nhất là để báo đáp công ơn các vị truyền giáo thời sơ khai, chúng ta nên đem tất cả nội lực tìm hiểu nguồn sử liệu chung của giáo phận và riêng từng giáo xứ. Đặc biệt, căn cứ vào phúc trình của Linh mục dòng Tên Emmanuel Ferreyra ngày 03.10.1676 ghi nhận tại Nghệ An có 195 xóm đạo. Vì dầu muốn dầu không con số 116 giáo xứ lớn nhỏ hiện có tại Nghệ An và Hà Tĩnh hôm nay đều bắt nguồn từ những “xóm đạo” có tên trong phúc trình ấy!

Thế nhưng, nếu có ai bất chợt hỏi rằng giáo xứ này có nguồn gốc ra sao, lâu mau thế nào, hiếm ai trả lời được. Hầu như giáo xứ nào ở giáo phận Vinh (Nghệ - Tĩnh - Bình) cũng rơi vào hoàn cảnh đó. Kinh nghiệm cho hay ít ai để ý đến chuyện này, kể cả nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận.

Trước đây đã một lần chúng tôi làm công việc này, nhưng tiếc là điều kiện bất khả kháng thời đó, nên thiếu mất phần đầu và là phần quan trọng bậc nhất. Hôm nay một công hai việc, chúng tôi xin phép bổ sung những gì may mắn có được qua tìm hiểu và tiếp xúc cá nhân với một số bà con đang sống tại những địa phương ấy. Cho nên, dựa theo lời ông bà, cây có cội, nước có nguồn, xứ đạo có người vun trồng, xây dựng, chúng tôi cố gắng “đi tìm xứ đạo đầu tiên giáo phận Vinh” với niềm hy vọng đóng góp chút gì cho nguồn sử liệu giáo phận; đồng thời, khơi gợi khả dĩ tạo tiền đề cho việc tìm hiểu thêm sau này…

Chúng tôi đã thấy, đã đọc và cảm phục những bộ lịch sử đồ sộ của các giáo phận Sàigòn, Hà Nội, Phát Diệm, Bùi Chu, Huế, Lạng Sơn, Nha Trang… Nhiều giáo xứ, giáo họ cũng được ghi chép chu đáo, cẩn thận với những nhân vật nòng cốt từ giáo dân đến ban hành giáo, linh mục, giám mục.

Dưới đây là mấy nét tiêu biểu từng phần của phúc trình, bắt đầu từ ranh giới Thanh Hóa vào đến Đèo Ngang, Quảng Bình, nghĩa là từ Bắc Nghệ An đến hết Nam Nghệ An, bao gồm cả phần đất Hà Tĩnh. Bởi vì như đã biết, tỉnh Hà Tĩnh mới được vua Minh Mạng thành lập năm 1831 sau phúc trình này 156 năm.

Phần tìm hiểu các địa danh, chúng tôi khoanh lại trong phạm vi từ thế kỷ XVII, XVIII, XIX đến nửa đầu thế kỷ XX dựa trên một số bản đồ cổ như bản đồ Hồng Đức (1470 - 1497), bản đồ Giáo sĩ Đắc Lộ 1650, bản đồ truyền giáo của Hội thừa sai Paris 1889, bản đồ Địa Dư Đông Dương 1911, bản đồ Địa Dư Đông Dương 1935… Đặc biệt, Sách Tên Làng Xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm còn giữ nguyên các phủ mà phúc trình 1676 ghi nhận.

Như đã nói trên, nguyên phúc trình của Thừa sai E. Ferreyra không có số thứ tự và lẽ dĩ nhiên không được phân chia thành chương đoạn, nhưng do nội dung quá súc tich, nên chúng tôi tạm chia phúc trình thành hệ thống, cụ thể: Phủ Diễn Châu I, Phủ Diễn Châu II, Phủ Anh Đô, Phủ Đức Quang I, Phủ Đức Quang II, Phủ Đức Quang III… để tiện việc đối chiếu và theo dõi.

PHỦ DIỄN CHÂU (I)

Gồm 2 huyện Quỳnh Lưu và Đông Thành:

I. HUYỆN QUỲNH LƯU

Có 4 tổng, 69 xã, thôn, giáp, phường, sách, trang, trại.

1. Tổng Hoàn Hậu có 20 xã, thôn, phường, giáp, trại: thôn Thượng An, hai thôn Phù Sa và Hoa Động, giáp Xuân Làng thuộc xã Hoàn Hậu, thôn Nghĩa Lý thuộc xã Hoàn Hậu, Hoàn Minh, thôn Hoàn Lương, thôn Ngọc Chi thuộc xã Bào Ngọc, Hoàn Đa, giáp Hoàn Nội, thôn An Trường thuộc xã Bào Ngọc, thôn An Điều thuộc xã Bào An, thôn Trung Lập thuộc xã Bào Trung, thôn Ngọc Diễn thuộc xã Bào Diễm, phường Thuận Nghĩa, trại tứ chiếng, phường Phú Mão, phường tứ chiếng Bác Võng, phường tứ chiếng Trúc Võng, phường tứ chiếng Hàm Ngư.

2. Tổng Thanh Viên có 21 xã, thôn, giáp, phường: thôn Ngọc Đà Đoài thuộc xã Thanh Viên, giáp Trung Thị, thôn Đăng Trường, thôn Bút Liễn, Thanh Đường (hai thôn Đông và Trung), thôn Thanh Đoài, giáp Ngô Viên thuộc xã Thanh Sơn, thôn Ngọc Thanh, phường Phù Sa Đông, xã Bào Hậu, thôn Văn Phúc thuộc xã Nhân Lý, Nhân Sơn, Nhân Huống, Đồng An (hai thôn Thuận An và Đồng Bạch), phường Đồng Vực thuộc xã Đồng An, Tiên An, Bản Cầu, phường tứ chiếng Cầm Trường, phường tứ chiếng Cồn Hào, phường Thủy Du, thôn Nhân Phúc.

3. Tổng Hoàng Mai có 12 xã, thôn, giáp, phường: thôn Trú Kỵ thuộc xã Hoàng Mai, thôn Dị Nậu thuộc xã Hoàng Mai, thôn Quí Vinh thuộc xã Hoàng Mai, phường thịnh cư Ngọc Để, Thọ Mai, Kim Lung, Hương Cần, thôn Phú An thuộc xã Vụ Duyệt, thôn Bảo An thuộc xã Vụ Duyệt, phường tứ chiếng thủy cư, giúp Vĩnh Lộc thuộc xã Hương Cần, phường tứ chiếng phù cư.

4. Tổng Quỳnh Lâm có 16 xã, thôn, phường, giáp, sách, trang, trại: giáp Hữu Vĩnh thuộc xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Trụ, giáp Mỹ Lộc thuộc xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Hoa, thôn Bất Sảo thuộc xã Xuân Lâm, thôn Lam Cầu, xã Thạch Động, Mỹ Hoa, Thạch Cầu, Nhân Hậu, thôn Thọ Trường, Tiên Đội, trang Phúc Lộc, trại Cây Dừa, sách Tam Lễ, trang Phú Xuân.

II. HUYỆN ĐÔNG THÀNH

Có 7 tổng, 242 xã, thôn, trang, sách, giáp, phường.

1. Tổng Cáo Xá có 34[6] xã, thôn: Cao Xá (thôn Trung Song, An Lãng, Xuân Lôi, Quản Thị, Tuấn Kiệt, Hậu Song, Phong Hoa Trung, Thịnh Khánh, Phong Hoa Đông, Tiền Song và Hậu Giáp), Hạc Linh (hai thôn Hoa Linh và Phúc Lộc, thôn Đa Phúc), Xuân Lịch, Trang Xuân, Hương Quan, Đại Hoa (thôn Trung Hậu, Hữu Lộc, Đông Phục, Trường Khê, Đông Hạnh, Thổ Ngõa), phường Chùa Thị (chùa thị phường), Hương Ái, An Bồ ( thôn Tràng Thân, Mai Các, Minh Tự, Xuân Lịch và An Xuân), Hạnh Lâm (thôn Kim Hoa, thôn Thổ Ngõa, thôn Nguyễn Thượng, thôn Hạnh, Gia và Hậu), Hoa Lâm, phường Để Võng, Hoa Dương.

2. Tổng Vạn Phần có 44 xã, thôn, giáp, vạn, tộc: xã Vạn Phần (thôn Thọ Xuân, Vạn Trường, Đông Thượng, Đông Tự, Tây Thượng, Tây Kỳ), An Lý (thôn Thượng, thôn Đông, thôn Ngoại), Đông Câu (thôn Kim Âu, Thịnh Đại, Phúc Thịnh, Trung Mỹ), An Cư, An Ngu (thôn An Thâm, Nhà Ngu), Tây Lũy (thôn Đông Khê, Tây Khê), Mỹ Nao (thôn Thượng, thôn Trung, thôn Mỹ Lộc), Cát Xuyên (thôn Nội Nượng, Đồng Phần, thôn Cần Cát), An Thống Đông Lũy (thôn Nha Nghi, Hướng Dương, Đông An, Cụ Lại), trang Đông Câu Thượng, Đông Tháp, Tiên Lý (thôn Ông Cấu Phú Lộc, thôn Ly Bãi), Hoa Lũy, Trừng Bích, tộc Giáo Phường, vạn Điển Tân, Đông Trai, Thừa Sủng, thôn Hoa Duệ.

3. Tổng Quan Trung có 49 xã, thôn: Nguyễn Xá (thôn Viên Minh, Hậu Luật, Vân Nam, Bảo Cử, An Duệ, Xa Hội, Trầm Nội, Bảo Nham, Tiên Hồ), Giang Triều (thôn Châu Trung, Quang Trạch, thôn Như, Vân Đạm, Quang Hà), Quan Trung (thôn Trung Phường, Vĩnh Tuy, Bảo Tháp, Viên Sơn, Hậu Sơn, An Xá, Trường Sơn, Ngọc Lâu, Mã Lai, trại Trường Sơn Đan Trung), Thái Xá (thôn An Nhân, Bút Trận, Thổ Sơn, Vân Tập, Cá Trà, tộc Phù Lâm thuộc thôn Đông Đệ Nhất, thôn Hào Cường, thôn Đệ Nhất, Phú Điền, Đậu Phú, Trú Nhi, Thổ Ngõa, Nội Phì), sở Đồn Điền Nà (tộc Quần Sở, tộc Quần Phủ, tộc Quần Điếm, tộc Quần Dài), Sơn Triều (thôn Hợp Sơn, thôn Phú Kiến), tộc Đồn Điền Biệt sở, Hoàng Xá ( thôn Hoa Lâm, Hà Các, Vĩnh Bình, Phú Điền, Phú Lâm), Lan Xá, phường Võng Nhi.

4. Tổng Quan Triều có 35 xã, thôn: An Lạc (thôn Đức Lân, Diệu Ốc, Hương Thọ, Vũ Kỳ, Hương Vũ, Thuần Vĩ), An Tập (thôn Quần Lai, Tiên Bồng, Lịch Lộc, Ban Bác, Yeo Suối, Đồng Bồng, Đồng Mai), Vân Mộng, thôn Tiền Thành, Xuân Lĩnh (thôn Xuân Lĩnh, thôn Quần Liêu), Quan Triều (thôn Chân Cẩm, thôn Phúc Tăng, Long Đồng), Công Trung (thôn Thượng, Trung, Đông, Phụ Luật), trang Cồn Trống, giáp Quần Phiếu thuộc vạn Phụng Luật, An Vinh, sách Qui Lai, 3 trang Lâm Vương, Cự Đội và Lộc Địa, Hà Thành (Đông, Nam, Bắc Doanh, Đoài thôn Cồn Suối).

5. Tổng Thái Trạch có 25 xã, thôn, trang: Quỳnh Lăng, Suối Tuyền, Đặng Công (Bài Nhị, Bái Nại, Tam Công), Đại Hộ, An Quân (thôn Tiểu Gia, Suối Tiên, Đồng Giai), Thái Trạch (thôn Sạ Lang, Chân Canh, Tam Công và Thạch Trụ), Chiêu Vật (thôn Lý Hoa, thôn Nhân Hậu), Thái Dương (thôn Đồng Đức, thôn Thổ Ngõa, thôn Đồng Nhân, thôn Bái Trung), giáp Cửa Miếu, giáp Thanh Đà (thôn Soi Hai, Trúc Hạ, Trúc Thượng, thôn Cồn Nhự), Gia Hộ (thôn Xuân Lai Mộ Lam và Nam Giáp), giáp Đoài, trang Nước Xanh thuộc xã Phúc Trạch.

6. Tổng Vân Trụ có 32 xã, thôn, giáp: Tiên Đường (thôn Ngũ Gian, Trú Lệ và Kiều Liễn, trang Đương Niên), Vân Đội (thôn Tru Pháp, thôn Ba Phiếu), Đồng An, An Lăng (thôn Hội Tâm, thôn An Lăng, giáp Thọ Lão, thôn An Lại, thôn Liên Nội, trang Hai Mươi), giáp Bàu Vạn, Hiệp Nội, Vân Trụ (giáp Cá Thôn, giáp Chân Nhiễm, Ngọc Long Hạ, thôn Đông Nội, thôn Nam, giáp Mậu Long, giáp Quỳnh Côi, giáp Phú Tập, giáp Khánh Duệ, giáp Liên Trì, giáp Nham Thị thuộc thôn Nam), Hội Nội, Quảng Động (2 giáp Trịnh Sơn và Công Luận, thôn Đồng Kỳ), trang Trang Lươn, trang Phủ Hinh, trại Hoa Lãng, Tiên Nông (thôn Cầu Dài, 3 thôn Tiên Nông, Đồng Duy và Đồng Mối), trang Trầm Toái, thôn Chàng Nàng thuộc xã Vân Đội.

7. Tổng Hoàng Trường có 23 xã, thôn: Hoàng Trường (2 ấp Ngọc Bột và Đông Giáp), thôn Cầm Bào, thôn Tam Khôi, ấp Đông thuộc thôn Kỳ Ngủi, thôn Thổ Ngõa, ấp Đông thuộc thôn Lục Hoa, ấp Trung thuộc thôn Kỳ Văn, thôn Hoàng La), Dừa Trồng, Hoàng La, Đăng Cao (thôn Đông, thôn Đoài), thôn Động Xuân, Mặc Tảo, An Lập (thôn An Do, thôn Bái Lang), An Bài (thôn Vĩnh Nghĩa, thôn Đông Giai), Mi Khúc, trang Lăng Lăng, An Đăng (thôn Nhà Ngói, thôn Luyện Đồng).

* * *

Chúng ta thử tìm hiểu 42 giáo điểm thuộc Phủ Diễn Châu lúc bấy giờ liên hệ gì đến các địa phương xưa nay, nhất là các giáo xứ, giáo họ trong vùng?

Số 1: VÀNG MAI

Hai chữ Vàng Mai đã được Linh mục dòng Tên E. Ferreyra viết rõ ràng, kèm theo hai dấu đặc biệt: dấu Thánh Giá vẽ trước, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ đàng hoàng và dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hai chữ Vàng Mai đã được chính Giáo sĩ Đắc Lộ nhận diện từ 1627 khi ngài đặt chân lên vùng đất Cửa Bạng, sau đó ở lại đợi chúa Trịnh Tráng hai tháng tại An Vực, Ke No, Van No của Thanh Hóa và cũng ghi nhận như vậy trên bản đồ truyền giáo 1650 của ngài.

Tất cả những chi tiết lớn, nhỏ liên hệ Vàng Mai tức Hoàng Mai, Yên Hòa chúng tôi đã trình bày ở phần khái quát về công cuộc truyền giáo của Giáo sĩ Đắc Lộ trong sách này. Dưới đây, chỉ trưng dẫn một số hình ảnh thực tế đã thu thập được trong quá trình tìm hiểu, nổi bật nhất là con sông, phong cảnh, nhà thờ, mộ Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng…

Ngày nay Yên Hòa nằm trong địa bàn xã Quỳnh Trang, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Thuận Nghĩa:

-  Thành lập: Vàng Mai (Hoàng Mai) có tên từ thời Giáo sĩ Đắc Lộ đến Cửa Bạng cùng với An Vực, Ke No, Van No (Thanh Hóa) 1627. Năm 1889, Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng lập giáo xứ Yên Hòa bao gồm Hoàng Mai và Quí Vinh1thêm.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 757

Năm 1996: 2.933

-  Các giáo họ:

1. Họ Yên Hòa (họ trị sở)                    

- Nhà thờ: 10x30m (1987)

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 664 (1996)

2. Họ Quí Vinh

- Nhà thờ: 8x25m (1984)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 448 (1996)

3. Họ Sơn Trang

- Nhà thờ: 9x28m (1903)

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 1.325 (1996)

4. Họ Dĩ Lễ

- Nhà thờ: 6x20m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 496 (1996)

Ngoài ra, các họ Hữu Tập, Trang Họ, Nhạc Sơn, Tân Hội và Thiệu Kỳ không còn thấy tên.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Hoàng      1889 - 1909

2.    Linh mục Diệu         1909 - 1933

3.    Linh mục Tân           1933 - 1939

4.    Linh mục Di             1939 - 1949

5.    Linh mục Bang        1949 - 1951

6.    Linh mục Thung      1951 - 1953

7.    Linh mục Chính       phụ trách

8.    Linh mục Hậu          phụ trách         1958

9.    Linh mục Hoàn        phụ trách         1961

10.  Linh mục Thanh      phụ trách         1961

11.  Linh mục Thăng      1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1. Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lạng, sinh 1794, quê giáo họ Dĩ Lễ (Yên Hòa), thụ phong 1833, Tử đạo 1862 (lúc bấy giờ thuộc giáo xứ Thuận Nghĩa xem số 29 nói sau).

Số 1: HỎI DÀ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hỏi Dà đúng hơn là Hói Dà.

Hiện chúng tôi chưa biết gì về địa phương này. Tuy nhiên, theo lời ông Trần Viện 72 tuổi (1929) gốc thôn Xuân An, xã Quỳnh Xuân, huyệnh Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An hiện ở số 100 Lê Lợi, La Gi, Hàm Tân, Bình Thuận, thì: “Hói Dà nằm trước cửa làng Phương Cần. Tích xưa kể, tại đây có dân làng ở, về sau người Xuân An đứng đầu là ông Trần Vững, 93 tuổi (1908) đấu thầu đắp hói này lại để làm đê giữ nước thời thuộc Pháp khoảng 1944, được một năm vì bị phá hoại nhiều đành phải bỏ. Khi đắp hói, người ta đào được nhiều ngôi mộ, hòm đóng kiên cố bằng ván dâu nguyên vẹn. Chính tôi (ông Trần Viện) cũng có mặt và đã thấy tận mắt như thế.

Hói Dà nằm trong đê ông Trần Thúy Roanh. Tại vùng này, ngày xưa có nhiều hói, chẳng hạn: Hói Ngay, Hói Dựng, Hói Thau, Hói Thẻ, Hói Chảm thuộc phía ngoài vùng Xuân An. Từ Xuân An đi ra có các xóm như Xuân Úc, xóm Thượng ra Kẻ Càn, tức Phương Cần”.

Theo thiển ý, ngoài giải thích của ông Trần Viện nói trên, Hói Dà này có thể được hiểu bằng một tên khác tương tự là Hói Dã hoặc Hói Dạ (theo phát âm tiếng địa phương người Nghệ Tĩnh) vì nó cũng thuộc Mai Giang (sông Hoàng Mai), ăn sâu vào một số vùng có tên như Hói Giám, Hói Vồ, Hói Tắt, Hói Nồi thuộc làng Thanh Dã và làng Cự Tân cũng gọi là làng Trúc Vọng. Cả hai làng này hiện làm thành giáo xứ Thanh Dã đông trên mười ngàn giáo dân. Đó là giả thiết chứ thực ra năm 1992, người Thanh Dã tổ chức lễ mừng hai trăm năm thành lập làng (1792 - 1992) nghĩa là ở thời điểm 1676 Thanh Dã chưa có mặt? Đó là chưa nói đến phía bên hữu ngạn Mai Giang đối diện với Hói Tắt, Hói Vồ thì có Hói Mơ tức Đò Mơ ngày nay.

Ngày nay Thanh Dã nằm trong địa bàn xã Quỳnh Thanh, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, dang là một giáo xứ thuộc hạt Thuận Nghĩa:

-  Thành lập: Năm 1914, chính thức thành lập giáo xứ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.162

Năm 1996: 11.206

-  Các giáo họ:

1. Họ Thanh Dã (họ trị sở)                 

- Nhà thờ: 400m2 (1909)

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 5.715 (1996)

2. Họ Cự Tân              

- Nhà thờ: 1.000m2 (1991)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 2.347 (1996)

3. Họ Lộc Thủy (Cồn Tro)                  

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.377 (1996)

4. Họ Xuân An (Đỗ Hũ)                      

- Nhà thờ: 630m2 (1995)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.079 (1996)

5. Họ Hiền Môn (Đò Mơ, Bãi Dài)                 

- Nhà thờ: 8x14m

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 688 (1996)

Ngoài ra, họ Hà Lân (Xuân Phương) không còn thấy tên.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Tấn           1914 - 1931

2.    Linh mục Qui           1931 - 1935

3.    Linh mục Linh         1935 - 1938

4.    Linh mục Đoan        1938

5.    Linh mục Cẩn          1938 - 1942

6.    Linh mục Cương     1943 - 1949

7.    Linh mục Tấn           1949 - 1953

8.    Linh mục Tấn           phụ trách         1953 - 1954

9.    Linh mục Chỉnh       phụ trách         1955 - 1957

10.  Linh mục Cát                                  1957 - 1971

11.  Linh mục Hoàng     phụ trách         1971

12.  Linh mục Ngoãn                             1971

13.  Linh mục Tâm                               

14.  Linh mục Bá.

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.    Linh mục Phêrô Nguyễn Bá Triêm, sinh 1814, nghĩa tử Linh mục Tử đạo Thánh Phêrô Lê Tùy, bị bắt tại Thanh Dã ngày 29.11.1860, trảm quyết tại Quán Bàu ngày 13.02.1861, thi hài để tại Thanh Dã

2.    Linh mục Gioan Baotixita Quí, thụ phong năm 1864, qua đời năm 1914

3.    Linh mục Phêrô Tuế, thụ phong năm 1844, qua đời năm 1861

4.    Linh mục Phêrô Khiêm, thụ phong năm 1869, qua đời năm 1910

5.    Linh mục Giuse Mỹ, thụ phong năm 1863, qua đời năm 1915

6.    Linh mục Gioan Triệu, thụ phong năm 1870, qua đời năm 1906

7.    Linh mục Paulo Giám, thụ phong năm 1892, qua đời năm 1934

8.    Linh mục Gioan Baotixita Mến, thụ phong năm 1905, qua đời năm 1918

9.    Linh mục Gioan Baotixita Hoành, thụ phong năm 1891, qua đời năm 1893

10.  Linh mục Paulo Huệ, thụ phong năm 1916, qua đời năm 1926

11.  Linh mục Gioan Baotixita Phùng, thụ phong năm 1929, qua đời năm 1942

12.  Linh mục Gioan Baotixita Lâm, thụ phong năm 1935, qua đời năm 1954

13.  Linh mục Gioan Baotixita Hồ Ngọc Cai, thụ phong năm 1941

14.  Linh mục Gioan Baotixita Hồ Sĩ Cai, thụ phong năm 1956

15.  Linh mục Gioan Baotixita Sâm, thụ phong năm 1962, qua đời năm 1988

16.  Linh mục Damien Trần Minh Công, sinh 1940 tại họ Cự Tân. Nhập dòng Xitô Phước Lý 1959, thụ phong năm 1974 tại Thụy Sĩ, Cử nhân Thần học tại Đại học Fribourg

17.  Linh mục Gioan Baotixita Trần Văn Chuyên, dòng Xitô Phước Lý, thụ phong ở Thụy Sĩ

18.  Linh mục Tôma Dâng, dòng Xitô Phước Sơn, thụ phong miền Nam

19.  Linh mục Giuse Hữu, thụ phong ở miền Nam

20.  Linh mục Matthêu Linh, thụ phong năm 1993, dòng Xitô Phước Sơn

21.  Linh mục Gioan Cẩn, thụ phong 1994

22.  Linh mục Phêrô Hoàng Vĩnh Linh (Trọng), quê Cự Tân, thụ phong 1996, ở miền Nam

23.  Linh mục Phêrô Hoàng Văn Thinh, thụ phong 1996, ở miền Nam

24.  Linh mục Phêrô Hồ Văn Hưởng, quê Hiền Môn, thụ phong 1996, ở miền Nam

Số 3: KẺ MÀNH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Mành ngày nay gọi là Mành Sơn, một giáo xứ kỳ cựu trong giáo phận, ngang hàng với Vàng Mai, nằm sát Cửa Quèn, phía Đông giáp biển Hải Nam, phía Tây giáp Phú Nghĩa, phía Nam giáp Ngọc Lâm, xa xa về phía Bắc là Tân Yên và Thanh Dã.

Không biết danh từ Kẻ Mành được đổi thành Mành Sơn khi nào, do ai, chỉ biết rằng vị trí nhà thờ ở miền núi Mành hay Mành Sơn.

Trước 1954, giáo xứ Mành Sơn có 3 họ: Họ trị sở Mành Sơn, Họ văn Phú, Họ Vân Đồn. Nhưng, hiện giờ hai họ Văn Phú và Văn Đồn không còn thấy tên trong giáo xứ Mành Sơn nữa.

Mành Sơn là quê hương của Linh mục Gioan Bùi Cai, Tử đạo ngày 17.5.1862, thọ 51 tuổi (1811 - 1862). Mộ ngài được xây cất cẩn thận, cung kính trong khuôn viên nhà thờ. Ngài là một trong số 22 vị Tử đạo thời Vua Tự Đức của giáo phận Vinh, đã có đầy đủ hồ sơ ở Tòa Thánh năm 1909 và tất cả đã được Tòa Thánh công nhận là đáng kính và đã Tử đạo thực sự, nhưng chưa được tôn phong.

Sau năm 1954, nhiều giáo dân Mành Sơn di cư vào Nam và sau năm 1975, nhiều người trong số đó di cư ra nước ngoài làm ăn khấm khá[7].

Ngày nay Mành Sơn nằm trong địa bàn xã Tiến Thủy, huyện Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Thuận Nghĩa:

-  Thành lập: Tên từ 1676 là Kẻ Mành. Năm 1914, chính thức trở thành giáo xứ, tách từ Cầm Trường.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 830

Năm 1996: 1.290

-  Các giáo họ: Chỉ còn lại duy nhất một họ trị sở Mành Sơn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Phương                              1914 - 1915

2.    Linh mục Giuse Hòa                          1915 - 1930

3.    Linh mục Coulot                                1930 - 1931

4.    Linh mục Lantrade                            1931 - 1932

5.    Linh mục Trần Nguyên Lịch             1932 - 1935

6.    Linh mục Giuse Nguyễn Văn Qui     1935 - 1937

7.    Linh mục Paulo Đặng Hữu Thới       1937 - 1943

8.    Linh mục Khiêm                                1944 - 1954

9.    Linh mục Phêrô Phạm Đình Hậu      Phụ trách

10.  Linh mục Paulo Trần Ngọc Đại        1989

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Anrê Mầu, quê Mành Sơn, thụ phong năm 1823, qua đời năm 1856 tại Mành Sơn

2.      Linh mục Gioan Đại (Cai), thụ phong năm 1865, qua đời năm 1872 tại Hội Yên

3.      Linh mục Gioan Baotixita Chấn, quê Mành Sơn, thụ phong năm 1890, qua đời năm 1932 tại Mành Sơn

4.      Linh mục Giuse Phong, quê Mành Sơn, thụ phong năm 1869, qua đời năm 1935 tại Ngọc Liễn

5.      Linh mục Phêrô Trần Văn Ngoãn, quê Mành Sơn, thụ phong năm 1961, qua đời năm 1989

6.      Linh mục Ty, ở nước ngoài

7.      Linh mục Châu, ở nước ngoài

8.      Linh mục Việt, ở nước ngoài

9.      Linh mục Trông, ở miền Nam.

Số 4: KẺ COÈN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Coèn được đọc là Kẻ Quèn.

Kẻ Quèn nguyên là cửa Tấn Quyền hay Cửa Quyền, Cửa Quèn[8] là cửa biển thứ hai sau Cửa Càn ở phía Đông Bắc huyện Quỳnh Lưu. Cửa bề này do nước sông Hoàng Mai và sông Ngọc Để chảy ra.

Nói là Kẻ Quèn, nhưng thực tế là nhắm tới hai làng lương Phú Nghĩa Thượng (Kẻ Mơ) và Phú Nghĩa Hạ (Kẻ Hàu); đồng thời ở xa hơn khoảng 4 đến 5 km là hai làng Công giáo Tân Yên - giáo xứ Vĩnh Yên. Cả hai giáo xứ này hiện nằm trong địa bàn hạt Thuận Nghĩa.

Nhớ lại câu nói của ông Phêrô Nguyễn Huy Nhiếp, thân phụ Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Hùng Oánh nói năm 1990 rằng: “Ở Phú Nghĩa có đạo trước Tân Yên rất lâu”. Phải chăng lời ông nói ám chỉ đến hai chữ Kẻ Quèn và những biến chuyển thời cuộc làm thay đổi vị trí con người tại vùng này.

Cũng chính ông Nguyễn Huy Nhiếp cho biết, trước 1954 tại đây người ta còn thấy một thửa đất bỏ trống rất lâu năm, không ai dám làm nhà ở trên đó, vì nghe ông bà kể lại ngày xưa có nhà thờ Công giáo trên thửa đất hiện còn bỏ trống này.

Tiện đây, xin trích sao một số chi tiết lịch sử với những hình ảnh liên quan đến hai địa phương Phú Yên và Vĩnh Yên. Riêng về Tân Yên, tức giáo xứ Phú Yên, chúng tôi giới thiệu sách “Lịch sử giáo xứ Phú Yên - làng Tân Yên”, tài liệu lịch sử do Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Hùng Oánh, đồng hương viết năm 1998.

Giáo xứ Phú Yên

(cũng gọi là Tân Yên, tên xưa Yên Đò)

-  Địa chỉ: Giáo xứ Phú Yên, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

-  Thành lập: Năm 1920, tách từ giáo xứ Cầm Trường.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.897

Năm 1996: 746

-  Các giáo họ: Chỉ có duy nhất họ trị sở Phú Yên hay Tân Yên.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Quỳ                        1920 - 1931

2.    Linh mục Cao Hữu Hân         1931 - 1942

3.    Linh mục Hậu                        1942 - 1950

4.    Linh mục Thư                        1950 - 1951

5.    Linh mục Hân                        1951

6.    Linh mục Nhàn                      1955

7.    Linh mục Hậu                        1958 - 1960

8.    Linh mục Bùi Nhật Nghiệm   1960

9.    Linh mục Hậu                        Phụ trách

10.  Linh mục Đại                        Phụ trách

11.  Linh mục Duyệt                    Phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Bùi Nhật Nghiệm, quê Phú Yên, thụ phong 1922, qua đời 1967 tại quê hương.

2.      Linh mục GB. Thụy, quê Phú Yên, thụ phong 1936, qua đời 1973 tại Miền Nam.

3.      Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Hùng Oánh, sinh 1937 tại giáo họ Phú Yên, thụ phong 1973, linh mục miền Nam.

4.      Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Nhường, sinh 1942, thụ phong 1972.

5.      Linh mục Anphongsô Nguyễn Huy Quyền (Toàn), sinh 1942, thụ phong 1973.

6.      Linh mục Phêrô Nguyễn Minh Trương, sinh 1943.

7.      Linh mục Giuse Nguyễn Xuân Thảo, sinh 1947, thụ phong 1975, dòng Phanxicô.

8.      Linh mục Anphongsô Nguyễn Công Minh, sinh 1951, thụ phong 1992, dòng Phanxicô.

9.      Linh mục Giuse Nguyễn Minh Tuấn, sinh 1960.

10.  Linh mục Salêsiô Trần Minh Thái (Châu), sinh 1954, dòng Xitô Phước Lý.

Giáo xứ Vĩnh Yên

-  Địa chỉ: Giáo xứ Vĩnh Yên, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

-  Thành lập: Năm 1920, tách từ giáo xứ Mành Sơn

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.349 (di cư vào Nam)

Năm 1996: 164

-  Các giáo họ: Chỉ có duy nhất họ trị sở Vĩnh Yên

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Thế                         1920 - 1933

2.    Linh mục Nghi                       1933 - 1937

3.    Linh mục Biển                       1937 - 1950

4.    Linh mục Hậu     phụ trách    1950

5.    Linh mục Đại      phụ trách   

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Tuấn, ở miền Nam.

2.      Linh mục Huy, ở miền Nam.

Số 5: KẺ TRU

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Tru có thể đọc được là Kẻ Trù, Kẻ Trụ

Theo chúng tôi, Kẻ Tru có thể là Kẻ Trụ vì tại vùng này hiện có Quỳnh Tụ (Kẻ Tụ), Quỳnh Văn (Kẻ Văn). Tuy nhiên, xét theo hướng đi của sông Hoàng Mai, hợp với sông Ngọc Để thì không đúng lắm vì hiện vẫn có Quỳnh Văn, Quỳnh Tụ, nhưng lại nằm trên Quốc lộ 1A, gần với Hói Vồ, Hói Tắt thuộc làng Thanh Dã và làng Cự Tân như đã nói ở số 2: Hói Dà.

Số 6: KẺ QUÁC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Quác có thể là Kẻ Quát.

Theo ông Nguyễn Văn Quí, 79 tuổi (1922) có vợ Trần Thị Thục, 77 tuổi (1924) và ông Nguyễn Ngọc Hoàn, 53 tuổi (1948) người Tân Yên nói đầu tháng 7.1997 rằng: “Hiện có làng Kẻ Quác mà không có dấu tích gì về đạo Công giáo tại đó”. Vị trí làng Kẻ Quác liên hệ ngang dọc đến các xóm đạo kế cận trong vùng như Vĩnh Yên, Song Ngọc, Mành Sơn, Văn Trường (Văn Thơi), Cầm Trường, Trường Cửu[9].

- Từ Kẻ Quác đến Quí Hòa (làng lương kế cận) không đầy 2 km.

- Quí Hòa, Vĩnh Yên, Kẻ Quác là một tam giác đều với đỉnh là làng Quí Hòa. Từ Quí Hòa qua sông đến Tân Yên khoảng bảy trăm mét, theo đường chim bay.

- Từ Kẻ Quác xuống Vĩnh Yên phải qua Quí Hòa.

- Nếu sánh với Cầm Trường và Song Ngọc thì Kẻ Quác nằm ngang với Cầm Trường; Song Ngọc nằm xế về phía Nam cùng trên một trục ngang; Cầm Trường qua Kẻ Quác để đến Song Ngọc. Hay nói cách khác, Tân Yên sang Ngò phải qua Kẻ Quác.

- Kẻ Quác ngày nay có tên là xóm Bút Luyện, còn gọi là Bút Lệnh vì theo truyền miệng người dân nơi đây rất hiếu học, không thua kém dân Quỳnh Đôi. Nhờ ngòi “bút”, Kẻ Quác đã “luyện” được năm sáu chục giáo viên các cấp, năm bác sĩ, hai y sĩ và nhiều người thuộc các ngành nghề khác…

Nói về Kẻ Quác có mấy điều đáng lưu ý:

1. Kẻ Quác khác với Kẻ Giát hay Cầu Giát: Cầu Giát nằm trên Quốc lộ 1A, Kẻ Quác ở dưới nông thôn, hai nơi cách nhau chừng 5 km. Ngày xưa huyện Quỳnh Lưu đóng ở nông thôn, gần làng Kẻ Quác, làng Cầm Trường.

2. Kẻ Quác ngày xưa đã có người theo đạo như phúc trình cho biết, nhưng về sau, có lẽ họ đã dời sang các làng lân cận. Chẳng hạn, họ đến Cầm Trường hay đúng hơn Trường Cửu bởi vì, Kẻ Quác với Trường Cửu chỉ cách nhau chưa đầy 2 km.

Theo tương truyền, Cầm Trường là xứ mẹ của các xứ đạo trong vùng Quỳnh Lưu.

Trong bản phát triển các giáo xứ Vinh thì Cầm Trường đứng đầu hơn cả trong hạt.

Thế nhưng, xét cho cùng có thực đúng vậy không thì chưa rõ lắm, vì nguyên hai chữ Cầm Trường không thấy có tên trong phúc trình, cũng không thấy chỗ nào nói đến trước, ngoại trừ một lần thấy tên trong sách Tên Làng Xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, trang 105 dưới danh nghĩa phường chứ chiếng Cầm Trường, nghĩa là sau phúc trình ít là 125 năm.

Theo chúng tôi, Cầm Trường được gọi là giáo xứ xưa nhât trong vùng Quỳnh Lưu có lẽ do nguồn gốc hai chữ Trường Cửu, tên của một họ đạo ngang hàng với Kẻ Quác hay đúng hơn Kẻ Quác là tiền nhân của Trường Cửu và chính Trường Cửu này lại là tiền thân của Cầm Trường…

Ngôi thánh đường giáo họ Trường Cửu mà Linh mục Nguyễn Hùng Oánh chụp lại trong cuốn “Lịch sử giáo xứ Phú Yên - làng Tân Yên”, trang 119, xin trích lại dưới đây hầu ai nấy thấy rõ số niên hiệu 1798 (theo Album giáo phận là 1735) - năm làm nhà thờ, nhưng phải hiểu lên trước đó cả trăm năm khi người giáo dân đầu tiên có mặt tại đó, khi ngôi thánh đường lợp lá đầu tiên được thành hình.

Ngày nay Cầm Trường nằm trong địa bàn xã Quỳnh Yên, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Thuận Nghĩa:

-  Thành lập: Là một trong 18 giáo xứ đầu tiên lúc thành lập giáo phận 1846.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 868

Năm 1996: 3.588

-  Các giáo họ:

1. Họ Cầm Trường (họ trị sở)            

- Nhà thờ: 10x35,2m (1914)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.400 (1996)

2. Họ Đồng Lăng                    

- Nhà thờ: 9x34m (1941)

- Quan thầy: Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

- Số giáo dân: 1.161 (1996)

3. Họ Hội Yên

- Nhà thờ: 10,2x24m (1886)

- Quan thầy: Đức Mẹ Sầu Bi

- Số giáo dân: 766 (1996)

4. Họ Trường Cửu

- Nhà thờ: 5,8x12m (1735)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 251

Ngoài ra, hai họ Thanh Sơn và Nhơn Sơn không còn thấy tên.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Huấn        1867 - 1876

2.    Linh mục Thiện        1876 - 1884

3.    Linh mục Đức          1884 - 1913

4.    Linh mục Ái             1913 - 1933

5.    Linh mục Thế           1933 - 1935

6.    Linh mục Ninh         1935 - 1938

7.    Linh mục Đính         1938 - 1943

8.    Linh mục Khiêm      1943 - 1944

9.    Linh mục Đình         1944 - 1948

10.  Linh mục Đôn         1948 - 1959

11.  Linh mục Hậu         phụ trách

12.  Linh mục Hoàn       1961 - 1995

13.  Linh mục Thăng      phụ trách         1996              

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.    Linh mục Phêrô Nghiêm, quê Cầm Trường, th5u phong 1864, qua đời 1889 tại Cầm Trường.

2.    Linh mục Antôn Đông, quê Cầm Trường, thụ phong 1938, qua đời tại Miền Nam.

3.    Linh mục Phêrô Quế, quê Câm Trường, thụ phong 1939.

4.    Linh mục Giuse Thanh, quê họ Đồng Lăng, thụ phong 1961…

Số 7: THIEN AN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Thien An đọc được là Thiên An.

Sách Tên Làng Xã Việt Nam, trang 104 - 105 về huyện Quỳnh Lưu, tổng Hoàn Hậu có thôn Thượng An, phường Tiên An.

Phải chăng Thiên An là Tiên An hay ngược lại vì vị trí Tiên An gần các giáo điểm như số 3: Mành Sơn, số 4: Kẻ Quèn, số 6: Kẻ Quác và số 8: Kẻ Lứ, số 9: Văn Thơi như sẽ nói sau. Hay biết đâu Tiên An lại là Tân An, Vĩnh An? Nhưng, nói như vậy chưa có cơ sở, vì những làng vừa nêu mới được thành lập sau này.

Số 8: KẺ LỨ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Lứ là tên xưa sau đổi thành Kẻ Lý nay là Yên Lý, một làng lương lớn thuộc xã Diễn Yên, phủ Diễn Châu, cách Cầu Giát 7 km, cách thị trấn Diễn Châu 12 km, biển 4 km, Vạn Phần 2 km, Đông Tháp 3 km.

Từ Yên Lý có đường số 9 sang Lào, có ga xe lửa tên là ga Lứ tức ga Kẻ Lứ hay Yên Lý nằm phía ngoài Quốc lộ 1A khoảng 200 mét. Yên Lý là quê hương của Linh mục Phêrô Nguyễn Quyền (1908 - 1980), Linh mục Trần Xuân Long (1925) hiện quản xứ Vinh Thanh, Hàm Tân, Bình Thuận… Yên Lý cũng là quê hương của nhà khoa học Ngô Anh Linh, tức Ngô Đình Tuấn ở Hoa Kỳ đã nghỉ hưu.

Về tôn giáo, trước 1954 Yên Lý là một họ đạo lớn, khoảng hai ngàn giáo dân. Nhưng, về sau nhiều người đã di tản đi lập nghiệp trong và ngoài nước.

Ngày nay Yên Lý đang là một họ giáo thuộc xứ hạt Đông Tháp nằm trong địa bàn xã Diên Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ: 11x30m

- Quan thầy giáo họ: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 883 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

Số 9: VAN THÔI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Van Thôi đúng hơn là Văn Thơi.

Văn Thơi hay Văn Thai là tên cửa biển thứ 3 của Nghệ An kể từ ngoài vào, cách Cửa Càn 15 km, cách Cửa Quèn 3 km… Tại đây, có một họ giáo nhỏ tên là Văn Thơi thuộc xứ Song Ngọc và nhà thờ cách Song Ngọc 2 km. Kế cạnh Văn Thơi là giáo họ Văn Trường (xem số 24 nói sau).

Văn Thơi là quê hương của vị linh mục xưa đứng thứ hai trong hàng giáo sĩ giáo phận Vinh có tên là Phanxicô Thụy[10]: sinh năm 1641 tại làng Thanh Thơi (Thanh Thới, Văn Thơi, Văn Thai), thụ phong năm 1679, qua đời năm 1689. Nói là linh mục thứ hai, bởi vì trước Linh mục Phanxicô Thụy đã có Linh mục Bênêđictô Hiền, quê Đông Kiền, Yên Đại, thụ phong năm 1668 tức 39 năm sau khi Giáo sĩ Đắc Lộ đến 1629. Nói cách khác, Giáo sĩ Đắc Lộ đi khỏi Nghệ An được 39 năm thì Bênêđictô Hiền làm linh mục, và 50 năm sau Phanxicô Thụy làm linh mục.

Ngày nay Văn Thơi đang là một họ giáo của xứ Song Ngọc nằm trong địa bàn xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ: 11x27m (1994)

- Quan thầy giáo họ: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 498 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

1. Linh mục Phanxicô Thụy, sinh năm 1641 tại làng Thanh Thơi (Thanh Thới, Văn Thơi, Văn Thai), thụ phong năm 1679, qua đời năm 1689…

Số 10: TRANG HẬU

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trước tiên xin dừng lại ở Trang, bởi vì trong phúc trình có khá nhiều chữ Trang mang ý nghĩa xưa cũng như nay là nơi đồng quê hẻo lánh, rời rạc, không qui tụ thành đơn vị hành chánh lớn nhỏ: thôn, xóm, ấp, làng, xã…

Sách Tên Làng Xã Việt Nam, ở Nghệ An có khá nhiều địa phương mang tên Trang... mà trong phúc trình thì đây là lần đầu tiên gặp thấy như vậy.

Về Phủ Diễn Châu này, tác giả phúc trình viết rõ ràng hai chữ Trang Hậu. Linh mục Đỗ Quang Chính ghi ra như vậy, trong khi thực tế tại vùng này hiện có hai giáo xứ gần nhau là:

Giáo xứ Hậu Thành

(cũng có tên là Nhuận Trạch hay Cây Vong)

-  Địa chỉ: Giáo xứ Hậu Thành, xã Quang Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

-  Thành lập: Năm 1911, tách từ giáo xứ Bảo Nham.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 768

Năm 1996: 4.344

-  Các giáo họ:

1. Họ Hậu Thành (họ trị sở)               

- Nhà thờ: 10x21m (1939)

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 741 (1996)

2. Họ Hậu Trạch (Nhuận Trạch)                    

- Nhà thờ: 8x20m (1993)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 411 (1996)

3. Họ Đạo Đồng (Đồng Xuân)

- Nhà thờ: 13x33m (1991)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.522 (1996)

4. Họ Đồng Kén

- Nhà thờ: 7x21m (1935)

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 813 (1996)

5. Họ Nguyệt Lãng                 

- Nhà thờ: 7x19m (1943)

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 352 (1996)

6. Họ Trung Thành (Thuần Trung)

- Nhà thờ: 7x15m (1991)

- Quan thầy: Thành Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 220 (1996)

7. Họ Đồng Tâm

- Nhà thờ: 6x11m (1987)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 258 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Huy                        1911 - 1923

2.    Linh mục Chức                      1923 - 1932

3.    Linh mục Tấn                         1932 - 1936

4.    Linh mục Hưng                      1936 - 1945

5.    Linh mục Lịch                        1945 - 1958

6.    Linh mục Án                          1958 - 1988

7.    Linh mục Nam                       1988 - 1994

8.    Linh mục Luyến                     1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Đính, quê Qui Lai, Nhuận Trạch, thụ phong 1923, qua đời tại Qui Lai, tức giáo họ Đạo Đồng.

Giáo xứ Qui Hậu (xem số 40 nói sau)

Như vậy, Trang Hậu là tiền thân của giáo xứ nào? Có thể là cả hai, có thể là Hậu Thành? Theo chúng tôi, Trang Hậu là Hậu Thành.

Số 11: VĂN PHÀN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Văn Phàn đúng hơn là Vạn Phần.

Theo nguyên bản gồm có hai chữ: chữ trước không rõ, chữ sau đọc được là Phần. Tác giả sách Dòng Tên trong xã hội Đại Việt ghi là Văn Phàn.

Theo ghi nhận của phúc trình, Vạn Phần là một xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách. Tuy nhiên, năm 1701 Vạn Phần được ghi nhận là một trong 30 xóm đạo tại Nghệ An lúc bấy giờ đang có nhà thờ (xem thêm số 16 nói sau).

Sách Tên Làng Xã Việt Nam, trang 105 có tên xã Vạn Phần và một tên khác là thôn Đông Phần, cả hai đều thuộc tổng Vạn Phần.

Theo chúng tôi, Vạn Phần là đúng hơn cả vì hiện tại lương cũng như giáo tại địa phương này đều gọi chung là Vạn Phần. Ngoài ra, tại đây có một cửa cũng mang tên là Cửa Vạn - lạch Vạn Phần, tên xưa là cửa Bích (Bích môn, bản đồ Hồng Đức) là cửa biển thứ ba thuộc phần đất tỉnh Nghệ An kể từ ngoài vào.

Theo Đức ông Lê Xuân Hoa, bút danh Thi sĩ Xuân Ly Băng cho biết thì từ bờ Nam qua bờ Bắc sông Vạn Phần, ngang với Tham Bích (như sẽ nói sau) là xã Vạn Kim, địa danh hành chánh còn địa danh tôn giáo là giáo xứ Vạn Phần. Tại đây có nhiều tay võ từng một thời nổi tiếng, trong số đó có ông Hoàng Ngọc Võ, là bậc danh sư cũng là cận vệ của tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Quân khu 4. Chính Đức ông Lê Xuân Hoa thời niên thiếu cũng đã từng theo học võ với ông hồi ông còn là cận vệ tướng Nguyễn Sơn.

Theo bảng phát triển cách giáo xứ trong giáo phận Vinh thì Vạn Phần mới được thành lập năm 1924, tách từ giáo xứ Đông Tháp. Điều này không hợp lý, một đàng Đông Tháp tên xưa là Đông Thành không thấy tên trong bản phúc trình cũng như các tài liệu viết vào thời đó. Đàng khác, chính Đông Thành, Đông Tháp cũng không thấy có niên hiệu phát xuất…

Vạn Phần hay lạch Vạn này đã có lần báo Thanh Niên số 250 (2137) ra ngày thứ năm, 18.10.2001 đề cập trong một trận lũ lụt và sóng biển phá hoại làm mất đi bao đất đai, mồ mả của các bậc ông bà tổ tiên trong vùng… Điều này cũng là một bằng chứng giúp giải thích cho việc di chuyển của các dân làng từ xưa tới nay.

Dưới đây là nguyên văn bài bảo của tác giả Tiến Dũng:

THẢM HỌA Ở MỘT CỬA BIỂN

Hoàng hôn đỏ bầm, loang như máu ứa cả vùng lạch Vạn. Người đàn ông khoảng 50 tuổi nhào xuống nước, sục hai tay mò từng khúc xương, rờ rẫm từng chiếc tiểu sành nghiêng ngả, dập dờn trong sóng nước rồi gục đầu xuống bãi cát khóc rưng rức. Ông từ Lâm Đồng xa xôi về viếng mộ cha nhưng cơn bảo số 5 cùng với từng đợt triều cường đã ngoạm hơn 2 km bờ lạch và cuốn trôi hàng trăm ngôi mộ của dân xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An ra biển.

Đất Lở, Xương Phơi

Chúng tôi ngậm ngùi chứng kiến 2 km bờ lạch bị sạt lở có chỗ cao quá tầm đầu người, miệng hoác hàm ếch. Nhưng đau xót nhất là nhìn thấy hàng chục chiếc tiểu sành đang nằm phơi trên mép nước, những mẫu xương người trắng hếu dập dờn “đi” ra biển. Ông Cao Xuân Cấp, 59 tuổi, xóm trưởng xóm 4 cho biết: “Bãi tha ma Cồn trước đây nằm ở trung tâm 4 xóm, giờ đây bị cuốn trôi ra biển gần hết. Chúng tôi cùng với UBND xã Diễn Thành chuyển đi được 60 bộ hài cốt. Một số ở xa bờ chưa kịp di dời thì từng đợt triều cường của cơn bão số 5 làm sạt lở sâu vào đất liền, cuốn đi hàng trăm ngôi mộ”. Ông Cấp đăm đăm nhìn ra phía biển đang gầm gừ, thở dài: “trên chục năm nay bà con ở 4 xóm (1, 2, 4, 6) dọc trên tuyến đất lở từ bãi tắm biển Diễn Thành đến cửa biển dài 3 km đã phải 4 lần di dời làng. Xóm 4 ở đây có 80 hộ dân mà đã có 40 hộ phải “chạy” lên các địa phương vùng cao… Từ năm 1993 đến nay đã có 17 ha đất thổ cư, đất canh tác và đất lâm nghiệp bị cuốn trôi ra biển”. Ông Cao Bá Nhượng, thương binh 4/4, mù hai mắt, nhà ở chỉ cách chỗ sạt lở 15m nói: “Không nhìn thấy được nhưng hằng ngày áp tai vào nền nhà nghe dã tràng đào lỗ mà lo lắm các anh ạ! Chỉ một đợt gió mùa đông bắc nữa thôi nhà tôi chắc sẽ bị xóa sổ. Không biết các cấp chính quyền có biện pháp gì không? Bảo vệ cho chúng tôi với!”. Chúng tôi đến chỗ một số ngư dân đi biển về thì một ông lão chạy đến: “Này, nhà báo ơi! Anh kêu giùm cho bà con với. Dân chúng tôi người chết cũng không được yên, nguiờ sống thì ngày đêm nghe dự báo thời tiết mà lo ngay ngáy. Chúng tôi đã gửi hơn đi nhiều nơi mà chẳng thấy gì cả”. Ông lão nhìn hút dải đất giọng trầm ngâm: “Cơ sự này nếu không có biện pháp phòng chống có ngày sóng biển sẽ ngoạm tới Quốc lộ 1A”.

Lời Khẩn Cầu

Tôi cùng hai người bạn đang nghe bà con xóm 4 nói về tình hình sạt lở bỗng “rầm”, một mảnh đất cỡ chiếc thuyền thúng kéo theo 2 cây phi lao đổ ập xuống lạch - cách chỗ đứng chỉ dăm bước chân. Một bác cởi trần mặc chiếc quần xộc vác ôm lưới trên vai cười chua chát: “Ở đây lở như vậy là chuyện bình thường. Đó là sóng còn nhẹ đấy!”.

Dọc trên dải đất lở, hàng chục chiếc ngách mới hình thành rộng 3 đến 4 mét, dài 20 đến 30 mét chờ thủy triều lên, nước biển theo đó thấm sâu vào đất liền làm cho đồng ruộng bị nhiễm mặn, tàn phá các công trình thủy lợi. Hiện nay hơn 100 ha đất canh tác bị bỏ hoang. Cuộc sống của bà con nơi vùng đất lở đã nghèo nay lại càng nghèo hơn. Để cứu lấy đất, chống sạt lở bằng biện pháp nào? Trong thời điểm hiện nay, trả lời được câu hỏi đó thật không đơn giản. Ông Đinh Văn Hùng - Chủ tịch UBND xã Diễn Thành nói: “Lạch Vạn là cửa sông thoát lũ cho hai vựa lúa 2 huyện Yên Thành và Diễn Châu. Khoảng chục năm trở lại đây do môi trường bị ô nhiễm; rừng đầu nguồn bị chặt phá, nước lũ cuồn cuộn đổ về; biến động của thời tiết… đã khiến các dòng chảy thay đổi gây ra những đợt sóng thần, triều cường và lốc xoáy bất ngờ làm sạt lở trầm trọng cho vùng lạch này”.

Cứ theo đà sạt lở như thế này, nếu không có biện pháp hữu hiệu phòng chống thì khoảng hai năm nữa con đê ngăn mặn Diễn Thành sẽ bị sóng biển nuốt chửng. Và khoảng 4 năm nữa thôi Quốc lộ 1A cùng các công trình, nhà cửa… thuộc thị trấn Diễn Châu và các vùng lân cận cũng sẽ cùng chung số phận. Nói như bà Trần Thị Hiên, ngư dân xóm 4: “Có ngày sóng vỗ trước cửa đền Cương” (đền thờ An Dương Vương - một di tích lịch sử văn hóa của dân tộc). Đó là một lời dự báo hoàn toàn có căn cứ.

Hiện nay từng giờ từng phút đất ở lạch Vạn vẫn đang sạt lở. Anh Cao Bá Thành, ngư dân xóm 4 đã phải thốt lên: “Ba hôm trước vẫn còn con đường mòn ở đây nhưng sau chuyến đi biển về đã không còn nữa. Đất lở nhanh quá. Nếu như có bão lớn thì không biết lở đến chừng nào?”. Nhân dân địa phương và chính quyền xã Diễn Thành tha thiết khẩn cầu các cấp có thẩm quyền sớm có giải pháp tích cực chống sạt lở đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản, đất đai và những mộ phần còn lại.

Ngày nay Vạn Phần năm trong địa bàn xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Đông Tháp:

-  Thành lập: Có tên từ 1676. Năm 1921, chính thức thành giáo xứ, tách từ Đông Tháp

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.265

Năm 1996: 2.321

-  Các giáo họ:

1. Họ Vạn Phần                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 1.741 (1996)

2. Họ Phúc Thịnh                   

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 580 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Chân                      1924 - 1928

2.    Linh mục Lý                          1928 - 1930

3.    Linh mục Nghiệm                  1930 - 1940

4.    Linh mục Đôn                        1940 - 1948

5.    Linh mục Báu                        1949 - 1988

6.    Linh mục Án                          1988 - 1995

7.    Linh mục Nho     phụ trách    1995

8.    Linh mục Cai                         1996 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Chính

2.      Linh mục Ngân

3.      Linh mục Phước

4.      Linh mục Đinh Tấn Thời, sinh 1946

5.      Linh mục Đinh Đình Chiến, sinh 1965

6.      Linh mục Giáo, thụ phong 1994

7.      Linh mục Đương, thụ phong 1994

8.      Linh mục Thăng, thụ phong 1994

9.      Linh mục Đinh Vĩ Đại, sinh 1949.

Số 12: CÔN ĐÒŬ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Theo cách ghi chép chữ Quốc ngữ như đã nói ở mục 5. Cách đọc phúc trình, hai chữ Côn Đòŭ đọc được là Côn Đồng, đúng hơn là Cồn Đồng, tên của một họ giáo thuộc xứ Kẻ Dừa nằm trong địa bàn xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ:

- Quan thầy giáo họ:

- Số giáo dân: 406 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 13: KẺ RÂŇ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hai chữ Kẻ Râň này có thể đọc được Kẻ Râng hoặc Kẻ Lân

Theo chúng tôi có thể là Kẻ Lân, vì thực tế tại vùng này hiện có một giáo xứ mang tên na ná là Đức Lân nằm trong địa bàn xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Đông Tháp:

-  Thành lập: Tên từ hồi 1676 là Kẻ Râň (Kẻ Lân). Năm 1888, chính thức trở thành xứ, tách từ Phi Lộc.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 581

Năm 1996: 2.384

-  Các giáo họ:

1. Họ Đức Lân (họ trị sở)                    

- Nhà thờ: 14x38m

- Quan thầy: Thánh Gioan

- Số giáo dân: 236 (1996)

2. Họ Đồng Lạc                       

- Nhà thờ: 10x21m

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 695 (1996)

3. Họ Diệu Ốc              

- Nhà thờ: 12x25m

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 847 (1996)

4. Họ Tân Lập             

- Nhà thờ: 7,5x15m

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 504 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Tính                        1888 - 1893

2.    Linh mục Thu                         1893 - 1903

3.    Linh mục Thạc                       1903 - 1910

4.    Linh mục Đạt                         1910 - 1920

5.    Linh mục Hồi                         1920 - 1933

6.    Linh mục Hoan                      1933 - 1950

7.    Linh mục Phùng                     1950 - 1955

8.    Linh mục Khoan                    phụ trách

9.    Linh mục Đạt II 

10.  Linh mục Đông 

11.  Linh mục Bảo                       phụ trách

12.  Linh mục Huyền                   phụ trách

13.  Linh mục Long                    

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Viêng, quê giáo họ Đức Lân, thụ phong 1874, qua đời 1951 tại quê hương

2.      Linh mục GB. Nguyễn Tấn, quê giáo họ Diệu Ốc, thụ phong 1928, qua đời 1954

3.      Linh mục Giêgoriô Vũ Đình Khiêm, quê giáo họ Đức Lân, thụ phong 1939, qua đời 1983 tại Bố Sơn

4.      Linh mục Vũ Văn Nghiệm, quê Đức Lân, em ruột của Linh mục Vũ Đình Khiêm.

Số 14: KẺ DƯA

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Dưa đúng hơn là Kẻ Dừa nằm trong địa bàn xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Đông Tháp:

-  Thành lập: Tên từ hồi 1676 là Kẻ Dưa, Kẻ Dừa. Năm 1908, chính thức trở thành giáo xứ, tách từ Phi Lộc.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 884

Năm 1996: 3.632

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Dừa (họ trị sở)                     

- Nhà thờ: 10x27m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.080 (1996)

2. Họ Tam Thọ            

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 517 (1996)

3. Họ Cồn Đồng (xem số 12 nói trên)             

4. Họ Đông Ngô (Dũng Ngô)              

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 422 (1996)

5. Họ Yên Mã              

- Nhà thờ: 8,5x20m

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 345 (1996)

6. Họ Đông Yên          

- Nhà thờ: 11x21m

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 515 (1996)

7. Họ Thanh Đạt                     

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 58 (1996)

8. Họ Xuân Yên                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 289 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Barbier Hòa           1908 - 1909

2.    Linh mục Laygue Kính          1909 - 1911

3.    Linh mục Khoa                      1911 - 1915

4.    Linh mục Bổn                        1915 - 1916

5.    Linh mục Ân I                        1916 - 1919

6.    Linh mục Diệm                      1919 - 1922

7.    Linh mục Hanh                      1922 - 1924

8.    Linh mục Giáo                       1924 - 1939

9.    Linh mục Án                          1939 - 1943

10.  Linh mục Cư                         1943 - 1946

11.  Linh mục Khoan                   1946 - 1953

12.  Linh mục Lạng                     

13.  Linh mục Cát                        phụ trách

14.  Linh mục Cai

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 15: KẺ CUÔI

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Cuôi đúng hơn là Kẻ Cuồi.

Theo Linh mục Trần Phúc Chính, quản xứ Rú Đất cho biết ngày 25.10.1997 rằng: Kẻ Cuồi chỉ còn tên truyền tụng, không còn tên địa lý, không còn di tích. Nhưng theo ba bà cụ giáo dân nói là gốc họ Cuồi, xứ Kẻ Dừa mà chúng tôi gặp tại nhà thờ Chí Hòa, Sàigòn ngày 28.9.1998 thì hiện có họ Cuồi, họ Yên Mã, họ Đông Ngô, họ Đông Yên, họ Tam Thọ, họ Cồn Đồng, họ Thanh Đạt và họ Xuân Yên thuộc giáo xứ Kẻ Dừa (xem số 14 nói trên).

Số 16: BẾN ĐỀN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bến Đền đúng hơn là Bến Đén.

Năm 1701, tức 25 năm sau Thừa sai dòng Tên E. Ferreyra viết phúc trình này, Giám mục đại diện Tông tòa Francois Gabriel Guisain (1665 - 1723) sai các thầy giảng đến các nhà thờ thuộc các thừa sai dòng Tên phụ trách công bố cho giáo hữu biết sắc chỉ của Tòa thánh về việc chia địa phận Nam Đàng Ngoài ra khỏi địa phận Ma Cao. Đồng thời tuyên bố, Đàng Ngoài không còn thuộc quyền giám mục Ma Cao mà thuộc quyền giám mục đại diện Tông tòa, thấy ghi tên 30 nhà thờ của Nghệ An (lúc bấy giờ Nghệ An bao gồm cả Hà Tĩnh):

“Lang eng (Làng Ênh), Ke lo (Kẻ Lò), Ki lan (Khi Lan), Nha cao (Nhà Cao), Dou van (Đồng Văn), Ben den (Bến Đén), Van phan (Vạn Phần), Ke hou (Kẻ Hồng), Lo doi, Nui trou (Núi Trong), Lang phu, Dou trac (Đồng Trác), Ben lat (Bến Lạt), Ke roc (Kẻ Rốc), Ke nhac (Kẻ Nhạc), An ma, Tron hue, Nga ho, Cho chua (Chợ Chùa), Ke dou (Kẻ Đông), Trai moi (Trại Mới), Ke nui (Kẻ Nủi), Ke hau (Kẻ Hàu), An nhien (An Nhiên), Trang mom (Trang Mõm), Ke do, Ha huyen (Hà Huyện), Bien tac, Ben loi (Bến Lợi), Ke mui (Kẻ Mui).

Và, 5 nhà thờ của Bố Chính (Bắc Quảng Bình) gồm:

“Phu la, Lang doan (Làng Đoàn), Con doi (Cồn Dừa), Ke bang, Ke doi”1thêm.

Bến Đén là một địa phương nằm ở phía ngoài Cầu Bùng (Cầu Phùng). Trước khi đến Đông Tháp đi theo hướng Bắc 2 km là đến Yên Lý, một họ giáo có ngôi nhà thờ nhỏ, giáo dân nghèo, là quê hương của Võ sĩ Châu Giang, một thời nổi tiếng trong làng võ Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Ngày nay Bến Đén đang là một họ giáo thuộc xứ Đông Tháp nằm trong địa bàn xã Diên Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ:

- Quan thầy giáo họ: Đức Mẹ Lộ Đức

- Số giáo dân: 740 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 17: CÀU LỬA

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Càu Lửa có thể đọc được là Cồn Lửa, Cồn Cửa

Xứ hạt Đông Tháp có một họ giáo mang tên na ná là Cồn Cao. Căn cứ theo đó, chúng ta có thể cho rằng Càu Lửa này chính là họ giáo Cồn Cao vì thấy liên cư liên địa với Số 16: Bến Đền (Bến Đén), Số 18: Kẻ Ngói như sẽ nói sau.

Ngày nay Cồn Cao đang là một họ giáo thuộc xứ Đông Tháp nằm trong địa bàn xã Diên Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ:

- Quan thầy giáo họ: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 221 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?).

Số 18: KẺ NGÓI

 Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Ngói nay là giáo họ Vạn Ngói của xứ Rú Đất.

Theo linh mục Bosco Nguyễn Văn Đình, dòng Phanxicô Sàigòn cho biết năm 1998 rằng: Cách chỗ cũ Vạn Ngói chừng một cây số có hai nền nhà thờ một cũ và một mới. Tại nền cũ có chôn xác sáu vị nói là Tử đạo, nhưng không rõ tên, không rõ thời. Tuy vậy, vẫn được nhiều người biết tiếng đến kính viếng sáu ngôi mộ này và đã được nhiều ơn thiêng. Vì vậy, con cháu dòng tộc các đấng ấy hằng năm vẫn tổ chức lễ giỗ lớn chung cho cả sáu vị này.

Đường đi từ Rú Đất đến Vạn Ngói, đến nền nhà thờ cũ, chỗ chôn xác sáu vị Tử đạo nói trên xa khoảng 1,5 km, nghĩa là trên trục lộ Bảo Nham - Rú Đất - Vạn Ngói, nhưng Vạn Ngói hơi lệch về hướng Tây khoảng 15 độ.

Hiện Vạn Ngói là một họ thuộc giáo xứ Rú Đất, nằm trong lòng xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Vạn Ngói được kể là mới thành lập năm 1883, do một số ngư dân đến định cư sinh sống lập nên. Vạn Ngói lúc đầu có tên là “Cồn Thần” vì nó nằm giữa con sông chảy bao quanh như một hòn đảo nhỏ. Về sau mới đặt tên là Vạn Ngói, vì khi làm nhà thờ có một sự trùng hợp khá kỳ lạ, đó là người làm ngói và người sử dụng ngói đúng một vạn niên, nên chi họ đều thống nhất đổi tên thành Vạn Ngói.

Theo chúng tôi, ở đây cũng như ở nhiều nơi khác, lập luận như vậy là không đúng vì nguyên thủy của Vạn Ngói là Kẻ Ngói, có tên trong bản phúc trình 1676 của linh mục E. Ferreyra trước mốc 1883 nói trên 207 năm.

Ngày nay Vạn Ngói đang là một họ giáo xứ Rú Đất nằm trong địa bàn xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ an:

- Nhà thờ: 13x35m

- Quan thầy giáo họ: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 583 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

1.    Linh mục Phêrô Dược, quê giáo họ Vạn Ngói, thụ phong 1867, qua đời 1930 tại giáo xứ Xã Đoài.

2.    Linh mục Bosco Nguyễn Văn Đình, sinh 24.9.1937, quê giáo họ Vạn Ngói, thụ phong 11.3.1967, dòng Phanxicô Sàigòn.

Các xứ, họ lân cận Vạn Ngói không rõ nguồn gốc, tuổi tác như thế nào, nhưng nhờ vị trí này chúng ta biết có ba giáo xứ kế cận là Rú Đất, Lâm Xuyên và Bảo Nham:

Giáo xứ Rú Đất

-  Địa chỉ: Giáo xứ Rú Đất, xã Long Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An

-  Thành lập: Năm 1917, tách từ giáo xứ Bảo Nham

-  Số giáo dân: Năm 1945: 890

Năm 1996: 2.989

-  Các giáo họ:

1. Họ Rú Đất (Nam Sơn, họ trị sở)                 

- Nhà thờ: 9,5x33m (1930)

- Quan thầy: Đức Mẹ Lộ Đức

- Số giáo dân: 1.645 (1996)

2. Họ Mai Sơn             

- Nhà thờ: 8x18m (1924)

- Quan thầy: Thánh Paulo Trở Lại

- Số giáo dân: 299 (1996)

3. Họ Vạn Ngói (xem trên)                  

4. Họ Tân Yên             

- Nhà thờ: 9x18m (1974)

- Quan thầy: Thánh Têrêxa Hài Đồng

- Số giáo dân: 229 (1996)

5. Họ Qui Thuận                     

- Nhà thờ: 5x13m (1972)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 66 (1996)

6. Họ Tân Định (tách từ Qui Hậu 1980)                     

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 167 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Bảng                      1917 - 1936

2.    Linh mục Phúc                       1936 - 1940

3.    Linh mục Phẩm                      1940 - 1943

4.    Linh mục Thới                       1943 - 1954

5.    Linh mục Huấn                      phụ trách

6.    Linh mục Thới                       1957

7.    Linh mục Khôi                       phụ trách

8.    Linh mục Lợi                         phụ trách

9.    Linh mục Khôi

10.  Linh mục Chính                    1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Dược, quê Vạn Ngói, thụ phong 1867, qua đời 1930 tại Xã Đoài

2.      Linh mục Phêrô Huy, quê Rú Đất, thụ phong 1873, qua đời 1953 tại Xã Đoài

3.      Linh mục Phêrô Cảnh, quê Mai Sơn, thụ phong 1928, qua đời 1947 tại Trung Nghĩa

4.      Linh mục Phêrô Trọng, quê Rú Đất, thụ phong 1929, qua đời 1987 tại Xuân Phong

5.      Linh mục Đôminicô Lãng, quê Rú Đất, thụ phong 1961, qua đời 1983 tại Kẻ Dừa

6.      Linh mục Phêrô Thiện, quê giáo họ Tân Yên, thụ phong 1965

7.      Linh mục Giuse Danh, quê Mai Sơn, thụ phong 1965, qua đời 1987 tại Làng Ênh

8.      Linh mục Gioan Baotixita Hoàng, quê giáo họ Rú Đất, thụ phong 1965

9.      Linh mục Phêrô Nho, quê giáo họ Rú Đất, thụ phong 1966

10.  Linh mục Phêrô Thi, quê giáo họ Rú Đất, thụ phong 1980

11.  Linh mục Bosco Nguyễn Văn Đình, sinh 1937 tại Vạn Ngói, thụ phong 1967, dòng Phanxicô, Sàigòn.

Giáo xứ Lâm Xuyên

-  Địa chỉ: Giáo xứ Lâm Xuyên nằm trong địa bàn xã Nam Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

-  Thành lập: Năm 1936, tách từ giáo xứ Rú Đất.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 362

Năm 1996: 1.222

-  Các giáo họ:

1. Họ Lâm Xuyên (họ trị sở)              

- Nhà thờ: 15x35m (1991)

- Quan thầy: Carôlô Bôrômê

- Số giáo dân: 842 (1996)

2. Họ Lộc Tại (Xem số 42 nói sau)     

3. Họ Kim Sơn            

- Nhà thờ: 10x20m (1992)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 317 (1996)

Ngoài ra, họ Tiên Xá (Phúc Nghĩa), Phúc Đồng không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Khiêm                                       1936 - 1941

2.    Linh mục Cư                                             1941 - 1943

3.    Linh mục Hanh                                         1943 - 1955

4.    Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khôi          phụ trách

5.    Linh mục Giuse Trần Hanh                      1957 - 1986

6.    Linh mục quản xứ                                     phụ trách

7.    Linh mục Phêrô Trần Phúc Chính            phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

1.      Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Đình Sáng, hiện ở Hoa Kỳ

2.      Linh mục Giuse Phan Văn Thắng, hiện quản xứ Lập Thạch.

Giáo xứ Bảo Nham:

Bảo Nham là một giáo xứ lớn, thuộc huyện Yên Thành, chính thức thành lập năm 1887 (mặc dầu theo lịch sử trước đó vào “khoảng năm 1839 - 1840, người dân Bảo Nham đã chính thức được đón nhận Tin Mừng7) trong đó nhiều họ được tách ra và trở thành những giáo xứ tầm cỡ như: Rú Đất (1917), Ngọc Long (1924), Lâm Xuyên (1936).

Giáo xứ Bảo Nham có nhà thờ bằng đá được xây dựng trên núi cao do hai Linh mục anh em Adolphe Klingler Thái khởi công xây dựng năm 1888, khánh thành năm 1904, nghĩa là 30 năm sau biến cố Văn Thân bách hại giáo dân, đốt phá xứ đạo Bảo Nham (1874) như tập một số hình ảnh giáo xứ viết:

“… Cha già Thông đã xây dựng nhà thờ theo như lời khấn hứa của ngài với Đức Mẹ và ngài đã cùng giáo dân bắt tay vào việc trong khi kinh tế cực kỳ thiếu thốn (…) Kết quả sau 16 năm trời xây dựng, ngôi nhà thờ đã được hoàn thành (khởi công 1888, hoàn thành 1904) nhà thờ này được gọi là nhà thờ đá vì toàn xây bằng đá các phiến lớn nhỏ, đem từ tỉnh Thanh Hóa về để xây dựng, chỉ trừ phân sườn mái bằng gỗ lim, lợp ngói âm dương ngoại cỡ… du khách về tham quan xem tận mắt kỳ tích này chắc không khỏi thắc mắc: Làm sao vào thời điểm thô sơ đó, cha ông ta có thể đưa lên cao 20m những phiến đá nặng như thế? Chỉ có trong lịch sử mới trả lời được câu hỏi: Đó là cha ông chúng ta đã xây dựng nhà thờ đá lên rồi lăn đá xuống đường hầm và xây thành bức tường.

Phần sườn mái, sau một thế kỷ nắng mưa, gió bão đã hư hỏng nặng. Cuối năm 1989, giáo xứ Bảo Nham đã tu sửa lại trong vòng ba năm trời, với kinh phí cũng chẳng dồi dào gì, nhưng giáo dân đoàn kết một lòng đã tu sửa xong như cũ, không thay đổi dáng vóc, cơ cấu của di tích lịch sử quí báy này”.

Thêm vào đó, phải nói đến lèn Đức Mẹ Bảo Nham, thường gọi là lèn Đức Mẹ Lộ Đức và cũng được Linh mục Adolphe Klingler Thông xây nằm cạnh nhà thờ đá để tôn kính Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội:

“Xét về mặt tự nhiên, núi đá này có những nét giống núi đá Lộ Đức (ở Pháp), nên nhiều người còn gọi là lèn Đức Mẹ Lộ Đức và theo cha Thông kể lại rằng: Tại hang lèn này giáo dân Bảo Nham thời Tự Đức đã được cứu thoát và được nhiều ơn lành của Đức Mẹ bởi sự cầu nguyện… chính vì thế mà sau đó cha Adolphe Klingler (cha già Thông) đã giữ lời khấn hứa mà xây dựng ngôi nhà thờ đá để tạ ơn Đức Mẹ.

Hang lèn ngày nay là một nhà nguyện đặc biệt dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, tước hiệu cao trọng và vô cùng đáng yêu mến mà Đức Mẹ đã tự xưng ở Lộ Đức (1858), thêm vào đó có thể nói lèn này là một di tích đứng bên cạnh nhà thờ Đá, cũng được dâng kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Lèn Đức Mẹ, cho tới hôm nay được bảo tồn nguyên vẹn. Trải qua bao biến cố, nhưng chưa mất mát một viên đá, gốc cây. Trong khi những lèn chung quanh trong địa bàn huyện Yên Thành và Diễn Châu đều bị vô tình hay hữu ý khai thác và phá hủy.

Dẫu là mùa Xuân hay mùa Hạ, mùa Thu hay mùa Đông rừng lá cây vẫn một màu xanh tươi tắn, mặc dầu chùm rễ của chúng chỉ bám chặt vào những tảng đá lớn. Đứng ở góc độ nào người ta cũng vẫn thấy một vẻ đẹp huyền ảo hùng vĩ mà hiền hòa, cởi mở mà cao cả với một sức thu hút lạ kỳ khiến khách qua lại dù trong bức xúc cuộc sống, vẫn dành thời gian dừng chân để đếm và leo lênh hàng trăm bậc đá.

Những hình ảnh trong hang nguyện đặc biệt này sẽ thay lời chúng tôi nói với mọi người quang cảnh thật tuyệt vời cả về ý nghĩa tâm linh lẫn hình thức bố trí. Ngày ngày những lời thì thầm của những khách đến kính viếng, người ta vẫn nghe vang lên lời kinh tiếng hát của dân địa phương yêu mến và biết ơn Đức Mẹ”.

Ngoài ra, giáo xứ này còn có 14 chặng đường Thánh Giá do ông của Linh mục Phêrô Nguyễn Nguyên Hanh với trợ lực của các thầy chủng sinh Đại Chủng viện xây dựng năm 1947:

“Vào năm 1947, cha già Nguyễn Nguyên Hanh với trợ lực của các thầy chủng sinh Đại Chủng viện lúc ấy, đã đặt 14 chặng đường Thánh Giá từ cửa hang bán lộ thiên cho tới đỉnh núi đá. Thánh Giá Chúa trong nơi thứ 12 đứng cao chót vót, chứng kiến chặng đường lịch sử 60 năm qua. Vâng, tất cả biến chuyển chỉ có Thánh Giá đứng vững, quả thế ở đây Thánh Giá vẫn nguyên vẹn và đứng vững so với toàn bộ công trình xây dựng từ ban đầu”8

Ngày nay Bảo Nham đang là một xứ hạt thuộc địa bàn xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An:

-  Thành lập: Năm 1877, tách từ giáo xứ Hội Yên.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.826

Năm 1996: 3.627

-  Các giáo họ:

1. Họ Bảo Nham (họ trị sở)                

- Nhà thờ: 16x36x37m (1904)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.888 (1996)

2. Họ Mỹ Khánh                     

- Nhà thờ: 12x30m (1992)

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 1.084 (1996)

3. Họ Thịnh Đức                     

- Nhà thờ: 6x14x8,5m (1957)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 572 (1996)

4. Họ Hội Yên             

- Nhà thờ: 8x18m (1995)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 86 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Đoan               1887 - 1900

2.    Linh mục Nguyên           1901 - 1907

3.    Linh mục Thiên               1907 - 1909

4.    Linh mục Châu               1910 - 1925

5.    Linh mục Lưu                 1925 - 1931

6.    Linh mục Hóa                 1931 - 1933

7.    Linh mục Nhiên              1933 - 1935

8.    Linh mục Lạc                  1936 - 1939

9.    Linh mục Thung              1939 - 1941

10.  Linh mục Hanh              1946 - 1951

11.  Linh mục Huấn              1951 - 1959

12.  Linh mục Khôi               1959 - 1970

13.  Linh mục Lợi                 1970 - 1994

14.  Linh mục Bảo I              1994 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Trọng

2.      Linh mục Phêrô Ban

3.      Linh mục Nguyễn Chí Thiết, ở Pháp

4.      Linh mục Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

5.      Linh mục Bài

6.      Linh mục Cao Đình Cai

Số 19: NGÃ BA

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trong phúc trình có xóm đạo mang tên Ngã Ba và thực tế tại Phủ Diễn Châu này có ít là hai Ngã Ba:

1. Ngã Ba đường bộ, gồm ba hướng: hướng vào Nam, có giáo xứ Kẻ Sò gồm Xuân Phong và Phú Linh như sẽ nói sau; hướng lên Lào, có nhiều giáo xứ như Bảo Nham, Ngọc Long…; và hướng ra Bắc, có giáo xứ Đông Tháp.

2. Ngã Ba đường sông, có thể đây chính là Ngã Ba mà phúc trình muốn nói. Về ngã ba này, người dân địa phương đã phân tích như sau:

Ngã Ba này nằm trên ngọn sông Phùng (sông Bùng), con sông lớn nhất thuộc vùng Phủ Diễn Châu, được nói đến trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí - tỉnh Nghệ An, trang 66. Con sông này chảy qua các vùng trong đó có giáo xứ Kẻ Dừa, giáo xứ Phi Lộc, tên xưa là Đông Thành[11] - nơi có Thái Thịnh, được coi là một trong những họ đạo cổ xưa nhất trong vùng. Nhưng thử hỏi Thái Thịnh có phải là nơi mà hai chữ Ngã Ba phúc trình muốn nói hay không? Nếu quả đúng như vậy thì hết sức quí, bởi vì Phi Lộc không có nguồn gốc chứng minh hoặc nếu có thì cũng là do chính hai chữ Thái Thịnh này làm cột trụ cho lập luận ấy.

Ngày nay Phi Lộc nằm trong địa bàn xã Diễn Quảng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Đông Tháp:

-  Thành lập: Là một trong 18 giáo xứ đầu tiên lúc thành lập giáo phận.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.481

Năm 1996: 2.572

-  Các giáo họ:

1. Họ Phi Lộc (họ trị sở)                     

- Nhà thờ: 10x27m (1910)

- Quan thầy: Đức Mẹ Hồn Xác

- Số giáo dân: 913 (1996)

2. Họ Tân Hóa             

- Nhà thờ: 10x23 (1994)

- Quan thầy: Thánh Gioan Tông Đồ

- Số giáo dân: 388 (1996)

3. Họ Đông Phú                      

- Nhà thờ: 8x24m (1939)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 748 (1996)

4. Họ Đa Lộc               

- Nhà thờ: 7x13m (1970)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 167 (1996)

5. Họ Thái Thịnh                    

- Nhà thờ: 8x16m (1874)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 117 (1996)

6. Họ Phúc Nguyên                 

- Nhà thờ: 7,5x12,5m (1995)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 239 (1996)

Ngoài ra, trước đây còn có các họ Bút Trân, Vạn Luật, Liên Sơn, Trang Các và Yên Đò không còn nữa.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Cai                  1875 - 1883

2.    Linh mục Tịnh                 1883 - 1890

3.    Linh mục Chấn               1890 - 1907

4.    Linh mục Chức               1907 - 1910

5.    Linh mục Lộc                  1910 - 1915

6.    Linh mục Khoa               1915 - 1921

7.    Linh mục Trạch               1921 - 1923

8.    Linh mục Thuyên            1923 - 1932

9.    Linh mục Hưng               1936

10.  Linh mục Tuấn               1936 - 1966

11.  Linh mục Trung             phụ trách

12.  Linh mục Bảo                1971 - 1999

13.  Linh mục Huyền            1994 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:


1.      Linh mục Phượng

2.      Linh mục Phùng

3.      Linh mục Mỹ

4.      Linh mục Lợi …

5.      Linh mục Pháp

bản đồ việt nam xưa, bản đồ cổ việt nam
bản đồ việt nam xưa, bản đồ cổ việt nam


Số 20: DINH TLO

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do linh mục dòng Tên phụ trách.

Dinh Tlo đọc được là Dinh Tro.

Tại vùng Phủ Diễn Châu còn có một địa phương mang tên Dinh Chợ, đúng hơn là Chợ Dinh, hiện là thị trấn huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Từ Chợ Dinh có một nhánh sông chảy về Phủ Diễn Châu, một nhánh chảy về Cầu Phùng (Cầu Bùng). Giáo xứ Phi Lộc nói trên nằm chính giữa ngã ba, cách Chợ Dinh không đầy cây số có giáo xứ Vĩnh Hòa, cũng có tên là giáo xứ Chùa Bi.

Sở dĩ nói vậy là vì tại vùng này có một số di tích văn hóa, chẳng hạn: một ngôi chùa, một cây đa lớn, một cổng Tam quan đang được bảo quản cẩn thận.

Điều không rõ là hai chữ Vĩnh Hòa phát xuất từ đâu, do ai, khi nào? Bởi vì, hồi còn nhỏ (trước năm 1945) chúng tôi còn nghe nói đến hai chữ Chùa Bi, giáo xứ Chùa Bi?

Theo chúng tôi, nếu giữ nguyên được hai chữ Chùa Bi, hay đúng hơn giáo xứ Chùa Bi thì càng giá trị hơn nữa. Vì biết đâu đó chính là quá trình biến đổi từ một làng Phật giáo sang một làng Công giáo do công lao của các linh mục dòng Tên hậu bán thế kỷ XVII. Hơn nữa, thực tế ngày nay nhiều nơi còn giữ được nét văn hóa độc đáo đó. Chẳng hạn, xứ hạt Tân Định thuộc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh có giáo họ Xóm Chùa, nhà thờ Xóm Chùa. Hoặc, ngay giữa lòng thị xã Hà Tĩnh có giáo xứ Tĩnh Giang, nhà thờ Tĩnh Giang và chùa Tĩnh Giang, một ngôi chùa khá khang trang, sầm uất đang hoạt động bình thường. Đặc biệt, nhà thờ và ngôi chùa cùng mang tên Tĩnh Giang này chỉ cách nhau một bức tường!

Ngày nay Vĩnh Hòa (Chùa Bi) nằm trong địa bàn xã Hợp Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Đông Tháp:

-  Thành lập: Năm 1946, tách từ giáo xứ Phi Lộc

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.191

Năm 1996: 1.271

-  Các giáo họ:

1. Họ Vĩnh Hòa (họ trị sở)                  

- Nhà thờ: 10,7x20m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 955 (1996)

2. Họ Đông An            

- Nhà thờ: 8x18 (1995)

- Quan thầy: Phêrô

- Số giáo dân: 180 (1996)

3. Họ Xuân Tiêu                     

- Nhà thờ: 7x10m (1995)

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ, Phêrô

- Số giáo dân: 136 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Triều                1946 - 1959

2.    Linh mục Báu                 phụ trách

3.    Linh mục Đông               phụ trách

4.    Linh mục Bảo                 phụ trách

5.    Linh mục Huyền             phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 21: TRANG CHÈ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dâu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách Tên làng xã Việt Nam trang 105 - 106 về huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có những địa danh mang tên Trang, Tràng ở đầu như: Trang Xuân, Tràng Thân thuộc tổng Cao Xá; Trang Nước Xanh thuộc tổng Thái Thịnh; Trang Dương Niễu, Trang Hai Mươi, Trang Lươn, Trang Phủ Hinh thuộc tổng Vân Trụ; và Trang Lăng Lăng thuộc tổng Hoàng Trường.

Không rõ Trang Chè với các địa danh nêu đây có liên hệ gì không và hiện tình đạo Công giáo cũng như vị trí địa lý hiện nay ra sao?

Số 22: BAN HO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra dấu tích gì liên quan đến địa phương này. Tuy nhiên, sách tên làng xã Việt Nam, trang 105 có thôn Ban Bác thuộc xã An Tập, tổng Quan Triều gần thôn An Tập, thôn Diệu Ốc thuộc xã An Lạc. Hơn nữa, Diệu Ốc và An Tập (Tân Lập) hiện là tên của hai họ giáo thuộc xứ Đức Lân như đã nói ở số 14.

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí - Nghệ An, trang 60 có địa phương gò Bạn Cáp, cũng có tên là gò Ngọa Long hay gò Xác Long thuộc huyện Yên Thành…

Trong 30 xóm đạo có nhà thờ tại Nghệ An năm 1701 thấy có tên Nga Ho.

Trong bản đồ truyền giáo của Hội thừa sai Paris (Pháp) 1889 có nêu tên hai trung tâm mục vụ, trú sở của các thừa sai địa phận Nam Đàng Ngoài, thuộc Bắc sông Cả (sông lam) là Van-lộc, nay là tên của một xứ hạt và Bo-duc (Bố Đức) nay là tên của một họ giáo thuộc xứ Thượng Nậm, hạt Vạn Lộc:

- Nhà thờ: 5x10m (1936)

- Quan thầy giáo họ: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 60 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 23: KẺ SỪNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa ai tìm ra vết tích gì về địa phương này. Tuy nhiên, sách tên làng xã Việt Nam, trang 105 có thôn Thừa Sủng thuộc tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành.

Theo chúng tôi, Kẻ Sừng với Thừa Sủng là một nhưng không rõ nay là địa danh nào và hiện tình Công giáo ở đó ra sao?

Số 24: VĂN TLAỎ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Văn Tlaỏ đọc được là Văn Trương, đúng hơn là Văn Trường.

Sách tên làng xã Việt Nam trang 105 - 106 về tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành có thôn Vạn Trường. Ngoài ra, trong hạt Thuận Nghĩa hiện có một họ giáo mang tên Văn Trường thuộc xứ Song Ngọc, nằm trong địa bàn xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ: 8x15m (1905)

- Quan thầy giáo họ: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.835 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tường, sinh 1852 tại làng Thanh Sơn, quê giáo họ Văn Trường, thụ phong 1882, lúc bị bắt và đày ra Côn Đảo đang quản xứ Bùi Ngõa và là lĩnh sự (người lo các giấy tờ, văn thể, văn từ) nhà chung Xã Đoài thời Đức cha Pineau, từ trần tại Côn Đảo 1917.

Số 25: KẺ SEN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bản đồ truyền giáo của Hội Thừa sai Paris (Pháp) năm 1889 ghi nhận Sen là một xóm đạo nằm ở miền rừng, bên bờ sông Con.

Theo chúng tôi, Kẻ Sen và Sen là một nhưng không rõ nay là địa danh nào và có còn dấu tích gì về Công giáo ở đó nữa hay không?

Số 26: TRANG LAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trang Lao có thể đọc được là Trang Cao, Trăng Cao.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách tên làng xã Việt Nam, trang 106 có tên xã Đăng Cao thuộc tổng Hoàng Trường, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

Về phương diện tôn giáo, xứ Phú Vinh nằm trong địa bàn xã Đô Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có họ Đăng Cao, một họ giáo theo truyền khẩu có từ lâu đời và Kim Loan, phải chăng là Kim Nham, một trong những trú sở của các thừa sai mà bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889 ghi nhận.

-       Họ Đăng Cao

- Nhà thờ:

- Quan thầy giáo họ:

- Số giáo dân: 867 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

-       Họ Kim Loan

- Nhà thờ: 11x25m

- Quan thầy giáo họ:

- Số giáo dân: 620 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 27: TRANG LANG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách tên làng xã Việt Nam, trang 106 về huyện Đông Thành, tổng Hoàng Trường có tên hai địa danh na ná là Trang Lươn và Trang Lăng Lăng…

Không rõ Trang Lang và các địa danh vừa nêu có liên hệ gì với nhau chăng?

Số 28: TRANG CAN

Không có dấu Thánh giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, trong giáo xứ Phi Lộc trước đây thấy có tên họ giáo Trang Các mà bây giờ không còn thấy tên nữa. Hay chính xác hơn, Trang Can, Trang Các đã được sáp nhập hoặc dời sang một địa phương nào đó gần và lớn hơn chăng?

Số 29: TRANG NÓŬ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trang Nóŭ đọc được là Trang Nống.

Nguyên bản in trong sách này chữ mờ không đọc được nhưng theo Linh mục dòng Tên Đỗ Quang Chính Trang Nóŭ.

Theo Linh mục Gentil Trần Anh Thi, người Thuận Nghĩa, dòng Phanxicô, Sàigòn cho biết năm 2000 thì: “Trước đây Linh mục Trần Thế Luân cho biết đã đọc được trong một số tài liệu nước ngoài nào đó nói đến tên của Thuận Nghĩa xưa là “Trang…”. Sau này, cha Luân mất và không biết những tài liệu liên quan đến Thuận Nghĩa xưa, trong đó Trang… (gì đó) hiện nằm ở đâu?”.

Sách Les Missionnaires Francais au Tokin et au Siam XVIIè - XVIIIè siècles, “Khảo cứu về châu Á” của tác giả Alain Forest, Nhà xuất bản L’ Harmattan Paris 1998 (Pháp), ghi nhận nhiều sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Đặc biệt, tập II của cuốn khảo cứu này đề cập lịch sử của Tokin và Cochinchine đầu thế kỷ thứ XVI ở phần mục lục, trang 297 ghi: “Trang - neua (Trang - nua; Tuan - nghia)”.

Theo đó, Trang - neua này không phải là Trang Nứa ở huyện Hưng Nguyên mà là một trong những tên xưa của Thuận Nghĩa ở huyện Quỳnh Lưu. Bên cạnh đó, bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889 cũng ghi nhận Tuan-nghia, đúng hình thức chữ và đúng vị trí của Thuận Nghĩa hiện nay. Như vậy, Trang - neua (Trang - nua; Tuan - nghia) mà tác giả A. Forest ghi nhận chính là Trung Nóŭ (Trang Nống), một trong 42 xóm đạo của Phủ Diễn Châu mà phúc trình E. Ferreyra ghi nhận.

Thuận Nghĩa là sinh quán của Linh mục Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa (1790 - 1838), một trong 6 vị của giáo phận Vinh đã cùng với 117 vị tử đạo được tôn phong hiển thánh tại Roma năm 1988. Ngoài ra, Thuận Nghĩa còn là quê hương của hai linh mục có tên trong danh sách 22 vị tử đạo thuộc giáo phận Vinh đang tiến hành những thủ tục cần thiết để chính thức tôn phong là Linh mục Giacôbê Nguyễn Danh Thông (1792 - 1860) và Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Trúc (1816 - 1862).

Thuận Nghĩa từ trước năm 1846 được nói đến như một trung tâm mục vụ được giao cho một Thừa sai và hai linh mục Việt Nam phụ trách.

Hạt Thuận Nghĩa có 3 giáo xứ nằm trong huyện Nghĩa Đàn và có tới 9 giáo xứ nằm trong huyện Quỳnh Lưu. Do đó, hạt Thuận Nghĩa có thời còn gọi là hạt Quỳnh Lưu như báo cáo 1844 của Đức Giám mục Retord Liêu: “Hạt Thuận Nghĩa: 5.246 giáo hữu” và 8 năm sau Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu ghi nhận: “Hạt Quỳnh Lưu: 6.050 giáo hữu”.

Hạt Thuận Nghĩa ngày nay gồm 12 xứ: Cồn Cả, Đồng Lèn, Nghĩa Thành (Đập Bể) thuộc huyện Nghĩa Đàn và Thuận Nghĩa, Cầm Trường, Thanh Dã, Yên Hòa (Hoàng Mai), Phú Xuân (Đồng Lầy), Song Ngọc, Mành Sơn, Vĩnh Yên, Phú Yên (Tân Yên) thuộc huyện Quỳnh Lưu.

Ngày nay Thuận Nghĩa đang là một xứ hạt nằm trong địa bàn xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. (Xem thêm Thuận Nghĩa, Quê Hương Thánh Vũ Đăng Khoa):

-  Thành lập: Tên từ năm 1676 là Trang Nóŭ (Trang Nống). Là một trong 18 giáo xứ có mặt trước lúc thành lập giáo phận 1846.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 3.799

Năm 1996: 11.091

-  Các giáo họ:

1. Họ Thuận Nghĩa (họ trị sở)            

- Nhà thờ: 14x40,5m (1902)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 3.510 (1996)

2. Họ Yên Lưu            

- Nhà thờ: 14x51,5x32m (1997)

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 2.107 (1996)

3. Họ Thuận Giang                 

- Nhà thờ: 14x47m (1995)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.533 (1996)

4. Họ Tân Lập 

- Nhà thờ: 13x35m (1990)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 990 (1996)

5. Họ Thượng Nguyên            

- Nhà thờ: 8x16m (1889)

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 968 (1996)

6. Họ Trung Nguyên              

- Nhà thờ: 7,8x20m (1893)

- Quan thầy: Thánh Gia Thất

- Số giáo dân: 618 (1996)

7. Họ Hạ Nguyên                    

- Nhà thờ: 7x14m (1923)

- Quan thầy: Đức Mẹ Sầu Bi

- Số giáo dân: 471 (1996)

8. Họ Vạn Thủy                      

- Nhà thờ: 7x18m (1958)

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 595 (1996)

9. Họ Văn Phú            

- Nhà thờ: 9x20m (1959)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 295 (1996)

-  Các linh mục quản xứ và quản hạt:

1.    Linh mục Vitô Thu                                    1730 - 1740

2.    Linh mục Hòa và Phương                        

3.    Thánh P. Hoàng Khanh:                           1826 - 1839

4.    Linh mục Thành và Hành                         1839 - 1856

5.    Linh mục Châu, Đường, Xuân                 1856 - 1857

6.    Linh mục Giuse Huấn                               1867 - 1871

7.    Linh mục Pr. Chấn và Gioan Vị               1871

8.    Linh mục Hiếu và Ngô Văn Thành

9.    Linh mục Nguyễn Văn Huệ                      1874

10.  Thừa sai F. Louis Lebreton                      1749 - 1789     

11.  Thừa sai L. Francois Colombert Trung

12.  Thừa sai C. Blanck Nhàn và A. Munier  

13.  Thừa sai Valentin Gassot Nhơn              

14.  Thừa sai Charles Blanck Nhàn               

15.  Thừa sai Louis Taillander Đức               

16.  Thừa sai Louis Michaud Nhân               

17.  Thừa sai Charles Hubert Jeantet             

18.  Thừa sai Louis Marie Pineau Trị            

19.  Thừa sai Nicolas Barbier Tâm                

20.  Thừa sai Marcel Lantrade Lãng              

21.  Thừa sai Alexandre Lâm

22.  Thừa sai C. Cudrey Nhơn                        1884 - 1914

23.  Thừa sai Bos Bố

24.  Thừa sai H. M. Kerbaol                           1934 - 1940

25.  Linh mục Hà Văn Lộc                             1914 - 1917

26.  Linh mục Phêrô Triều                              1917 - 1918

27.  Linh mục Nguyễn Đôn                            1919 - 1933

28.  Linh mục Nguyễn Đình                           1933 - 1936

29.  Linh mục Đặng Đông                              1936 - 1939

30.  Linh mục Nguyễn Ngọc Lan                   1939 - 1942

31.  Linh mục Trần Đức Trung                       1943 - 1946

32.  Linh mục Nguyễn Văn Giám                   1947 - 1948

33.  Linh mục Trần Đình An                          1948 - 1951

34.  Linh mục Trần Văn Liệu (phụ tá)            1946

35.  Linh mục GB. Ngô Xuân Bá                   1951 - 1953

36.  Linh mục Phạm Viết Chỉnh                     1954 - 1955

37.  Linh mục Nguyễn Viết Khai                    phụ tá

38.  Linh mục Trần Đình Cán                         1955 - 1967

39.  Nguyễn Hồng Thanh (phụ tá)                  1967 - 1968

40.  Linh mục Lê Đình Phúc                           1968 - 1982

41.  Linh mục Võ Thanh Tâm                         1982 - 1990

42.  Linh mục Nguyễn Minh Trí                     từ 1990

43.  Linh mục Trần Minh Đức                        phụ tá từ 1999

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.    Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa, sinh 1790, thụ phong linh mục 1830, tử đạo 1838

2.    Linh mục Giacôbê Nguyễn Danh Thông, sinh 1792, thụ phong 1845, tử đạo 1860

3.    Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Trúc, sinh 1816, tử đạo 1862

4.    Linh mục Giacôbê Nguyễn Văn Vượng, sinh 1812, thụ phong 1849

5.    Linh mục Giacôbê Trần Văn Hiếu, thụ phong 1865, qua đời tại Thuận Nghĩa 1900

6.    Linh mục Phêrô Sỹ, sinh 1840, thụ phong 1876

7.    Linh mục GB. Trần Ngọc Lễ, sinh 1899, thụ phong 1932, qua đời tại Thuận Nghĩa 1957

8.    Linh mục Giuse Trần Đình Lữ, sinh 1903, thụ phong 1935, qua đời tại Phú Quốc 1960

9.    Linh mục Phanxicô Trần Văn Sáng, sinh 1909, thụ phong 1939, qua đời 1985

10.  Linh mục Paulo Trịnh Thanh Nhã, sinh 1916, thụ phong 1951, qua đời 1968

11.  Linh mục Micae Liêm, sinh 1917, thụ phong 1952, qua đời 1977, an táng tại Yên Lưu

12.  Linh mục Agnelo Vũ Văn Đình, sinh 1924, thụ phong 1950, Phanxicô, qua đời 1989

13.  Linh mục Benoit Trần Minh Phương, dòng Phanxicô, sinh 1918, thụ phong 1948

14.  Linh mục Gioan Trần Văn Phán, dòng Phanxicô, sinh 1919, thụ phong 1949

15.  Linh mục GB. Trương Văn Lộc, sinh 1923, thụ phong 1957

16.  Linh mục Gentil Trần Anh Thi, dòng Phanxicô, sinh 1926, thụ phong 1958

17.  Linh mục Luca Nguyễn Huy Kỳ, sinh 1936, thụ phong 1968, linh mục Qui Nhơn

18.  Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tĩnh, dòng Phanxicô, sinh 1938, thụ phong 1966

19.  Linh mục Phêrô Nguyễn Đức Thuận, sinh 1942, thụ phong 1976, linh mục Vĩnh Long

20.  Linh mục Phanxicô Nguyễn Thế Kỷ, sinh 1929, thụ phong 1959, qua đời 1969

21.  Linh mục Phêrô Ngô Đình Thỏa, dòng Chúa Cứu Thế, hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ

22.  Linh mục Giuse Lê Thanh, dòng Phanxicô, sinh 1946, thụ phong 1974

23.  Linh mục Phêrô Nguyễn Quyền, sinh 1947, thụ phong 1994

24.  Linh mục Phêrô Nguyễn Tín, dòng Phanxicô, sinh 1948, thụ phong 1975

25.  Linh mục Ignatiô Trần Ngân, Viện phụ Xitô Phước Lý, sinh 1949, thụ phong 1969

26.  Linh mục Phêrô Trần Đình Khoa, hiện ngụ tại Pháp

27.  Linh mục Giuse Hồ Văn Thiện, sinh 1949, thụ phong 1994, linh mục Phan Thiết

28.  Linh mục Phêrô Khoa Ngô Công Tâm, dòng Phanxicô, sinh 1948, thụ phong 1990

29.  Linh mục Henri Nguyễn Hữu Tinh, sinh 1952, thụ phong 1993, Xitô Phước Lý

30.  Linh mục Ignatiô Nguyễn Duy Lam, dòng Phanxicô, sinh 1957, thụ phong 1997

31.  Linh mục Giuse Bùi Văn Triều, sinh 1887, thụ phong 1924

32.  Linh mục Phêrô Bùi Ngọc Đoài, sinh 1895, thụ phong 1928

33.  Linh mục Châu Xuân Báu, dòng Chúa Cứu Thế hiện cư ngụ tại Mỹ

34.  Linh mục Đức Thanh

35.  Linh mục Phêrô Bùi Thành, dòng Xitô Châu Sơn

36.  Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tuấn, sinh 1882, thụ phong 1918

37.  Linh mục Micae Nguyễn Liêm, sinh 1917, thụ phong 1952

38.  Linh mục Gioan Baotixita Trần Thanh Đạt, sinh 1935, thụ phong 1993

39.  Linh mục Trần Tùng Mậu, dòng Xitô Phước Sơn, hiện cư ngụ tại Thụy Sỹ

40.  Linh mục Trần Thanh Tú, linh mục giáo phận Phan Thiết

41.  Linh mục Phêrô Thái Quang Nhàn, sinh 1921, thụ phong 1953, linh mục Nha Trang

42.  Linh mục Nguyễn Công Vinh, linh mục giáo phận Phan Thiết

43.  Linh mục Nguyễn Đình Khẩn, linh mục giáo phận Phan Thiết

44.  Linh mục Nguyễn Văn Thành, sinh 1858, thụ phong 1894

45.  Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Linh, sinh 1911, thụ phong 1940, linh mục Nha Trang

46.  Linh mục Lê Trọng Ngọc, sinh 1943, dòng Xitô Phước Sơn thụ phong 1973

47.  Linh mục Phêrô Nguyễn Duy Khang, sinh 1937, thụ phong 1994

48.  Linh mục Bênađô Vũ Sĩ Trang

49.  Linh mục Đinh Công Đoàn

50.  Linh mục Tađêô Lạng, thụ phong 1828, tử đạo ngày 19.7.1861

51.  Linh mục Giacôbê Vượng, thụ phong 1849, qua đời và chôn cất ở Xã Đoài năm 1888

52.  Linh mục Phêrô Vĩnh, sinh 1866, thụ phong 1903, qua đời tại  Kẻ Trúa năm 1915

Số 30: TRANG NÀN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra dấu tích liên quan đến địa phương này.

Số 31: CAU DÀI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Cau Dài đúng hơn là Cầu Dài.

Trong sách tên làng xã Việt Nam, trang 106 có thôn Cầu Dài thuộc xã Tiên Nông, tổng Vân Trụ, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

Theo ông Nguyễn Phúc Lâm, gốc Kẻ Sò (xem thêm số 36: Kẻ Sò nói sau) thì Cầu Dài chính là Chợ Dàn. Tại vùng này hiện có xứ hạt Đông Tháp, cách Quốc lộ 1A chừng 300m về hướng Đông; cách Vạn Phần 3 km.

Vì sự liên hệ gần gũi mật thiết như vậy, cho nên chúng ta có thể nghĩ rằng Cau Dài, Cầu Dài này là tiền thân trực hệ của địa danh xưa có tên là Đông Thành, nay là Đông Tháp chăng?

Ngày nay Đông Tháp đang là một xứ hạt nằm trong địa bàn xã Diên Hồng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An:

-  Thành lập: Năm 1911, tách từ giáo xứ Phi Lộc

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.446

Năm 1996: 6.267

-  Các giáo họ:

1. Họ Đông Tháp (họ trị sở)               

- Nhà thờ: 17x57m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.337 (1996)

2. Họ Thành Trài                    

- Nhà thờ: 6x24m

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 997 (1996)

3. Họ Yên Lý               

- Nhà thờ: 11x30m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 883 (1996)

4. Họ Bến Đén (xem số 16 nói trên)    

5. Họ Cùng Trài                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Gioan Tông Đồ

- Số giáo dân: 631 (1996)

6. Họ Đông Kiền                     

- Nhà thờ: 6x15m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 394 (1996)

7. Họ Khê                    

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 304 (1996)

8. Họ Tân Trai            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giacôbê Hậu

- Số giáo dân: 231 (1996)

9. Họ Cồn Cao            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 221 (1996)

10. Họ Vĩnh Lộc                      

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Stêphanô

- Số giáo dân: 198 (1996)

11. Họ Yên Hòa                       

- Nhà thờ: 6x12m

- Quan thầy: Thánh Micae

- Số giáo dân: 203 (1996)

12. Họ Yên Thịnh                   

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Thánh Paulo Trở Lại

- Số giáo dân: 76 (1996)

13. Họ Yên Thọ                       

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Thánh Gia Thất

- Số giáo dân: 56 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Trung                                        thừa sai

2.    Linh mục Hiền                                          thừa sai

3.    ĐGM Eloy Bắc                                         thừa sai

4.    Linh mục Nhàn                                         thừa sai

5.    Linh mục Đôn                                           1911 - 1919

6.    Linh mục Thuyên                                      1919 - 1923

7.    Linh mục Lan                                            1923 - 1929

8.    Linh mục Hiển                                          1929 - 1932

9.    Linh mục Bảo                                           1932

10.  Linh mục Tân                                           1932    

11.  Linh mục Đạt                                           1933 - 1941

12.  Linh mục Đông                                        1941 - 1944     

13.  Linh mục Lự                                            1944    

14.  Linh mục Linh                                         1946 - 1948     

15.  Linh mục Cai I                                         1948 - 1982     

16.  Linh mục Hoàng                                      1982 - 1984     

17.  Linh mục Trí                                            1984 - 1990     

18.  Linh mục Nho                                          1991    

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.    Linh mục Phêrô Quyền, quê giáo họ Yên Lý, thụ phong 1942, qua đời tại miền Nam

Số 32: CHẤM CHỐT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Theo nguyên bản thì như vậy, nhưng cho đến nay chưa thấy ai tìm ra nguồn tài liệu liên quan đến địa phương này.

Số 33: NÚI TLON

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Núi Tlon đọc được là Núi Tron, đúng hơn là Núi Trong.

Địa danh này cũng được nhắc đến 25 năm sau, khi nói đến hơn 31 “xóm đạo” đã có nhà thờ tại Nghệ An, trong đó có núi Trong (Nui trou) (xem thêm số 16 nói trên). Tuy nhiên, hiện chưa rõ địa danh này có liên quan đến các giáo xứ, giáo họ trong vùng hay không?

Số 34: KẺ TRÀM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương liên quan đến xóm đạo này. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu được đây là địa danh miền giáp biển, vùng nước lợ, sác sú, có nhiều cây tràm.

Số 35: LÀNG DẮP

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do  các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 36: KẺ SÒ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạc dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

1. Kẻ Sò là vùng đất có vỏ sò thiên tạo chạy dài Si Vích cũng là họ giáo Thanh Bích, giáp cửa Vạn Phần, qua thành Phủ Diễn Châu, men theo Quốc lộ 1A đến chân núi Đền Cuông (ngôi đền thờ An Dương Vương, nay thuộc di tích lịch sử quốc gia) là họ Thiên Tước (Kẻ Dước), trên dải đất có mỏ sò (vỏ sò kết tụ hàng ngàn vạn năm trước) dài độ 8 cây số, chiều ngang độ 500 mét. Dân trong vùng thường đào, đục thành viên khối chữ nhật 20x30x10cm để xây tường nhà thay đá gạch. Hiện mỏ sò đã tận dụng hết, chỉ còn vụn, dân lấy về trộn thêm vôi hàu, hoặc ciment đúc thành gạch.

Kẻ Sò là địa phương gần biển, nằm trên dải đất sò chỉ thích hợp trồn dâu nuôi tằm dệt tơ và các vụ nông nhàn. Thế nhưng, người dân nơi đây lại đa số sống bằng nghề nông và đánh bắt thủy hải sản.

2. Mỏ Sò là quê hương cụ Cao Xuân Dục, quan lớn trong triều, đã có bốn đời Thượng thư của các triều đại nhà vua hồi trước. Địa danh này hiện thuộc xã Diễn Thịnh (thôn Thịnh Mỹ xưa), huyện Diễn Châu, kế cận Quốc lộ 1A.

Tại Kẻ Sò ngày xưa có Chợ Sò mà sách Đại Nam nhất thống chí Nghệ An, trang 117 liệt kê vào chợ hạng 8 của tỉnh. Chợ Sò nằm gần thôn Tuấn Kiệt tức thôn Tuấn Đức (thôn giáo) và thôn Linh Kệt (thôn lương) bây giờ.

Về sau Chợ Sò dời ra phía Bắc, cách ngã ba thị trấn huyện Diễn Châu 1 km, cách nhà thờ giáo xứ Xuân Phong 100 mét.

Chợ Sò hiện là chợ thị trấn huyện Diễn Châu, nằm trên giao lộ ngã ba Diễn Châu, ngã giao thông quan trọng: vào Nam, ra Bắc và lên miền núi - qua Lào. Lại có đường mới rộng 20 mét đi qua giáo xứ Xuân Phong đến tận khu Trường Tập xưa, nay lập khu an nghỉ cho Sĩ quan quân đội và công nhân viên chức nhà nước. Đồng thời cũng là khu du lịch Diễn Châu, có bãi biển đẹp, thơ mộng nhờ những rặng phi lao như những rặng thông ở Đà Lạt.

Tại ngã ba này, năm 1930 Hoàng Hậu nước Bỉ (Belgique) giúp kinh phí xây dựng đường số 7. Nhờ vậy, chính phủ hồi đó đã đặt bia đá lớn ngay chính giữa ngã ba với kích thước 4x1 mét bằng cẩm thạch, khắc hình con sư tử đứng, trên đầu đội Triều thiên, có Thánh giá và khắc chữ “REINE D’AUTRICHE” để ghi ơn bà.

3. Kẻ Sò cũng là quê hương của bốn vị linh mục thế kỷ XVII, XVIII:

- Linh mục Paulo Tri 1703 - 1752: sinh trong một gia đình Công giáo tại Kẻ Sò, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

- Linh mục Giacôbê Chiêu 1732 - …: Linh mục Chiêu hay Phan cùng quê và họ hàng với Linh mục Paulo Tri nói trên.

- Linh mục Gioan Đậu Ngọc Châu 1809 - 1859: sinh quán tại làng Tiền Song, thuộc giáo xứ Phú Linh, huyện Diễn Châu. Từng quản xứ Làng Ênh, Trại Lê, Giăng, Hội Yên, Thuận Nghĩa, Phú Yên. Bị bắt ngày 21.7.1859, xử trảm ngày 21.11 cùng năm tại Quán Bàu. Hài cốt ngài được tôn kính tại giáo xứ Đông Kiền tức Yên Đại ngày nay.

- Linh mục Giuse Nghi 1790 - 1861: sinh 1790 tại họ Hiệu Lân, làng Phong Phú, xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu. Chết rũ tù ngày 26.12.1961, đời vua Tự Đức, thọ 71 tuổi. Ngài là dưỡng tử của Đức Giám mục Masson Nghiêm, làm mục vụ tại Lãng Điền hay Dừa Lãng, Hội Yên, miền Mường.

Trong bản báo cáo của Đức Giám mục Retord Liêu ngày 23.7.1839 có nêu tên 18 giáo xứ đầu tiên của Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, trong đó có tên Đông Thành.

Phúc trình của Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu gửi Tòa Thánh về 21 giáo hạt (giáo xứ) thời ngài coi sóc có tên Đông Thành.

4. Điều ngạc nhiên, sơ đồ phát triển các xứ đạo thuộc giáo phận Vinh 1992 thấy vẽ hạt Đông Tháp phát xuất từ Đông Thành, từ Phi Lộc, trong khi Phi Lộc không có tên trong phúc trình 03.10.1676. Do đó, Phi Lộc tạm được gọi xứ Mẹ có thể nhờ cụm từ “giáo điểm kế cận”, gồm: Vạn Ngói, Bến Đén, Ngã Ba, Chợ Dinh là những nơi có tên trong bản phúc trình để làm cơ sở cho việc đặt tên. Từ đó cũng có thể giáo xứ Phú Linh, hậu thân của giáo xứ Kẻ Sò là do chính tại địa phương đã co Mỏ Sò, Chợ Sò, làng Tuấn Kiệt nói trên.

Đàng khác, lân cận Kẻ Sò còn có cụm: Kẻ Sò, Kẻ Nguôi, Tuấn Kiệt, Tràng Thân gần Phú Linh… Cho nên, hai cụm dân Phi Lộc, Phú Linh đều có tuổi cùng ngang nhau là 327, chứ không phải Phi Lộc sinh ra Phú Linh như bản vẻ của giáo phận.

Cũng cần nói thêm vùng Kẻ Sò có giáo xứ lớn là Phú Linh với hai họ giáo ở cuối vùng Mỏ Sò là Si (họ Lý Nhân) và Vích (họ Thanh Bích). Kể từ 1935, hai họ này cùng với Xuân Phong, Hiệu Lân, Tuấn Đức được tách ra và lập thành giáo xứ Xuân Phong, cách thị trấn huyện Diễn Châu khoảng 200 mét và cách vị trí Trường Tập Xuân Phong khoảng 1 km.

Ngày nay, Phú Linh Xuân Phong đang là hai giáo xứ thuộc địa bàn hạt Đông Tháp:

Giáo xứ Phú Linh

(cũng có tên là Đông Ca)

-  Địa chỉ: Giáo xứ Phú Linh, xã Diễn Tân, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

-  Thành lập: Năm 1886, tách từ giáo xứ Đông Thành

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.016

Năm 1996: 5.536

-  Các giáo họ:

1. Họ Phú Linh (họ trị sở)                  

- Nhà thờ: 9x20m

- Quan thầy: Lễ Noel

- Số giáo dân: 1.305 (1996)

2. Họ Hậu Hòa            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 1.335 (1996)

3. Họ Trung Song                   

- Nhà thờ: 8x18m

- Quan thầy: Thánh Gioan Tông Đồ

- Số giáo dân: 1.447 (1996)

4. Họ Thiên Tước

- Nhà thờ: 9x29m (1989)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 750 (1996)

   5. Họ Nho Lâm                     

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 392 (1996)

6. Họ Tân Dạ               

- Nhà thờ: 8,5x23m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 307 (1996)

Ngoài ra, các họ Tiền Song, Phúc Môn do dân đi tứ tán nên đã tự giải thể.

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Khiêm                         1884 - 1887

2.    Linh mục Nguyên                       1887 - 1897

3.    Linh mục Thiện                           1897 - 1900

4.    Linh mục Uyển                           1900 - 1928

5.    Linh mục Chân                           1928 - 1930       

6.    Linh mục Lan I                           1930 - 1939

7.    Linh mục Huân II                       1939 - 1942

8.    Linh mục Lan II                          1942 - 1955

9.    Linh mục Trọng     phụ trách      1954

10.  Linh mục Đình                           1955

11.  Linh mục Hoàng                       

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Nghĩa, quê giáo họ Trung Song, thụ phong 1888, qua đời 1920

2.      Linh mục Phêrô Giáp, quê giáo họ Hậu Hòa, thụ phong 1901, qua đời 1913

3.      Linh mục Gioan Trạch, quê giáo họ Trung Song, thụ phong 1904, qua đời 1945

4.      Linh mục Phêrô Cao Xuân Ngọc, quê Hậu Hòa, thụ phong 1910, qua đời 1947 tại Xã Đoài

5.      Linh mục Gioan Baotixita Thưởng, quê Hậu Hòa, qua đời 1950 tại quê hương

6.      Linh mục Gioan Giản, quê giáo họ Hậu Hòa, thụ phong 1915, qua đời 1944

7.      Linh mục Px. Chức, quê Thiên Tước, thụ phong 1922, qua đời 1952 tại Xã Đoài

8.      Linh mục Phêrô Phan Hiển, quê giáo họ Hậu Hòa, thụ phong 1932, qua đời 1957

9.      Linh mục Phêrô Tuấn, quê giáo họ Hậu Hòa, thụ phong 1888

10.  Linh mục Gioan Lâm, sinh 1864, quê giáo họ Trung Song

11.  Linh mục Giuse Nguyễn Huy Lợi, sinh 1909, quê Phú Linh, thụ phong 1939, qua đời 1977 tại Bảo Nham

12.  Linh mục Phêrô Nguyễn Công Bình, sinh 1919, quê giáo họ Phú Linh, thụ phong 1957, qua đời 1977 tại Chợ Sàng (Quảng Bình)…

Giáo xứ Xuân Phong

-  Địa chỉ: Xứ Xuân Phong, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

-  Thành lập: Năm 1935, tách từ giáo xứ Phú Linh

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.464

Năm 1996: 1.806

-  Các giáo họ:

1. Họ Xuân Phong (họ trị sở)             

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 816 (1996)

2. Họ Lý Nhân (Si)                  

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 334 (1996)

3. Họ Thanh Bích (Vích)                    

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 385 (1996)

4. Họ Tuấn Đức

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 186 (1996)

   5. Họ Hiệu Lân                     

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Paulo Trở Lại

- Số giáo dân: 85 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Đông                           1935 - 1936

2.    Linh mục Dũ                               1936 - 1937

3.    Linh mục Ân                               1937 - 1941

4.    Linh mục Đạt                              1941 - 1956

5.    Linh mục Trí                               phụ trách

6.    Linh mục Trọng                          phụ trách

7.    Linh mục Hoàng                         phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Châu, thụ phong 1809, qua đời 1859 tại Xã Đoài

2.      Linh mục Phêrô Minh, quê Xuân Phong, thụ phong 1902, qua đời 1940 tại Yên Lĩnh

3.      Linh mục Giuse Di, quê Tuấn Đức, thụ phong 1921, qua đời 1949 tại Yên Hòa

4.      Linh mục Phêrô Giám, quê Xuân Phong, thụ phong 1935, qua đời 1965 tại quê hương

5.      Linh mục Phêrô Thông, quê giáo họ Thanh Bích, thụ phong 1900

6.      Đức Ông GB. Lê Xuân Hoa, sinh 1926, quê Hiệu Lân, thụ phong 1959

7.      Linh mục Anrê Dũng Lạc Lê Trọng Hồng, quê giáo họ Tuấn Đức

8.      Linh mục Phêrô Lê Hùng Tâm, sinh 1926, quê Xuân Phong, thụ phong 1961

9.      Linh mục Giuse Đặng Đình Hoàng, sinh 1927, quê Xuân Phong, thụ phong 1961

10.  Linh mục Giuse Đặng Sĩ Bình, sinh 1934, quê Xuân phong, thụ phong 1966

11.  Linh mục Phêrô Bùi Đức Thành, sinh 1953, quê giáo họ Xuân Phong, thụ phong 1995, dòng Châu Sơn

12.  Linh mục Phêrô Đậu minh, sinh 1960, quê giáo họ Xuân Phong, thụ phong 1976, dòng Phanxicô, Sàigòn

13.  Linh mục Gioan Baotixita Lê Đình Phương, sinh 1963, quê giáo họ Xuân Phong, thụ phong 1998, dòng Chúa Cứu Thế, Sàigòn…

Số 37: KẺ SAŎ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Saŏ đọc được là Kẻ Song, nay là Song Ngọc nằm trong địa bàn xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Thuận Nghĩa:

-  Thành lập: Có tên từ hồi 1676. Năm 1923, chính thức thành lập giáo xứ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.052

Năm 1996: 1.858

-  Các giáo họ:

1. Họ Ngọc Thanh (Song Ngọc, họ trị sở)                  

- Nhà thờ: 11x32m (1825)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 844 (1996)

2. Họ Văn Thai (Xem số 9 nói trên)               

3. Họ Văn Trường (Xem số 24 nói trên)                    

4. Họ Ngọc Sơn

- Nhà thờ: ? (1835)

- Quan thầy: Chúa Lên Trời

- Số giáo dân: 381 (1996)

Ngoài ra, họ giáo Ngọc Mỹ không còn thấy tên?

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Đông                           1923 - 1943

2.    Linh mục Lữ                               1943 - 1944

3.    Linh mục Đông                           1944 - 1946

4.    Linh mục Linh                           

5.    Linh mục Thư                             1946 - 1950       

6.    Linh mục Hậu                             1950 - 1989

7.    Linh mục Tâm                             phụ trách

8.    Linh mục Trí                               phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Biện, quê giáo họ Ngọc Thanh, thụ phong 1919, qua đời 1935

2.      Linh mục Nguyễn Văn Tường, quản lý Tòa Giám Mục thời Đức Cha Trị, thụ phong 1882, qua đời 1917 tại Côn Đảo

3.      Linh mục Paulo Diệu, quê giáo họ Song Ngọc, thụ phong 1924, qua đời 1949

4.      Linh mục Antôn Duyệt, quê giáo họ Song Ngọc, thụ phong 1942

5.      Linh mục Giuse Lân, quê Song Ngọc, thụ phong 1994 …

Số 38: TRĂN GIÓ

Không có dấu chỉ Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trăn Gió đọc được là Trang Gió.

Trang Gió là một địa phương có tên từ hồi xa xưa ở phía dưới thị trấn huyện Yên Thành. Từ Chợ Dinh (như đã nói ở số 20) có đường bộ đi huyện Tân Kỳ, qua giáo xứ Hậu Thành, gần với giáo xứ Đức Lân.

Số 39: KẺ NGUÔI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách Les Missionnaires Français au Tokin et au Siam XVIIe-XVIIIe, Livres du histoires du Tokin, một khảo cứu về châu Á của tác giả Alain Forest, trang 236 và 281 cho biết:

“Trong những ngày lễ nghỉ và Chúa nhật, số người Công giáo đến nhà thờ rất đông. Riêng tại Kẻ Nguôi số người Công giáo đã vượt quá 150 người, thậm chí đạt tới 300 người. Tuy nhiên, vào thời Tây Sơn (1789), làng Kẻ Nguôi này bị đốt cháy hoàn toàn, trong đó có nhà thờ, nhà các Thừa sai, kể cả nhà cửa của các giáo hữu…”.

Dầu vậy, hiện chưa rõ Kẻ Nguôi là địa phương nào trong vùng Bắc Nghệ An và hiện tình đạo Công giáo ở đó ra sao?

Số 40: TRANG MAN

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục Đàng Ngoài phụ trách.

Tác giả sách dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615 - 1777 ghi ra như vậy. Tuy nhiên, nếu phân tích tỉ mỉ từng nét nguyên bản phúc trình thì đây phải là Trang Man.

Trang Man có thẻ là Trang Mang, Trang Mưng

Giáo xứ Qui Hậu có tên cũ là Mưng. Do đó, Trang Man và Mưng có thể đã từng liên hệ ít nhiều với nhau. Hay nói cách khác, Trang Man là tiền thân của Mưng và là tiền thân của Qui Hậu nằm trong địa bàn xã Kỳ Tân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Bảo Nham:

-  Thành lập: Năm 1920, tách từ giáo xứ Hậu Thành, có tên cũ là Mưng

-  Số giáo dân: Năm 1945: 520

Năm 1996: 3.578

-  Các giáo họ:

1. Họ Qui Hậu (Mưng, họ trị sở)                    

- Nhà thờ: 6x20m (1994)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 674 (1996)

2. Họ Làng Rào

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1.279 (1996)

3. Họ Tân Diên

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 522 (1996)

4. Họ Cầu Trôi

- Nhà thờ: 7x15m (1994)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 312 (1996)

5. Họ Hồng Phúc

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 291 (1996)

6. Họ Tân Lập

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 105 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hoan I                       1920 - 1923

2.      Linh mục Di                              1923 - 1925

3.      Linh mục Hoan III                    1925 - 1929

4.      Linh mục Thân                          1929 - 1943                   

5.      Linh mục Duyệt                         1943 - 1949       

6.      Linh mục Khôi                          1949 - 1959

7.      ĐGM Paulo Cao Đình Thuyên  1962

8.      Linh mục Tuệ                            1971

9.      Linh mục Nam                           phụ trách

10.  Linh mục Đương                       1996 - …

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 41: CÂY QUAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, hiện trong vùng này thấy có mấy họ giáo mang tên na ná là:

·  Giáo họ Cơn Giền hay Cây Giền, cùng với Yên Sơn, Diện Yên, Đồng Qui và Phú Ốc là những họ giáo trước đây của giáo xứ Hội Yên mà bây giờ nói là không còn nữa.

·  Giáo họ Cây Vong, tên xưa của giáo xứ Hậu Thành

- Nhà thờ: 10x21m (1939)

- Quan thầy giáo họ: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 741 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

·  Họ Đăng Cao, xứ Phú Vinh, một họ giáo theo truyền khẩu nói có từ lâu đời (xem thêm số 26 nói trên).

Số 42: TRANG NHAI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa biết đích xác về địa phương này, nhưng nhìn chung trong Phủ Diễn Châu, ở vùng Đông Tháp - một vùng giáo thuộc miền biển thấy có đến ba họ giáo mang tên na ná là:

·  Giáo họ Thành Trài

- Nhà thờ: 6x24m

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 997 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

·  Giáo họ Cung Trài

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Gioan Tông Đồ

- Số giáo dân: 631 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

·  Giáo họ Tân Trai

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giacôbê Hậu

- Số giáo dân: 741 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Tuy nhiên, xét cho cùng rất có thể ở đây tác giả muốn nói đến một nơi khác, phải chăng là họ giáo Lộc Tại của Lâm Xuyên, một giáo xứ thuộc miền rừng vì ở đây phúc trình đang nói tới những giáo điểm thuộc miền rừng?


CÁC THÁNH TỬ ĐẠO GIÁO PHẬN VINH

HIỂN THÁNH 19-6-1988 

các thánh tử đạo giáo phận Vinh, cac thanh tu dao Gp Vinh

BÀI BẢY 
PHỦ ANH ĐÔ

Gồm 2 huyện Hưng Nguyên và Nam Đường

I. HUYỆN HƯNG NGUYÊN

Có 7 tổng, 86[12] xã, thôn, phương, vạn, tộc

1. Tổng Phù Long có 22 xã, thôn: Phù Long (thôn Nguyễn Xá, thôn Đường Quan), Phúc Hoàn (thôn Mộc Hoàn, thôn Hưng Phúc), Dương Xá (thôn Lê Xá, thôn Hương Trà, thôn Liễu Thị), Hạ Khê, Nghĩa Liệt (thôn Hưng Nhân, thôn An Thái, thôn An Bì, thôn An Quốc, thôn Phúc Hải), thôn Đông Châu, sở Mộc Hoàn, phường Nội Duệ, tộc Hoàng Nghĩa, sở Đồng Luân, sở Thượng Phù, vạn Cồn, vạn Liệt.

2. Tổng Thông Lãng có 8 xã, thôn: Thông Lãng (thôn Lãng, thôn Cầu, thôn Phiên, thôn Đông), Ước Lễ, Hoàng Cần, Trung Mâu, Do Lễ.

3. Tổng Đô An có 16 xã, thôn, vạn: Đô An (thôn Đô An, thôn Thị Quang), thôn An Phúc, Âm Công (thôn Thành Công, thôn Xuân Am), An Phát, Mỹ Chân (thôn Chân Đích, thôn Kim Mã, thôn An Mỹ, thôn Ngọc Hốt, thôn Xuân Thịnh), Vạn Hến, Mỹ Tục (thôn Cự, thôn Mỹ, thôn Phú An, thôn Thượng).

4. Tổng Hoa Viên có 9 xã, thôn, phường: Phục Lễ, Phú Điền, Hồ Khẩu, thôn Nguyễn Phúc Tiền, Nguyễn Phúc Hậu và thôn Phúc Xuyên, Lộc Điền, Khánh Sơn, Hoa viên, Vệ Kỳ, Do Trường.

5. Tổng Hải Độ có 22 xã, thôn: Hương Cái (thôn An Đỗ, thôn Ngoại Hạ, thôn Lỗ Nhi, thôn Bảo Đà), Bùi Khổng (thôn Đông, thôn Bùi, thôn Thượng, thôn Dung), Lạp Cầu (thôn Lạch Tiền, thôn Sơn Lãng, thôn Hương Thịnh, thôn Trường Lãng), Hải Đô (thôn Cận, thôn Truyền, thôn Cách, thôn Hương Lại), Bùi Ngõa, Thiều Xá, thôn Nại thuộc xã Nguyệt Tỉnh, Vạn Ngói.

6. Tổng Cảo Trinh có 11 xã, thôn, vạn, tộc: Cảo Trinh (tộc Nhất Hộ thôn Tam, thôn Mỹ Yên, thôn Đồng Anh), Cảo Khê (thôn An Toàn, thôn Ông Hương, giáp Tam), thôn Văn Mỹ thuộc xã Trường Đề, Đỗ Lâm Hạ, Hòa Lương (thôn Phú Ruộng, thôn Đa Lãng, vạn võng nhi Ông Hương.

7. Tổng La Hoàng có 4 xã: Đông Ngạn, Ba Đồn, Hoàng Lao, La Hoàng.

Các xã, thôn trong huyện phiêu bạt: Nghĩa Liệt, Thái Lão, Hương Cái (thôn Phúc Long, thôn Ngoại Thượng), Dung Châu.

II. HUYỆN NAM ĐƯỜNG (NAM ĐÀN)

Có 8 tổng, 90 xã, thôn, phường, trại, sách, giáp, vạn

1. Tổng Non Liễu có 20 xã, thôn, giáp: Non Liễu, Yên Lạc, Thanh Tuyền, Non Hồ, Vân Đồn, Chung Tháp, thôn Thượng Hồng, Nghịa Động, Tự Trì, Hồng Nhiễm, Hương Lãm (thôn Đông, thôn Tạo Lệ, thôn Nam, thôn Khả Lãm), Thịnh Lạc (thôn Trung Lâm, thôn Nhân Hậu, giáp Đồng Nhân, thôn An Lạc, thôn Xuân Lâm, giáp Hạ).

2. Tổng Lâm Thịnh có 15 xã, thôn, phường, giáp: Lâm Thịnh, thôn Chung Mỹ, Duyên La, Trường Cát, Chung Cự (thôn Ngọc Đình, thôn Hoàng Trụ, thôn Kim Liên, thôn Vân Hội, giáp Tính, giáp Kính Ky, giáp Khoa Cử, phường Tiểu Ca), Gia Lạc, Hữu Biệt, vạn thủy cơ Duyên La.

3. Tổng Đại Đồng có 6 xã, thôn, giáp: Đại Đồng, Hiến Lãng, Đồng Luân (thôn Luân, giáp Bào và giáp Châu Ngọc thuộc thôn Bào), Nông Sơn, Lãng Khê.

4. Tổng Hoa Lâm có 5 xã, thôn: Hoa Lâm, Động Liệt, Hoa Ổ, thôn Đồng Điên, Tràng Các.

5. Tổng Đô Lương có 24 xã, thôn, giáp: Đô Lương (thôn Cẩm Hoa Thượng, thôn Cẩm Hoa Đông, giáp Nghiêm Thắng, giáp Duyên Quang, thôn Đông Trung, thôn Hoa Viên, thôn Phúc Thị), Đại Tuyền (thôn Phú Thọ, thôn Đông An, giáp Trung Hòa, thôn An Thành), Bạch Đường (thôn Nhân Trung, thôn Phúc Tuyền, thôn Phúc An, thôn Nhân Bồi, thôn Miếu Đường), phường Thiên Lý, thôn Vĩnh Sơn, phường Hồng Hoa, vạn Trung Lở, phường Đường Tháp.

6. Tổng Thuần Trung có 6 xã, thôn: Thuận Trung, Yết Nghi, Phật Kệ (thôn Bột Đà, thôn Phường Lịch), Trường Bộc, Sơn La.

7. Tổng Bạch Hà có 5 xã: Bạch Hà, Nhân Luật, Lưu Sơn, Thanh Thủy, Đào Ngõa.

8. Tổng Lãnh Điền có 9 xã, vạn, sách, thôn: Lãng Điền, Mạc Điền, Tào Nguyễn, thôn Vạn Hộ, Cấm An, An Lương, vạn Lãng Điền, Mặc Điền, sách Tào Giang.

***

Số 43: KẺ NGÓI

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Ở Phủ Diễn Châu, chúng ta đã gặp hai chữ Kẻ Ngói (số 18) và đã đường người dân địa phương hôm nay xác nhận là giáo họ Vạn Ngói thuộc xứ Rú Đất, hạt Bảo Nham.

Sở dĩ hai chữ Kẻ Ngói được gặp lại ở đây là vì theo ý tác giả muốn nói tên chung của những nơi chuyên làm nghề đất sét như nắn đúc nồi niêu, gạch ngói…

Nếu vậy thì hơn đâu hết, chúng ta có thể phần nào xác nhận Kẻ Ngói này là tiền thân của giáo xứ vốn có tên Kẻ Trầu, nay là Lưu Mỹ. Một giáo xứ “lâu đời khi chưa thành lập giáo phận Vinh”1them, nghĩa là trước năm 1846 so với 1676 là 170 năm. Hơn nữa năm 2003 này người dân địa phương nơi đây ít nhiều vẫn tiếp tục làm nghề đất sét như vừa nói trên.

Càng cụ thể hơn, xưa nay ở làng này có hai giai thoại: một là làm nghề đất sét thiếu vệ sinh, nên mắt người nào ít nhiều cũng bị nhèm - triệu chứng bệnh mắt hột; hai là trẻ con vùng này chỉ thấy mặt mẹ mà không thấy mặt cha vì phải đi kiếm đất về cho vợ con làm từ sáng sớm: “khi đi con đang ngủ, khi về con đã ngủ rồi”.

Ngày nay, Lưu Mỹ nằm trong địa bàn xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Bảo Nham:

-  Thành lập: Lưu Mỹ có tên xưa là Kẻ Trầu, Kẻ Ngói (?), một torng 18 giáo xứ đầu tiên khi thành lập giáo phận.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.520

Năm 1996: 3.119

-  Các giáo họ:

1. Họ Lưu Mỹ (họ trị sở)                     

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.375 (1996)

2. Họ Tân Phương

- Nhà thờ: 18x7m (1920)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 739 (1996)

3. Họ Thượng Giáp

- Nhà thờ: 14x4,5m

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 115 (1996)

4. Họ Cẩm Sơn

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 171 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Ngũ                            1879 - 1888

2.      Linh mục Nhơn                         1888 - 1894

3.      Linh mục Vệ                              1894 - 1913

4.      Linh mục Kiên                           1913 - 1925                   

5.      Linh mục Châu                         1925 - 1933       

6.      Linh mục Phúc                          1933 - 1936

7.      Linh mục Bường                       1936 - 1939

8.      Linh mục Chỉnh                         1939 - 1943

9.      Linh mục Kính                          1943 - 1950

10.  Linh mục Lịch                           1950 - 1955

11.  Linh mục Hưng                         1955 - 1971

12.  Linh mục Khoan                        1971 - 1986

13.  Linh mục Thanh                        phụ trách

14.  Linh mục Thi                             1986 - …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Hoàng, quê Kẻ Trầu, thụ phong 1869, qua đời 1936 tại Xã Đoài

2.      Linh mục GB. Thiện, quê Kẻ Trầu, thụ phong 1860, qua đời 1954 tại Lưu Mỹ

3.      Linh mục Paulo Diệu, quê giáo họ Kẻ Trầu, thụ phong 1868, qua đời 1946

4.      Linh mục Phêrô Khoa, quê Kẻ Trầu, thụ phong 1873, qua đời 1957 tại Xã Đoài

5.      Linh mục Phêrô Kiều, quê Kẻ Trầu, thụ phong 1914, qua đời 1923 tại Kẻ Trầu

6.      Linh mục Đổng, quê Lưu Mỹ, thụ phong 1932, qua đời 1984 tại Kỳ Anh

7.      Linh mục Phêrô Nguyễn Viết Khai, sinh 1919 tại Lưu Mỹ, thụ phong 1959, qua đời 1998 tại nhà chung giáo phận Vinh số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sàigòn

8.      Linh mục Paulo Đại, quê giáo họ Lưu Mỹ, thụ phong 1959

9.      Linh mục Giuse Phan Văn Tầ, quê giáo họ Lưu Mỹ, thụ phong 1961

10.  Linh mục Gioan Baotixita Minh, quê giáo họ Lưu Mỹ, thụ phong 1992…

·     Sở dòng MTG Lưu Mỹ:

- Đã khấn: 17 (1996)

- Chưa khấn: 20

Số 44: TRANG MỐI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Nguyên bản ghi như vậy, nhưng theo chúng tôi có thể là Trang Mới và được hiểu là xóm mới, ấp mới… nơi quy tụ một số người mới đến lập nghiệp. Dầu vậy, cho đến nay chưa thấy ai tìm ra địa phương liên quan đến xóm đạo này.

Số 45: TRANG NỨA

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục Đàng Ngoài phụ trách.

Trang Nứa này khác Trang Nóŭ, Trang Nống tức Thuận Nghĩa bây giờ (xem số 29 nói trên).

Căn cứ theo phúc trình đang nói thì Trang Nứa có tên cùng với 195 giáo điểm đầu tiên của Nghệ An. Vậy mà theo tác giả sách Lịch sử giáo phận Vinh 1998 thì: “Trang Nứa có từ đầu thế kỷ XVIII”; Sách Album giáo phận Vinh 1999: “Trang Nứa tách từ giáo xứ Xã Đoài năm 1887”…

Theo chúng tôi, cả hai ghi nhận nêu trên không đúng vì Xã Đoài tên xưa là Làng Đoài mới có trong thời các vua chúa nhà Nguyễn bắt đạo. Cụ thể trong đời Đức Giám mục phó Masson Nghiêm (1833 - 1835). Cho nên, có thể Trang Nứa cũng có tên là Thiếu Xá như tác giả sách Lịch sử giáo phận Vinh 1998 ghi nhận, nhưng không phải đến thế kỷ XVIII mới có mà đã có từ thế kỷ XVII. Cụ thể, trong bản phúc trình của Linh mục dòng Tên E. Ferreyra viết ngày 03.10.1676 đã ghi nhận Trang Nứa là một trong 24 xóm đạo thuộc Phủ Anh Đô có người theo Công giáo.

Trang Nứa là một xứ đạo lớn xếp vào hạng cổ xưa, có dòng Mến Thánh Giá, có trường Thánh Giuse, trường này ít lâu đổi thành trường Latinh Nghệ An, sau đổi thành Tiểu Chủng viện Trang Nứa. Đến năm 1798, bị Tây sơn phá sạch. Năm 1803, Tiểu Chủng viện phải dời vào xứ Hướng Phương, hạt Bình Chính, tỉnh Quảng Bình với tên gọi trường Tiểu Chủng viện Thánh Giacôbê.

Trang Nứa là nơi có mộ Thánh Phêrô Lê Tùy, bị xử trảm ngày 28.8, năm Minh Mạng thứ 14 âm lịch Quý Tỵ, tức ngày 11.9.1833, ngày chính phiên chợ tỉnh, người tham dự rất đông. Trước khi bị xử trảm, ngài đã gặp nhiều giáo dân nam nữ. Trong 3 đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, ngài là vị Tử đạo đầu tiên. Sau 15 năm, năm 1848 xác thánh ngài được Đức Giám mục Masson Nghiêm cho rước về Pháp.

Ngày nay Trang Nứa nằm trong địa bàn xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Xã Đoài:

-  Thành lập: Trang Nứa đã có tên từ 1676, nhưng chính thức được công nhận thành giáo xứ năm 1877, tách từ Xã Đoài.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.012

Năm 1996: 5.646

-  Các giáo họ:

1. Họ Thiều Quang (Trang Nứa, họ trị sở)                 

- Nhà thờ: 16x45m (1993)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 786 (1996)

2. Họ Yên Thịnh (Giáp Đồng)

- Nhà thờ: 12x27m (1993)

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 1.319 (1996)

3. Họ Tân Định (Giáp Trại)

- Nhà thờ: 10x27m (1993)

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 591 (1996)

4. Họ Đồng Nhân

- Nhà thờ: 10x23m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.268 (1996)

5. Họ Xuân Yên

- Nhà thờ: 10x27m (1993)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 599 (1996)

6. Họ Sơn Lãng (Rú Ráng)

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 174 (1996)

7. Họ Đồng Kiếu

- Nhà thờ: 8x14m (1992)

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 297 (1996)

8. Họ Tân Sơn (Thố Hố)

- Nhà thờ: 4,5x7m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 105 (1996)

9. Họ Thượng Thôn

- Nhà thờ: 8x22m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 507 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Triêm                         1887 - 1891

2.      Linh mục Thế                            1891 - 1895

3.      Linh mục Chiểu                         1895 - 1904

4.      Linh mục Hạp                            1904 - 1910                   

5.      Linh mục Nghĩ                          1910 - 1921       

6.      Linh mục Trường                      1921 - 1924

7.      Linh mục Vinh                          1924 - 1926

8.      Linh mục Biển                           1926 - 1937

9.      Linh mục Tuyên                        1937 - 1946

10.  Linh mục Sáng                          1946 - 1949

11.  Linh mục Hóa, Linh mục Minh

12.  Linh mục Hữu                           1949 - 1950

13.  Linh mục Hiền II                       1950 - 1952

14.  Linh mục Cảnh                          1952 - 1956

15.  Linh mục Bảo I                         1956 - 1971

16.  Linh mục Đại                             1971 - 1988

17.  ĐGM Cao Đình Thuyên            1988 - 1990

18.  Linh mục Bảo II                        1990 - 1993

19.  Linh mục Hóa                            1993 - 1994

20.  Linh mục Loan                          1994 - 1995

21.  Linh mục Cảnh                          1952 - 1956

22.  ĐGM P. Cao Đình Thuyên        1995

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Hòa, thụ phong 1914, qua đời 1930 tại giáo xứ Trang Nứa

2.      Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Đình Huyên, sinh 1911, thụ phong 1941

3.      Linh mục GB. Nguyễn Đình Luận, thụ phong 1973, quản hạt Phước Lý, Xuân Lộc

4.      Linh mục Paulo Phạm Trọng Phương, sinh 1946, thụ phong 1999, quản xứ Hòa Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu

5.      Linh mục Nguyễn Văn Lợi, thụ phong 1996, giáo phận Cần Thơ.

·     Sở dòng MTG Trang Nứa:

- Đã khấn: 16 (1996)

- Chưa khấn: 26

Số 46: KẺ RÀNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889, tác giả Adrien Launay ghi nhận địa danh Ke Sang (Kẻ Sàng) thuộc Tây Bắc sông Lam, dọc theo một nhánh phụ dòng sông này là xứ đạo Da Ban (Đá Bàn) và trú sở các thừa sai đặt tại Kim Nham, một trong những trú sở của các thừa sai Pháp.

Bên cạnh đó, tại vùng này còn có Sơn Lãng, một họ giáo của xứ Trang Nứa; Vạn Tằng, một họ giáo xứ Bố Sơn…

Tuy nhiên, theo một số người địa phương sinh sống lâu năm tại vùng sông La như bà Maria Nguyễn Thị Quý người họ Yên Đông (Cầu Khóng - Nghĩa Yên) và chồng là ông Gioan Baotixita Trần Bá Liêu 76 tuổi, người Thọ Ninh, cháu nội cố Linh mục Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn cho biết ngày 20.10.2003, thì: Từ Qui Chính ngược đường Nam Đàn có xứ Mỗ Vĩnh, nơi có Chợ Rạng lớn thuộc bờ trái sông Cả đối diện với sông Giăng nhập vào sông Cả. Đồn lính khố xanh thời Pháp đô hộ thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ngày 13.01.1941 nổ ra cuộc khởi nghĩa của Đội Cung chiếm đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.

Như vậy theo chúng tôi, Chợ Rạng và Kẻ Ràng là một. Hay nói đúng hơn, Kẻ Ràng là tiền thân của địa phương nơi có Chợ Rạng, nằm trong địa bàn giáo xứ Mỗ Vĩnh tức Kẻ Ràng là tiền thân của Mỗ Vĩnh.

Ngày nay Mỗ Vĩnh nằm trong địa bàn xã Thanh Khê, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Vạn Lộc:

-  Thành lập: Có từ lâu đời với tên gọi là Thanh Chương, đặt trụ sở ở Bàn Thạch thuộc giáo hạt Bộ Đà, từ ngày 10 tháng 5 năm 1958 thuộc giáo hạt Vạn Lộc.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 715

Năm 1996: 2.122

-  Các giáo họ:

1. Họ Mỗ Vĩnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Cả Giuse

- Số giáo dân: 658 (1996)

2. Họ Bàn Thạch

- Nhà thờ: 11x30m (1920)

- Quan thầy: Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ

- Số giáo dân: 997 (1996)

3. Họ Ngọc Lân

- Nhà thờ: 10x20x17m (1994)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 467 (1996)

Ngoài ra các họ: Hoàng Cầu, Trung Lâm, Diễn Lao và Mương Cầu không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Chu                            1863

2.      Linh mục Đoan                          1874 - 1875

3.      Linh mục Tín                             1875

4.      Linh mục Tân                            1876                  

5.      Linh mục Ngọc                         1878 - 1885       

6.      Linh mục Năng                          1888 - 1896

7.      Linh mục Thông                        1896 - 1904

8.      Linh mục Chính                         1904 - 1908

9.      Linh mục Tấn                            1908 - 1914

10.  Linh mục Chấp                          1914 - 1915

11.  Linh mục Vinh                          1915 - 1922

12.  Linh mục Đỉnh                          1922 - 1926

13.  Linh mục Đạt                            1926 - 1933

14.  Linh mục Cao                            1933 - 1935

15.  Linh mục Lịch                           1935 - 1940

16.  Linh mục Lự                              1940 - 1943

17.  Linh mục Huyên II                    1943 - 1947

18.  Linh mục Đường III                  1947

19.  Linh mục Chuyên                     

20.  Linh mục Khánh                       

21.  Linh mục Giáo                          

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 47: MI DU

Không có dấu Thánh Giá, dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách Tên làng xã Việt Nam, trang 103 về Phủ Anh Đô không có tên Mi Du, Mỹ Dụ mà chỉ thấy thôn Mỹ Cầu thuộc xã Cổ Đạm, tổng Hữu Bằng.

Sách La Sơn Phu Tử, trang 103 nói đến làng Mỹ Dụ, nằm dọc Bắc sông Lam (xem thêm số 65: Khi Lan nói sau).

Bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889 ghi nhận Mỹ Dụ là một trong những trú sở của các thừa sai Pháp thuộc Bắc sông Lam như sách La Sơn Phu tử ghi nhận nói trên.

Sách Hàng Giáo Sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18 của Đức Giám mục Néez, trang 168 khi kể về Linh mục Pio Mĩ Dụ, một câu chuyện rất hay xưa nay chưa từng nghe trên đất Việt Nam và có thể trên cả thế giới?!

Ngài là một linh mục thông minh, khác lạ, ngay thời đó mà đã đòi đi học Tây, học Tàu để lấy bằng Cử nhân, Tiến sĩ và mong muốn được làm Giám mục. Chuyện hy hữu nhất của ngài là không có giấy tờ hợp lệ mà vẫn được truyền chức linh mục… Ngài qua đời vào năm nào và nơi nào không rõ. Dẫu sao cũng phải kể ngài là vị linh mục đầu tiên của đất Mỹ Dụ.

Mỹ Dụ ở sát quốc lộ 8 từ thành phố Vinh đi Nam Đàn và cách thành phố Vinh 7 km, sát con đê 42 dọc bờ Bắc sông Lam đúng như sổ tay địa danh việt Nam, trang 426 ghi nhận: “Làng Mỹ Dụ ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 1660 tướng Đàng Trong là Nguyễn Hữu Dật vượt sông Lam đánh làng này, bị quân Trịnh đẩy lùi”.

Mỹ Dụ cách núi Thành 5 km về phía Đông; cách núi Quyết tức núi Dũng Quyết hay núi Phượng Hoàng, thành Phương Hoàng Trung Đô 6 km về phía Bắc2them.

Mỹ Dụ làm nhà thờ mới năm 1993 dưới thời Linh mục Nguyễn Xuân Chính, với sự giúp đỡ của bà con đồng hương trong và ngoài nước. Nhà xứ Mỹ Dụ cũng đã được tu sửa khang trang.

Mỹ Dụ cách Cầu Rầm 6 km, Cầu Rầm cách thành phố Vinh 1 km.

Giáo dân Mỹ Dụ di cư độ 1.500, hiện ở rải rác khắp nơi, đông nhất là Hà Lan A và Hà Lan C.

Mỹ Dụ hiện có khá nhiều người học học thành công ở nước ngoài như: Tiến sĩ Nguyễn Quang Hảo làm việc ở UNESCO, một tổ chức của Liên Hiệp Quốc có trụ sở tại Thụy Sĩ; Tiến sĩ Hồ Sĩ Bài; Luật sư Nguyễn Mạnh Thông v.v…

Giáo xứ Mỹ Dụ được thành lập từ năm 1869, trước hết trong hạt Cầu Rầm. Nhà thờ xứ Mỹ Dụ bị bom Mỹ phá sập năm 1968 cùng với nhà thờ Cầu Rầm, Xã Đoài… đã được khởi công xây dựng lại năm 1994, khánh thành năm 1995 với kinh phí 980 triệu đồng.

Ngày nay Mỹ Dụ nằm trong địa bàn xã Hưng Châu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Cầu Rầm:

-  Thành lập: Mỹ Dụ có tên từ 1676. Đến 1869, chính thức trở thành giáo xứ, tách từ Làng Ênh.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.605

Năm 1996: 2.649

-  Các giáo họ:

1. Họ Mỹ Dụ (họ trị sở)                       

- Nhà thờ: 20x52m (1994)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1.612 (1996)

2. Họ Đoài Yên

- Nhà thờ: 10x21m (1990)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 275 (1996)

3. Họ Dụ Thành

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 180 (1996)

4. Họ Nhân Hòa

- Nhà thờ: 6x12m (1938)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 137 (1996)

5. Họ Thành Công

- Nhà thờ: 6x11m (1998)

- Quan thầy: Thánh Paulô

- Số giáo dân: 54 (1996)

6. Họ Phú Mỹ

- Nhà thờ: 8x23m (1998)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 482 (1996)

Ngoài ra, trước đây còn có hai họ là Mỹ Hội và Phú Vinh nhưng nay không còn nữa.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Khiêm                        1869

2.      Linh mục Chu                            1874

3.      Linh mục Giáo                           1875

4.      Linh mục Đoan                          1875 - 1876                   

5.      Linh mục Tuấn                          1876 - 1882       

6.      Linh mục Ất                              1882 - 1883

7.      Linh mục Quang                        1884 - 1885

8.      Linh mục Khâm                         1886 - 1889

9.      Linh mục Tân                            1889 - 1895

10.  Linh mục Tràng                         1895 - 1901

11.  Linh mục Truyền                       1901 - 1909

12.  Linh mục Thiện                         1909 - 1913

13.  Linh mục Minh                          1913 - 1927

14.  Linh mục Khang                        1927 - 1930

15.  Linh mục Chân                          1930 - 1937

16.  Linh mục Lê                              1937 - 1942

17.  Linh mục Huấn                          1942 - 1944

18.  Linh mục Nhiên                         1944 - 1945

19.  Linh mục Đậu                            1945 - 1952

20.  Linh mục Thường                      1952 - 1956

21.  Linh mục Trung                         1956

22.  Linh mục Đạt I                          1956 - 1958

23.  Linh mục Kiểng                         1958 - 1980

24.  Linh mục Chính                         1980 - 1999

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Pio Mỹ Dụ

2.      Linh mục Nguyễn Đình Tuyển, dòng Xitô Châu Sơn

3.      Linh mục Quang Vinh, dòng Xitô, từ trần tại Nam Định

4.      Linh mục Bường, nghĩa tử của Linh mục Cao Hữu Hân, từ trần tại Lào

5.      Linh mục Nguyễn Xuân Chính, hiện quản xứ Mỹ Dụ từ năm 1980 đến nay

6.      Linh mục Lê Hùng Tâm, qua đời 1975 tại Buôn Mê Thuột

7.      Linh mục Long, qua đời tại Kẻ Ga

8.      Linh mục Đước, qua đời tại Mỹ Dụ

9.      Linh mục Thạc, qua đời tại Ngàn sâu

10.  Linh mục Tạo, qua đời tại miền Nam

11.  Linh mục Hậu, qua đời tại miền Nam

12.  Linh mục Cẩn, qua đời tại Thanh Dã

13.  Linh mục Bường, qua đời tại Đồng Lèn

14.  Linh mục Huề, qua đời tại Mỹ Dụ

15.  Linh mục Nguyễn Văn Đoàn

16.  Linh mục Hồ…

Số 48: KẺ RÙM

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệm xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Rùm nay là giáo xứ Cầu Rầm.

Kẻ Rùm là vị trí quan trọng khởi đầu cho mọi hoạt động của Giáo sĩ Đắc Lộ, Linh mục Girolamo Majorica và các thừa sai thuộc các phái đoàn dòng Tên, Hội thừa sai Paris (Pháp) tại Nghệ An.

Chính Giáo sĩ Đắc Lộ đã vẽ bản đồ nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Nghệ An và 8 địa danh:

1. Vang Mai (Vàng Mai, Hoàng Mai)

2. Cua Civa (Cửa Chúa, Cửa Lò)

3. Ke Len (Khi Lan, Ki Lan, Kỳ Lân)

4. Ke En (Làng Ấn, Làng Ênh)

5. Rum (Kẻ Rum, Cầu Rầm)

6. Cua Rum (Cửa Rùm, Cửa Hội dẫn lên trung tâm thành phố Vinh, nơi có địa phương Kẻ Rum, Cầu Rầm bây giờ)

7. Ha Huinh (Kẻ Vĩnh, Vĩng Giang)

8. Cua Sot (Cửa Sót).

Kẻ Rùm3them là nơi Giáo sĩ Đắc Lộ đã đến, đã ở, đã gặp quan trấn tỉnh Nghệ An, đã báo trước 4 ngày về hiện tượng Nhật Thực 21.6.1629[13] và đã xảy ra đúng như vậy.

Năm 1632 - 1652, Linh mục Girolamo Majorica đã đến tiếp nối công cuộc truyền giáo và đã ở tại vùng này. Tại đây, ngài đã soạn thảo nhiều sách vở quí giá như đã nói trước và đã lập thành giáo xứ Cầu Rầm lớn với trên 4.183[14] bổn đạo.

Trong lịch sử giáo phận Vinh, Cầu Rầm đã được nâng lên thành giáo hạt, một thời được gọi là “địa hạt Vĩnh”, cũng gồm 5 giáo xứ như hiện nay:

- Giáo xứ Cầu Rầm thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

- Giáo xứ Mỹ Dụ thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An

- Giáo xứ Trang Cảnh thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An

- Giáo xứ Gia Hòa thuộc huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

- Giáo xứ Cam Lâm thuộc huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

Ngày xưa, giáo xứ Cầu Rầm có một vị thế rất quan trọng vì là giáo xứ của thành phố, với nhà thờ đẹp, nhà xứ khang trang. Trong chiến tranh chống Pháp, Vinh là thành phố “tiêu thổ kháng chiến”, nhưng nhà thờ và nhà xứ Cầu Rầm cũng như các cơ sở của dòng Thánh Phanxicô vẫn đứng chơ vơ giữa những đống gạch vụn.

Đến năm 1967 - 1968, dưới thời Linh mục Antôn Nguyễn Duy Thường gốc Thổ Hoàng làm quản xứ, nhà thờ và nhà xứ Cầu Rầm bị bom Mỹ đánh phá bình địa. Ngài đã dời trụ sở về họ Trung Mỹ cũng thuộc Cầu Rầm. Đến thời Linh mục Nguyễn Bá Khôi làm quản hạt, trụ sở hạt được dời về Cửa Tiền, chỗ hiện nay. Năm 1999, nhà thờ Cầu Rầm được tái thiết…

Ngày nay Kẻ Rùm, Cầu Rầm đang là một xứ hạt nằm trong địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ:

-  Thành lập: Tên từ thời Giáo sĩ Đắc Lộ 1629 là Rum. Năm 1676 là Kẻ Rùm. Ngày 28.02.1888, chính thức thành xứ, tách từ Làng Ênh và Mỹ Dụ

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.741

Năm 1996: 4.046

-  Các giáo họ:

1. Họ Cầu Rầm (họ trị sở)                  

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 808 (1996)

2. Họ Yên Duệ

- Nhà thờ: 8x16,5x7m (1991)

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 233 (1996)

3. Họ Trung Mỹ

- Nhà thờ: 11x30x12m (1971)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 342 (1996)

4. Họ Mỹ Hậu

- Nhà thờ: 11x30,5x12m (1996)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 529 (1996)

5. Họ Vĩnh Mỹ

- Nhà thờ: 8x22,5x5m (1974)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 552 (1996)

6. Họ Yên Pháp

- Nhà thờ: 7x18x6,8m (1978)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 447 (1996)

7. Họ Xuân Tân

- Nhà thờ: 7,5x18x8m (1952)

- Quan thầy: Đức Mẹ Truyền Tin

- Số giáo dân: 532 (1996)

8. Họ Tân Yên

- Nhà thờ: 6x15x6m (1982)

- Quan thầy: Đức Mẹ Camêlô

- Số giáo dân: 221 (1996)

9. Họ Vĩnh Giang

- Nhà thờ: 7x17x6m (1936)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 340 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Abgrall Đoài              1888

2.      Linh mục Tri                              1894 - 1898

3.      Linh mục Chương                     1898 - 1909

4.      Linh mục Triều                          1909 - 1917                   

5.      Linh mục Hóa                           1917 - 1919       

6.      Linh mục Delalex Đề                1919 - 1920

7.      Linh mục Lý                              1920 - 1921

8.      Linh mục Hiếu                           1921 - 1924

9.      Linh mục Huyên                        1924

10.  Linh mục Đoan                          1924

11.  Linh mục Lý                              1924 - 1928

12.  Linh mục Loan                          1928 - 1929

13.  Linh mục Trọng                         1930 - 1939

14.  Linh mục Delalex Đề                1939 - 1942

15.  Linh mục Cussac Thông            1942 - 1943

16.  Linh mục Cát                             1943 - 1945

17.  Linh mục Linh                           1945 - 1946

18.  Linh mục Hữu II                       1946 - 1947

19.  Linh mục Trọng                         1947 - 1948

20.  Linh mục Mỹ                             1948 - 1954

21.  Linh mục Trung                         1954 - 1956

22.  Linh mục Thường                      1956 - 1985

23.  Linh mục Chính phụ trách        1985 - 1994

24.  Linh mục Châu                          1995

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Nguyễn Đức Bảo, quê giáo họ Xuân Am

2.      Linh mục Phêrô Nguyễn Xuân Quí, quê giáo họ Vĩnh Mỹ

3.      Linh mục Antôn Hoàng, quê giáo họ Mỹ Hậu, hiện ở Mỹ

4.      Linh mục Antôn Kính, quê giáo họ Mỹ Hậu, hiện ở dòng Phanxicô, Sàigòn…

Số 50: KẺ SÉT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Sét này khác với Kẻ Sét thuộc xứ Kẻ Mui, huyện Hương sơn.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến Kẻ Sét này. Tuy nhiên, theo sổ tay địa danh Việt Nam, trang 560 ghi nhận địa danh “Vạn Sét nằm ở làng Thanh Liệt, trên sông Cả, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An” tức từ ngã ba núi Thành ngược dòng sông Ngàn Cả 3 km hướng Bắc có họ giáo Kẻ Sét, tức họ Yên Thái thuộc xứ Phù Long nằm trong địa bàn xã Hưng Long, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Vạn Lộc:

- Nhà thờ: 8x16m (1972)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 199 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 51: KẺ HÒŬ

Không có dấu Thánh Giá, không có dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do Hội thừa sai Paris phụ trách.

Kẻ Hòŭ đọc được là Kẻ Hồng.

Năm 1701, tức 25 năm sau phúc trình này, Ke Hong (Kẻ Hồng) được ghi nhận đã có nhà thờ và là một trong 31 nhà thờ có mặt tại Nghệ An lúc bấy giờ (xem thêm số 16 nói trên).

Dầu vậy, hiện chưa rõ Kẻ Hồng là địa phương nào và có liên quan gì với các giáo xứ, giáo họ trong vùng hay không?

Phải chăng Kẻ Hồng nay chính là Nam Hồng, tên xã thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nếu vậy thì, trong địa bàn xã Nam Hồng hiện có giáo xứ Thượng Nậm, một giáo xứ thuộc hạt Vạn Lộc:

-  Thành lập: Năm 1916, tách từ giáo xứ Qui Chính

-  Số giáo dân: Năm 1945: 990

Năm 1996: 1.413

-  Các giáo họ:

1. Họ Thượng Nậm                 

- Nhà thờ: 15x45m (1995)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1.027 (1996)

2. Họ Xuân Lâm

- Nhà thờ: 6x24m (1949)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 326 (1996)

3. Họ Bố Đức

- Nhà thờ: 5x10m (1936)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 340 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.    Linh mục Thân                           1916 - 1920

2.    Linh mục Thưởng                      1920 - 1921

3.    Linh mục Hiệp                           1921 - 1924

4.    Linh mục Biền                           1924 - 1926                   

5.    Linh mục Vinh                           1926 - 1927       

6.    Linh mục Đức                           1927 - 1931

7.    Linh mục Hóa                            1931

8.    Linh mục Thung                         1931 - 1934

9.    Linh mục Kim                             1934 - 1940

10.  Linh mục Hòa                            1940 - 1948

11.  Linh mục Nhàn                          1948 - 1958

12.  Linh mục Khanh     phụ trách    1948

13.  Linh mục Sâm         phụ trách    1958

14.  Linh mục Trung      phụ trách   

15.  Linh mục Chính      phụ trách

16.  Linh mục Huyên     phụ trách

17.  Linh mục Điền        phụ trách

18.  Linh mục Hoàng     phụ trách    1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Huệ, qua đời tại Thuận Nghĩa…

Hoặc có thể Kẻ Hồng là tên của xứ hạt có tên xưa là Trại Nóng, nay là Nhân Hòa nằm trong địa bàn xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An:

-  Thành lập: Năm 1914, tách từ giáo xứ Xã Đoài

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.264

Năm 1996: 1.810

-  Các giáo họ: Chỉ có một họ trị sở Nhân Hòa

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Thịnh                         1914 - 1917

2.      Linh mục Hướng                       1917 - 1946

3.      Linh mục Cảnh

4.      Linh mục Khanh                        1946 - 1951                   

5.      Linh mục Hanh                         1951 - 1955       

6.      Linh mục Án                             1955 - 1971

7.      Linh mục Tràng                         1971 - 1988

8.      Linh mục Lợi                             1988 - 1991

9.      Đức Giám mục Paulo Thuyên   1991 - 1994

10.  Linh mục Điền                           1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Thần Đồng, thụ phong 1903

2.      Linh mục Phêrô Hà Văn Lộc, thụ phong 1908

3.      Linh mục Gioan Baotixita Hà Văn Dong, thụ phong 1921

4.      Linh mục Gioan Baotixita Hà Văn Gia, thụ phong 1923

5.      Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Cảnh, thụ phong 1923

6.      Linh mục Phêrô Hà Ngọc Cai, thụ phong 1926

7.      Linh mục Gioan Nguyễn Văn Đậu, thụ phong 1929

8.      Đức Giám mục Phêrô Trần Xuân Hạp, thụ phong 1959

9.      Linh mục Gioan Baotixita Hà Văn Minh, thụ phong 1991

10.  Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Huyền, thụ phong 1994

Hay Xuân Hòa, tên một họ giáo của xứ Xuân Mỹ. Hay nói cách khác, Xuân Hòa là tiền thân của Xuân Mỹ, một giáo xứ nằm trong địa bàn xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nhân Hòa:

-  Thành lập: Năm 1925, tách từ giáo xứ Mỹ Yên

-  Số giáo dân: Năm 1945: 596

Năm 1996: 1.818

-  Các giáo họ:

1. Họ Xuân Mỹ (họ trị sở)                  

- Nhà thờ: 12x38m (1986)

- Quan thầy: Đức Mẹ Camêlô

- Số giáo dân: 1.112 (1996)

2. Họ Xuân Sơn

- Nhà thờ: 8x16m

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 326 (1996)

3. Họ Xuân Hòa

- Nhà thờ: 7x12,8m (1991)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 153 (1996)

4. Họ Xuân La

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 227 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đính                           1937

2.      Linh mục Phùng                        1937

3.      Linh mục Thưởng                      1938 - 1939

4.      Linh mục Đình                          1939 - 1955                   

5.      Linh mục Quế                           phụ trách

6.      Linh mục Đại                             phụ trách

7.      Linh mục Tràng                         phụ trách

8.      Linh mục Lợi                             1971 - 1988

9.      Linh mục Nho                          

10.  Linh mục Cường                      

11.  Linh mục Phượng                     

12.  Linh mục Cường   

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Nguyễn Tường Loan, thụ phong 1924, qua đời 1969

2.      Linh mục Giuse Nguyễn Đình Lâm, thụ phong 1929, qua đời 1971

3.      Linh mục Phêrô Nguyễn Duy Lịch, thụ phong 1933, qua đời 1979

4.      Linh mục Martinô Nguyễn Xuân Hoàng, thụ phong 1994…

Số 52: KẺ LEǑ

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Leǒ có thể đọc được là Kẻ Lương, Kẻ Luông

Bản đồ truyền giáo của Hội thừa sai Paris 1889, ghi nhận địa danh Truong-men tức Truông Mèn nằm phía Nam sông Ngàn Cả, giữa Vạn Lộc và Thọ Kỳ (Thọ Ninh). Cụ thể, Truông Mèn giáp huyện Thanh Chương (Nghệ An) và huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) có đường ô tô từ Quốc lộ 8 ở Nầm (Hương Sơn) đi qua làng Lương Điền (Thanh Chương) tới Quốc lộ 7 ở thị xã Lĩnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.

Ngoài ra, giáp hai huyện Anh sơn và Đô Lương có tên huyện Con Cuông, hay Chợ Lường nằm ở thị xã Đô Lương, bên cạnh sông Ngàn Cả và Quốc lộ 7…

Không hiểu Kẻ Leǒ, Kẻ Lương, Con Cuông, Truông Mèn, Chợ Lường có liên hệ gì với nhau hay không?

Số 51: KẺ SAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Sao này khác với Kẻ Saǒ, Kẻ Song tức giáo xứ Song Ngọc thuộc Phủ Diễn Châu nói trên.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên Kẻ Sao. Tuy nhiên, sổ tay địa danh Việt Nam, trang 328 ghi nhận Chợ Sáo nằm trên đường từ Vinh đi Nam Đàn. Ngoài ra về tôn giáo, trong giáo xứ Mỹ Yên thuộc hạt Nhân Hòa có họ giáo Thanh sơn (cũng có tên Hà Thanh hay Thanh Hương).

Không rõ Chợ Sáo hay Thanh Sơn có liên hệ gì với Kẻ Sao mà phúc trình muốn nói hay không?

Số 52: MI TRÙM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Mi Trùm có thể là Mĩ Tràm?

Nếu là Mĩ Tràm thì có thể được hiểu đây là một vùng đất nước mặn gồm những cây tràm hay sác sú như thường thấy ở các vùng biển nước ta. Và như vậy, rất có thể với thời gian xóm đạo này biến thể thành những địa phương thấy có trong vùng, chẳng hạn:

- Giáo xứ Lộc Mỹ: nằm ở cửa sông Đò Cấm, ăn thông ra biển Cửa Lò, tên xưa là Cửa Chúa, nơi truyền thống công nhận Giáo sĩ Đắc Lộ đã đặt chân đến năm 1629.

- Giáo xứ Xuân Mỹ: cũng nằm bên bờ sông Cấm, dưới chân núi…, gần sát kênh sắt Nguyễn Trường Tộ, cách Lộc Mỹ chừng 10 km về phía Tây.

- Giáo xứ Mỹ Yên: cách Xuân Mỹ một triền núi về phía Tây.

Theo thiển ý, Mi Trùm có thể tạm nhận định là tiền thân của vùng Lộc Mỹ ngày nay. Nơi đây có đồi Canvê trên núi, phía sau nhà thờ. Theo tương truyền Giáo sĩ Đắc Lộ đã đến, dựng bia và dựng Thánh giá.

Lộc Mỹ xưa là một giáo xứ lớn có nhiều họ, trong đó họ lớn hơn cả là Tân Lộc được tách ra và lập thành giáo xứ năm 1902 với những họ giáo khác có tiếng như Mai Hương (Mai Lĩnh), nơi nghỉ mát của các linh mục thừa sai Pháp và Yên Trạch cũng có đồi Canvê với các tượng bằng đá.

Cùng liên cư liên địa với Lộc Mỹ, Xuân Mỹ và Mỹ Yên, chúng ta thấy có hai giáo xứ:

- Giáo xứ Nhân Hòa, tên xưa là Trại Nóng (xem số 51 nói trên)

- Giáo xứ Bình Thuận: tên xưa là Trại Đò, trước thuộc Nhân Hòa. Năm 1903 tách ra lập xứ.

Cả hai giáo xứ này không thấy có tên trong phúc trình và không hiểu có liên hệ gì với Kẻ Sét (số 50), Kẻ Hòǔ (số 51), Kẻ Leǒ (số 52), Kẻ Sao (số 53) hay không?

Sau năm 1975, tất cả vùng này được cải biến thành đất canh tác bằng cách đắp đê ngăn mặn từ chân núi Lộc Mỹ qua chân núi Đông Ngàn như sẽ thấy trong một vài hình ảnh dưới đây.

Ngày nay Lộc Mỹ nằm trong địa bàn xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Cửa Lò:

-  Thành lập: Là một trong 18 giáo xứ đầu tiên lúc thành lập giáo phận. Trước gọi là Chân Lộc (tức tên cũ của huyện Nghi Lộc), về sau gọi là Đá Dựng (địa điểm tại Lập Thạch). Sau khi chia Làng Ênh (1853) cố định trụ sở chính thức ở Cửa Lò với tên gọi là Lộc Mỹ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.243

Năm 1996: 3.309

-  Các giáo họ:

1. Họ Lộc Mỹ (họ trị sở)                     

- Nhà thờ: 10x28m

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 1.661 (1996)

2. Họ Đức Xuân

- Nhà thờ: 10x20x9m

- Quan thầy: Mẹ Thiên Chúa

- Số giáo dân: 991 (1996)

3. Họ Văn Sơn

- Nhà thờ: 8x16m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 283 (1996)

4. Họ Đức Vọng

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 224 (1996)

5. Họ Đông Ngàn

- Nhà thờ: 8x16m

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 150 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Cát                             1884 - 1888

2.      Linh mục Thái                           1888 - 1891

3.      Linh mục Đạt                            1891 - 1894

4.      Linh mục Nghị                          1894 - 1910                   

5.      Linh mục Hạp                           1910 - 1916       

6.      Linh mục Thạc                           1916 - 1917

7.      Linh mục Biển                           1917 - 1924

8.      Linh mục Hiệp                           1924 - 1932

9.      Linh mục Tần                            1932 - 1933       

10.  Linh mục Phúc                          1933 - 1936       

11.  Linh mục Loan                          1936 - 1945       

12.  Linh mục Hiển II                       1945 - 1947       

13.  Linh mục Khoa I                       1948 - 1950

14.  Linh mục Định                          1952 - 1953

15.  Linh mục Ân I        phụ trách    1953

16.  Linh mục Định                          1954 - 1958

17.  Linh mục Hanh I                       1958 - 1972

18.  Linh mục Đoài                           1972 - 1979

19.  Linh mục Ái            phụ trách    1979 - 1985

20.  Linh mục Hướng    phụ trách    1985 - 1988

21.  Linh mục Tràng      phụ trách    1988

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Ái, quê Đức Vọng, thụ phong 1896, qua đời 1933 tại Cầm Trường

2.      Linh mục Giuse Chất, quê Lộc Mỹ, thụ phong 1917, qua đời 1940 tại Lập Thạch

3.      Linh mục Paulo Thạch, quê giáo họ Lộc Mỹ, thụ phong 1971…

Số 53: KẺ TÁP

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 54: KẺ GIÔI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Giôi có thể đọc được là Kẻ Giai.

Giáo xứ Mẫu Lâm nằm trong địa bàn xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, thuộc hạt Nhân Hòa có họ giáo mang tên na ná là Tân Giai… Phải chăng Tân Giai này chính là Kẻ Giai, Kẻ Giôi mà phúc trình muốn nói.

Sở dĩ nói được vậy là vì xét theo địa lý, Tân Giai cùng nằm trong vùng ít nhiều kế cận với Nhân Hòa - Kẻ Hòǔ (số 51), Xuân Mỹ - Kẻ Leǒ (số 52), Mỹ Yên - Kẻ Sao (số 53), Lộc Mỹ - Mi Trùm (số 54).

Và nếu vậy thì Tân Giai là họ gốc của giáo xứ Mẫu Lâm, hay nói đúng hơn Kẻ Giai, Kẻ Giôi mà phúc trình muốn nói là tiền thân của giáo xứ Mẫu Lâm, quê hương của Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Đức, quản hạt Văn Hạnh (1994 - 1996).

Ngày nay Mẫu Lâm nằm trong địa bàn xã Nghi Lâm, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nhân Hòa:

-  Thành lập: Năm 1908, tách từ giáo xứ Mỹ Yên

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.952

Năm 1996: 1.391

-  Các giáo họ:

1. Họ Mẫu Lâm (họ trị sở)                  

- Nhà thờ: 11x30m (1917)

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 604 (1996)

2. Họ Tân Giai

- Nhà thờ:  

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 179 (1996)

3. Họ Văn Phong

- Nhà thờ: 8,5x17,5m

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 446 (1996)

4. Họ Nguyệt Tĩnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 32 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Phong                        1908 - 1910

2.      Linh mục Hiệp                           1910 - 1915

3.      Linh mục Kiều                           1915 - 1919

4.      Linh mục Hóa                            1919 - 1922                   

5.      Linh mục Phúc                          1922 - 1933       

6.      Linh mục Hồi                            1933 - 1953

Đến hồi Linh mục Hồi đi, xứ sáp nhập với Xuân Kiều 1954. Năm 1957 kết với Mỹ Yên do Linh mục Quế phụ trách. Về sau Linh mục Đại, Linh mục Tràng, Linh mục Danh, Linh mục Nho…

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Liêm

2.      Linh mục Phêrô Đức

3.      Linh mục Phêrô Phước

4.      Linh mục Phêrô Duyệt

Số 57: KẺ VẠC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Vạc phải chăng là Làng Vạc, tên Nôm là làng Phác Lộ, nay thuộc xã Nghĩa Tiến, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Vị trí Làng Vạc nằm trên đường từ Yên Lý đi Nghĩa Đàn. Tại đây, còn có di tích văn hóa Đông sơn (dao găm và trống đồng).

Số 58: KẺ TANH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889 của tác giả Adrien Launay có tên địa danh Cơn Chanh, một đơn vị hành chánh nằm ở Bắc sông Ngàn Cả, giữa ngã ba sông này với sông con.

Sơ đồ quá trình phát triển các giáo xứ Vinh: Cây Chanh được thành lập năm 1922, tách từ giáo xứ Quan Lãng…

Lịch phân chia phiên thứ chầu lượt hàng năm của giáo phận Vinh trước đây thấy có tên giáo xứ Cây Chanh, nay không còn?

Trong các họ giáo thuộc xứ Quang Lãng, hạt Bồ Đà có tên họ giáo Mạc Đồng Tân tức Đồng Tân, là tổng hợp ba họ của giáo xứ Cây Chanh: Mạc Điền, Đồng Hội và Tân Hội2them.

Ngày nay Đồng Tân đang là một họ giáo thuộc xứ Quan Lãng nằm trong địa bàn xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ:

- Quan thầy giáo họ:

- Số giáo dân: 226 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 59: KẺ NHUÔM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Nhuôm hay Kẻ Nham nay là giáo xứ La Nham hiện nay.

Chữ này gồm có hai vế: vế sau do biến thể của chữ Nhuôm, vế trước có thể do một phần ông bà tổ tiên gốc giáo họ Xuân La, thuộc giáo xứ Xuân Mỹ (gần bên) sang lập nghiệp tại Kẻ Nhuôm, Kẻ Nham và về sau gọi chung là giáo xứ La Nham.

Theo sơ đồ quá trình phát triển các giáo xứ Vinh thì La Nham tách từ Xuân Mỹ năm 1925, nhưng phải hiểu rằng nguồn gốc của địa phương này cũng như Lộc Mỹ có thể đã được chính Giáo sĩ Đắc Lộ đích thân đặt chân đến và đã làm phép rửa cho một số người ngay từ những giây phút đầu tiên, khi ngài đặt chân đến vùng đất Cửa Chúa năm 1629[15].

Ngày nay La Nham nằm trong địa bàn xã Nghi Yên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nhân Hòa:

-  Thành lập: Năm 1925, tách từ giáo xứ Lộc Mỹ

-  Số giáo dân: Năm 1945: 678

Năm 1996: 1.813

-  Các giáo họ: Chỉ có duy nhất họ trị sở La Nham

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hạp                            1925 - 1936

2.      Linh mục Liên                           1936 - 1940

3.      Linh mục Lễ                              1940 - 1944

4.      Linh mục Thuyên                      1945                  

5.      Linh mục Đạt                            1945 - 1948       

6.      Linh mục Vinh                          1948 - 1951

7.      Linh mục Ân II                          1953

8.      Linh mục Ân I        phụ trách    1955

9.      Linh mục Châu                         

10.  Linh mục Lợi                            

11.  Linh mục Chất                          

12.  Linh mục Điền                          

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Nguyễn Xuân Hoan

2.      Linh mục Nguyễn Văn Đức

3.      Linh mục Nguyễn Xuân Ân

4.      Linh mục Nguyễn Xuân Hóa

Số 60: KẺ ĐÒN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Đòn là địa phương nơi có Cầu Đòn thuộc huyện Nam Đường (Nam Đàn), ở phía bên trái Truông Hế, theo hướng từ Nam Đàn về Xã Đoài. Kẻ Đòn cũng có tên là Nam Đường, Nam Đàn hay Cầu Đòn.

Kẻ Đòn là nơi Linh mục Thánh Phêrô Lê Tùy làm cha xứ, bị bắt tại giáo họ Thanh Trai, xứ Qui Chính ngày 25.6.1833 và xử trảm ngày 11.10 cùng năm tại Nghệ An[16]. Ngài được phong Á Thánh ngày 27.5.1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Paulô II phong Hiển Thánh ngày 19.6.1988.

Trong thời các Đại diện Tông tòa (1666 - 1846), Kẻ Đòn cùng với Trang Đen là hai địa danh gần nhau được nhắc đến khá nhiều. Kẻ Đòn là nhà xứ của các linh mục người Đàng Ngoài có trách nhiệm coi sóc giáo hữu Bắc Nghệ An1them. Trang Đen còn có tên Phu Đen, năm 1683 Thừa sai Sarrante được phái đến lập Chủng viện. Hai địa danh này nằm về phía Bắc Nghệ An gần các khu rừng, xa sông rạch và dinh trại của quan trấn2them.

Riêng về Trang Đen còn được ghi nhận:

- Đầu năm 1713 đến khoảng 1723, Trang Đen là nơi cư trú chính của Giám mục Bélot, “trung tâm của giáo phận” lúc bấy giờ3them.

- Những năm 1740, Đàng Ngoài có hai Chủng viện thì một ở Nghệ An (Kẻ Đòn/Trang Đen) và một ở Sơn Nam (Kẻ Vĩnh [Vĩnh Trị]), tiếp tục hoạt động, mỗi nơi có khoảng 20 chủng sinh4them.

Ngoài ra, nhiều thừa sai đã qua đời tại Trang Đen này. Chẳng hạn:

- Thừa sai Sarrante, qua đời 17.02.1687

- Giám mục Bélot (1651 - 1717)

- Thừa sai Francois Gabriel Guissan (1665 - 1723)

- Thừa sai Pierre Herbert de Saint Gervais, qua đời 1742

- Thừa sai Louis Roux, qua đời 1752

- Thừa sai Jean Roux, qua đời 17905them

Ngày xưa, giáo xứ Qui Chính gồm có 8 họ: Qui Chính, Nhật Quang, Đan Nhiệm, Trang Đen, Tân Nghĩa, Trung Hòa, Cồn Nhân, Thanh Trai. Nhưng, ngày nay 3 họ giáo Trung Hòa, Cồn Nhân và Thanh Trai không còn nữa.

Ngày nay Qui Chính nằm trong địa bàn xã Nam Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Vạn Lộc:

-  Thành lập: Kẻ Đòn có tên từ hồi 1676. Sau đổi thành Nam Đường, cũng có tên là Cầu Đòn gồm Qui Chính và Vạn Lộc. Về sau, khi Vạn Lộc lập xứ thì đổi tên là Qui Chính, một trong 18 giáo xứ đầu tiên lúc thành lập giáo phận.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.652

Năm 1996: 4.614

-  Các giáo họ:

1. Họ Qui Chính (họ trị sở)                

- Nhà thờ: 15,5x35m (1909, tái thiết 1988, mở rộng và xây tháp 1996)

- Quan thầy: Thánh Phêrô Lê Tùy

- Số giáo dân: 1.300 (1996)

2. Họ Tân Nghĩa

- Nhà thờ: 14x33m (1995)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.367 (1996)

3. Họ Nhật Quang

- Nhà thờ: 10x25m (1993)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 801 (1996)

4. Họ Trang Đen

- Nhà thờ: 10x25m (1993)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 842 (1996)

5. Họ Đan Nhiệm

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 255 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Thánh Phêrô Lê Tủy, tử đạo  1833

2.      Linh mục Ngọc                          1879

3.      Linh mục Khánh                        1880 - 1885

4.      Linh mục Năng                          1885 - 1887                   

5.      Linh mục Phong                        1887 - 1891       

6.      Linh mục Vệ                              1891 - 1894

7.      Linh mục Nhơn                         1894 - 1895

8.      Linh mục Chính                         1895 - 1903                   

9.      Linh mục Thực                         1903 - 1921       

10.  Linh mục Phùng                        1921 - 1933

11.  Linh mục Lạc                            1933 - 1934

12.  Linh mục Lê                              1934 - 1937                   

13.  Linh mục Đức                           1937 - 1941       

14.  Linh mục Hậu I                         1941 - 1958

15.  Linh mục Huấn                          1958 - 1973

16.  Linh mục Hưởng                       1973 - 1979                   

17.  Linh mục Điền                          1979 - 1995       

18.  Linh mục Khôi                          1995

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Thư

2.      Linh mục Hợp

3.      Linh mục Cường

·     Sở dòng MTG Qui Chính:

- Đã khấn: 10 (1996)

- Chưa khấn: 32

Số 61: BAO CỎ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách Tên làng xã Việt Nam về huyện Nam Đường có một vài địa danh mang tên na ná, chẳng hạn:

- Thôn Bào thuộc tổng Đại Đồng, huyện Nam Đường.

- Phường Tiểu Ca, vạn thủy cơ Duyên La thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh…

Chưa rõ những địa phương vừa nêu có liên hệ gì với xóm đạo Bao Cỏ mà phúc trình muốn nói hay không?

Số 62: KẺ NGHEN

Không có dấu Thánh Giá, không có dấu chỉ Hoa Thị, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do Hội thừa sai Paris (Pháp) phụ trách.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách Tên làng xã Việt Nam về tổng Đô Lương, huyện Nam Đường có địa phương mang tên na ná là giáp Nghiêm Thắng, không rõ có liên hệ gì không?

Ngoài ra, ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh hiện có một dòng chảy đổ ra Cửa Sót mang tên là Sông Nghèn. Tại đây có Cầu Nghèn thuộc quốc lộ 1A, nối liền hai huyện Can Lộc và Thạch Hà. Tuy nhiên, vị trí Sông Nghèn, Cầu Nghèn này quá xa so với chủ ý tác giả phúc trình muốn nói (xem thêm số 155 nói sau).

Số 63: DỒ LƯƠNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Dồ Lương đúng hơn là Đô Lương.

Đô Lương xưa chỉ là tên xã và là tên của một tổng thuộc huyện Nam Đường (Nam Đàn), sau thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Nghệ An.

Đô Lương cũng là tên huyện mới thành lập, tách từ Anh Sơn ra, gồm đất hai tổng Đô Lương và Bạch Hà cũ hồi Pháp thuộc. Huyện Đô Lương Tây Bắc giáp huyện Tân Kỳ, Đông Bắc giáp huyện Yên Thành, Đông giáp huyện Nghi Lộc, Đông Nam giáp huyện Nam Đàn, Tây Nam giáp huyện Thanh Chương, Tây giáp huyện Anh Sơn, sông Cả chảy ở phía Tây và sông Rào Giang phụ lưu bên trái của sông Cả chảy về phía Đông Nam huyện. Huyện lỵ là Đô Lương trên sông Cả, có Quốc lộ 7 chạy qua và đường tỉnh lộ Vinh - Nam Đàn - Thanh Chương - Đô Lương chạy theo lưu vực sông Cả. Đô Lương cách Cầu Rầm (Vinh) 65 km, cách Mỗ Vĩnh (Thanh Chương) 20 km, cách Vĩnh Hội (Cửa Rào) 125 km…

Vì thế, trước đây khi nói đến Đô Lương, người ta hiểu đó là một vùng rộng lớn bao gồm các giáo xứ: Bột Đà, Mỗ Vĩnh, Quang Lãng, Trung Hòa, Cây Chanh, Sơn La, Lãng Điền, Yên Lĩnh. Còn ngày nay người ta phân biệt Bột Đà, Sơn La thuộc huyện Đô Lương; Mỗ Vĩnh, Quan Lãng, Trung Hòa, Cây Chanh thuộc huyện Thanh Chương; Lãng Điền, Yên Lĩnh thuộc huyện Anh Đô.

Số 64: VAN LANG

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Van Lang đúng hơn là Văn Lang.

Bản đố địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Văn Lang là một địa danh thuộc Tây sông Cả (sông Lam), cách Bến Thủy chừng 5 km về phía Tây Nam.

Về tôn giáo, Văn Lang sau trở thành Quản LãngLãng Điền, hai giáo xứ nằm cạnh nhau và cả hai cùng thuộc giáo hạt Bột Đà:

Giáo xứ Quan Lãng

-  Địa chỉ: Giáo xứ Quan Lãng, xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An

-  Thành lập: Năm 1853, tách từ giáo xứ Thanh Chương (tên cũ là Giăng)

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.107

Năm 1996: 3.995

-  Các giáo họ:

1. Họ Hội Phước (họ trị sở)                

- Nhà thờ: 16x42m

- Tước hiệu: Tổng Thần Micae

- Quan thầy: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

- Số giáo dân: 1.725 (1996)

2. Họ Chính Yên

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 264 (1996)

3. Họ Đức Thịnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 394 (1996)

4. Họ Quan Lãng

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 471 (1996)

5. Họ Đồng Tân

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 266 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Khiêm                       

2.      Linh mục Hào                            1884 - 1885

3.      Linh mục Trang                         1888 - 1903                   

4.      Linh mục Tính                          1903 - 1905       

5.      Linh mục Cần                            1905 - 1906

6.      Linh mục Ân                             1906 - 1913

7.      Linh mục Chấn                          1913 - 1923                   

8.      Linh mục Lịch                          1923 - 1932       

9.      Linh mục Thuyên                      1932 - 1941

10.  Linh mục Đoài                           1941 - 1951

11.  Linh mục Ngọc                          1951 - 1954                   

12.  Linh mục Hòa                           1954 - 1956       

13.  Linh mục Thiện                         1956 - 1966

14.  Linh mục Mỹ                            

15.  Linh mục Hương                       phụ trách                       

16.  Linh mục Quyền                        phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phương

2.      Linh mục Kiều

3.      Linh mục Khanh

4.      Linh mục Thiệu

5.      Linh mục Lợi, sinh 1930, quê giáo họ Hội Phước, thụ phong 1960…

Giáo xứ Lãng Điền

-  Địa chỉ: Giáo xứ Lãng Điền, xã Thạch Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An

-  Thành lập: Năm 1931, tách từ giáo xứ Quan Lãng

-  Số giáo dân: Năm 1945: 672

Năm 1996: 1.834

-  Các giáo họ:

1. Họ Nguyên Suất (họ trị sở)             

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Sầu Bi

- Số giáo dân: 668 (1996)

2. Họ Đỉnh Tân

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 250 (1996)

3. Họ Yên Phúc

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 137 (1996)

4. Họ Khe Gia

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 109 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Bảng                          1931 - 1939       

2.      Linh mục Thụy                          1939 - 1943

3.      Linh mục Lợi                             1943                  

4.      Linh mục Hưởng                         

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)


bản đồ dân số nghệ an


BÀI CHÍN 
PHỦ ĐỨC QUANG (I)

Gồm 6 huyện Thanh Chương, Chân Lộc,

Thiên Lộc, Hương Sơn, La Sơn và Nghi Xuân:

I. HUYỆN THANH CHƯƠNG

Có 6 tổng, 105 xã, thôn, trang, sách, giáp, sở, vạn, nậu:

1. Tổng Bích Triều có 19 xã, thôn, vạn, sở: xã Bích Triều (thôn Triều, thôn Bàng Thị, thôn Cẩm Nang), Lâm Triều (thôn Phú Lập, thôn Thu Cẩm), Vũ Nguyên, thôn Chí Cơ, Lương Trường (thôn Trường, thôn Phú Thọ, thôn Vạn Lộc, thôn Đặng Xá), thôn Ngũ Nhược, vạn Võng Nhi Cây Trà, thôn Cây Trà, thôn Lương Giai, sở Lương Trường Tàm Tang.

2. Tổng Thổ Hào có 7 xã, thôn, nậu: Thổ Hào, Mi Sơn, Nhân Thành, Kỳ Linh (thôn An Tuyền, thôn Kỳ Linh), thôn Võng Nhi Liên Châu, nậu Bàng Vạn.

3. Tổng Vũ Liệt có 22 xã, thôn, trang, giáp, vạn: Vũ Liệt, Hoàng Xá (giáp Thế Mỹ, giáp Bạch Xá, giáp Khánh Tuyền), Minh Cảo, Thái Nhã (thôn Lai Nhã, giáp Bàn Thạch), trang Bào Quan, trang Tảo Nha, trang Đồng Du, trang Mô Vịnh, trang Bến Thanh, Thanh La, Trung Lâm (thôn Thượng Thọ, thôn Ngọc Lâm, thôn Chi Nê, trang Chi Quân), giáp Bích Ba, trang Ruộng Nà, giáp Cây Khế, trang Thầy Đại, vạn Võng Nhi Sông Trà.

4. Tổng Cát Ngạn có 16 xã, thôn, trang, sách, vạn: Cát Ngạn Tiên Hội, La Mạc, trang Bến Bãi, trang Cây Khế, trang Thanh Liêu, trang Cồn Biều, Cao Điền, Mạn Lâm, Đức Nhuận, Trang Nhàn, sách Chân Đốn, sách Bồ Lô, vạn Võng Nhi Trà, vạn Võng Nhi Rạng, vạn Võng Nhi Giang.

5. Tổng Đặng Sơn có 21 xã, thôn, vạn: Đặng Sơn (thôn Lương Sơn, thôn Long Bố, thôn Đặng Thượng, thôn Đô Đặng, thôn Khả Quan, thôn Phú Tuyền, thôn Nhân Hậu, thôn Xuân Độ, thôn Khả Mỹ, thôn Chi Bao), Quang Lãng, Nam Cai, Hòa Lễ, thôn Lãng thuộc xã Lãng Thạch, sách Kệ Trường, vạn Võng Nhi Lương, vạn Võng Nhi Miếu, vạn Võng Nhi Lũ, vạn Võng Nhi Rót, vạn Võng Nhi Gai.

6. Tổng Nam Hoa có 17 xã, thôn, sở: Nam Hoa Thượng (thôn Hoành Sơn, thôn Dương Liễu), Nam Hoa Tứ, Xuân Hoa (thôn Đông Đồn, thôn Trung Hội, thôn Tứ Trành), Tiên Hoa (thôn Xuân Mỹ, thôn Thiên Lộc, thôn Khánh Lộc, thôn Bạch Sơn), Xuân Phúc, Trung Cần, Nam Hoa Đông (thôn Đông Viên, thôn Hoàng Cung, thôn Dương Phổ Đông, thôn Vạn thọ, thôn Quần Xá, thôn Dương Phổ Tứ), sở Nam Hoa, sở Hạ Phù, sở Xuân Lôi.

II. HUYỆN CHÂN LỘC

Có 4 tổng, 66 xã, thôn, phường, trang:

1. Tổng Thượng Xá có 21 xã, thôn, phường: Hạ Xá, Điền Xá, Hương Quan, Phù Ích, Thịnh Trường (thôn Đông Chử, thôn Xuân Tịnh, thôn Kỳ Mạnh), Thiêm Lộc, thôn Bào Ổ, thôn Võng Nhi thuộc xã Áng Độ, trang Mai Phụ, Vạn Lộc, Áng Độ, Thượng Xá, Hảo Hợp (thôn Thu Lũng, thôn Thận Trung, thôn Hương Đình, thôn Bào Thủy, thôn Hoa Duệ, thôn Làng Ngoài, giáp Lập Thạch).

2. Tổng Ngô Trường có 17 xã, thôn, phường: Phan Xá (thôn Phan, thôn Xuân Liễu, thôn Bảo Đài), Xuân An (thôn An Toàn, thôn Thượng Xá, thôn Trung Ngũ, thôn Mỹ Hậu), sở Đức Quang, thôn Tứ thuộc xã Ngô Trường, thôn Tứ thuộc xã Ngô Xá, Châu An, Dũng Quyết (thôn Thượng, thôn Hạ), An Trường, giáp Am, An Lưu, phường Thủy Cư.

3. Tổng Kim Nguyên có 11 xã, thôn, phường: Kim Nguyên, Cẩm Trường, Kỳ Phúc, thôn Kim Khê thuộc xã Cao Xá, Thịnh Hoa, Trí Trại, Thược Dược, phường Võng Nhi, Kim Khê (thôn Thượng, thôn Trung), vạn Trai Trai.

4. Tổng Đặng Xá có 17 xã, thôn, trang: Đặng Xá (thôn Bào Chiêm, thôn Hoàng Cam), Đăng Điền (thôn Hoàng Cam, thôn Bào Chiêm, thôn Thủy Đạc), Hải Côn, Lộc Hải, Đông Hải (thôn Cổ Đam, thôn Bảo Lân, thôn Cổ Bái, thôn Chính Vĩ, thôn Bảo An), Lộc Thọ, Kinh Dương, trang Liễu Cù, Lộc Châu, Nam Sơn.

III. HUYỆN THI6N LỘC

Có 7 tổng, 85 xã, thôn, phường, trang, trại, vạn (không kể 5 xã, thôn trong huyện đã phiêu bạt):

1. Tổng Minh Lương có 7 xã, thôn: An Lãng (thôn Ngọc sơn, thôn Vĩnh Ninh), Bàn Xá (thôn Quỳnh Lâm, thôn Phúc Sơn), Bình Lãng, Minh Lương, Vâng Chàng.

2. Tổng Độ Liêu có 17 xã, thôn: Độ Liêu (hai thôn Nham Chiêu và Thái Xá, thôn Cao Xá, thôn Đông Xá, thôn Bùi Xá), Kiệt Thạch (thôn Kỳ Trúc, thôn An Đồng, Yên Mỹ, thôn Vĩnh Lộc), Thổ Vượng (thôn Thượng Hồ, thôn Đoài Thiên Nam, thôn Thượng Hòa, thôn Đông Hòa, thôn Đông Ngõa, thôn Đông Thiên Nam), Tiếp Võ, thôn Cự Lâm.

3. Tổng Nga Khê có 15 xã, thôn: xã Nga Khê (thôn Khố Nội, thôn Bào Ích, thôn Điền Xá), Bạt Trạc (thôn Sơn Nê, thôn Đoài Khê, thôn Đông Sơn, thôn Cự Khê, thôn Gia Hanh, thôn Đại Bản), Đông Lâm (thôn Khánh Đường, thôn An Hội, thôn Cốc Hòa), Ốc Khê (thôn Nam, thôn Ốc, thôn San).

4. Tổng Nội Ngoại có 13 xã, thôn, phường, vạn: Nội Thiên Lộc (thôn Thuần Chân, thôn Yên Trí), Ngoại Thiên Lộc (thôn Đoài, thôn Trung, thôn Phổ Minh), Tả Thiên Lộc (thôn Tả Thượng, thôn Tả Hạ), Tỉnh Thạch, Hữu Thiên Lộc, vạn Hoàng Kim, phường Võng Nhi, phường Thượng Trụ, Quảng Khuyến.

5. Tổng Phù Lưu có 20 xã, thôn, phường, trang: Phù Lưu Thượng, thôn Kim Chùy, Phù Lưu (thôn Phù Lưu, thôn Thanh Lương, thôn Hạ Yến, thôn Ngọc Mỹ, thôn Đại Lữ), Đỉnh Lữ, Vũ Cái, Phú Viên (thôn Phiên Xá, thôn Phù Lưu), Ích Hậu (thôn Ích Hậu, thôn Đông Thượng, thôn Đông Trung, thôn Phan Xá), Phù Lưu Tràng, Yên Điềm, phường Huyện Thị, Yên Định, Trà Lộc.

6. Tổng Canh Hoạch có 7 xã, vạn: Canh Hoạch, Mỹ Lộc, Thi HOạch, Thu Hoạch, Kim Đôi, Xuân Hải, Phù Phao.

7. Tổng Vĩnh Luật có 6 xã, trại: Vĩnh Luật, Xuân Tình, Linh Đỗ, trại Vĩnh Tuy, Mai Phụ, trại Cồn Triều, Quảng Khuyến, Anh Hoa, thôn Thượng Ywến, thôn Bảo Ngột Đoài, Ích Hậu.

IV. HUYỆN HƯƠNG SƠN

Có 8 tổng, 49 xã, thôn, vạn, giáp, phường:

1. Tổng Đỗ Xá có 9 xã, thôn, vạn: Đỗ Xá, thôn Đông Tức, Dương Trai, Bảo Thịnh, Lạc Bồ (thôn Tứ, Đông Trường, Tứ Mỹ), vạn Đỗ Gia.

2. Tổng An Ấp có 6 xã, thôn, giáp: An Ấp, thôn Thọ Lộc, Tuần Lễ, giáp Ông Bùi, Phúc Dương, giáp An Bài.

3. Tổng Hữu Bằng có 6 xã, trại, phường: Hữu Bằng, Tình Di, Thủy Mai, trại Hậu Di Yên, Tình Diễm, phường Ngân Phố.

4. Tổng Dị Ốc có 4 xã Dị Ốc, trại Đầu, Tiên Bì, Liệt Đồn.

5. Tổng Đồng Công có 5 xã, thôn: Đồng Công, Phụng Công, thôn Bào, Trung Hòa (thôn Phúc An, thôn Bào).

6. Tổng Thổ Hoàng có 5 xã, vạn: Thổ Hoàng, Bào Lăng, Đông Ấp, vạn Thổ Hoàng, vạn Đỗ Gia.

7. Tổng Thổ Lỗi có 9 xã, trại: Thổ Lỗi, trại Hà Linh, trại Bằng Bản, trại Dã, Chu Lễ, Phúc Lộc, Xuân Dũng, Nam Trạch, trại Động Khi.

8. Tổng Bào Khê có 5 xã: Bào Khê, Bằng Thụ, Lâm Thao, Hòa Duyệt, Vân Cù.

V. HUYỆN LA SƠN

Có 7 tổng, 60 xã, thôn, trang:

1. Tổng An Việt có 15 xã, thôn: An Việt Thượng (thôn Trường Xuân, thôn Thọ Kỳ, thôn Vĩnh Thái, vạn Phúc Trung, thôn Vĩnh Khái, thôn Đại Dịch, thôn Vạn Phúc Đông, thôn An Hội), An Đồng, An Trung, An Thái (thôn Thiên Tôn, thôn An Phú), Kính Kỵ, Ngải Lăng, An Việt Hạ.

2. Tổng An Hồ có 8 xã: An Hồ (thôn Nội Duyên, thôn An), Bùi Xá (thôn An Thượng Tứ, thôn Hạ Tứ, thôn Trung Ngũ), Lãng Ngạn, thôn An Thọ, Nhân Thọ.

3. Tổng Hòa Lâm có 14 xã, thôn, trang: Hoa Lâm, Cổ Ngụ (thôn Trung Lễ, thôn Đông Khê, thôn Thượng, thôn Thụy Vân), An Ninh (thôn Chế, thôn Hậu, thôn Tiền), Quang Chiếu (thôn Đại An, thôn Gia, thôn Quang Chiếu), Thanh Lãng, Tộ Vượng, trang Đồng Cần.

4. Tổng Lai Thạch có 5 xã: Lai Thạch, Nguyệt Ao, Phúc Hải, Hằng Nga, Thông Lưu.

5. Tổng Thịnh Cảo có 6 xã, thôn: Thịnh Cảo, Vĩnh Đại, Ngũ Lộc (hai thôn Phú Vinh và thôn An Phú), Nam Ngạn (thôn Đa Ngạn và Đa Lộc), thôn Minh Hòa thuộc xã Nam Ngạn.

6. Tổng Tự Đồng có 7 xã, thôn: Tự Đồng, Quang Tễ (ba thôn Trung, Chính và Hạ), thôn Rạng thuộc xã Quang Tễ, Lai Đồng, thôn Ngũ Khê, thôn Cẩm Trang, Đồng Văn.

7. Tổng Thượng Bồng có 6 xã, phường: Thượng Bồng, Hạ Bồng, An Duệ, Hoa Duệ, Lễ Cương, phường Tăng Xây.

VI. HUYỆN NGHI XUÂN

Có 5 tổng, 45 xã, thôn, trang:

1. Tổng Phan Xá có 5 xã: Phan Xá, Tiên Điền, Tiên Bào, Mỹ Dường, Uy Viễn.

2. Tổng Tam Chế có 15 xã, thôn: Tam Chế Thượng, Hoa Phẩm, thôn Thượng thuộc xã An Lạc, thôn Gia Tuyền thuộc xã An Lạc, thôn Trung Lộc thuộc xã An Lạc, thôn Trung Lao thuộc xã An Lạc, Tam Chế Hạ, Lộc Châu, thôn Võng Nhi Trung, thôn Võng Nhi Ngoại, đội Thổ Châu thuộc xã Võng Nhi, thôn Miêu Nha, thôn Võng Nhi A Bì, thôn Phú Giang, thôn Tháp Sơn.

3. Tổng Cổ Đạm có 8 xã, thôn, trang: Liêu Đông, Cương Giản, Cương Đoán, Phù Lạp, Cổ Đạm (ba thôn Kỳ Phi, An Giám và Mỹ Cầu), thôn Vân Hải thuộc xã Cổ Đạm, Động Giản, trang Nước Ra.

4. Tổng Hoa Viên có 6 xã, thôn: Hoa Viên, thôn Hồng, Khải Mông, Tiên Cầu, Tả Úc, Cồn Mộc.

5. Tổng Đan Hải có 6 xã, trang: Đan Hải, Đan Tràng, Đan Phố, Đan Uyên, Hội Thống, trang Đô Uyên.

* * *

Số 65: KHI LAN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Khi Lan có tài liệu ghi là Ki Lan, Ke Len, Kỳ Lân. Chẳng hạn:

1. Bản đồ 1650 của Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ thấy có tên Ke Len.

2. Phúc trình Linh mục dòng Tên E. Ferreyra năm 1676, ghi là Khi Lan ở vị trí đầu tiên của Phủ Đức Quang.

3. Thời Đại diện Tông tòa, trong bản kê khai 30 xóm đạo có nhà thờ tại Nghệ An vào năm 1701 (lúc bấy giờ Nghệ An bao gồm cả Hà Tĩnh) thấy ghi tên Ki Lan.

4. Lịch sử Tổng quát Hội Thừa sai Paris (Pháp), Đàng Ngoài, Bộ I, tác giả Adrien Launay, trang 367 viết: “Đức Cha De Bourges hồi đó đã lập tại Nghệ An một Tiểu Chủng viện làm tăng thêm số ơn gọi linh mục”.

Tiểu chủng viện này được định rõ là ở Ke Len, rõ hơn là Kỳ Lân như Linh mục Nguyễn Hữu Trọng viết: “… Đến năm 1684 hoặc 1685, Đức Cha De Bourges đã thiết lập tại Nghệ An một Chủng viện ở làng Kỳ Lân[17]. Tuy nhiên, hiện Ke Len hay Khi Lan, Ki Lan, Kỳ Lân này là ở đâu?

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí - Hà Tĩnh, trang 49 khi viết về tên những ngọn núi tại Nghệ An ghi nhận: “núi Kỳ Lân, ở phía Tây núi Dũng Quyết, trông hình như con thú nằm. Cũng có tên nữa gọi là Miêu Nhi Phong (núi Con Mèo)”.

5. Sách La Sơn Phu Tử của tác giả Hoàng Xuân Hãn, trang 45, 115, 126

Chính vì lẽ đó khi nói cũng như khi viết hai chữ Kỳ Lân dầu muốn dầu không, tác giả cũng muốn nói đến vị trí của nó phải là sát gần hay đúng hơn chung quanh chân núi Kỳ Lân, gần là Mỹ Dụ (số 46) đã nói ở phủ Anh Đô trước đây. Còn chuyện trú sở hoạt động của dòng Tên tại làng Kỳ Lân bị biến động phải dời lên làng Kẻ Mui lại còn giá trị hơn nữa, vì đó chính là lời của Linh mục Thừa sai E. Ferreyra: “Dòng Tên có 7 trú sở tại Đàng Ngoài, trú sở thứ 7 ở Nghệ An trước tại làng Ki Lan, nhưng vừa rồi có truy nã nên đã tạm dời tới làng Kẻ Mui”[18].

Số 66: KẺ NẪY

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Nẫy đọc được là Kẻ Nậi, đúng hơn Kẻ Nại.

Theo bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Kẻ Nại nằm gần với Gôi Vị (Gôi Mỹ), Chợ Gôi, Xóm Đò, Yên Bài (một họ giáo của xứ Đông Tràng) thuộc bờ Bắc sông Ngàn Phố, sánh với phía bên kia sông này là Đông Tràng (xem số 137 sẽ nói sau).

Kẻ Nại là một trong những xóm đạo được nhắc đến khá nhiều trong thời kỳ khai phá của các thừa sai dòng Tên, Hội thừa sai Pháp.

Kẻ Nại là quê hương của Bênêđictô Uyển, Linh mục thế kỷ 18. Kẻ Nại còn là nơi chôn cất Linh mục Tađiô Lý Thanh (1615 - 1695), bên cạnh Linh mục Đôminicô Trạch [19] một trong những người đầu tiên dấn thân phục vụ công cuộc truyền giáo[20]. Đồng thời Kẻ Nại cũng là một trong hai “nhà mụ” (sở dòng Mến Thánh Giá) đầu tiên của Nghệ An đầu thế kỷ 18…

Sách Hàng Giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, bút ký của Đức Giám mục Néez, trang 188 cho biết “Linh mục Tôma Mi, quán ở làng Trang Trai (Trang Trài, nay là họ Thành Trài, xứ Qui Chính), cách quê Linh mục Bênêđictô Uyển vài giờ đường…”.

Thực tế, đường bộ từ họ Thành Trài thuộc xứ Qui Chính vào đến Kẻ Nại tức họ Yên Bài thuộc xứ Đông Tràng chừng 7 km đường chim bay, 15 km đường rừng, 25 km đường sông.

Như vậy Kẻ Nại, một trong hai cơ sở dòng Mến Thánh Giá đầu tiên có mặt tại Nghệ An chính là địa danh Kẻ Nại mà phúc trình Thừa sai E. Ferreyra cũng như bản đồ địa dư Đông Dương ghi nhận.

Ngày nay tại vùng này có họ giáo Yên Bài thuộc xứ Đông Tràng, nằm trong đìa bàn xã Sơn Châu, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 9x23m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 417 (1996)

Số 67: KẺ RÁCH

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn trang 17, 21, 150, 213 nói đến một địa danh mang tên na ná là xã Lại Thạch, quê hương của ông Phan Huy Kính, đậu Thám hoa năm Quí Hợi (1743).

Bên cạnh đó, sách lịch sử giáo phận Vinh 1998, trang 230 về giáo xứ Mỹ Yên thuộc hạt Nhân Hòa có tên họ giáo Vạn Ốc Phù Thạch nhưng tiếc là hiện nay họ giáo này không còn tên nữa…

Chưa rõ Kẻ Rách mà phúc trình muốn nói có liên hệ gì với các địa danh vừa nêu hay không?

Số 68: KẺ CẤM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Cấm là cư dân nơi có sông Cấm, bến đò Cấm.

Hiện trong huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An có một dòng chảy mang tên sông Cấm. Con sông này bắt nguồn từ sông Lam qua thành phố Vinh, qua Kẻ Gai, Trang Nứa, Bùi Chu, Xã Đoài, Trung Hậu, Nhân Hòa, Đò Cấm, Lộc Mỹ, ra Cửa Lò và ngược lại. Như đó đây đã nói, con sông này được nối với kênh sắc Nguyễn Trường Tộ, nhưng không hiểu địa danh Kẻ Cấm nói đây được định vị trí ở chỗ nào? Có thể La Nham, Bình Thuận, Thanh Phong là những giáo xứ hiện đang nằm trên bờ sông này chăng?

Số 69: KẺ LẦN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Lần khác với Kỳ Lân tức Ki Lan, Ke Len, Khi Lan (xem số 65).

Kẻ Lần là một trong những trụ sở chính của Nghệ An được nhắc tới khá nhiều trong thời kỳ khai phá của các thừa sai dòng Tên cũng như trong thời các đại diện Tông tòa (1666 - 1846).

Cụ thể, Công đồng đầu tiên diễn ra tại Phố Hiến ngày 14 tháng 02 năm 1670 dưới sự chủ trì của Đức Giám mục Lambert de la Motte qui tụ ba thừa sai Deydier, De Bourges và Bouchard cùng với 9 linh mục người Đàng Ngoài, trong đó có hai linh mục thụ phong năm 1668 là Bênêđictô Hiền 56 tuổi, Gioan Huệ 48 tuổi và 7 tân linh mục gồm Martin Mật 68 tuổi, simon Kiên 60 tuổi, Antôn Quế 56 tuổi, Philipphê Nhan 52 tuổi, Giacôbê Chiêu 46 tuổi, Léon Văn Trụ 46 tuổi, Vitô Tri 30 tuổi.

Dịp này, Đức Giám mục Lambert de la Motte phân công địa bàn hoạt động mục vụ và chỗ ở cho 9 linh mục bản xứ coi sóc các bổn đạo Đàng Ngoài. Riêng tại Nghệ An và Bắc Bố Chính được phân công:

“Linh mục Léon Tru (Văn Trụ) ở Ke Lan (Kẻ Lần), phụ trách Nam Nghệ An và Bắc Bố Chính (Quảng Bình); Linh mục Martin Mật ở Lang Cau (Làng Cầu), phụ trách Bắc Nghệ An”1them.

Trong sách Histoire de la Mission du Tonkin - Documents Historiques (1658 - 1757), Adrien Launay chương 3, trang 93 viết:

“… Linh mục Mactinô Mật, thường trú tại xứ Lang Cau, có trách nhiệm coi sóc các nhà thờ tính từ xứ Lang Cau này ra tới giáp tỉnh Thanh Hóa, Linh mục Lêông Trụ, thường trú tại xứ Ke Lan, coi sóc các nhà thờ tính từ xứ Ke Lan này vào tới Bắc sông Gianh”.

Về Lang Cau tức Làng Cầu (như sẽ nói sau ở số 103) là một họ đạo thuộc Bắc sông Lam, nằm sát Thọ Kỳ tức Thọ Ninh bây giờ.

Riêng Ke Lan tức Kẻ Lần này trước hết là một xứ đạo thuộc phía Nam sông Lam tức Nam Nghệ An và thuộc Phủ Đức Quang như phúc trình ghi nhận.

Hơn nữa, căn cứ theo lịch sử địa lý tỉnh Nghệ An xưa cũng như nay, chủ yếu Bắc Nghệ An được tính từ Bắc sông Lam ra đến ranh giới Thanh Hóa. Còn Nam Nghệ An được tính từ Nam sông Lam vào đến Đèo Ngang Bố Chính (Quảng Bình).

Như vậy, Kẻ Lần phải là một địa danh nào đó nằm trong vùng Đức Thọ, Can Lộc hay Nghi Xuân (Hà Tĩnh) bây giờ. Đồng thời, Kẻ Lần phải là nơi gần với sông rạch thuận tiện cho việc di chuyển bằng ghe thuyền, phương tiện chính cho hoạt động mục vụ lúc bấy giờ.

Với một bề dày lịch sử hoạt động mục vụ như thế, vậy mà cho đến nay Kẻ Lần chưa rõ là địa phương nào và hiện còn dấu vết gì về Công giáo tại đó nữa hay không? Tuy nhiên, theo bàn đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Khe Lan - nơi có một ngôi chùa, gần với Khe Lỗ, xóm Tăng; cách Làng Cầu, Thọ Ninh, sông Lam chừng 20 km về phía Nam, cách sông Ngàn Phố chừng 15 km về phía Đông. Tại khu vực Khe Lan, bản đồ hành chánh Việt Nam thực hiện sau 1975 thấy có Hồ Khe Lang và cho đến nay Khe Lan, Khe Lang, Hồ Khe Lang vẫn còn…

Số 70: TRANG GỐM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách lịch sử giáo phận Vinh 1998, trang 227 về xứ hạt Xã Đoài ghi nhận một chi tiết đáng tin cậy là “giáo họ Trung Mỹ tức Trung Hậu hay Kẻ Gốm và Mỹ Lộc nhập lại”. Từ đó cho phép chúng ta hiểu Trang Gốm là tiền thân của Kẻ Gốm nay là Trung Hậu.

Kẻ Gốm được nhắc đến khá nhiều trong tiểu sử Đức Giám mục phụ tá Guilaumme Clément Masson Nghiêm (1833 - 1835)[21] và tiểu sử Linh mục Tử đạo Thánh Phêrô Hoàng Khanh[22].

Kẻ Gốm - Trung Hậu là nơi có mộ Thánh Phêrô Hoàng Khanh và ngôi thánh đường được xây dựng năm 1998 để dâng kính ngài.

Và, nếu vậy thì Kẻ Gốm, Trang Gốm tức Trung Hậu, Trung Mỹ cùng với Bùi Chu, Phúc Chu (số 84 sẽ nói sau) là tiền thân của xứ chính tòa Xã Đoài.

Xã Đoài trở thành trung tâm giáo phận từ 1846, năm thành lập giáo phận Nam Đàng Ngoài (Vinh). Tại đây lần lượt có ba nhà thờ chính tòa:

Nhà thờ thứ nhất: Năm 1846 giáo phận Vinh được thành lập. Tòa Giám mục ở Xã Đoài, nơi đây có Dinh Giám mục, hai Tiểu Chủng viện và nhà thờ chính tòa thô sơ. Năm 1885, Thừa sai Abgrall Đoài vừa mới tới, đã mô tả nhà chung Xã Đoài như sau:

“Dinh Giám mục là một nhà gỗ, kiểu Việt Nam, không tầng gác, xây gạch - Chủng viện là mộ nhà lối Châu Âu, hai tầng, một loại nhà kho lớn, xây cất vụng về, lại đang đổ nát. Nhà cha chính và sở quản lý cũng lối Châu Âu. Nhà lẫm cũng đẹp bằng Dinh Giám mục. Ngoài ra, còn có một chục nhà tranh cho các thừa sai qua đường, cho các linh mục Việt Nam, các thầy giảng và khách. Nhà thờ Xã Đoài ở sát nhà chung, là một lán tranh, trống trải. Chung quanh các nhà đó, chu vi một dặm là làng Xã Đoài, có 500 dân, toàn tòng. Quanh làng là một hào rộng 2m, đầy ắp nước, có cắm chông nhọn hoắt…”1them.

Tuy vậy, nhà thờ này đã từng là nơi diễn ra nhiều biến cố vui buồn thời đầu giáo phận:

- Năm 1842, Đức Giám mục Jean Gauthier Ngô Gia Hậu, Giám mục phó địa phận Tây Đàng Ngoài, đã đến ở Xã Đoài, sau khi thụ phong ở Kẻ Nón và khi lên làm Đại diện Tông tòa đầu tiên của giáo phận Vinh mới thành lập, người đã lấy nhà thờ này làm nhà thờ Chính tòa.

- Năm 1848, tại đây, người đã tấn phong thừa sai Masson Nghiêm làm Giám mục phó.

- Năm 1853, Giám mục phó Masson Nghiêm qua đời và được mai táng trong nhà thờ này.

- Năm 1868, tại nhà thờ này, Đức Giám mục Yves Croc Hòa thụ phong phó Giám mục.

- Năm 1877, Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu qua đời và được mai táng tại đây.

- Năm 1885, Đức Giám mục Croc Hòa sau khi mất tại Hồng Kông, thi hài được đưa về mai táng tại đây.

Như thế nhà thờ thứ nhất đã từng là nhân chứng những giai đoạn đau thương cuối thời bách hại, những tan hoang thời phục hồi sau hòa ước và thời đạo bắt đầu tự do…

Nhà Đại Cách Tân đầu tiên người Công giáo Vinh, ông Paulo Nguyễn Trường Tộ đã có mặt ở đây vào đầu giai đoạn bi hùng này.

Nhà thờ thứ hai: Đức Giám mục Louis Pineau Trị lên, thụ phong tại Kẻ Sở. Năm 1889: xây nhà thờ chính tòa đã chuẩn bị thời Đức Giám mục Croc Hòa. Ngày 29.3.1890, bốn quả chuông được đưa về tới Xã Đoài.

- Năm 1892, dâng hiến giáo phận cho Mẹ Maria trong nhà thờ chính tòa này.

- Năm 1889, ngày 25.8 đưa thi hài các Đức Giám mục vào.

- Năm 1900, ngày 27.5, điện từ Rôma về đưa tin Đức Giáo Hoàng đã phong Chân Phước 64 vị, trong đó có 5 vị của Vinh, chuông nhà thờ giáo phận reo vui, cả giáo phận liên hoan và Chầu Thánh Thể tạ ơn. Đặc biệt:

1. Nhà thờ thứ hai là một công trình kiến trúc qui mô, hoành tráng, kích thước: 16x60m; có 3 ngọn tháp tròn.

2. Bộ chuông hiếm có vì hợp âm của nó:

- Chuông 1 nặng 14 tạ, nốt Mi giáng;

- Chuông 2 nặng 10 tạ, nốt Pha;

- Chuông 3 nặng 7 tạ, nốt Xon;

- Chuông 4 nặng 4 tạ, nốt Xi giáng.

3. An nghỉ trong nhà thờ chính tòa 2 này: Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu, Đức Giám mục Masson Nghiêm, Đức Giám mục Croc Hòa, Đức Cha Francoise Belleville Thọ, Đức Giám mục Anrê Lêô Giuse Eloy Bắc, Đức Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức.

4. Pho tượng Mẹ lịch sử: Giáo phận được dâng hiến cho Mẹ ngày 15.8.1892, quả tim treo nơi cổ Mẹ ghi tên con cái giáo phận và bản dâng khấn giáo phận.

5. Lễ tấn phong tại đây: Đức Giám mục Belleville Thọ (04.6.1911), Đức Giám mục Eloy Bắc (12.4.1913), Đức Giám mục Trần Đình Nhiên (15.5.1963).

6. Tại đây, ngày 14.4.1938, Đức Giám mục Eloy Bắc mừng Ngân khánh Giám mục và Kim khánh Linh mục do Đức Khâm mạng Tòa Thánh chủ sự.

7. Tại đây, cử hành trọng thể lễ mừng tạ ơn sau khi Đức Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức tấn phong ở Thanh Hóa về (16.9.1951).

8. Tại đây, hàng trăm linh mục giáo phận Vinh lần lượt được phong chức hằng năm dưới các thời giám mục.

9. Tại đây, ngày 06.01.1971 lễ an táng Đức Giám mục GB. Trần Hữu Đức.

10. Ngày 21.7.1968, gần 2 chục máy bay Mỹ ném bom vùng Xã Đoài, nhà thờ thứ hai hoàn toàn sụp đổ, nhưng tượng Đức Mẹ mang quả tim chứa lời hứa của toàn giáo phận năm 1892 vẫn y nguyên.

Nhà thờ thứ ba: Khởi công xây dựng ngày 13.10.1977 thời Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Năng và được cung hiến trọng thể ngày 03.3.1979, do Đức Giám mục đắc cử Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp.

- Ngày 04.3.1979, khánh thành nhà thờ và lễ Tấn phong Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp.

- Nhà thờ thứ ba này được xây dựng do công sức chủ yếu của Linh mục quản lý hồi đó, nay là Đức Cha Phó Paulo Cao Đình Thuyên và phần đóng góp về lao động của tất thảy các giáo xứ.

- Kích thước nói chung như nhà thờ thứ hai, nhưng qui mô hơn, hiện đại hơn, bộ tháp chuông cao hơn, có tháp vòm phía sau: chiều rộng: 16,5m, chiều dài: 60m, tháp cao: 32m, đôm cao 24m. Đặc biệt, tại nhà thờ chính tòa này:

1. Ngày 04.3.1979, lễ tấn phong đức Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp, do Đức Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội Giuse Trịnh Văn Căn chủ sự.

2. Ngày 19.11.1992, lễ tấn phong Đức Giám mục phó Paulo Cao Đình Thuyên.

3. Năm 1991 - 1992, cử hành Năm Thánh kỷ niệm 100 năm dâng hiến giáo phận cho Mẹ Maria và 146 năm thành lập giáo phận.

4. Ngày 15.8.1991, khai mạc trọng thể Năm Thánh giáo phận.

5. Ngày 17.6.1992 cao điểm lễ tạ ơn, qui tụ hàng vạn tín hữu trong ngoài giáo phận, đông đảo giám mục, linh mục và tu sĩ về hiệp thông.

6. Ngày 15.8.1992, lễ bế mạc Năm Thánh giáo phận.

7. Suốt trong Năm Thánh, những đoàn tín hữu hành hương từ các giáo xứ, các địa phương trong và ngoài giáo phận không ngừng đổ về nhà thờ chính tòa, nơi có tượng Đức Mẹ lịch sử.

8. Cũng tại đây, có nhiều linh mục lần lượt được phong chức.

9. Ngoài những thi hài các Giám mục đã an táng ở nền nhà thờ cũ, về sau đã đưa thêm thi hài Đức Giám mục Paulo Nguyễn Đình Nhiên và Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Năng vào đây.

10. Ngày 22.11.1988, Đức Giám mục Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp (Vinh) và Đức Giám mục Paulo Phạm Tần (Thanh Hóa) chủ sự thánh lễ đồng tế, khai giảng Đại Chủng viện Vinh Thanh.

11. Ngày 04.3.1993, lễ trọng do Đức ông Claudio Celli và Đức ông Nguyễn Văn Phương, phái đoàn Tòa Thánh thăm Vinh, chủ sự.

12. Ngày 15.01.1995, Đức Hồng Y Paulo Phạm Đình Tụng về thăm Vinh, chủ sự thánh lễ.

Ngày nay Xã Đoài đang là một xứ hạt nằm trong địa bàn xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An:

-  Thành lập: Xã Đoài có tên từ thế kỷ XVIII, một trong 18 giáo xứ đầu tiên khi thành lập giáo phận 1846. Từ đó, Xã Đoài trở thành trung tâm của giáo phận.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 3.260

Năm 1996: 8.201

-  Các giáo họ:

1. Họ Xã Đoài (Giáp Đông và Cửa Tiền)                    

- Nhà thờ: 16,5x60x32m

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 1.428 (1996)

2. Họ Trung Hậu (Trung Mỹ)

- Nhà thờ: 13x40m (1996)

- Quan thầy: Thánh Phêrô Hoàng Khanh

- Số giáo dân: 1.469 (1996)

3. Họ Bùi Chu (xem số 84 nói sau)

4. Tân Yên (T. Hưng, T. Thành, Yên Nghĩa)

- Nhà thờ: 12x33m (1997)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.766 (1996)

5. Họ Ngọc Liễn

- Nhà thờ: 240m2 (1970)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.159 (1996)

6. Ngọc Thành (Ngọc Đường, Đức Thành)

- Nhà thờ: 11,5x30m (1981)

- Quan thầy: Đức Trinh Nữ Vương

- Số giáo dân: 948 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Khanh                        1863 - 1900

2.      Linh mục Hanh                          1990 - 1906

3.      Linh mục Đồng                         1906 - 1909                   

4.      Linh mục Chương                     1909 - 1932       

5.      Linh mục Cao Hữu Tạo             1932 - 1937

6.      Linh mục Chân                          1937 - 1946

7.      Linh mục Linh      phụ tá           1946      

8.      Linh mục Cán                           1946 - 1955       

9.      Linh mục Sáng                          1956 - 1985

10.  Linh mục Cường                       1985 - 1992

11.  ĐGM Cao Đình Thuyên            1992 - 1994                   

12.  Linh mục Nguyễn Văn Đức      1994 - 2003       

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Bentô Đào, quê Làng Đoài, thụ phong năm 1817

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Khiêm, quê Kẻ Gốm, thụ phong năm 1823

3.      Linh mục Luca Hòa, quê Làng Đoài, thụ phong năm 1823

4.      Linh mục Gioan Thường, quê Làng Đoài, thụ phong năm 1823

5.      Linh mục Antôn Xuân, quê Kẻ Gốm, thụ phong năm 1845

6.      Linh mục Đông, quê Xã Đoài, thụ phong năm 1845

7.      Linh mục Phanxicô Xaviê Chân, quê họ Kẻ Gốm, thụ phong 1794, qua đời 1862

8.      Linh mục Gioan Baotixita Khang, quê họ Xã Đoài, thụ phong 1863, qua đời 1900

9.      Linh mục Paulô Vạn, quê họ Trung Hậu, thụ phong năm 1864, qua đời năm 1897

10.  Linh mục Phêrô Chấn, quê Trung Hậu, thụ phong 1866, qua đời 1878

11.  Linh mục Giuse Huấn, quê họ Xã Đoài, thụ phong năm 1866, qua đời năm 1898

12.  Linh mục Phêrô Giáo, quê họ Kẻ Gốm, thụ phong năm 1882, qua đời năm 1902

13.  Linh mục Phêrô Điểm, quê Ngọc Liễn, thụ phong năm 1882, qua đời năm 1917

14.  Linh mục Giuse Chân, quê Trung Hậu, thụ phong năm 1890, qua đời năm 1898

15.  Linh mục Giuse Chức, quê Ngọc Liễn, thụ phong năm 1891, qua đời năm 1910

16.  Linh mục Giuse Cẩn, quê Trung Hậu, thụ phong năm 1905, qua đời năm 1909

17.  Linh mục Giuse Lâm, quê Ngọc Liễn, thụ phong năm 1906, qua đời năm 1907

18.  Linh mục Giuse Lân, quê họ Ngọc Liễn, thụ phong năm 1906, qua đời năm 1919

19.  Linh mục Paulo Hiệp, quê họ Ngọc Liễn, thụ phong năm 1908, qua đời năm 1932

20.  Linh mục Phêrô Vợi, quê họ Ngọc Liễn, thụ phong năm 1908, qua đời năm 1931

21.  Linh mục Paulo Kinh, quê họ Xã Đoài, thụ phong năm 1911, qua đời năm 1938

22.  Linh mục Paulo Hóa, quê họ Trung Hậu, thụ phong năm 1912, qua đời năm 1948

23.  Linh mục Phêrô Điền, quê Đức Thành, thụ phong năm 1913, qua đời năm 1930

24.  Linh mục Paulo Đạt, quê họ Trung Hậu, thụ phong năm 1922, qua đời năm 1974

25.  Linh mục Phêrô Hiên, quê họ Bùi Chu, thụ phong năm 1924, qua đời năm 1974

26.  Linh mục Phanxicô Nguyễn Thường Tín, quê họ Bùi Chu, thụ phong năm 1952, qua đời năm 1989

27.  Linh mục Phêrô Đậu Đình Triều, quê Tân Hưng, thụ phong năm 1957, quản hạt Văn Hạnh

28.  Linh mục Giuse Tràng, quê họ Giáp Đông, thụ phong năm 1960

·     Sở dòng MTG Xã Đoài:

- Khấn trọn: 36 (1996)

- Khấn tạm: 17

- Tập sinh: 56

Số 71: NHÀ CAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra địa danh liên quan đến xóm đạo này. Tuy nhiên, trong thời các Đại diện Tông tòa 1701, theo ghi nhận của Thừa sai Guissain thì Nha Cao (Nhà Cao) là một trong 30 xóm đạo có nhà thờ tại Nghệ An.

Ngoài ra, bản đồ địa dưa Đông Dương 1935 cũng như thực trạng trong vùng Nghi Xuân có địa phương mang tên Trảo Nha, thuộc Nam sông Lam.

Chưa rõ Nhà Cao mà phúc trình ghi nhận có liên hệ gì với những địa danh vừa nêu hay không?

Số 72: HÀNG ĐÂU

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hàng Đâu có lẽ là nơi mà ngày nay gọi là Quán Thầu Đâu? Nếu vậy thì nó cách nhà thờ Cầu Rầm 3 km về phía Bắc hướng ra Xã Đoài. Chính tại Quán Thầu Đâu này, phần lớn trong số 22 vị tử đạo thời Phân tháp, đời vua Tự Đức đã hy sinh vì đạo Chúa.

Số 73: KẺ LÒ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Lò tức Cửa Lò ngày nay.

Điều không rõ, ý tác giả phúc trình muốn nói chung tên vùng hay riêng một vị trí nào đó. Bởi vì, thực tế vùng Cửa Lò đang là một giáo hạt gồm nhiều giáo xứ, trong đó nhiều họ giáo có gốc gác từ lâu đời như Lộc Mỹ, Làng Ênh, Tân Lộc, Lập Thạch…

Về điểm này, tác giả Lịch sử giáo phận Vinh 1998, viết: “Giáo hạt Cửa Lò là một vùng gồm nhiều họ đạo có từ lâu đời. Như làng Ênh được nói đến từ đời các thừa sai dòng Tên. Trong phúc trình năm 1844, Đức Giám mục Retord Liêu chỉ nói đến “Đá Dựng” (5.330 giáo hữu); còn trong phúc trình năm 1852, Đức Giám mục Hậu lại nói tới “Chân Lộc” (5.055 giáo hữu) và “Cửa Lò” (2.693 giáo hữu).

Theo sơ đồ của Tòa Giám mục Vinh hiện nay thì Lộc Mỹ là gốc của Tân Lộc và Làng Ênh là gốc của Lập Thạch; còn Lộc Mỹ và Làng Ênh có gốc chung là Chân Lộc (Đá Dựng)…”[23].

Theo chúng tôi, Kẻ Lò là tên chung của dân cư vùng Cửa Lò (Cửa Chúa) mà Giáo sĩ Đắc Lộ đã ghi tên trong sách, cũng như trong bản đồ truyền giáo 1650 của ngài. Ngoài ra, theo truyền thống một số thừa sai cũng công nhận như vậy.

Đàng khác, theo sơ đồ phát triển các giáo xứ Vinh thì Kẻ Nhuôm tức La Nham được tách ra từ Lộc Mỹ và lập thành giáo xứ năm 1925. Hai nơi này chỉ cách nhau một con sông và một dải đồng ruộng.

Ngày nay Lộc Mỹ nằm trong địa bàn xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Cửa Lò:

-  Thành lập: Là một trong 18 giáo xứ có tên trước lúc thành lập giáo phận. Trước gọi là Chân Lộc, tên cũ huyện  Nghi Lộc, về sau gọi là Đá Dựng, địa điểm tại Lập Thạch. Năm 1853, Làng Ênh trở thành giáo xứ, trú sở chính thức của Đá dựng cố định ở Cửa Lò và lấy tên là Lộc Mỹ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.243

Năm 1996: 3.309

-  Các giáo họ:

1. Họ Lộc Mỹ              

- Nhà thờ: 10x28m

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 1.661 (1996)

2. Họ Đức Xuân

- Nhà thờ: 10x20x9m

- Quan thầy: Mẹ Thiên Chúa

- Số giáo dân: 991 (1996)

3. Họ Văn Sơn

- Nhà thờ: 8x16m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 283 (1996)

4. Họ Đông Ngàn

- Nhà thờ: 8x16m

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 150 (1996)

5. Họ Đức Vọng

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 224 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Cát                             1884 - 1888

2.      Linh mục Thái                           1888 - 1891

3.      Linh mục Đạt                            1891 - 1894                   

4.      Linh mục Nghị                          1894 - 1910       

5.      Linh mục Hạp                            1910 - 1916

6.      Linh mục Thạc                           1916 - 1917

7.      Linh mục Biển                           1917 - 1924       

8.      Linh mục Hiệp                          1924 - 1932       

9.      Linh mục Tần                            1932 - 1933

10.  Linh mục Phúc                          1933 - 1936

11.  Linh mục Loan                         1936 - 1945       

12.  Linh mục Hiển II                       1945 - 1947

13.  Linh mục Khoa II                      1948 - 1950

14.  Linh mục Định                          1952 - 1953

15.  Linh mục Ân I      phụ trách     1953

16.  Linh mục Định                          1954 - 1958

17.  Linh mục Hanh I                       1958 - 1972

18.  Linh mục Đoài                          1972 - 1979

19.  Linh mục Ái          phụ trách     1979 - 1985

20.  Linh mục Hướng phụ trách     1985 - 1988

21.  Linh mục Tràng    phụ trách     1988

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Ái, quê giáo họ Đức Vọng, thụ phong năm 1896, qua đời năm 1993 tại Cầm Trường

2.      Linh mục Giuse Chất, quê giáo họ Lộc Mỹ, thụ phong năm 1917, qua đời năm 1940 tại Lập Thạch

3.      Linh mục Paulo Thạch, quê giáo họ Lộc Mỹ, thọ phong năm 1971…

Số 74: TRANG GIO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan địa phương này.

Số 75: KIM ĐÔI

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trong phúc trình ba lần nhắc đến hai chữ Kim Đôi, cả ba đều đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách, nhưng được phân biệt là Kim Đôi (số 75) nói đây và Kim Đôi Xã (số 92), Kim Đôi Môm (số 93) sẽ nói sau.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Kim Đôi là một địa danh nằm ở bờ Nam sông Lam, cách Xuân Mỹ (Xuân Mỹ nói đây khác với giáo xứ Xuân Mỹ thuộc huyện Nghi Lộc) chừng 3 km về phía Đông Bắc, cách Làng Cầu (xem số 103 sẽ nói sau) chừng 12 km về phía Tây Bắc.

Ngoài ra, ở vùng Cửa Sót, huyện Thạch Hà cũng có một địa danh mang tên Kim Đôi, hiện là một trong 7 họ giáo của xứ Trung Nghĩa nằm trong địa bàn xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, một giáo xứ thuộc hạt Văn Hạnh.

Theo chúng tôi, Kim Đôi mà phúc trình muốn nói đây phải là địa danh mà bản địa dư Đông Dương ghi nhận nói trên.

Số 76: LÁP CAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 77: NHA NGÀ

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, từ ngã ba núi Thành xuôi sông Lam qua chợ Sàng đến bãi Do Nha, Phú Mỹ, Mỹ Dụ, Bến Thủy. Nói rõ hơn, tại bãi Do Nha có họ giáo Phú Mỹ, cách ngã ba núi Thành chừng 2 km.

Như vậy rất có thể bãi Do Nha này là biến thể của hai chữ Nha Ngà, hay nói cách khác Nha Ngà là tiền thân của Do Nha và là tiền thân của giáo họ Phú Mỹ thuộc xứ Mỹ Dụ bây giờ:

- Nhà thờ: 8x23m (1943)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 482 (1996)

Số 78: LÀNG ẤN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Làng Ấn phải chăng là Làng Ênh.

Làng Ênh là một vùng quê ở giữa cánh động rộng lớn, dân đông, chủ yếu sinh sống bằng nghề nông.

Làng Ênh hiện là một giáo xứ nằm trong vùng Cửa Lò, Cửa Hội, Yên Đại với những giáo xứ lân cận như: Làng Nam, Tân Lộc, Trang Cảnh (số 81)… Có thể tạm hình dung Làng Ênh, Trang Cảnh, Cầu Rầm như một tam giác đều với khoảng cách mỗi cạnh chừng 5 km.

Theo lịch sử truyền giáo Làng Ênh đã từng trú sở, trung tâm mục vụ của các thừa sai Pháp[24], nơi phát xuất các xứ đạo chung quanh. Theo ông Nguyễn Hữu Đôn, cố nội của ông Nguyễn Đình Thông thì: “Cách đây hơn 150 năm, Làng Ênh là xứ đạo trung tâm, các nơi khác hằng năm qui tụ về đây để ngắm nguyện, tổ chức lễ mừng Chúa Phục Sinh. Vì thế, giáo dân ở các nơi xa mang theo cơm gạo về đó ăn cho tới khi dự lễ xong mới trở lại nhà mình…”.

Tại Làng Ênh, khi đào sâu dưới lòng đất người ta thấy có vỏ ốc sò bị vùi lấp lâu năm, chứng tỏ khu vực này ngày xưa là một dòng chảy đưa đón các nhà truyền giáo thời sơ khai, trong đó có thể có con thuyền của Giáo sĩ Đắc Lộ đã ghé đến đây… Nhưng về sau dòng chảy này bị bồi lấp như hiện thấy hôm nay.

Như vậy, hai chữ Làng Ấn, Làng Ênh, Làng Eng, Làng En có lẽ là địa danh Ke En mà Giáo sĩ Đắc Lộ đã đến trong thời gian 6 tháng rưỡi của năm 1629 ngài lưu trú tại vùng Rum (Cầu Rầm) và ghi nhận trên bản đồ truyền giáo 1650.

Ngày nay Làng Ênh nằm trong địa bàn xã Nghi Phong, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Cửa Lò:

-  Thành lập: Tên từ hồi Giáo sĩ Đắc Lộ 1629 là Ke En. Thời Thừa sai E. Ferreyra 1676 là Làng Ấn. Năm 1853, chính thức thành xứ, tách từ Chân Lộc (Đá Dựng).

-  Số giáo dân: Năm 1945: 774

Năm 1996: 1.341

-  Các giáo họ:

1. Họ Làng Ênh                      

- Nhà thờ: 6,7x25m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 689 (1996)

2. Họ Ân Hậu

- Nhà thờ: 8x24m (1994)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 396 (1996)

3. Họ Tân Thành

- Nhà thờ: 7x15m (1990)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 255 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Bảo                            1884 - 1893

2.      Linh mục Đoàn                          1893 - 1901

3.      Linh mục Thể                            1901 - 1905                   

4.      Linh mục Tính                           1905 - 1910       

5.      Linh mục Trạch                         1910 - 1921

6.      Linh mục Hiển                           1921 - 1923

7.      Linh mục Khoa                          1923 - 1927       

8.      Linh mục Tân                            1927 - 1931       

9.      Linh mục Biện                           1931 - 1937

10.  Linh mục Đường                       1937 - 1945

11.  Linh mục Thư                           1945 - 1946       

12.  Linh mục Huyên II                    1947 - 1951

13.  Linh mục Khâm                         1951 - 1958

14.  Linh mục Liêm                         phụ trách

15.  Linh mục quản hạt                     phụ trách

16.  Linh mục Liêm I   phụ trách     1963 - 1967

17.  Linh mục Nho                            1967 - 1974

18.  Linh mục Danh                         1974 - 1987

19.  Linh mục Thiện                         1988

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Matthêu Thọ, quê giaó họ Làng Ênh, thụ phong năm 1867, qua đời năm 1876 tại Kẻ Tiếu.

2.      Linh mục Thế, quê giáo họ Ân Hậu, thụ phong 1892, qua đời năm 1915 tại Ân Hậu.

3.      Linh mục Phêrô Vệ, quê giáo họ Ân Hậu, thụ phong 1892, qua đời năm 1939 tại Yên Phú.

4.      Linh mục Gioan Baotixita Hồi, quê giáo họ Làng Ênh, thụ phong năm 1904, qua đời năm 1942 tại giáo xứ Lộc Thủy.

5.      Linh mục Phanxicô Xaviê Đông, quê giáo họ Ân Hậu, thụ phong năm 1910, qua đời năm 1951 tại Kẻ Đông.

6.      Linh mục Paulo Quyền, quê giáo họ Làng Ênh, thụ phong năm 1912, qua đời năm 1921 tại Mỹ Hòa.

7.      Linh mục Thân, quê giáo họ Làng Ênh, thụ phong năm 1927, qua đời năm 1965 tại Văn Thành…

Số 79: LÀNG HIN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến xóm đạo này, nhưng theo thiển ý chúng tôi, qua thời gian biến chuyển, có thể địa danh này đã cùng với Làng Ấn (số 78) làm thành giáo xứ Làng Ênh chăng?

Số 80: LÀNG HƯA

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện trong lịch sử giáp phận không thấy có tên giáo xứ, giáo họ mang tên Làng Hưa. Tuy nhiên, ở giáo hạt Xã Đoài về xứ Làng Nam đang có họ giáo Kẻ Sừa và ở giáo hạt Nhân Hòa về xứ Mỹ Yên, trước đây có tên họ giáo Làng Hà.

Bản tin truyền hình VTV3, lúc 19 giờ ngày 23.9.2002 nói về lũ lụt tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh thấy rõ hình ảnh cột mốc cây số “K - NƯA 15 km”…

Bản đồ hành chính Việt Nam thực hiện sau 1975 về huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ghi nhận đèo Keo Nưa nằm ở phía Nam sông Ngàn Phố, giáp biên giới Việt - Lào.

Theo chúng tôi, Làng Hà chính là tiền thân của Mỹ Yên có tên xưa là Đồng Yên hay nói đúng hơn Làng Hưa là tiền thân của giáo xứ Mỹ Yên.

Ngày nay Mỹ Yên nằm trong xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Nhân Hòa:

-  Thành lập: Năm 1888, tách từ xứ hạt Xã Đoài

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.367

Năm 1996: 3.343

-  Các giáo họ:

1. Họ Mỹ Yên (Đồng Yên)                  

- Nhà thờ: 416m2

- Quan thầy: Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

- Số giáo dân: 1.077 (1996)

2. Họ Thanh Sơn

- Nhà thờ: 384m2

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.404 (1996)

3. Họ Trại Giáo (Đồng Nghĩa)

- Nhà thờ: 118m2

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 862 (1996)

Ngoài ra, hai họ Vạn Ốc Phù Thạch và Làng Hà không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Giáo                           1888 - 1891

2.      Linh mục Chức                          1891 - 1903

3.      Linh mục Tân                            1903 - 1911                   

4.      Linh mục Tính                           1911 - 1915       

5.      Linh mục Hiệp                           1915 - 1921

6.      Linh mục Lộc                            1921 - 1922

7.      Linh mục Hoàng                        1922 - 1923       

8.      Linh mục Thĩnh                        1923 - 1937       

9.      Linh mục Bang                          1937 - 1939

10.  Linh mục Hưu                           1939 - 1943

11.  Linh mục Quế                           1943 - 1953       

12.  Linh mục Đại    

13.  Linh mục Tràng                         phụ trách

14.  Linh mục Danh       phụ trách    1996

15.  Linh mục Nho

16.  Linh mục Cường

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Phúc, quê họ Cồn Đồng, thụ phong 1933, di cư vào Nam năm 1953.

Số 81: TRANG CẢNH

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, không có dấu chỉ Hoa Thị, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục thừa sai Paris (Pháp) phụ trách.

Trang Cảnh là một giáo xứ nằm bên bờ biển Cửa Hội. Cho nên, khi nói đến Trang Cảnh là nói đến Bến Thủy, Cửa Hội, Làng Ênh và ngược lại. Còn việc nói rằng Trang Cảnh được thành lập năm 1914 tách từ giáo xứ Làng Ênh là một điểm son, hầu bổ sung cho nhận định của Làng Ấn (số 78) chính là giáo xứ Làng Ênh và cũng là cơ sở giúp giải thích cho những trường hợp tương tự như đã được nói đến trong phúc trình. Bởi vì, con số 195 giáo điểm có tên trong phúc trình năm 1676 này chỉ mới là những họ đạo nhỏ, chưa được công nhận thành giáo xứ theo giáo luật.

Ngày nay Trang Cảnh nằm trong xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Cầu Rầm:

-  Thành lập: Tái thành lập năm 1914, tác từ giáo xứ Làng Ênh

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.093

Năm 1996: 2.139

-  Các giáo họ:

1. Họ Trang Cảnh                  

- Nhà thờ: 15x41,6m (1996)

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 416 (1996)

2. Họ Thịnh Lộc (Trác Võ)

- Nhà thờ: 9,6x27m (1996)

- Quan thầy: Thánh Gioan Tông Đồ

- Số giáo dân: 749 (1996)

3. Họ Thượng Lộc

- Nhà thờ: 11x30m (1996)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 272 (1996)

4. Họ Vạn Cảnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 702 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Paulô Hợp                 1914 - 1933

2.      Linh mục Paulô Diệu                 1933 - 1935

3.      Linh mục Phêrô Ngọc               1935 - 1945                   

4.      Linh mục Giuse Đường             1945 - 1952       

5.      Linh mục Mỹ                             phụ trách

6.      Linh mục Trung                         phụ trách

7.      Linh mục Thường                      phụ trách

8.      Linh mục Giuse Nhà                  

9.      Linh mục Phêrô Nho                

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Bính, quê Trang Cảnh, thụ phong 1850, qua đời 1876 tại giáo xứ Phi Lộc.

2.      Linh mục Gioan Baotixita Cảnh, quê Trang Cảnh, thụ phong 1876, qua đời 1913 tại giáo hạt Bình Chính, Quảng Bình.

3.      Linh mục Gioan Baotixita Nhơn, quê Trang Cảnh, thụ phong 1888, qua đời 1931 tại giáo xứ Trang Cảnh.

4.      Linh mục Tôma Vân, quên Trang Cảnh, thụ phong 1891, qua đời 1898 tại Mai Hương.

5.      Linh mục Gioan Khoan, quê Trang Cảnh, thụ phong 1894, qua đời 1926 tại giáo xứ Xã Đoài.

6.      Linh mục Gioan Baotixita Hồ, quê Trác Võ, thụ phong 1901, qua đời 1951 tại Trác Võ.

7.      Linh mục Paulô Tước, quê Trang Cảnh, thụ phong 1901, qua đời 1928 tại xứ Hướng Phương, hạt Bình Chính, Quảng Bình.

8.      Linh mục Paulô Thực, quê Trang Cảnh, thụ phong 1903, qua đời 1932 tại giáo xứ Tân Lộc.

9.      Linh mục Dụ, quê Thịnh Lộc, thụ phong 1913, qua đời 1917 tại Xuân Phong.

10.  Linh mục Thế, quê Trang Cảnh, thụ phong 1919, qua đời 1938.

11.  Linh mục Paulô Lưu, thụ phong 1876, qua đời 1913.

Số 82: PHÚC THỌ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa danh mang đúng tên này. Tuy nhiên, trong giáo xứ Kẻ Gai hiện có hai họ giáo mang tên na ná là Phúc Long, Phúc Điền.

Theo chúng tôi Phúc Long, Phúc Điền là biến thể của hai chữ Phúc Thọ hay nói cách khác, Phúc Thọ là tiền thân của giáo xứ Kẻ Gai.

Ngày nay Kẻ Gai nằm trong địa bàn xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Xã Đoài:

-  Thành lập: Kẻ Gai là một họ đạo có tên cuối thế kỷ XVIII. Năm 1853 chính thức thành xứ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.194

Năm 1996: 4.360

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Gai               

- Nhà thờ: 10x30m (1928)

- Quan thầy: Chúa Kitô Vua

- Số giáo dân: 1.675 (1996)

2. Họ Hưng Thịnh

- Nhà thờ: 7,5x18m (1991)

- Quan thầy: Thánh Paulo

- Số giáo dân: 1.087 (1996)

3. Họ Thượng Khê

- Nhà thờ: 6x12m (1992)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 530 (1996)

4. Họ Phúc Long

- Nhà thờ: 7x12m (1937)

- Quan thầy: Đức Mẹ Truyền Tin

- Số giáo dân: 610 (1996)

5. Họ Khoa Đà

- Nhà thờ: 6x12m (1996)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô

- Số giáo dân: 246 (1996)

6. Họ Phúc Điền

- Nhà thờ: 6x12m (1940)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 212 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Chu                            1876

2.      Linh mục Ngọc                          1876 - 1883

3.      Linh mục Long                          1884 - 1896                   

4.      Linh mục Thế                             1896      

5.      Linh mục Chương                     1896 - 1898

6.      Linh mục Bường                       1898 - 1899

7.      Linh mục Tân                            1899 - 1913       

8.      Linh mục Vệ                             1913 - 1921

9.      Linh mục Nhơn                         1921 - 1924

10.  Linh mục Đoan                          1924 - 1927       

11.  Linh mục Kinh                          1927 - 1939

12.  Linh mục Đức II                        1939 - 1942

13.  Linh mục Lê                              1942 - 1960       

14.  Linh mục Tín                            1960 - 1989

15.  Linh mục Phước                        1989 - nay

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Huy, quê Kẻ Gai, thụ phong 1818, qua đời ?.

2.      Linh mục Gioan Ngãi, quê Kẻ Gai, thụ phong 1865, qua đời 1869 tại Xã Đoài.

3.      Linh mục Phêrô Kiên, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1902, qua đời 1905.

4.      Linh mục Gioan Baotixita Mân, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1904, qua đời 1949 tại Thanh Lạng.

5.      Linh mục Phêrô Phẩm, quê Kẻ Gai, thụ phong 1913, qua đời 1959 tại quê hương.

6.      Linh mục Gioan Baotixita Nhiên, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1915, qua đời 1938 tại Khoa Đà.

7.      Linh mục Gioan Baotixita Năm, quê Khoa Đà, thụ phong 1923, qua đời 1924 tại giáo họ Khoa Đà.

8.      Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Năng, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1941, tấn phong 1971, qua đời 1978 tại giáo xứ Xã Đoài.

9.      Linh mục Phêrô Hồ, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1941, di cư vào Nam.

10.  Linh mục Phêrô Hữu, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1944, qua đời 1955 tại giáo xứ Xã Đoài.

11.  Linh mục Paulo Trí, quê Kẻ Gai, thụ phong 1961.

12.  Linh mục Paulo Khôi, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1975.

13.  Linh mục Giuse Đức, quê giáo họ Kẻ Gai, thụ phong 1981.

14.  Đức Hồng Y Paulo Phạm Đình Tụng, Tổng Giám mục giáo phận Hà Nội, gốc giáo họ Thượng Khê.

Số 83: KẺ VĨNH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Vĩnh này khác với Kẻ Vĩnh tức Vĩnh Trị ở Hà Nội.

Kẻ Vĩnh nói đây có tên là Vĩnh Giang, vì vùng này có một dòng chảy gọi là sông Vĩnh Giang, một nhánh phụ của sông Lam.

Kẻ Vĩnh hay đúng hơn chữ Vĩnh này là tiền thân của chữ Vinh vì theo cách viết của các thừa sai người Pháp có khi nhớ khi quên dấu ngã, dần dần chỉ còn chữ Vinh mà không có dấu ngã.

Theo kỷ yếu Năm Thánh giáo phận Vinh 1992 của Tòa Giám mục Xã Đoài, trang 100 - 101 thì chữ Vĩnh này là hậu thân của chữ Vạng, Kẻ Vạng mà không thấy nói nguyên do từ đâu? “… Thoạt tiên vùng trung tâm thành phố bây giờ từ xa xưa có tên Việt cổ là Vạng (Kẻ Vạng ở phía Bắc sông Kẻ Lách ở Nam sông Bến Thủy). Khi chữ Hán trở thành thứ chữ chính thức, tên gọi các làng xã phải được đăng ký, thì Kẻ Vạng không có ký hiệu chữ Hán tương đương, phải dùng ký hiệu Vĩnh để ghi âm Vạng. Thế là địa danh Vĩnh (hay Vịnh) ra đời. Đến thế kỷ 14 - 15, Dinh Vĩnh; một kho lương: Vĩnh khố; một xã lớn: xã Vĩnh Yên. Hiện nay, nhiều tên xóm, họ vẫn mang tên Vĩnh: sông Vĩnh, họ Vĩnh Giang, họ Vĩnh Mỹ, xã Đông Vĩnh… Thế thì tại sao và bằng cách nào, khi nào danh xưng Vĩnh chuyển thành danh xưng Vinh? Vấn đề thiết tưởng rất đơn giản. Đến thời Pháp thuộc, chữ Pháp không có dấu sắc, huyền, nặng, ngã như tiếng Việt chúng ta. Máy chữ của họ không có chữ dấu đó. Sách báo, công văn hằng ngày bằng tiếng Pháp khi đến từ Vĩnh, chỉ ghi là Vinh. Ban đầu người ta còn đánh dấu ngã vào chữ Vinh đã in, để được chữ Vĩnh. Lâu dần, tuy không đánh dấu người ta cũng cố đọc là Vĩnh. Nhưng mãi về sau, in thế nào đọc thế ấy. Thế là xuất hiện cái tên Vinh”.

Cũng về chữ Vĩnh, Vinh này, sổ tay địa danh Việt Nam, tác giả Đinh Xuân Vịnh, trang 720 - 721 viết: “Vinh là thị xã thành lập về đời Thành Thái năm 1891 cùng một lúc với thành phố Huế, tỉnh lỵ Nghệ An, nay là thành phố Vinh, bắc giáp huyện Nghi Lộc, Đông và Đông Nam giáp sông Cả ngăn cách với huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, Tây giáp huyện Hưng Nguyên. Nguyên là đất trấn Vinh Doanh về đời Lê, có thôn Vĩnh Yên, xã Yên Trường, tổng Yên Trường, huyện Chân Phúc và làng Yên Vinh, còn gọi là Làng Vang, nơi Tòa Công sứ Pháp được xây dựng năm 1897 ở ngoài thành phia Tây thành trì Nghệ An, cạnh sông Vĩnh Giang, trở nên thông dụng thay thế tên cũ là Vĩnh (tiếng địa phương gọi là Vịnh)”.

***

Kẻ Vĩnh là địa phương nằm bên bờ sông Vĩnh Giang các nhà truyền giáo ngày xưa thường xuyên qua lại và dùng làm bàn đạp đặt chân lên đất liền, nơi mà ngày xưa gọi là Rum nay là giáo xứ Cầu Rầm. Có thể nói rõ hơn, Giáo sĩ Đắc Lộ đã đích thân tới đây, đã vẽ và đề tên địa danh Ha huinh (Ke Vinh, Kẻ Vĩnh) đồng thời với Vang mai (Vàng Mai), Ke len (Kỳ Lân), Ke en (Làng Ênh), Cua civa (Cửa Chúa), Cua rum (Cửa Rùm), Rum (Cầu Rầm), Cua sot (Cửa Sót) của Nghệ An và Ke hoa (Kẻ Hòa) của Bố Chính (Quảng Bình).

Ngày nay Vĩnh Giang đang là một họ giáo nằm trong địa bàn xứ hạt Cầu Rầm, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An:

- Nhà thờ: 7x17x6m (1936)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 340 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 84: PHÚC CHU

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Phúc Chu này nếu đúng theo tên gọi của nó thì chưa biết vị trí nằm ở đâu. Hiện ở huyện Nghi Lộc, xế nhà thờ chính tòa Xã Đoài, đối diện với Đại Chủng viện Vinh, ngang qua sông Cấm, có một họ giáo tên là Bùi Chu, trước thuộc huyện Hưng Nguyên nay thuộc huyện Nghi Lộc, cách Bùi Ngõa, Bùi Khổng hai cây số, cách Trang Nứa một cây số.

Theo chúng toi Phúc Chu chính là Bùi Chu, nhưng không hiểu Phúc Chu đổi thành Bùi Chu và Kẻ Ngói đổi thành Bùi Ngọa khi nào. Bởi vì, hai nơi này đều có tên trong phúc trình và xưa nay cả hai đều nằm gần nhau, đều thuộc huyện Hưng Nguyên.

Bùi Chu rất dễ lẫn lộn với làng Bùi Chu ở huyện Thượng Nguyên, tỉnh Nam Định, trên sông Bùi Chu, nay thuộc xã Xuân Thiên, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Sách hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, trang 45 - 46 của Đức Giám mục Louis Néez có nói đến hai chữ Bùi Chu nằm trong tiểu sử của Linh mục Mactinô Mật, một trong 9 linh mục đầu tiên người Đàng Ngoài và là cha xứ đầu tiên ở Làng Cầu, phụ trách các xứ đạo mạn Bắc Nghệ An tức từ Làng Cầu trở ra cho tới giáp Thanh Hóa. Khi qua đời “Cha được mai táng trong nhà thờ làng Bùi Chu mà cha cai quản trong những năm cuối đời cha”.

Ghi nhận trên đây đã được tác giả Lê Ngọc Bích trích dẫn, minh chứng bằng bản đồ vị trí Làng Cầu và cho biết thêm một vài chi tiết:

“Có một thời gian trong nhiều năm, cha Mật đảm trách khu vực mạn Bắc Nghệ An, trụ sở chính ở Làng Cầu. Nhiệm sở sau cùng là xứ Bùi Chu (Nghệ An) và qua đời tại đây ngày 05 tháng 3 năm 1684, thọ 84 tuổi. An táng trong nhà thờ Bùi Chu (Bút ký Đức cha Néez, tr. 46), tổng Anh Đô, huyện Hưng Nguyên (huyện Nghi Lộc, Nghệ An)”[25].

Chúng tôi nhớ, năm 1972 có dịp đọc bản tiểu sử này trong cuốn bút ký bằng tiếng Pháp của Đức Giám mục Louis Néez (1680 - 1764) tại một thư viện ở Sàigòn, trong đó nói đến hai địa danh Làng Cầu và Bùi Chu. Vì còn ở trong những năm chia cắt đất nước, không tiện tìm hiểu ngành ngọn hai địa danh này, nên chưa dám có ý kiến gì. Mãi đến nay, khi đọc sách của tác giả Lê Ngọc Bích nói khá chi tiết về “xứ Bùi Chu (Nghệ An”, “An táng trong nhà thờ Bùi Chu, tổng Anh Đô, huyện Hưng Nguyên (huyện Nghi Lộc, Nghệ An)”.

Lẽ dĩ nhiên là người trong cuộc đang tìm hiểu, chúng tôi thấy rất phấn khởi vì chưa bao giờ dám nghĩ đến một sự kiện lịch sử như vậy. Tuy nhiên, vì muốn có thêm bằng chứng xác thực hơn, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu thêm ở một vài nguồn sử liệu khác để xem Bùi Chu này có phải là họ giáo Bùi Chu thuộc xứ Xã Đoài, giáo phận Vinh, tỉnh Nghệ An hay là một giáo xứ, một nhà thờ nào đó của giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định?

Dưới đây là một vài dòng liên quan đến Linh mục Mactinô Mật rút ra từ sách “Nos Pères dans la Foi - Notes sur le Clergé Catholique du Tonkin de 1666 à 1763” của thừa sai Marillier, một linh mục thuộc Hội thừa sai Paris (Pháp), trang 10 - 11:

-  Năm 1670, Mactinô Mật thụ phong, vào phụ trách địa hạt Nghệ An trải dài từ Làng Cầu tới Thanh Hóa;

-  Năm 1673, sợ bị tố cáo với quan Tổng đốc, phải lánh đi nơi xa xôi hẻo lánh;

-  Năm 1676, vì hồi đó các linh mục không được ở lâu quá 3, 4, 5 năm, nên ngài phải đổi ra Kiên Lao, Lam sơn (Nam Định);

-  Năm 1681, ngài làm cha xứ Bùi Chu;

-  Năm 1864, ngài qua đời, thọ 84 tuổi.

Theo tài liệu này, chúng ta thấy có những điểm khá rõ nét, nhưng riêng về chi tiết qua đời và chôn cất không thấy nói rõ ở đâu. Trong khi Đức Giám mục Néez nói rõ ngài mất và an táng trong nhà thờ Bùi Chu mà không rõ Bùi Chu nào. Ngược lại, tác giả Lê Ngọc Bích cho biết thêm là Bùi Chu ở phủ Anh Đô, huyện Hưng Nguyên, tực huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ngày nay.

Có lẽ phải công nhận tài liệu của Đức Giám mục Néez và Marillier là thuyết phục hơn cả. Nhưng, dầu sao vẫn còn tồn tại một câu hỏi lớn đặt ra cho giáo họ Bùi Chu và Tòa Giám mục Xã Đoài, rằng: ngôi mộ được tìm thấy gần đây trong nhà thờ Bùi Chu là của ai, Tây hay Ta, người Vinh hay người giáo phận khác, qua đời năm nào, bao nhiêu tuổi?

Theo chúng tôi, Ban hành giáo và các vị có chức năng trong giáo họ Bùi Chu nên sắp xếp cách nào để ngôi mộ được đặt lại chỗ cũ hay dời lên một nơi xứng đáng hơn trong khuôn viên nền nhà thờ mới với một tấm bia ghi rõ: Khai quật năm nào, lý do gì, hiện trạng ra sao, có phải là Linh mục Mactinô Mật như Đức Giám mục Néez đã nói hay là của một Linh mục nào khác, nhằm đề phòng sau này có ai muốn tìm lại ngôi mộ ấy.

Điều biết rõ, Phúc Chu, Bùi Chu tại Nghệ An là quê hương của Tiên sinh Nguyễn Trường Tộ và là họ giáo duy nhất nằm trong địa bàn xã Hưng Trung thuộc giáo xứ chính tòa Xã Đoài:

- Nhà thờ: 23x9,3m (1923)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1431

- Các linh mục con cái giáo họ:

1. Linh mục Phêrô Hiên, quê Bùi Chu, thụ phong 1924, qua đời 1974

2. Linh mục Phanxicô Nguyễn Trường Tín, quê Bùi Chu, thụ phong 1952, qua đời 1989…

Số 85: BE NAO

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu chỉ Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 86: DỒ HUIEN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Dồ Huien có thể là Đồ Huyên, Đồ Huyện hay Chợ Huyện.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, trong bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Đan Uyên, Đồ Uyên nằm ở phía Nam sông Lam, giáp biển, thuộc huyện Nghi Xuân, cách Cửa Hội khoảng 15 km về phía Nam. Ngoài ra, ở vùng phía Bắc cửa Sót thuộc huyện Can Lộc (Thạch Hà) còn có hai địa danh mang tên tương tự là Huyện ThịXuân Huyện nằm gần với Phú Nghĩa (Trung Nghĩa), Kim Đôi.

Theo chúng tôi, cõ lẽ Huyện Thị và Xuân Huyện là đúng hơn cả vì tại vùng này hiện đang có họ giáo Chợ Huyện (Mỹ Lộc), một thời là tên gọi của giáo xứ Trung Nghĩa, hạt Văn Hạnh. Hơn nữa, thực tế nơi đây đang có Chợ Huyện, một chợ tầm cỡ trong huyện như sách Đại Nam nhất thống chí nêu trên.

Ngày nay Mỹ Lộc (Chợ Huyện) đang là một họ giáo thuộc xứ Trung Nghĩa, nằm trong địa bàn xã Thạch Bằng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 10x20m (1876)

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 1.896 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

1. Linh mục Gioan Baotixita Bân, quê Mỹ Lộc, thụ phong 1912, qua đời 1920 tại giáo xứ Tràng Đình…

Số 87: CỦA MẨY

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 88: TRANG BAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 89: TRANG MÂY

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 90: LAI XOǓ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Lai Xoǔ đọc được là Lai Xông.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 91: CANG GIÁN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Cang Gián thường gọi là Cương Gián.

Cương Gián là một cửa biển nhỏ nằm giữa Cửa Hội và Cửa Sót. Tại Cương Gián này có hai giáo họ Cam Lâm và Cương Gián vốn một thời là những họ đạo thuộc xứ Gia Hòa. Đến ngày 05 tháng 3 năm 1895, Cam Lâm cùng với Cương Gián mới được nâng lên thành giáo xứ mang tên là Cam Lâm nằm trong địa bàn xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, đang là một giáo xứ thuộc hạt Cầu Rầm:

-  Thành lập: Cương Gián, Cang Gián có tên từ 1676. Ngày 05.3.1895, cùng với Cam Lâm tách từ Gia Hòa lập thành giáo xứ lấy tên là Cam Lâm, cũng gọi là Kim Lâm.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 355

Năm 1996: 568

-  Các giáo họ:

1. Họ Cam Lâm (họ trị sở)                 

- Nhà thờ: 10x27x15m (1993)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 357 (1996)

2. Họ Cương Gián

- Nhà thờ: 9x19x8m (1906)

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 211 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đạt                            1895 - 1898

2.      Linh mục Tín                             1898 - 1905

3.      Linh mục An                             1905 - 1909                   

4.      Linh mục Hồi                            1909 - 1915       

5.      Linh mục Hiền                           1915 - 1920

6.      Linh mục Tường                        1920 - 1926

7.      Linh mục Hân                            1926 - 1931       

8.      Linh mục Gia                            1931 - 1932

9.      Linh mục Cao                            1932 - 1933

10.  Linh mục Hợp                           1933 - 1943       

11.  Linh mục Phẩm                         1943 - 1951

12.  Linh mục Tính                           1951 - 1953

13.  Linh mục Tính                           phụ trách

14.  Linh mục Chính                         phụ trách

15.  Linh mục Châu                          phụ trách

16.  Linh mục Thìn                           phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Vinh, quê Cương Gián, qua đời tại giáo xứ Xã Đoài.

2.      Linh mục Thuận, quê Cương Gián, hiện ở Úc.

Số 92: KIM ĐÔI XÃ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kim Đôi xã nay là xã Thạch Kim?

Như đã nói trên, trong phúc trình có tới ba xóm đạo mang tên Kim Đôi, cả ba nơi đều đã có nhà thờ đàng hoàng và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kim Đôi như đã nói ở số 75, còn hai xóm đạo Kim Đôi xã nói đây và Kim đôi mõm sẽ nói sau, chắc chắn chúng thuộc vùng Cửa Sót xã Thạch Kim, trước thuộc huyện Can Lộc, nay thuộc huyện Thạch Hà.

Trở lại Kim Đôi xã, thiết tưởng phúc trình có ý nói đến một vùng rộng lớn thuộc Bắc Cửa Sót (xem số 94 sẽ nói sau). Đồng thời là trung tâm của vùng này như sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh trang 60 ghi nhận trạm Kim Đôi tức trạm Cửa Sót ở làng Kim Đôi huyện Can Lộc. Nam suốt đến trạm Hổ Độ, Bắc suốt đến trạm Uy Viển thuộc huyện Nghi Xuân.

Nếu vậy thì Kim Đôi xã mà phúc trình đề cập chính là xã Thạch Kim bây giờ.

(xem thêm số 93 dưới đây).

Số 93: KIM ĐÔI MÕM

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Tác giả sách Dòng Tên trong xã hội Đại Việt ghi là Kim dôi môm. Tuy nhiên, đây phải là Kim đôi mõm nếu phân tích tỉ mỉ nguyên bản phúc trình và vị trí địa lý vùng này. Về địa danh Kim Đôi có những điểm đáng lưu ý:

1.   Nó thuộc phạm vi Cửa Sót, mà sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh, Quyển 13, trang 54, 60 nói là cửa Tấn sót, trạm Cửa Sót tức trạm Kim Đôi ở làng Kim Đôi.

2.   Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận tại vùng Cửa Sót, phía Nam có Mũi Sót nhô ra biển, phía Bắc có địa danh Kim Đôi.

3.   Giáo sĩ Đắc Lộ ghi nhận Cua Sot trên bản đồ 1650.

4.   Trên đường bị áp tải vào Đàng Trong (Bố Chính, Quảng Bình), Giáo sĩ Đắc Lộ đã đi qua đây.

5.   Khi từ Bố Chính trở ra Nghệ An trên con thuyền mà giáo dân tân tòng Bố Chính đã tặng để tỏ lòng biết ơn ngài đã vào, đã ở lại nhà hai giáo dân sốt sắng Phêrô, Anrê Tri và ban phép rửa cho 112 người trong ba ngày cư trú ở đây…

Tất cả những điều nói trên có thể là giả thiết, nhưng thiết tưởng không sai sự thật cho lắm.

Riêng về Kim đôi mõm, phải chăng là vùng Mũi Sót mà tác giả muốn so sánh địa danh này với cái mõm của con vật, cụ thể mõm con chó. Bởi vì, địa thế Mũi Sót xưa nay trông giống như vậy.

Từ Kim Đôi này phát xuất một số nhân vật đạo đời. Chẳng hạn, dòng họ ông bà Nguyễn Thìn, gốc Kim Đôi, dời cư ra Làng Thơi sau sang làng Tân Yên, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Xuống hàng con, ông Nguyễn Lưu Phương có Nguyễn Văn Đức là con thứ sáu, sinh con đầu lòng là Nguyễn Trung Hiếu di cư vào Nam 1954, năm 1975 di tản sang Mỹ. Ông Hiếu đã đỗ ba Tiến sĩ, là Nhân viên Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ. Ngoài ra, hai người em của ông là Linh mục Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Thảo và Linh mục Tiến sĩ Nguyễn Công Minh cùng nhiều cháu chắt là Bác sĩ, Cử nhân…

Ngày nay Kim Đôi đang là một họ giáo thuộc xứ Trung Nghĩa nằm trong địa bàn xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 12x35m (1977)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 2.690 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

1.  Linh mục Gioan Baotixita Minh, quê họ Kim Đôi, thụ phong 1888, qua đời 1927

2.  Linh mục Phanxicô Xaviê Lý, quê giáo họ Kim Đôi, thụ phong 1891, qua đời 1939 tại gáio xứ Làng Truông

3.  Linh mục Gioan Baotixita Vinh, quê giáo họ Kim Đôi, thụ phong 1894, qua đời 1931 tại quê hương

4.  Linh mục Phêrô Thọ, quê Kim Đôi, thụ phong 1917, qua đời 1937 tại gáio xứ Ninh Cường

5.  Linh mục Antôn Ngọc, quê giáo họ Kim Đôi, thụ phong 1941, qua đời 1966 tại giáo xứ Nghĩa Yên

6.  Linh mục Chuyên, quê Kim Đôi, thụ phong 1963, qua đời 1994 tại Xã Đoài

7.  Linh mục Giuse Nguyễn Thanh Hương, quê giáo họ Kim Đôi, thụ phong 1966…

Số 94: KẺ SÓT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Sót là địa danh dân cư sinh sống tại vùng Cửa Sót (Cua Sot).

Chính Giáo sĩ Đắc Lộ đã ghi rõ hai chữ “Cua Sot” này trên bản đồ 1650 của ngài (xem thêm các số 75, 92, 93).

Thông thường xưa cũng như nay, khi nhắc đến Kẻ Sót, Cửa Sót người ta liên tưởng đến một vùng dân cư chủ yếu sống bằng nghề đánh bắt thủy hải sản mà phần đông là Công giáo thuộc các xứ đạo trong vùng. Đứng đầu là giáo xứ Trung Nghĩa với các họ có tên trong phúc trình như Kim Đôi, Chợ Huyện (Vĩnh Lộc), Đông Kỳ và Cương Gián nay thuộc xứ Cam Lâm.

Ngày nay Trung Nghĩa nằm trong địa bàn xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Văn Hạnh:

-  Thành lập: Tên từ năm 1676 là Kẻ Sót, Kim Đôi xã, Kim Đôi mõm. Năm 1875, tách khỏi Kẻ Nhím lập thành giáo xứ lấy tên Phú Nghĩa, sau gọi là Trung Nghĩa.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 4.121

Năm 1996: 8.843

-  Các giáo họ:

1. Họ Trung Nghĩa (họ trị sở)            

- Nhà thờ: 15x45m (1995)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.973 (1996)

2. Họ Trung Cự

- Nhà thờ: 10x30m (1919)

- Quan thầy: Chúa Kitô Vua

- Số giáo dân: 1.292 (1996)

3. Họ Xuân Hải

- Nhà thờ: 11x21m (1985)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 805 (1996)

4. Họ Kim Đôi (xem số 93 nói trên)                

5. Họ Đông Kỳ (xem số 95 nói sau)                

6. Họ Mỹ Lộc (xem số 121 nói sau)                

7. Họ Tân Phong                     

- Nhà thờ: 5,5x11m (1980)

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 473 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Trúc                           1875

2.      Linh mục Huấn                          1885 - 1888

3.      Linh mục Hoàn                          1888 - 1889                   

4.      Linh mục Khâm                         1889 - 1911       

5.      Linh mục Cao Hữu Hân            1911 - 1926

6.      Linh mục Điền                           1926 - 1930

7.      Linh mục Lý                              1930 - 1935       

8.      Linh mục Huệ                           1935 - 1939

9.      Linh mục Lễ                              1939 - 1942

10.  Linh mục Cảnh                          1942 - 1947       

11.  Linh mục Lâm                           1947 - 1948

12.  Linh mục Hiêng                         1948 - 1950

13.  Linh mục Ái                              1950 - 1952       

14.  Linh mục Phước                        1952 - 1956

15.  Linh mục Hợp                           1956

16.  Linh mục Ái                              1967

17.  Linh mục Định                         

18.  Linh mục Đức                          

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Thiện, quê Trung Cự, thụ phong 1873, qua đời 1886 tại Hòa Ninh

2.      Linh mục Gioan Baotixita Bân, quê Mỹ Lộc, thụ phong 1912, qua đời 1920 tại Tràng Đình

3.      Linh mục Gioan Baotixita Ninh, quê Trung Nghĩa, thụ phong 1928, qua đời 1932 tại quê hương

4.      Linh mục Giue Phác, quê Trung Nghĩa, thụ phong 1952

5.      Linh mục Antôn Hưởng, quê Trung Cự, thụ phong 1994…

(Xem thêm họ Kim Đôi (số 93) nói trên)

Số 95: KẺ ĐÒǓ KHÌ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Đòǔ Khì đọc được là Kẻ Đồng Khì.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, trong giáo xứ Trung Nghĩa thuộc hạt Văn Hạnh có họ Đông Kỳ.

Theo chúng tôi, Đông Kỳ chính là biến thể của Kẻ Đồng Khì. Hay nói đúng hơn, xóm đạo Kẻ Đồng Khì này là tiền thân của họ giáo Đông Kỳ đang có hôm nay:

- Nhà thờ: 8,5x16m (1939)

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 214 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 96: CHỢ CHẾ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh, trang 81 ghi Chợ Chế ở xã Quả Phẩm, huyện Nghi Xuân, là một chợ lớn ở huyện này.

Sách Tên Làng Xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 102 ghi nhận xã Tam Chế Thượng, xã Tam Chế Hạ thuộc tổng Tam Chế, huyện Nghi Xuân. Trang 99 ghi nhận Đan Chế, tên của một xã thuộc tổng Trung, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Ngoài ra, bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Đan Chế nằm ở phía Tây sông Nghèn, thuộc vùng giáo xứ Lộc Thủy, hạt Văn Hạnh bây giờ. Đan Chế cùng với Lộc Yên, Châu Lâm, Lặc Sơ và Đan Cảnh là tên của những họ giáo trước đây thuộc xứ Lộc Thủy, nay không còn nữa.

Theo chúng tôi, Chợ Chế ở xã Quả Phẩm, huyện Nghi Xuân là đúng và hợp vùng đang xét hơn cả. Điều chưa rõ là hiện nay Chợ Chế thuộc địa phương nào trong huyện Nghi Xuân và hiện tình Công giáo ở đó như thế nào?

Số 97: PHÙ TĂCH

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Phù Tăch đọc được là Phù Thạch.

Sách La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn, trang 44, 45 và 115 viết về Phù Thạch nằm trong vùng Hồng Lam và là Trấn sở Nghệ An, đã ghi nhận như sau:

- “La giang (sông La) quanh co hai khúc, Đông tiến rồi lại Bắc tiến gặp Lam giang (sông Lam) ở phía Nam chân núi Nghĩa Liệt (Lam Thành) gần bến đò Phù Thạch (đò Rum). Bến đò Phù Thạch này là nơi yếu điểm của vùng Hồng Lam. Bên Bắc có phủ Hưng Nguyên. Bên Nam có phủ Đức Thọ (huyện La Sơn). Chỗ này còn cách Cửa Hội chừng 30 cây số…”.

- “Trong thời Mạc, trị sở chắc chắn vẫn ở đây. Đầu đời Trung Hưng, Phù Thạch vẫn là lị sở. Năm Dương Hòa thứ bảy (1614) các quan xin lập vọng từ Chiêu Trưng D(ại Vương, tức là Lê Khôi, con anh vua Lê Lợi…”.

Bản đồ địa dư Đông Dương cũng ghi rõ Phù Thạch nằm ở bờ Bắc sông Cả (sông Lam), nơi có sông Linh Giang, Hói Ban cách Gia Hòa (nằm bên bờ Nam sông Cả) chừng 15 km về phía Đông Bắc.

Ngoài ra, về phương diện tôn giáo trước đây có tên họ Yên Trạch thuộc xứ Gia Hòa, một giáo xứ có bề dày lịch sử với những họ giáo khá kỳ cựu như: Tả Ao[26], Vạn Thổ Chu, Vạn Ngọc Lân…

Ngày nay Gia Hòa nằm trong địa bàn xã Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Cầu Rầm:

-  Thành lập: Ngày 14.12.1889, tách từ giáo xứ Mỹ Dụ

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.253

Năm 1996: 2.218

-  Các giáo họ:

1. Họ Gia Hòa             

- Nhà thờ: 13x28x15m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 804 (1996)

2. Họ Xuân Hòa

- Nhà thờ: 10x20m

- Quan thầy: Chúa Kitô Vua

- Số giáo dân: 631 (1996)

3. Họ Yên Lĩnh

- Nhà thờ: 8x20m

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 462 (1996)

4. Họ Yên Hòa             

- Nhà thờ: 5x17m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 254 (1996)

5. Họ Tả Ao                 

- Nhà thờ: 4x7m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 67 (1996)

Ngoài ra các họ: Khải Mông, Vạn Thổ Chu, Vạn Ngọc Lân, Thổ Chu, Yên Trạch không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Dược                         1889 - 1884

2.      Linh mục Phong                        1894 - 1904

3.      Linh mục Tường                        1904 - 1920                   

4.      Linh mục Vĩnh                          1920 - 1927       

5.      Linh mục Minh                          1927 - 1938

6.      Linh mục Cai                             1938 - 1943

7.      Linh mục Đồng                         1943 - 1953       

8.      Linh mục Tính                          1953 - 1987

9.      Linh mục Châu                          1987 - 1994

10.  Linh mục Thìn                           1994 … 

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Chất

2.      Linh mục Tôn

3.      Linh mục Lạc

4.      Linh mục Ân

5.      Linh mục Ngọc

6.      Linh mục Vĩnh (dòng Phanxicô, Nha Trang)…

Số 98: HAT LA

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 99: PHÙ TĂM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 100: PHI CAỎ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Phi Caỏ hay đúng hơn là Phi Quả (xem số 103 nói sau).

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, sách Tên làng xã Việt Nam, trang 99, 100 về huyện Thanh Chương có tên giáp Phi Nha thuộc tổng Bích Triều và xã Minh Cảo thuộc tổng Vũ Liệt?

Số 101: NAM HǑA ĐÒǓ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Nam Hǒa Đòǔ đọc được là Nam Hòa Đông, Nam Hoa Đông.

Sách tên làng xã Việt Nam, trang 100 ghi nhận Nam Hoa Đông là tên của một xã thuộc tổng Nam Hoa, huyện Thanh Chương.

Điều không rõ là hiện nay Nam Hoa Đông thuộc địa phương nào và hiện tình Công giáo ở đó ra sao?

Số 102: NAM HǑA TỨ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Nam Hǒa Tứ đọc được là Nam Hoa Tứ.

Sách tên làng xã Việt Nam, trang 100 có tên xã Nam Hoa Tứ thuộc tổng Nam Hoa, huyện Thanh Chương.

Cũng như Nam Hoa Đông nói trên, chúng tôi chưa rõ hiện nay Nam Hoa Tứ được đổi thành tên gì và vị trí chính xác ở đâu, hiện tình Công giáo ở đó như thế nào? Tuy nhiên, giáo xứ Kỷ Tùng nằm trong địa bàn xã Đức La, Đức Xá, Đức Quang, huyện Đức Thọ có một họ giáo mang tên tương tự là Hạ Tứ:

- Nhà thờ: 9x27m

- Quan thầy: Đức Mẹ Truyền Tin

- Số giáo dân: 166 (1996)

Số 103: LÀNG CAU

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Làng Cau đúng hơn là Làng Cầu.

Làng Cầu từng là trụ sở chính của Nghệ An, được nhắc đến nhiều trong thời khai phá của các thừa sai dòng Tên như phúc trình 1647 của Linh mục dòng Tên Jean Cabral ghi nhận:

“… Lang Cau (Làng Cầu) là trụ sở chính của Nghệ An (…) Chúng tôi đã ở lại đây 7 hay 8 ngày, bởi vì các giáo hữu của tỉnh này là tốt hơn hết về sự nhiệt tình cũng như về số lượng. Nhà thờ khá khang trang và ở một nơi khá riêng rẽ, để có thể hội họp đông mà không gây sự chú ý. Tôi muốn chờ đợi tất cả những giáo hữu muốn gặp tôi và họ đã đông đến nỗi không thể tìm được chỗ ở cho họ trú ngụ.

Một số người phải đi bộ 4 hay 5 ngày đường hoặc hơn, người ta đã báo trước cho họ, cùng với vợ con. Số người xưng tội rước lễ đông đến nỗi các thừa sai không còn thời giờ đọc kinh nguyện. Họ ban phép cáo giải suốt đêm và tôi đã phải thức dậy và đi đến nhà thờ bảo họ là phải đi nghỉ một lúc; cũng có nhiều người xin lãnh phép Rửa và vì Mùa Chay đã bắt đầu nên giáo hữu đã làm việc đền tội một cách nghiêm khắc và sốt sắng lạ lùng.

Làng này hầu như toàn tòng và phải thấy là khi chúng tôi thức dậy và đánh hiệu lệnh cầu nguyện có một âm điệu dịu dàng và cao siêu vang lên như thế nào: đó là trong tất cả các gia đình người ta đã đọc bổn và đọc kinh cầu…”[27].

Đến thời các Đại diện Tông tòa, đầu năm 1670 Đức Giám mục Lambert de la Motte phân công địa bàn hoạt động mục vụ và chỗ ở cho 9 linh mục bản xứ coi sóc các bổn đạo Đàng Ngoài, trong đó: “Linh mục Martin Mật ở Lang Cau (Làng Cầu), phụ trách Bắc Nghệ An; Linh mục Léon Tru (Văn Trụ) ở Ke Lan (Kẻ Lần), phụ trách Nam Nghệ An và Bắc Bố Chính (Quảng Bình)[28].

Hay rõ hơn, khi đề cập vấn đề nêu trên tác giả Adrien Launay viết: “Linh mục Mactinô Mật, thường trú tại xứ Lang Cau, có trách nhiệm coi sóc các nhà thờ tính từ xứ Lang Cau này ra tới giáp tỉnh Thanh Hóa. Linh mục Lêông Văn Trụ, thường trú tại xứ Ke Lan, coi sóc các nhà thờ tính từ xứ Ke Lan này vào tới Bắc sông Gianh”[29].

Một xứ đạo đã từng là trụ sở chính - trung tâm mục vụ của Nghệ An (lúc bấy giờ bao gồm cả Hà Tĩnh) - vậy mà cho đến nay chưa rõ vị trí chính xác của Làng cầu này nằm ở đâu?

Có người nói: “Lang Cau có thể ở trong vùng Hưng Nguyên của Nghệ An (xứ Mỗ Vĩnh có họ lẻ là Làng Cầu) và Kẻ Lân có thể trong vùng Đức Thọ - Can Lộc của Hà Tĩnh”[30]… (?!).

Chúng tôi ghi nhận ý kiến nêu trên và mong tác giả cung cấp thêm tư liệu xác thực liên quan đến Làng Cầu. Riêng chúng tôi, xin được trưng dẫn một số tư liệu về vị trí Làng Cầu:

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 cho thấy vị trí Làng Cầu nằm gần trung tâm Thịnh Quả (tức tổng Thịnh Quả hay tổng Thịnh Cảo[31]) trên cùng một dãy với Thọ Ninh (Thọ Kỳ), Yên Phú (An Phú), Chợ Thượng, cầu Chợ Thượng… thuộc tổng Việt Yên, phía Bắc là sông Ngàn Cả, phía Đông là ngã ba Rú Thành, phía Nam là sông La, phía Tây là đường ray xe lửa Bắc Nam. Đường ray này cắt ngang sông La (phía Nam) tại cầu Chợ Thượng (Yên Thượng), cách nhà thờ Thọ Ninh chừng 500 mét và sông Ngàn Cả phía Bắc tại cầu Yên Sơn (Yên Xuân), hai cầu cách nhau chừng 8 km.

Như chúng ta biết, Nghệ An với Hà tĩnh vốn là một khối Hoan Châu nhưng có thời được tách thành hai tỉnh riêng biệt và có thời lại sáp nhập thành một. Mỗi lần như thế, hầu hết các làng xã được đổi ra tên mới. Cụ thể năm 1953, riêng tại vùng “La sơn huyện” này, phần lớn các xã mang tên Đức ở đầu như: Đức Châu, Đức Tùng, thuộc tổng Thịnh Quả; Đức Minh (Liên Minh, Thọ Ninh), Đức Tân (Yên Thượng), Đức Yên (Nghĩa Yên) thuộc tổng Việt Yên…

Thực trạng vùng này ngày nay vẫn còn tên truyền tụng Thịnh Quả trong đó Đức Tùng là trung tâm của Thịnh Quả xưa. Hay nói cách khác, vị trí Làng Cầu mà bản đồ Đông Dương ghi nhận nêu trên nay thuộc xã Đức Tùng, giới bạn bởi Hói Đài ở phía Bắc phát xuất từ rú Thiên Nhẫn (rú Nghìn) ở hía Tây đổ ra sông Ngàn Cả tại xóm Làng Đài, nơi có chùa Làng Đài. Hói Tròi ở phía Nam cũng bắt nguồn từ rú Thiên Nhẫn nhưng lại đổ ra sông La tại làng Thiên Trúc, gần họ Yên Phú thuộc xứ Thọ Ninh. Tại Yên Phú có bến đò đi Chợ Cầu, chợ này chung cho cả vùng “La Sơn huyện” khi chưa có chợ Đức Thọ.

Ngày nay địa danh Làng Cầu, Chợ Cầu tuy tuy không còn nữa, nhưng vẫn còn tên xóm Chợ Cầu, bến Chợ Cầu, vực Chợ Cầu. Nói cách khác, Làng Cầu với Chợ Cầu rất có thể đã từgn ít nhiều có mối liên hệ, qua lại với nhau nên mới có một bến đò chung mang tên bến Chợ Cầu…

Như vậy, ý kiến cho rằng Làng Cầu là họ giáo xưa của xứ Mỗ Vĩnh[32] nằm trong địa bàn huyện Thanh Chương, Phủ Anh Đô là không phù hợp. Bởi vì, Làng Cầu mà tác giả phúc trình đang nói tới thuộc Phủ Đức Quang chứ không phải thuộc Phủ Anh Đô!

Nói tóm lại, địa danh Làng Cầu mà phúc trình 1647 của Thừa sai Jean Cabral, phúc trình 1676 của Thừa sai E. Ferreyra ghi nhận cũng như Làng Cầu có tên trong bản đồ địa dư Đông Dương 1935 là một. Điều chưa rõ là hai chữ Làng Cầu đã được đổi thành tên gì, chỉ biết rằng vị trí Làng Cầu trước đây hiện nằm trong địa bàn xã Đức Tùng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Hay nói cách khác, Làng Cầu nằm bên bờ Bắc sông La, cách Thọ Ninh (xã Liên Minh) bởi Hòi Tròi và cách xã Đức Châu bởi Hói Đài. Hiện trong địa bàn xã Đức Tùng này không còn người theo Công giáo.

Số 104: KẺ PHUỐNG

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Phuống là nơi trước kia có Chợ Phuống, hay là giáo xứ Văn Thành nằm ngang cùng một dãy với Kẻ Mui, Phố Quát nên buôn bán khá phồn thịnh.

bản đồ giáp ranh hai tỉnh thanh hóa và nghệ an


Ngày nay Văn Thành nằm trong địa bàn xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đang là một giáo xứ thuộc hạt Vạn Lộc:

-  Thành lập: Năm 1922, tách từ giáo xứ Mỗ Vĩnh

-  Số giáo dân: Năm 1945: 679

Năm 1996: 1.962

-  Các giáo họ:

1. Họ Văn Thành (họ trị sở)               

- Nhà thờ: 14x36m (1994)

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 592 (1996)

2. Họ Phúc Yên

- Nhà thờ: 9x22m (1996)

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 861 (1996)

3. Họ Ao Điền

- Nhà thờ: 8x20m

- Quan thầy: Đức Mẹ

- Số giáo dân: 353 (1996)

4. Họ Xuân Tân                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 685 (1996)

Ngoài ra, các họ Lương Điền, Trung Thành, Hào Phú, Như Thành, Cồng Vọng không còn?

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Vinh                          1922 - 1924

2.      Linh mục Trường                      1924 - 1928

3.      Linh mục Mục                           1928 - 1930                   

4.      Linh mục Đức                           1930 - 1937       

5.      Linh mục Biện                           1937 - 1939

6.      Linh mục Kính                          1939 - 1943

7.      Linh mục Thân                          1943 - 1956       

8.      Linh mục Chuyên                      1964 - 1973

9.      Linh mục Khánh                        1973

10.  Linh mục Giáo …                     

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 105: KẺ RỐ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, ở giáo xứ Mỹ Dụ thuộc hạt Cầu Rầm huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An có họ giáo mang tên na ná là Kẻ Mú. Và, tại xã Thạch Long, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh có một nơi gọi là Chợ Rú mà người dân địa phương thường qua lại buôn bán. Tại Chợ Rú không có người theo đạo Công giáo nhưng cách đó chừng 2 km có giáo xứ Lộc Thủy, hạt Văn Hạnh.

Không rõ những địa danh vừa nêu liên hệ như thế nào với Kẻ Rố?

Số 106: HÀ DĔANG

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hà Dĕang có thể đọc được là Hà Hương.

Sách Tên làng xã Việt Nam trang 101 về tổng Đặng Xá, huyện Chân Lộc thấy có tên xã Kim Dương.

Tại vùng phía Tây ngã ba Núi Thành, có đền Cửa Vương nằm ở phía Nam Hói Tròi thuộc xã Đức Châu, huyện Đức Thọ. Hai nơi này hiện không có người Công giáo.

Không rõ Hà Dĕang với những địa phương vừa nêu có liên hệ với nhau như thế nào?

Số 107: DANG SƠN

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Sách Tên làng xã Việt Nam trang 101 về tổng Đặng Xá, huyện Chân Lộc có xã Nam Sơn, không rõ có liên hệ gì không?

Số 108: KẺ ĐĂÕ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Đăõ đọc được là Kẻ Đọng.

Kẻ Đọng là một giáo xứ nằm trong địa bàn xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Có tên từ hồi 1676. Năm 1918 tách khỏi Đông Tràng lập thành giáo xứ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.565

Năm 1996: 2.418

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Đọng (họ trị sở)                    

- Nhà thờ: 12x26x31m (1995)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 1.740 (1996)

2. Họ Kẻ E

- Nhà thờ: 8x25m (1990)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 561 (1996)

3. Họ Kẻ Trúa

- Nhà thờ: 8x20m (1960)

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 117 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đông                         1918 - 1935

2.      Linh mục Lễ                              1935 - 1936

3.      Linh mục Báu                            1936 - 1938                   

4.      Linh mục Hữu                           1938 - 1939       

5.      Linh mục Lưu Bang                  1939 - 1944

6.      Linh mục Lưu Kim                    1944

7.      Linh mục Lưu Lĩnh                   1944 - 1951       

8.      Linh mục Lưu Hạnh                  1951

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Lễ, quê Kẻ E, thụ phong 1918, qua đời 1947 tại Lập Thạch

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Quyền, quê Kẻ E, thụ phong 1923, qua đời 1953 tại Xã Đoài

3.      Linh mục Phêrô Đông, quê Kẻ Đọng, thụ phong 1924, qua đời 1953 tại Gia Hòa

4.      Linh mục Phêrô Nghi, quê giáo họ Kẻ E, thụ phong năm 1928, qua đời năm 1972

5.      Linh mục Phanxicô Xaviê Án, quê Kẻ Đọng, thụ phong 1935, qua đời 1970 tại Nhân Hòa

6.      Linh mục Phanxicô Dũng, quê Kẻ E, thụ phong 1938, qua đời 1948 tại Đan Sa

7.      Linh mục Gioan Hưởng, quê họ Kẻ E, thụ phong 1942, qua đời 1979 tại Qui Chính

8.      Linh mục Phêrô Định, quê Kẻ Đọng, thụ phong 1951, qua đời 1987 tại Trung Nghĩa

9.      Linh mục Phêrô Thái, quê Kẻ Đọng, thụ phong năm 1962

10.  Linh mục Phêrô Phan Đình Cư, Kẻ Đọng, thụ phong 1937, qua đời 1974 tại Miền Nam.

Số 109: TRANG BÃI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trang Bãi đúng hơn là Trại Bãi.

Hiện chưa tìm ra địa phương liên quan đến địa danh này.

Số 110: KẺ TRẢI

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Trải đúng hơn là Kẻ Trãy.

Kẻ Trãy nay là làng Tri Lệ thuộc huyện Hương Sơn, gần Làng Gôi thuộc giáo xứ Kẻ Đọng. Hiện tại làng Tri Lệ kh6ong còn dấu tích gì về Công giáo?

Số 111: AN ẤP

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 101 thì An Ấp nguyên là một tổng hành chánh thuộc huyện Hương Sơn gồm có 6 xã, thôn, giáp là: xã An Ấp, thôn Thọ Lộc, xã Tuần Lễ, giáp Ông Bùi, xã Phước Dương, An Bài.

Về phương diện tôn giáo, hiện nay những nơi có ngườ theo đạo Công giáo ở An Ấp là Kẻ E tức Mai Tốc thuộc Xã Sơn A2, một họ giáo của xứ Kẻ Đọng; Yên Bài, Kẻ Sét, của xứ Đông Tràng thuộc hạt Nghĩa Yên.

Số 112: KẺ GỒI

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Gồi nay là làng Gối Mỹ.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 Chợ Gồi nằm cạnh Gồi Vị, gần Kẻ Nại như đã nói ở số 67. Những địa danh vừa nêu nằm ở bờ Bắc sông Ngàn Phố sánh với phía bên kia sông này là Đông Tràng, một giáo xứ nằm trong địa bàn huyện Hương Sơn.

Làng Gối Mỹ, nơi hiện có Chợ Gồi được mô tả: Từ Đông Tràng, nơi có Chợ Choi qua đò sang Gôi, Chợ Gôi tức họ Yên Bài thuộc xứ Đông Tràng, vượt núi Kẻ Đọng để sang đò Vạn Rú, Vạn Lộc sang Nam Đàn. Chợ Gôi cách Qui Chính 7 km đường hcim bay, 15 km đường bộ, 25 km đường sông.

Ngày nay Yên Bài là một họ giáo thuộc xứ Đông Tràng, xã Sơn Châu, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 9x23m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 417 (1996)

Số 113: VỨC NAM

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Sách Tên làng xã Việt Nam, trang 101 về tổng Đặng Xá, huyện Chân Lộc thấy có tên xã Nam Sơn. Còn trong giáo hạt Ngàn Sâu đang có một giáo xứ mang tên là Thọ Vực thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu, xã Hà Linh, huyện Hương Khê:

-  Thành lập: Năm 1973, tách từ giáo xứ Vạn Căn

-  Số giáo dân: Năm 1945: 394

Năm 1996:

-  Các giáo họ:

1. Họ Thọ Vực            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 385 (1996)

2. Họ Vĩnh Yên

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 161 (1996)

3. Họ Trại Trăn

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 189 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Ân                             1937 - 1938

2.      Linh mục Mục                           1938 - 1939

3.      Linh mục Năm                           1939 - 1940                   

4.      Linh mục Triều                          1940 - 1945       

5.      Linh mục Tạo                            1946 - 1951

6.      Linh mục Lưu                            1951 - 1953

7.      Linh mục Phúc                          phụ trách

8.      Linh mục Duyệt                         phụ trách

9.      Linh mục Thìn                          phụ trách

10.  Linh mục Phượng                      phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phanxicô Xaviê Chỉnh, quê giáo họ Thọ Vực, thụ phong 1951, qua đời 1974 tại Đại chủng viện Vinh - Thanh.

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Ngọc Tâm, quê ?, thụ phong ?, hiện ở Mỹ.

Số 114: BÊN LÔI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bên Lôi đúng hơn là Bến Lợi.

Bến Lợi là một họ đạo cũ của giáo xứ Kẻ Mui, cách thị trấn Đức Thọ 15 km.

Điều chưa rõ là hiện nay Bến Lợi được đổi thành tên gì và có trực thuộc giáo xứ Kẻ Mui nữa hay không?

Số 115: KẺ MUI

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Địa danh này được thấy viết khác nhau trong một vài văn bản kê khai theo niên biểu như sau:

- Ngày 22.12.1679 trong thư gửi quyền Đại diện Tông tòa, Linh mục E. Ferreyra cho biết dòng Tên có 7 trú sở tại Đàng Ngoài trong đó ghi nhận: “Trú sở thứ 7 ở Nghệ An, trước tại làng Ki Lan (Khi Lan), nhưng vừa rồi do có truy nã nên tạm dời tới làng Kẻ Mui…”.

- Năm 1684, thừa sai E. Ferreyra lại nói có 9 giáo hạt của dòng Tên Đàng Ngoài: “… Giáo hạt thứ tám là Kẻ Mui gồm tất cả tỉnh Nghệ An, giáo hạt thứ chín gồm Bình Chính, Quảng Bình…”[33].

- Năm 1707[34], Đức Giám mục De Bourges kê khai chi tiết về địa điểm, nhà thờ, số giáo dân do các thừa sai dòng Tên phụ trách trong đó ở Nghệ An có 4 cơ sở:

“- Đông Thành        25 nhà thờ nhà nguyện    2.555 bổn đạo

- Làng Einh (Ênh)   30 nhà thờ nhà nguyện    2.636 bổn đạo

- Kẻ Muy (Mui)       25 nhà thờ nhà nguyện    2.120 bổn đạo

- An Nhiên              33 nhà thờ nhà nguyện    4.130 bổn đạo”.

Thời sơ khai Kẻ Mui được ghi nhận như thế, nhưng khi thành lập giáo phận năm 1846, Kẻ Mui chỉ là một giáo xứ thường và có khi đã được đổi tên sang Hương Sơn như bản tổng kết ngày 07.12.1874 của Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu nói về những thiệt hại sau biến cố Văn Thân năm đó[35].

Kẻ Mui ngày nay đang là một giáo xứ lớn. Theo nhận định của một số bà con Việt Kiều về thăm quê dịp Đại Năm Thánh 2000 nhà thờ Kẻ Mui đẹp vào hạng nhất nhì giáo phận. Dưới đây là bài báo “Nét mới ở giáo xứ Kẻ Mui” của tác giả Phùng Ngọc Cẩn, đang trên báo Công giáo và Dân tộc năm 1996:

“Giáo xứ Kẻ Mui tọa lạc trên địa bàn huyện Hương Sơn, tỉnh Hà tĩnh, trải dài theo đường số 8 từ biên giới Việt Lào đến giáp ranh giới Nghệ An. Giáo xứ gồm 11 họ đạo với khoảng 7.000 giáo dân, sống rải rác trên một địa bàn rộng lớn.

Đối với những ai xuôi ngược trên đường số 8, giáo xứ Kẻ Mui được nhận diện từ xa bởi mái vòm của ngôi thánh đường cao 28 mét, một biểu trưng cho sức sống mới của một xứ đạo vùng cao.

Ngôi thánh đường mới với kiến trục đẹp là thành quả và niềm tự hào của người giáo dân Kẻ Mui. Ngôi thánh đường cũ của giáo xứ đã xuống cấp trầm trọng và ngôi thánh đường mới đã được cố linh mục Phùng Mai Lĩnh cùng toàn thể bà con giáo dân nghĩ đến từ năm 1989. Cố linh mục Phùng Mai Lĩnh đã kêu gọi sự tiết kiệm của mọi người cũng như gom góp những nguyên vật liệu mà các họ đạo có được như cát, sỏi, cốp pha… Ngoài ra các họ đạo trong giáo xứ còn chia nhau lao động công quả, bảo đảm đầy đủ nhân lực trong khi thi công. Bất cứ lúc nào nghe tiếng chuông báo tin, dù giữa trưa hè oi bức hay giữa đêm khuya rả rích mưa dầm, mọi người đều luôn luôn sẵn sàng bốc vác xi măng, sắt thép. Suốt hơn hai mươi năm, cuối cùng ngôi thánh đường mới đã thành hình và ngày 24.10.1996, Đức Giám mục giáo phận Vinh đã dâng thánh lễ đồng tế cùng với 40 linh mục trong giáo phận khánh thành thánh đường giáo xứ Kẻ Mui.

Cùng với ngôi thánh đường mới, quang cảnh nhà xứ cũng đã trở nên tươi sáng hơn. Các dãy nhà được tu sửa lại để người giáo dân từ các họ đạo xa về vào những dịp lễ lớn có chỗ trú chân. Sự dời dân về quần tụ chung quanh nhà thờ cũng được chính quyền địa phương hỗ trợ.

Giáo xứ Kẻ Mui những năm gần đây còn có thêm nhiều khởi sắc khác, nhất là từ khi linh mục Phan Duy Thông được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ từ cuối năm 1990. Ngài quan tâm nhiều đến vấn đề giáo dục, luôn động viên và khích lệ con em trong giáo xứ đi học. Từ một giáo xứ mà xưa nay chưa có một giáo dân nào có được một tấm bằng Cử nhân thì nay đã có 25 em đang theo học các trường Đại học trong cả nước.

Mới đây được sự giúp đỡ, linh mục chánh xứ đã cho xây dựng ở địa bàn giáo họ Yên Hòa (vùng chài lưới) một ngôi trường học mới tạo điều kiện xóa mù chữ cho con em trong khu vực. Mùa hè vừa qua, giáo xứ còn tổ chức các lớp Anh văn hoàn toàn miễn phí với khoảng 100 em theo học. Ngoài ra còn có các lớp học đàn, học nhạc.

Có thể nói được giáo xứ Kẻ Mui đã có được nhiều nét đẹp trong những năm gần đây”.

Ngày nay Kẻ Mui nằm trong địa bàn xã Thông Trung, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Có tên từ 1676. Năm 1905 chính thức thành xứ, tách từ Đông Tràng.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.342

Năm 1996: 6.847

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Mui               

- Nhà thờ: 14x50m (1996)

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 773 (1996)

2. Họ Tịnh Di

- Nhà thờ: 9x29m

- Quan thầy: Đức Mẹ Truyền Tin

- Số giáo dân: 398 (1996)

3. Họ Yên Quát

- Nhà thờ: 8x20m

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 705 (1996)

4. Họ Trang Mỹ (Kẻ Mõ)                   

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 303 (1996)

5. Họ Kim Cương

- Nhà thờ: 7x15m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 884 (1996)

6. Họ Tân Thành (Đồng Đều)

- Nhà thờ: 7x20m

- Quan thầy: Thánh Anna

- Số giáo dân: 335 (1996)

7. Họ Đức Vọng

- Nhà thờ: 5,5x10m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 945 (1996)

8. Họ Hà Tân              

- Nhà thờ: 5x7m

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 182 (1996)

9. Họ Yên Hòa

- Nhà thờ: 10x25m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.142 (1996)

10. Họ Khe Sắn

- Nhà thờ: 9x25m

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 1.230 (1996)

Ngoài ra các họ: Vạn Nẫm và Phố Châu không còn?

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hướng                       1905 - 1909

2.      Linh mục Vĩnh                          1911 - 1913

3.      Linh mục Đông                         1913 - 1918                   

4.      Linh mục Khang                        1918 - 1921       

5.      Linh mục Giảm                          1921 - 1929

6.      Linh mục Dũ                             1929 - 1936

7.      Linh mục Lễ                              1936 - 1938

8.      Linh mục Báu                           1938 - 1943

9.      Linh mục Đề I                          1944 - 1951

10.  Linh mục Khang II                    1951 - 1953

11.  Linh mục Tính        phụ trách    1953

12.  Linh mục Khang II                    1954 - 1956

13.  Linh mục Lĩnh                          1956 - 1994

14.  Linh mục Thông                        1994 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Phúc, sinh 1874, quê Kẻ Mui, thụ phong 1909, qua đời 1947 tại Điên Yên

2.      Linh mục Phêrô Cần, quê Kẻ Mui, thụ phong 1823

3.      Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Yên, sinh 1836, quê Kẻ Mui, thụ phong 1875, qua đời 1906 tại Bảo Nham

4.      Linh mục Inhaxiô Bùi Quang Diệm, sinh 1921, quê Kẻ Mui, thụ phong 1951, dòng Chúa Cứu Thế, Sàigòn

5.      Linh mục Gioan Hồ Hán Thanh, sinh 1930, quê Kẻ Mui, thụ phong 1966, giáo phận Buôn Mê Thuột

6.      Linh mục Phêrô Bùi Văn Huyên, sinh 1932, quê Kẻ Mui, thụ phong 1965

7.      Linh mục Gioan Baotixita Cát, sinh 1930, quê Kẻ Mui, thụ phong 1966, qua đời 1988 tại Phúc Lộc.

Số 116: KẺ PHỐ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Theo những gì tìm hiểu sơ khởi thì vùng này có những tên phố:

- Phố Su (xem số 153: Cây Sou nói sau).

- Phố Châu là tên của một họ giáo thuộc xứ Kẻ Mui trước đây nhưng nay không còn nữa.

- Phố Quát nguyên là tên của một khu phố, cũng là tên của một họ giáo thuộc xứ Kẻ Mui xưa nay nhưng không rõ diễn tiến thời cuộc thay đổi như thế nào mà hiện chỉ thấy còn lại Yên Quát, tên của một họ giáo thuộc xứ Kẻ Mui.

Như vậy phải chăng Phố Quát là tiền thân của Yên Quát thuộc giáo xứ Kẻ Mui nằm trong địa bàn xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 8x20m

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 705 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ:

1. Linh mục Phêrô Nguyễn Đăng Khoa, quê Phố Quát, xứ Kẻ Mui, Hương Sơn, Hà Tĩnh…

Số 117: DEA DÙ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Không rõ nguồn gốc như thế nào, nhưng theo chúng tôi Dea Dù là gốc hay tiền thân của Tịnh Di, tên của một xã thuộc tổng Hữu Bằng, huyện Hương Sơn[36] và là tên của một họ giáo thuộc xứ Kẻ Mui nằm trong địa bàn xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 9x22m

- Quan thầy: Đức Mẹ Truyền Tin

- Số giáo dân: 398 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 118: TAM SÃ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Tam Sã có thể là Tam Sa, Tam Đa.

Tam Đa hiện nằm trong địa bàn xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Văn Hạnh:

-  Thành lập: Năm 1973, tách từ giáo xứ Trại Lê

-  Số giáo dân: Năm 1945: 849

Năm 1996: 1.316

-  Các giáo họ:

1. Họ Tam Đa              

- Nhà thờ: 14x42m (1992)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 436

2. Họ Tân Hưng

- Nhà thờ: 11x32m (1996)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 489

3. Họ Hưng Long

- Nhà thờ: 12x24m

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 269

4. Họ Xuân Yên                      

- Nhà thờ: 10x23m (1995)

- Quan thầy: Thánh Anna

- Số giáo dân: 138

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Ngân                          1937 - 1953

2.      Linh mục Hiền                           1953 - 1956

3.      Linh mục Hợp                           1965 - 1975                   

4.      Linh mục Hướng                       phụ trách

5.      Linh mục Thư                            1994

6.      Linh mục Hoàng                        phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Trần An, quê Tam Đa, thụ phong 1930, qua đời 1963 tại Thổ Hoàng

2.      Linh mục Phêrô Trần Đình Báu, sinh 1901, quê Tam Đa, thụ phong 1934 qua đời 1988 tại Vạn Phần

3.      Linh mục Thi, ở Cộng Hòa Liên Bang Đức

4.      Linh mục Khánh

Số 119: KẺ THUONG

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Thuong đúng hơn là Kẻ Thượng.

Kẻ Thượng là cư dân của địa phương nơi có Chợ Thượng, cầu Chợ Thượng

Sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh - Văn hóa Tùng thư 1965, trang 78 liệt kê các tên chợ thuộc huyện La sơn, trong đó: “Chợ Thượng ở xã Việt Yên Thượng, thuộc huyện La Sơn. Mặt trước chợ có sông lớn, buôn bán rất sầm uất, các hàng, các hiệu liên tiếp san sát, là một chợ lớn ở vùng này”.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra của Viện nghiên cứu Hán Nôm, trang 102 - 103 ghi nhận huyện La Sơn, tỉnh Nghệ Tĩnh có: “Tổng An Việt có 15 xã, thôn: An Việt Thượng (thôn trường Xuân, thôn Thọ Kỳ, thôn Vĩnh Thái, vạn Phúc Trung, thôn Vĩnh Khánh, thôn Đại Dịch, thôn Vạn Phúc Đông, thôn An Hội), An Đồng, An Trung, An Thái (thôn Thiên Tôn, thôn An Phú), Kính Kỵ, Ngải Lăng, An Việt Hạ”.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1927 - 1938 định rõ vị trí cầu Chợ ThượngChợ Thượng nằm ở bờ Bắc sông La như sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh ghi nhận nói trên. Bên cạnh đó, bản đồ này cũng cho thấy các địa danh thuộc tổng An Việt Thượng mà sách Tên làng xã ghi nhận, nhưng phần lớn đã được đổi ra những tên tương tự, chẳng hạn: Thọ Ninh (Thọ Kỳ), Yên Phú (An Phú), Yên Thái (An Thái), Tràng Xuân (Trường Xuân), Văn Hội (An Hội), vạn Phúc Đồng (vạn Phúc Đông)… thuộc xã Việt Yên Thượng (An Việt Thượng) nằm ở phía Bắc sông La, giáp với Thịnh Quả (tổng Thịnh Cảo), Làng Cầu (xem số 103 nói trên). Sánh với bên kia sông La là Yên Đông (An Đông), Yên Trung (An Trung)… thuộc xã Việt Yên Hạ (An Việt Hạ).

Tóm lại, về mặt hành chánh An Việt Thượng (Việt Yên Thượng, Yên Thượng) là tên xã bao gồm Thọ Kỳ (Thọ Ninh), An Phú (Yên Phú), Chợ Thượng, cầu Chợ Thượng… Về mặt tôn giáo Kẻ Thượng đã được Thừa sai dòng Tên E. Ferreyra liệt kê là một trong số 90 xóm đạo thuộc phủ Đức Quang.

Như vậy, Kẻ Thượng chính là tiền thân của họ giáo Yên Thượng nằm trong lòng xã Đức Tân và là tiền thân của giáo xứ Thọ Kỳ tức Thọ Ninh bây giờ.

Cũng cần nói thêm, Thọ Ninh là nơi một thời đặt trụ sở Tòa Giám mục phó của địa phận Tây Đàng Ngoài. Cũng là nơi có mộ hai Giám mục thừa sai nằm trong nhà thờ cũ và đã tìm thấy đúng như thế khi đào rạn móng làm nhà thờ mới năm 1994. Thọ Ninh còn là quê hương của trên dưới 150 linh mục, tu sĩ nam nữ trong ngoài giáo phận.

Ngày nay Thọ Ninh nằm trong địa bàn xã Liên Minh (Đức Minh), huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Tên hồi 1676 là Kẻ Thượng, sang đầu thế kỷ XIX có tên là Thọ Kỳ, một trong 18 giáo xứ có mặt lúc thành lập giáo phận 1846. Đầu thế kỷ XX Thọ Kỳ đổi thành Thọ Ninh.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.859

Năm 1996: 2.800

-  Các giáo họ:

1. Họ Thọ Ninh           

- Nhà thờ: 16x47m (1995)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1.574 (1996)

2. Họ Yên Phú

- Nhà thờ: 14x35m (1992)

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 956 (1996)

3. Họ Yên Lĩnh

- Nhà thờ: 10x25m (1993)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 163 (1996)

4. Họ Yên Thượng                  

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 94 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Thánh Phêrô Hoàng Khanh   1840 - 1841

2.      Linh mục Khánh                        1878 - 1880

3.      Linh mục Dược                         1880 - 1889                   

4.      Linh mục Nguyên                      1889 - 1893       

5.      Linh mục Lý                              1893 - 1938

6.      Linh mục Uyển                          1938 - 1942

7.      Linh mục Paulô Nhiên               1942 - 1945

8.      Linh mục Antôn Thường           1945 - 1952

9.      Linh mục Gioan Đậu                 1952 - 1968

10.  Linh mục Giuse Hứa                 1968 - 1975

11.  Linh mục Gioan Luyện             1975 - 1994

12.  Linh mục Paulô Hoàng              1994 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Liêm

2.      Linh mục Thuần

3.      Linh mục Điều

4.      Linh mục Hòa

5.      Linh mục Phong

6.      Linh mục Nguyên

7.      Linh mục Khiêm

8.      Linh mục Trị

9.      Linh mục Đạt

10.  Linh mục Thiện

11.  Linh mục Tưởng

12.  Linh mục Nhơn

13.  Linh mục Nhiên

14.  Linh mục Lĩnh

15.  Linh mục Kính

16.  Linh mục Tính

17.  Linh mục Quì

18.  Linh mục Khang

19.  Linh mục Luận

20.  Linh mục Hiền

21.  Lm. Trần Thanh Ngoạn

22.  Linh mục Đình

23.  Linh mục Hanh

24.  Linh mục Sâm

25.  Linh mục Hóa

26.  Linh mục Trọng

27.  Linh mục Tạo

28.  Linh mục Sinh

29.  Linh mục Tạ

30.  Linh mục Minh

31.  Linh mục Kinh

32.  Linh mục Hợp

33.  Lm. Vương Đình Ái

34.  Lm. Vương Đình Bích

35.  Linh mục Lan

36.  Linh mục Tâm

37.  Linh mục Hải

38.  Lm. Vương Đình Tài

39.  Lm. Vương Đình Lâm

40.  Lm. Vương Đình Khởi

41.  Linh mục Toàn

42.  Linh mục Cường

43.  Lm. Nguyễn Đình Thục

44.  Linh mục Hoàn

45.  Linh mục Lệ

46.  Linh mục Cường

47.  Linh mục Anh

48.  Linh mục Lương

49.  Linh mục Minh

50.  Linh mục Truyền

51.  Linh mục Chỉnh

52.  Linh mục Định

53.  Linh mục Ngân

54.  Linh mục Hiền

55.  Linh mục Hùng

56.  Linh mục Huệ


Số 120: HA NHÀ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 121: HŎA HUIEN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hŏa Huien phải chăng là Hà Huyện hay Hòa Duyệt?

Năm 1701, tức 25 năm sau Thừa sai dòng Tên E. Ferreyra viết phúc trình này, Giám mục Đại diện Tông tòa Francois Gabriel Guisain (1665 - 1723) sai các thầy gỉng đến các nhà thờ thuộc các thừa sai dòng Tên phụ trách công bố cho giáo hữu biết sắc chỉ của Tòa Thánh về việc chia địa phận Nam Đàng Ngoài ra khỏi địa phận Ma Cao. Đồng thời tuyên bố: Đàng Ngoài không còn thuộc quyền giám mục Ma Cao mà thuộc quyền giám mục Đại diện Tông tòa, thấy ghi tên 30 nhà thờ của Nghệ An (lúc bấy giờ Nghệ An bao gồm cả Hà Tĩnh) trong đó có họ đạo Hà Huyện (Ha Huyên) này.

Số 122: LANG THŎŨ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Lang Thŏũ đọc được là Làng Thôông, đúng hơn là Làng Thông.

Làng Thông là cư dân địa phương thuộc huyện Nam Đàn, thuộc hữu ngạn sông La, trên cùng một dãy với Thọ Ninh, cách cầu Chợ Thương chừng 3 km về phía Tây.

Về tôn giáo, tại Làng Thông có họ giáo Làng Vực thuộc xứ Thọ Ninh nên ảnh hưởng tiếng địa phương vùng này và gọi là Làng Thôông. Dầu vậy, hiện chúng tôi chưa rõ họ giáo Làng Vực này nay được đổi thành tên gì hay đã sáp nhập vào họ giáo nào trong vùng.

Số 123: CÂU LIM

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 124: CÂU CÁÕ

Không có dấu Thánh Giá, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Câu Cáõ đọc được là Cầu Cóng, đúng hơn là Cầu Khóng.

Cầu Khóng là tên của một địa phương nơi có hòi Cầu Khón cũng là tên của một họ giáo nay có tên là họ Yên Đông thuộc xứ hạ Nghĩa Yên, huyện Đức Thọ.

Cầu Khóng là quê hương của Linh mục tử đạo Phêrô Đinh Ngọc Năng (cũng có tên Lê Đình Năng), sinh 1817 tại Cầu Khóng, làm mục vụ ở Kẻ Đông, Thanh Chương, Lương Sơn (Thạch Hà), bị bắt năm 1861 (ngày 03 tháng 5 âm lịch) tại xã Thược Dược, huyện Nghi Lộc, trảm quyết 16.11.1891, an táng tại Nghĩa Yên; Linh mục Lê Duy Lượng, Giáo sư Đại Chủng viện Vinh Thanh từ năm 2000 và nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ trong ngoài giáo phận.

Ngày nay Cầu Khóng đang là một họ giáo thuộc xứ hạt Nghĩa Yên, xã Đức Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 9x25m (1946)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 669 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (xem thêm số 126 nói sau)

Số 125: NGAY LÀNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa danh mang đúng tên này. Tuy nhiên, bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận ba địa danh nằm cạnh nhau, mang ý nghĩa tương tự như Làng Hạ, Làng Trung, Làng Chính thuộc xã Chính Trung. Ba nơi này hiện thuộc khu vực đường ray xa lửa Bắc Nam, cách Chợ Nướt, Làng Nước 1 km (xem thêm số 128 sẽ nói sau).

Về tôn giáo, Chính Trung đang là một họ giáo thuộc xứ Đông Cường nằm trong địa bàn xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 6 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 126: KẺ HA

Không có dấu Thánh Giá, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Kẻ Ha đúng hơn là Kẻ Hạ.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX ghi nhận tổng Việt Yên, huyện La Sơn có hai xã là An Việt ThượngAn Việt Hạ. An Việt Thượng như đã nói ở số 119: Kẻ Thượng. Riêng An Việt Hạ gồm: An Đồng, An Trung, An Thái (thôn Thiên Tôn, thôn An Phú), Kính Kỵ, Ngải Lăng.

Căn cứ theo bản đồ địa dư Đông Dương thì xã Việt Yên Hạ thuộc mạn Nam sông La và cũng bao gồm những xóm làng như thế nhưng đã được thay đổi tên gọi chút ít, chẳng hạn: Yên Đông (An Đồng), Yên Trung (An Trung) [Đức Yên], Yên Phú (An Phú), Cẩn Kỵ (Kính Kỵ), hói Cầu Khóng…

Về tôn giáo, tại vùng Việt Yên Hạ này đang có xứ hạt Nghĩa Yên. Hay nói cách khác, Kẻ Hạ là tiền thân của An Việt Hạ (Việt Yên Hạ) và là tiền thân của giáo xứ Nghĩa Yên hôm nay.

Cũng cần nói thêm, trong địa bàn xã An Việt Hạ (Việt Yên Hạ), nơi có giáo xứ Nghĩa Yên bây giờ, sách Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, trang 149 - 167 khi viết về linh mục Giuse Phước (1689 - 1732) cho biết thêm: Năm 1712, cuộc bắt đạo lan rộng nhanh chóng trong xứ Nghệ An, làng Ngai Lang (Ngải Lăng) thuộc xã An Việt Hạ, nơi Linh mục Gioan Phước đặt nhà xứ. Lúc bấy giờ làng Ngải Lăng này là một làng lương.

Ngày nay Nghĩa Yên đang là một xứ hạt nằm trong địa bàn xã Đức Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Nghệ An:

-  Thành lập: Tên hồi 1676 là Kẻ Hạ. Các thừa sai chọn làm sở hạt và cư ngụ tại đây. Năm 1943, thời thừa sai Lantrade và Linh mục Lý làm quản hạt, Nghĩa Yên chính thức tách khỏi Thọ Ninh lập xứ và trở thành trung tâm của giáo hạt.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.177

Năm 1996: 4.091

-  Các giáo họ:

1. Họ Yên Định           

- Nhà thờ: 12x35m (1936)

- Tước hiệu: Chúa Kitô Vua

- Quan thầy: Thiên Thần Bản Mệnh

- Số giáo dân: 753 (1996)

2. Họ Tân Định

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đa Minh

- Số giáo dân: 1.032 (1996)

3. Họ Yên Trung

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 650 (1996)

4. Họ Yên Đông                      

- Nhà thờ: 9x25m (1946)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 669 (1996)

5. Họ Yên Xá

- Nhà thờ: 11x30m (1993)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 636 (1996)

6. Họ Thượng Ích Ngoại

- Nhà thờ: 6x12m (1980)

- Quan thầy: Đức Mẹ Camêlô

- Số giáo dân: 236 (1996)

7. Họ Thượng Ích Nội

- Nhà thờ: 5x10m

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 81 (1996)

8. Họ Ngọc Lâm                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 11 (1996)

9. Họ Tường Vân

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 23 (1996)

·     Sở dòng MTG Nghĩa Yên:

- Đã khấn: 7

- Chưa khấn: 23


CÁC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VINH

các giám mục giáo phận Vinh, cac giam muc gp Vinh


-  Các linh mục quản hạt và quản xứ:

1.      Thừa sai J. Gallon Đức                   1848 - 1868

2.      Thừa sai A. Arsac Vọng                 1868 - 1886

3.      Thừa sai F. Frichot Thanh              1886 - 1898              

4.      Thừa sai P. Mỹ                                1898 - 1900  

5.      Thừa sai P. Báu                               1910 - 1925

6.      Thừa sai Martin Tín                        1925 - 1938

7.      Thừa sai M. Lantrade Lãng            1938 - 1945

8.      Lm. Giuse Vương Đình Ái             1945 - 1950

9.      Lm. Phanxicô Xaviê Sáng              1950 - 1952

10.  Linh mục Võ Bảng                         1952 - 1953

11.  Linh mục Antôn Ngọc                    1957 - 1966

12.  Lm. Pr Nguyễn Văn Huyền            1972 - 1975

13.  Linh mục P. Trần Đình Khang       1975 - 1982

14.  Lm. Phêrô Nguyễn Văn Đức          1982 - 1991

15.  Lm. Tôma Nguyễn Văn Cường      1991 …

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Đinh Ngọc Năng, sinh 1817 tại Cầu Khống (Yên Đông), tử đạo 16.11.1891, an táng tại Nghĩa Yên


2.      Linh mục Phúc

3.      Linh mục Bá

4.      Linh mục Quang

5.      Linh mục Hảo

6.      Linh mục Bích

7.      Linh mục Cát

8.      Linh mục Ân

9.      Linh mục Bân

10.  Linh mục Diệm

11.  Linh mục Thung

12.  Linh mục Tôn

13.  Linh mục Hiền

14.  Linh mục Hậu I

15.  Linh mục Tùy

16.  Linh mục Cường

17.  Lm. Đức Minh (Bính)

18.  Linh mục Lượng

19.  Linh mục Ninh

20.  Linh mục Lượng

21.  Linh mục Lê Huy Lượng

22.  Linh mục Tuệ

23.  Linh mục Cao

24.  Linh mục Thư

25.  Linh mục Đình

26.  Linh mục Hiến

27.  Linh mục Chương


Số 127: TRĂNG CAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 128: KẺ NƯỚT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Nướt tức Làng Nướt ngày nay.

Làng Nướt, họ Nướt trước trực thuộc xứ Đông Cường nhưng không rõ vì lý do gì mà nay không còn tên nữa. Có thể họ giáo này đã cùng với Làng Thị, Thôn Thị làm thành họ giáo lấy tên là Thôn Thị chăng? Bởi vì thực tế cũng như bản đồ Đông Dương ghi nhận Làng Nướt và Làng Thị chỉ cách nhau chưa đầy một cây số. Hay nói cách khác, Kẻ Nướt tức Làng Nướt là tiền thân của họ giáo Thôn Thị đang có hôm nay.

Ngày nay họ giáo Thôn Thị thuộc xứ Đông Cường nằm trong địa bàn xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 5 (1996) ?

- Các linh mục con cái giáo họ:

1. Linh mục Gioan Baotixita Trần Quang Minh, thụ phong 1941, từ trần tại xứ Vinh Hà, hạt Bình Giã, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Số 129: KẺ BẢO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Bảo hay Kẻ Bản phải chăng nay là Tri Bản nằm trong địa bàn xã Hòa Hải, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Ngàn Sâu:

-  Thành lập: Năm 1917, tách từ giáo xứ Thổ Hoàng.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 273

Năm 1996: 765

-  Các giáo họ:

1. Họ Tri Bản              

- Nhà thờ: 10x21m (1984)

- Quan thầy: Đức Mẹ Lên Trời

- Số giáo dân: 503 (1996)

2. Họ Thượng Thu

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 262 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Mỹ                              Thừa sai

2.      Linh mục Nghiêm                       Thừa sai

3.      Linh mục Thạc                            1917 - 1921

4.      Linh mục Tân                              1921 - 1930

5.      Linh mục Tính                            1930 - 1939

6.      Linh mục Mục                            1939 - 1946

7.      Linh mục Chân                           1948 - 1961

8.      Linh mục Đề                               1951 - 1956

9.      Linh mục An                               phụ trách

10.  Linh mục Bang                           phụ trách

11.  Linh mục Huy                             phụ trách

12.  Linh mục Hành                           phụ trách

13.  Linh mục Duyệt                          phụ trách

14.  Linh mục Dũ                               phụ trách

15.  Linh mục Phượng                      

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Hiếu, dòng Xitô Phước Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu)

2.      Linh mục Đình, dòng Xitô.

Số 130: BA DỀ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 131: THỔ HOĂNG

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Thổ Hoăng đúng hơn là Thổ Hoàng.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX cho biết Thổ Hoàng là tên của một xã cũng là tên của một vạn thuộc huyện Hương Sơn.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận vị trí Thổ Hoàng thuộc tả ngạn sông Ngàn Sâu, cách ngã ba Hói Rào họ Hòa Duyệt thuộc xứ Vĩnh Hội chừng 8 km.

Sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh trang 12, 25 cho biết, hồi thuộc Đời Nhà Minh huyện Hương Khê gọi là huyện Thổ Hoàng sau cho hợp với huyện Hương Sơn. Đến năm Tự Đức 21 (1868) trích ra cho thuộc vào phủ Thống Hạt.

Sách Sổ tay địa danh Việt Nam trang 632 ghi “Thổ Hoàng là làng thuộc tổng cùng tên ở huyện Hương Sơn, sau năm 1869, thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh”.

Về tôn giáo, Thổ Hoàng và Làng Truông được coi như là hai giáo xứ mẹ của vùng Ngàn Sâu. Thổ Hoàng là sinh quán của ba bậc vị vọng trong hàng giáo phẩm giáo phận Vinh:

1. Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng[37]

Vị Quan Lớn Dưới Triều Vua Tự Đức.

-   Sinh ngày 12.11.1839.

-   Năm 1852, nhập học Tiểu Chủng viện Xã Đoài.

-   Năm 1854, đi học trường Penang Malaysia.

-   Năm 1863, đi với Quan sứ An Nam sang Pháp và Tây Ban Nha rồi đến thành Roma Italia chầu Đức Giáo Hoàng Piô IX, Ngài ban cho một tượng vàng là hình Ngài.

-   Năm 1868 (02.8), thụ phong Linh mục.

-   Tháng 10 năm 1868, vào Kinh Đô Huế dạy học cho con Vua Tự Đức.

-   Năm 1889, lập giáo xứ Yên Hòa.

-   Năm 1909, qua đời tại giáo xứ Yên Hòa.

2. Đức Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức[38], cháu gọi  Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng nói trên bằng cậu ruột.

-   Sinh 24.6.1891.

-   Năm 1903, nhập học Tiểu Chủng viện Xã Đoài.

-   Năm 1908, nhập học Đại Chủng viện Xã Đoài và đổi tên thành Gioan Baotixita Trần Hữu Đức (hồi còn nhỏ có tên là Long).

-   Năm 1920, đi học trường Penang Malaysia.

-   Năm 1927, thụ phong Linh mục.

-   Năm 1951, tấn phong Giám mục tại Thanh Hóa.

-   Năm 1971, sau 20 năm làm Giám mục, ngài qua đời tại giáo xứ Xã Đoài.

3. Đức Giám mục Paulô Trần Đình Nhiên[39].

-   Sinh 10.10.1891 tại họ giáo Tân Lập.

-   Năm 1927, thụ phong Linh mục.

-   Năm 1963, tấn phong Giám mục Phó.

-   Năm 1969, qua đời tại họ giáo Bùi Ngọa, giáo xứ Xã Đoài.

Ngày nay Thổ Hoàng nằm trong địa bàn xã Phương Mỹ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Ngàn sâu:

-  Thành lập: Có tên trong phúc trình 1676 của Thừa sai dòng Tên E. Ferreyra. Năm 1865, chính thức thành xứ, tách từ Ngàn Sâu.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.985

Năm 1996: 2.055

-  Các giáo họ:

1. Họ Thổ Hoàng (Phương Trạch, họ trị sở)              

- Nhà thờ: 11x31m (1957)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 471 (1996)

2. Họ Thổ Vượng

- Nhà thờ: 6,5x16,5m

- Quan thầy: Thánh Paulô

- Số giáo dân: 436 (1996)

3. Họ Nam Lách

- Nhà thờ: 9x24m

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 302 (1996)

4. Họ Tân Lập             

- Nhà thờ: 8x22m (1920)

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 250 (1996)

5. Họ Tân Thành (Trại Bắc)

- Nhà thờ: 8x28m (1992)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 238 (1996)

6. Họ Thổ Mỹ

- Nhà thờ: 6x16m (1919)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 136 (1996)

7. Họ Phương Mộ

- Nhà thờ: 7,5x18m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 122 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hiếu                      1865 - 1876

2.      Linh mục Phan                      1876 - 1892

3.      Linh mục Hoành                   1892 - 1893                        

4.      Linh mục Tính                      1893 - 1903

5.      Linh mục Lân                       1903

6.      Linh mục Hiếu                      1903 - 1936

7.      Linh mục Phúc                      1936 - 1942

8.      Linh mục Bá                         1942 - 1952

9.      Linh mục An                         1952 - 1955

10.  Linh mục Bang                     1962

11.  Linh mục Thìn                     

12.  Linh mục Cẩn                      

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Đức Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, quê giáo họ Thổ Vượng, thụ phong 1927, tấn phong 1951, qua đời 1971.

2.      Đức Giám mục Paulô Nguyễn Đình Nhiên, quê giáo họ Tân Lập, thụ phong 1927, tấn phong 1963, qua đời 1969.

3.      Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng, quê giáo họ Phương Tân, thụ phong 1868, qua đời 1909 tại giáo xứ Yên Hòa.

4.      Linh mục Giuse Đường, quê giáo họ Phương Trạch, thụ phong 1921, qua đời 1968 tại Thượng Bình.

5.      Linh mục Gioan Baotixita Lưu, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1924, qua đời 1963 tại Gia Phổ.

6.      Linh mục Phêrô Hân, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1927, qua đời 1981 tại Vĩnh Hội.

7.      Linh mục Phêrô Hậu, quê giáo họ Phương Trạch, thụ phong 1932, qua đời 1989 tại giáo xứ Song Ngọc.

8.      Linh mục Giuse Hòa, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1934, qua đời 1969 tại giáo xứ Xã Đoài.

9.      Linh mục Antôn Thường, quê giáo họ Phương Trạch, thụ phong 1936, qua đời 1985 tại giáo xứ Cầu Rầm.

10.  Linh mục Phêrô Hạnh, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1940

11.  Linh mục Augustino Bài, quê giáo họ Phương Trạch, thụ phong 1944, qua đời 1977 tại giáo xứ Mỹ Hòa, Quảng Bình.

12.  Linh mục Giuse Luyện, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1952.

13.  Linh mục Phanxicô Hoàn, quê giáo họ Phương Trạch, thụ phong 1957, qua đời 1996 tại giáo xứ Cầm Trường.

14.  Linh mục Giuse Bá, quê giáo họ Thổ Hoàng, thụ phong 1965…

Số 132: TRAI CAY

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trai Cay đúng hơn là Trại Cày.

Trại Cày là cư dân địa phương nơi có Đồn Cày mà bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận đã có nhà thờ Công giáo (catholique). Vị trí Đồn cày này nằm ở phía Tây Đập Khoach, sánh với phía Đông đập này là Nam Huân.

Bên cạnh đó, theo lịch sử giáo phận thì Trại Cày là tên xưa của Nam Huân tức giáo xứ Tân Thành. Như vậy, Trại Cày là tiền thân của Nam Huân và là tiền thân của giáo xứ Tân Thành.

Ngày nay Tân Thành nằm trong địa bàn xã Nhân Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Tên hồi 1676 là Trại Cày. Năm 1936, chính thức thành xứ, tách từ Tràng Đình.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 509

Năm 1996: 2.436

-  Các giáo họ: Chỉ có duy nhất họ Tân Thành.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hạt                            1936 - 1942

2.      Linh mục Chức                         1942 - 1943

3.      Linh mục Quì        phụ trách     1943

4.      Linh mục Chất                          1943 - 1951

5.      Linh mục Hiền                          1951 - 1952

6.      Linh mục Bảo                           phụ trách

7.      Linh mục Thạch                        phụ trách

8.      Linh mục Từ                             phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 133: LĂM THAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Lăm Thao đúng hơn là Lâm Thao.

Sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh trang 61 nói đến trạm Lâm Thaolàng Lâm Thao, huyện Hương Khê.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Lâm Thao nằm hai bên tả hữu ngạn sông Ngàn Phố. Vị trí được mô tả cụ thể: từ ngã ba Linh Cảm tức ngã ba Tam Soa ngược dòng sông La lần lượt có các bến đò: Nướt, Đại Ngàn, Chợ Bộng, Lâm Thao, Phùng, cửa Rào tức họ Hòa Duyệt thuộc xứ Vĩnh Hội bây giờ.

Số 134: BÂU KÊ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bâu Kê đúng hơn là Bào Khê.

Sách La Sơn phu tử, tác giả Hoàng Xuân Hãn trang 48 cho biết núi Gia Hanh, Làng Gia Hanh có khi gọi là núi Bào Khê, làng Bào Khê.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 101 cho biết thôn Gia Hanh thuộc xã Bạt Trạc, tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, nay là huyện Can Lộc.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Bàn Khê (Bào Khê) thuộc phía Tây sông Nghèn, cách Tràng Đình chừng 500 mét về phía Bắc, cách Chợ Nhe, Chợ Cát 1 km phía Nam.

Ngoài ra, sổ tay địa danh Việt Nam còn ghi nhận một địa danh Bào Khê khác nguyên là tổng thuộc huyện Hương Sơn mà năm 1867 đời vua Tự Đức đổi là tổng Hương Khê, cho thuộc huyện Hương Khê mới lập gồm các tổng Hương Khê, Phương Diền, Chu Lễ, Phúc Lộc, Quì Hợp.

Theo chúng tôi, có lẽ Bào Khê ở huyện Can Lộc là đúng hơn vì phúc trình đang nói đến vùng này. Điều chưa rõ là Bào Khê nay được đổi thành tên gì, hiện tình Công giáo ở đó ra sao và có liên quan gì với các họ giáo của xứ Trành Đình gần đó hay không?

Số 135: BANG TRO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 136: VƯC MU

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này. Tuy nhiên, hiện có một giáo xứ mang tên tương tự là Thọ Vực nằm trong địa bàn xã Hà Linh, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu:

-  Thành lập: Năm 1937, tách từ giáo xứ Vạn Căn.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 394

Năm 1996: 735

-  Các giáo họ:

1. Họ Thọ Vực            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 385 (1996)

2. Họ Trại Trăm

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 189 (1996)

3. Họ Vĩnh Viễn

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 161 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Ân                         1937 - 1938

2.      Linh mục Mục                      1938 - 1939

3.      Linh mục Năm                      1939 - 1940                        

4.      Linh mục Triều                     1940 - 1945

5.      Linh mục Tạo                        1946 - 1951

6.      Linh mục Lưu                       1951 - 1953

7.      Linh mục Phác                     

8.      Linh mục Hân                       phụ trách

9.      Linh mục Duyệt                   

10.  Linh mục Thìn                     

11.  Linh mục Phượng                

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phanxicô Xaviê Chỉnh, quê giáo họ Thọ Vực, thụ phong 1951, qua đời 1974 tại Đại Chủng viện Vinh Thanh.

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Ngọc Tâm, ở Mỹ.

Số 137: VAN TÚC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Van Túc đúng hơn là Vạn Tác.

Theo lịch sử phát triển của giáo phận thì Vạn Tác được hiểu là tên của một vùng lớn bao gồm những giáo xứ tên tuổi nay vẫn còn như: Kẻ Mui, Kẻ Đọng và Đông Tràng. Sau khi tách Kẻ Mui và Kẻ Đọng, Vạn Tác chỉ còn lại một mình Đông Tràng. Cho nên, khi nói đến Vạn Tác người ta hiểu ngay là Đông Tràng và ngược lại. Vì theo tương truyền, tại đây tập trung một nhóm ngư dân gọi là Vạn Tác, về sau, năm 1868 làm nhà ở trên đất lấy tên là Đông Tràng và trở thành giáo xứ mẹ cho cả vùng này.

Về vị trí Đông Tràng, bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Đông Tràng, nơi có Chợ Choi nằm bên bờ Nam sông Ngàn Phố sánh với bên kia sông là Kẻ Nại, Chợ Gôi (Kẻ Gôi) (Xem số 66, 119 nói trên), cách ngã ba Linh Cảm chừng 2 km về phía Tây.

Đông Tràng còn là quê hương thầy giảng Phêrô Phê, cùng Tử đạo một lần với 22 vị của giáo phận Vinh có tên ở Tòa Thánh, nhưng chưa được phong chân phước.

Ngày nay Đông Tràng nằm trong địa bàn xã Sơn Châu, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩ Yên:

-  Thành lập: Có tên từ 1676 và là một trong 18 giáo xứ đầu tiên lúc thành lập giáo phận 1846.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.460

Năm 1996: 1.901

-  Các giáo họ:

1. Họ Đông Tràng (họ trị sở)              

- Nhà thờ: 14x50m (1995)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 1.053 (1996)

2. Họ Yên Bài

- Nhà thờ: 9x23m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 417 (1996)

3. Họ Phúc Nghĩa

- Nhà thờ: 9,7x20m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 380 (1996)

4. Họ Bình Hòa

- Nhà thờ: 8x20m

- Quan thầy: Đức Mẹ Đi Viếng

- Số giáo dân: 51 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Trí                         1879 - 1884

2.      Linh mục Tuyên                    1884 - 1885

3.      Linh mục Triêm                    1888                       

4.      Linh mục Quang                   1888 - 1925

5.      Linh mục Minh                     1926 - 1933

6.      Linh mục Diệm                     1935 - 1941

7.      Linh mục Đoài                      1941 - 1944

8.      Linh mục An                        

9.      Linh mục Kim                       1944 - 1949

10.  Linh mục Diệm II                 1949 - 1950

11.  Linh mục Ngọc                     1950 - 1957

12.  Linh mục Luyện                   1957 - 1975

13.  Linh mục Hứa                       1975 - 1979

14.  Linh mục Hạnh                     phụ trách

15.  Linh mục Thông                   phụ trách

16.  Linh mục Tùng                     1994

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phan

2.      Linh mục Miêng

3.      Linh mục Uyển

4.      Linh mục Năm

5.      Linh mục Paulô Cao Văn Luận

6.      Linh mục Phêrô Nguyễn Xuân Hán

7.      Linh mục Phêrô Nguyễn Xuân Hồng

8.      Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Học

9.      Linh mục Tâm

10.  Linh mục Phái

11.  Linh mục Hoàng

12.  Linh mục Hòa

13.  Linh mục Hậu

14.  Linh mục San

15.  Linh mục Kiên.

Số 138: VẠN SOŬ

Không có dấu Thánh Giá, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Vạn Soŭ đọc được là Vạn Sông phải chăng là Văn Giang nằm ở bờ Bắc sông Ngàn Phố, cách Linh Cảm chừng 3 km, cách Đông Tràng 2 km, Kẻ Nại, Chợ Gôi 1 km như bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận.

Theo chúng tôi Vạn Sông chính là Văn Giang, nhưng chưa rõ hiện tình Công giáo tại đây ra sao?

Số 139: HÀ ĐOŬ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hà Đoŭ đọc được là Hà Đông.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 hai lần ghi nhận vị trí Hà Đông thuộc tả ngạn sông Ngàn Sâu, vùng trung tâm thị trấn huyện Hương Khê. Sánh với bên kia sông là giáo xứ Ninh Cường và các họ Vạn Hương, Thượng Thạnh…

Như vậy, Hà Đông mà phúc trình muốn nói là tiền thân của hai họ giáo Hòa Nam, Hòa Trung và là tiền thân của giáo xứ Ninh Cường, trung tâm mục vụ của hạt Ngàn Sâu hôm nay.

Ngày ninh Ninh Cường đang là xứ hạt nằm trong địa bàn xã Gia Phổ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Tên từ hồi 1676 là Hà Đông. Năm 1916, tách khỏi Làng Truông lập xứ lấy tên là Ninh Cường.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.895

Năm 1996: 2.925

-  Các giáo họ:

1. Họ Ninh Cường (họ trị sở)             

- Nhà thờ: 13x45x25m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.157 (1996)

2. Họ Hòa Nam (Hòa Trung và Giang Nam)

- Nhà thờ: 8x15m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 704 (1996)

3. Họ An Hòa (Tân Hòa)

- Nhà thờ: 8x24m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 467 (1996)

4. Họ Gia Hương (Vạn Gia, Hòa Trung và Vạn Hương)

- Nhà thờ: 12x30m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 487 (1996)

5. Họ Thượng Thạnh

- Nhà thờ: 8x18m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 110 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Năm                      1916 - 1919

2.      Linh mục Thọ                       1919 - 1937

3.      Linh mục Lễ                         1937 - 1940

4.      Linh mục Kim                       1940 - 1944

5.      Linh mục Bang                     1944 - 1946

6.      Linh mục Dũ                         quản hạt từ 1946

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Hướng, quê họ Vạn Gia, thụ phong 1913, qua đời 1917 tại Đông Tràng

2.      Linh mục Gioan Baotixita Hiển, quê họ Vạn Hương, thụ phong 1919, qua đời 1935 tại Làng Truông

3.      Linh mục Gioan Baotixita Nhã, quê họ Hòa Trung, thụ phong 1919, qua đời 1943 tại Yên Giang

4.      Linh mục Gioan Baotixita Mục, quê họ Giang Nam, thụ phong 1920, qua đời 1950 tại Tri Bản

5.      Linh mục Paulô Tần, quê họ Giang Nam, thụ phong 1929, qua đời 1950 tại Tam Trang

6.      Linh mục Gioan Baotixita Diệm, quê họ Vạn Gia, thụ phong 1937, qua đời 1966 tại Tiếp Võ

7.      Linh mục Gioan Baotixita Hướng, quê họ Ninh Cường, thụ phong 1961, qua đời 1991 tại Trung Nghĩa

8.      Linh mục Gioan Baotixita Hành, quê họ Vạn Gia, thụ phong 1965

9.      Linh mục Gioan Baotixita Phượng, quê họ Ninh Cường, thụ phong 1994…

Số 140: TRANG BÔŬ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trang Bôŭ đọc được là Trang Bông.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên nay. Tuy nhiên, theo bản đồ địa dư Đông Dương 1935 có một vài địa danh mang tên na ná, chẳng hạn: Đồn Bông, Hạ Bồng, Thượng Bồng thuộc phía Tây sông Ngàn Sâu, miền rừng núi, giáp biên giới Việt Lào. Ngoài ra còn có Thôn Bồng cũng thuộc phía Tây sông Ngàn Sâu, sánh với bên kia sông là Chợ Nướt (Kẻ Nướt) như đã nói ở số 128.

Theo chúng tôi, có thể Thôn Bồng chính là biến thể của hai chữ Trang Bông hay nói cách khác, Trang Bông là tiền thân của Thôn Bồng. Điều chưa rõ là hiện tình Công giáo tại Thôn Bồng như thế nào và có liên hệ gì đến các họ giáo của xứ Đông Cường hay không?

Số 141: NHÀ DÀO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 142: NHÀ DOUC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 143: LAI TĂCH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Lai Tăch đúng hơn là Lại Thạch.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 102 ghi nhận Lại Thạch là tên tổng cũng là tên của một xã thuộc huyện La Sơn, nay là huyện Đức Thọ.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 cho biết vị trí làng Lại Thạch thuộc phía Tây sông Nghèn, Bắc giáp làng Nguyệt Ao, Đông giáp xứ Tràng Đình, Tây giáp với xứ Đông Cường.

Sổ tay địa danh Việt Nam trang 370 viết: Lại Thạch là tên tổng thuộc huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, sau đổi thuộc huyện Thiên Lộc, rồi huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, có các xã Lại Thạch, Nguyệt Ao, Hằng Nga… xã ở huyện Can Lộc, bên sông Minh (sông Nghèn).

Điều chưa rõ là Lại Thạch này có liên hệ gì với các họ giáo của Tràng Đình và Đông Cường hay không?

Số 144: KIÉT TĂCH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kiét Tăch đọc được là Kiết Tách.

Sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX cho biết Kiệt Thạch là tên của một xã thuộc tổng Độ Liêu, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận vị trí làng Kiệt Thạch thuộc phía Tây sông Nghèn, sát gần họ giáo Yên Mỹ, Tràng Đình, núi Sơn Huy. Cách Cự Lâm tức giáo xứ Kim Lâm chừng 500 mét về phía Đông; cách Bàn Khê (số 134 nói trên), xã Bạt Trạch thuộc tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc 1,5 km, Chợ Nhe 2 km về phía Nam; cách Lai Thạch (số 143 nói trên) 3 km phía Tây; cách làng Nguyệt Ao, quê hương của nhà địa lý lừng danh Nguyễn Thiếp 3 km phía Tây Bắc.

Sổ tay địa danh Việt Nam trang 349 viết: Kiệt Thạch là xã xưa của huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, nay là xã Thanh Lộc thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Như vậy, Kiệt Thạch mà phúc trình muốn nói chính là Kiệt Thạch mà bản đồ địa dư Đông Dương ghi nhận nay là xã Thanh Lộc. Về tôn giáo Kiệt Thạch là tiền thân của họ giáo Yên Mỹ và là tiền thân của giáo xứ Tràng Đình đang có hôm nay.

Ngày nay Tràng Đình nằm trong địa bàn xã Yên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Năm 1903, tách từ Trại Lê và Thọ Ninh (lúc này Thọ Ninh bao gồm Nghĩa Yên, Kẻ Tùng, Đông Cường, Tràng Đình…).

-  Số giáo dân: Năm 1945: 584

Năm 1996: 2.568

-  Các giáo họ:

1. Họ Tràng Đình (họ trị sở)              

- Nhà thờ: 12x40m (1990)

- Quan thầy: Thánh Têrêxa Hài Đồng

- Số giáo dân: 1.285 (1996)

2. Họ Yên Mỹ

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.091 (1996)

3. Họ Kim Long

- Nhà thờ: 10x15m (1995)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.570 (1996)

4. Họ Yên Cái

- Nhà thờ:

- Quan thầy:  

- Số giáo dân: 22 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Kiên                      1903 - 1913

2.      Linh mục Ân                         1913 - 1915

3.      Linh mục Khâm                    1915 - 1918

4.      Linh mục Bân                       1918 - 1920

5.      Linh mục Tâm                       1921 - 1924

6.      Linh mục Khang                   1924 - 1931

7.      Linh mục Cảnh                     1932 - 1939

8.      Linh mục Diệu                      1939 - 1948

9.      Linh mục Lữ                         1948 - 1951

10.  Linh mục Hiền I                   1952

11.  Linh mục Ngân                     1952 - 1964

12.  Linh mục Bảo                       phụ trách

13.  Linh mục Hành                     phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 145: LÀNG GIỮA

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 cho thấy trong vùng gần với Tràng Đình, Nam Huân (Trại Cày) có một số địa danh mang tên làng như Làng Cảnh, Làng Hò, Làng Mới…

Không rõ Làng Giữa có liên hệ gì với những địa danh vừa nêu hay không và hiện tình Công giáo tại đó ra sao?

Số 146: BẶT TẶC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Sách Tên làng xã Việt Nam, trang 101 có tên xã Bạt Trặc thuộc tổng Nga Khê, huyện Thiên Lộc.

Sổ tay địa danh Việt Nam trang 53 viết: “xã Bạt Trạc ở huyện Thiên Lộc, nay là xã Vĩnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh”.

Chưa rõ Bạt Trạc tức Vĩnh Lộc ngày nay liên hệ như thế nào với các giáo xứ, giáo họ trong vùng?

Số 147: KẺ CƯA

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Cưa có thể là Kẻ Cường, giáo xứ Đông Cường.

Đông Cường hiện nằm trong địa bàn xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc hạt Nghĩa Yên:

-  Thành lập: Tên hồi 1676 là Kẻ Cưa, Kẻ Cường. Năm 1923 chính thức thành xứ, tách từ Thọ Ninh.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 802

Năm 1996: 1.069

-  Các giáo họ:

1. Họ Đông Cường (họ trị sở)             

- Nhà thờ: 8x24m (1980)

- Quan thầy: Đức Mẹ Mân Côi

- Số giáo dân: 281 (1996)

2. Họ Cẩn Kỷ

- Nhà thờ: 7x20m (1898)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 329 (1996)

3. Họ Nhân Thi

- Nhà thờ: 5x16m (1900)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 189 (1996)

4. Họ Hòa Yên

- Nhà thờ: 5x15m (1993)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 103 (1996)

5. Họ Đồng Hòa

- Nhà thờ: 5x16m (1991)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 74 (1996)

6. Họ Bồng Sơn

- Nhà thờ: 4x10m (1900)

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 82 (1996)

7. Họ Thôn Thị

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 5 (1996)

8. Họ Chính Trung

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 6 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đạt                        1923 - 1924

2.      Linh mục Nghi                      1924 - 1927

3.      Linh mục Chính                    1927 - 1933

4.      Linh mục Ngân                     1933 - 1937

5.      Linh mục Giám                     1937 - 1943

6.      Linh mục Hạnh                     1943 - 1951

7.      Linh mục Lĩnh                      1951 - 1956

8.      Linh mục Khang                   phụ trách    

9.      Linh mục Đức                       phụ trách

10.  Linh mục Cường                  phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Nhàn, quê giáo họ Đông Cường, thụ phong 1940, qua đời năm 1996 tại Trang Cảnh

2.      Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Minh, quê giáo họ Chợ Nướt, thụ phong năm 1941, từ trần tại xứ Vinh Hà, hạt Bình Giã, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

3.      Linh mục Phêrô Thanh, quê giáo họ Đông Cường, thụ phong năm 1971…

Số 148: LÀNG TLƯỚC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Làng Tlước đọc được là Làng Trước.

Giáo xứ Làng Truông nằm trong địa bàn xã Gia Hương, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh có ba họ giáo Lạc Thượng, Lạc Trung, Lạc Hạ.

Theo chúng tôi, Làng Trước mà phúc trình muốn nói có thể là họ giáo Lạc Thượng hay nói đúng hơn Làng Trước là tiền thân của họ giáo Lạc Thượng:

- Nhà thờ: 13x36x11,5m

- Quan thầy: Thánh Antôn và Thánh Phêrô Khanh

- Số giáo dân: 881 (1996)

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)

Số 149: DÁI MOUC

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các Linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 150: NGÃ KẺ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận xóm Ngã Ba nằm giữa ngã ba sông Nghèn và sông Già thuộc huyện Can Lộc. Không rõ Ngã Kẻ phúc trình muốn nói và Ngã Ba này có liên hệ gì không?

Số 151: CHỢ DINH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này. Tuy nhiên, trong bản đồ địa dư Đông Dương có địa phương mang tên là San Dinh, gần với Nam Huân tức giáo xứ Tân Thành ở phía Bắc.

Chưa rõ Chợ Dinh với San Dinh này liên hệ với nhau như thế nào và hiện tình Công giáo tại đó ra sao?

Số 152: ỐC KÊ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Ốc Kê đúng hơn là Ốc Khê.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận ba địa danh có thể do biến thể của hai chữ Ốc Kê này là Đoài Khê, Thanh Khê, Ốc Nhiêu nằm gần nhau, thuộc vùng giữa Tràng Đình, Nam Huân (Tân Thành) và Trại Lê.


các giám mục Giáo phận Vinh, cac giam muc gp vinh

Ngoài ra, sách Đại Nam nhất thống chí Hà Tĩnh, trang 76 có cầu Ô Khê ở thôn Triều Đông, huyện La Sơn. Còn trong địa bàn xứ Tràng Lưu, hạt Ngàn Sâu có họ giáo mang tên Đô Khê.

Theo chúng tôi, có thể Ốc Kê là Đô Khê và nếu vậy thì Đô Khê tức Ốc Khê chính là tiền thân của giáo xứ Tràng Lưu cũng có tên là Kẻ Mắt thuộc địa bàn xã Lộc yên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1875, tác từ giáo xứ Làng Truông, có tên cũ là Kẻ Mắt.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.378

Năm 1996: 3.749

-  Các giáo họ:

1. Họ Tràng Lưu (họ trị sở)                

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 525 (1996)

2. Họ Giang Lĩnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 258 (1996)

3. Họ Hà Mầng

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Anna

- Số giáo dân: 373 (1996)

4. Họ Đồn Điền (Trại Buôi)

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Hoàng Khanh

- Số giáo dân: 417 (1996)

5. Họ Đồng Lưu

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 330 (1996)

6. Họ Tân Lộc

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 233 (1996)

7. Họ Đô Khê

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 260 (1996)

8. Họ Tràng Thị

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 168 (1996)

9. Họ Vĩnh Phúc

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 385 (1996)

10. Họ Tân Phương

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 478 (1996)

Ngoài ra ba họ Vĩnh Lộc, Tân Yên và Xóm Đông không còn

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Cẩm                      1872 - 1892

2.      Linh mục Chuyên                 1892 - 1901

3.      Linh mục An                         1902 - 1904

4.      Linh mục Chiểu                    1904 - 1907

5.      Linh mục Đình                     

6.      Linh mục Chấn                     1907 - 1913

7.      Linh mục Thưởng                 1913 - 1920

8.      Linh mục Thuận                    1920 - 1921

9.      Linh mục Bổn                       1921 - 1930

10.  Linh mục Đỉnh                      1930 - 1934

11.  Linh mục An                         1934 - 1942

12.  Linh mục Đông                     1942 - 1943

13.  Linh mục Giám                     1943 - 1945

14.  Linh mục Hoàn                     1945

15.  Linh mục Tạo                        1945 - 1946

16.  Linh mục Bảng                     1946 - 1951

17.  Linh mục Huề                       1951 - 1953

18.  Linh mục Bân                       1953 - 1956

19.  Linh mục Bang                     1956

20.  Linh mục Thái    phụ trách    1962

21.  Linh mục Quí                       

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Paulô Tri, quê giáo họ Kẻ Mắt, thụ phong năm 1890, qua đời năm 1943 tại Thịnh Lạc

2.      Linh mục Gioan Baotixita Phúc, quê giáo họ Kẻ Mắt, thụ phong năm 1915, qua đời năm 1956 tại Tiếp Võ

3.      Đức Giám mục Paulô Cao Đình Thuyên, quê giáo họ Tràng Lưu, thụ phong năm 1960, tấn phong năm 1992…

Số 153: CAY SOU

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Cay Sou đọc được là Cay Su, đúng hơn là Cây Sâu.

Cây Su hay Cây Sâu, nay gọi là Ngàn Sâu - tên gọi chung của một vùng rộng lớn thuộc miền rừng, cũng là tên của giáo hạt nằm trọn trong địa bàn huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

Làng Truông là tên của xứ mẹ, trung tâm cho cả vùng Hương Khê được nhắc tới nhiều trước và sau khi thành lập giáo phận 1846.

Làng Truông là nơi Linh mục Thánh Phêrô Hoàng Khanh bị bắt khi đang coi sóc giáo xứ này năm 1842.

Ngày nay Làng Truông nằm trong địa bàn xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu:

-  Thành lập: Làng Truông có tên từ hồi 1676. Có lúc gọi là Ngàn Sâu. Chính thức thành xứ năm 1865 khi chia thành Làng Truông và Thổ Hoàng.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.259

Năm 1996: 5.500

-  Các giáo họ:

1. Họ Làng Truông (họ trị sở)            

- Nhà thờ: 15,5x44m (1989)

- Quan thầy: Thánh Đa Minh

- Số giáo dân: 1.169 (1996)

2. Họ Cây Khế

- Nhà thờ: 10,2x27x10m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 458 (1996)

3. Họ Cây Thị

- Nhà thờ: 10x25x7m

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 406 (1996)

4. Họ Thịnh Lạc Thượng

- Nhà thờ: 13x36x11,5m

- Quan thầy: Thánh Antôn và Hoàng Khanh

- Số giáo dân: 811 (1996)

5. Họ Thịnh Lạc Trung

- Nhà thờ: 12x50x7m (1991)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 1.044 (1996)

6. Họ Thịnh Lạc Hạ

- Nhà thờ: 7x24m

- Quan thầy: Trái Tim Chúa Giêsu

- Số giáo dân: 510 (1996)

7. Họ Thuận Hội

- Nhà thờ: 8x18x6m

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 298 (1996)

8. Họ Vĩnh Phúc

- Nhà thờ: 12x38x13m

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 249 (1996)

9. Họ Trại Nại

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 257 (1996)

10. Họ Vạn Nguyên

- Nhà thờ: 5,8x22x5m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 304 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Trung                    1865 - 1884

2.      Linh mục Tri                         1889 - 1891

3.      Linh mục Ngữ                      1892 - 1894

4.      Linh mục Đông                     1934 - 1938

5.      Linh mục Kiều                      1938 - 1954

6.      Linh mục Dũ        phụ trách 1954 - 1955

7.      Linh mục Triều     phụ trách 1955 - 1960

8.      Linh mục Lợi                        1960 - 1954

9.      Linh mục Đạt                        1993

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Baotixita Cát, quê Thịnh Lạc, thụ phong 1872, qua đời 1888 tại Lộc Mỹ.

2.      Linh mục Gioan Baotixita Lộc, quê Thịnh Lạc, thụ phong 1876, qua đời 1893 tại Xã Đoài.

3.      Linh mục Gioan Baotixita Huệ, quê Cây Khế, thụ phong 1922, qua đời tại Thakhek, Lào.

4.      Linh mục Gioan Baotixita, quê, thụ phong, qua đời.

5.      Linh mục Gioan Tạo, quê Thịnh Lạc, thụ phong 1924, qua đời 1973 tại Vĩnh Hội.

6.      Linh mục Phanxicô Xaviê Khang, quê Vĩnh Phúc, thụ phong 1916, qua đời 1957 tại giáo xứ Giáp Hạ.

7.      Linh mục Phêrô Trương Bá Cần, sinh 1930, thụ phong 1958, hiện ở Sàigòn.

Số 154: ĐÀŎ XƠ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Đàŏ Xơ đọc được là Đồng Xơ.

Bản đồ địa dư Đông Dương 1935 ghi nhận Đông Xá nằm trong địa bàn huyện Can Lộc thuộc phía Đông sông Nghèn, gần đường Quốc lộ 1A, cách Tiếp Võ chừng 5 km về phía Tây Bắc, cách Cự Lâm (Kim Lâm) chừng 5 km về phía Tây Nam.

Ngoài ra, trong xứ Trại Lê, huyện Can Lộc có một họ giáo mang tên Đồng Bàn.

Không rõ Đồng Xơ, Đông Xá và Đồng Bàn có liên hệ gì với nhau hay không?


BÀI TÁM 
PHỦ HÀ HOA

Gồm hai huyện Kỳ Hoa và Thạch Hà:

I. HUYỆN KỲ HOA

Có 6 tổng, 173 xã, thôn, trang, phường, trại, giáp, tích, vạn:

1. Tổng Hoa Duệ có 20[40] xã, thôn: Hoa Duệ (thôn Quí Vinh, Triều Thượng, Hoa Hạch), Tam Lộng (thôn Kinh Nỗ, Bảo Ngập, Phú sơn, Thượng Lộng, Bảo Am), Vĩnh Lại, Thạch Lâu (thôn Đại Tăng, Bảo Lâu, Đồng Loan, Nà Trung), Hương Cần, Quan Duệ (thôn Ngô Xá, thôn…, Hương Duệ (thôn Hằng Hà, Vĩnh Lộc), vạn Hà Bi.

2. Tổng Vân Tản có 38 xã, thôn, giáp, phường: Vân Tản (thôn Giáp Luận, Hậu Côn, Hậu Thượng, Trường Ngoại, Trường Nội, Lạt Đông, Lạt Đoài, Cấm Đoài, An Lãng, giáp Hoa Khê, Mỹ Lộc, An Hậu, Lỗ Khê, Cấm Đông), Thạch Khê (thôn Cát Thiên, Nhân Lộc, Hoa Vinh, Hữu Quyền, Hoa Liễn, Hoa Lù, Na Trường, Mỹ Lộc), Kỳ La, Quyết Nhược (thôn An Toàn, An Xá, An Ốc, An Bình), Vân Phong (thôn Xá Hộ, Trường Ngoại, Ông Át), Nhược Thạch, Cẩm Bào, thôn Thiện Trị, trại Tuấn Nghĩa, Hoa Hương, Hải An, phường Trung Hòa, phường Giang Phải.

3. Tổng Thổ Ngõa có 14 xã, thôn, tích, trại, vạn: xã Thổ Ngõa (thôn Thổ Ngõa, Khả Luật, Vân Đồn, Thượng Lộc, Nước, Thượng Minh, Hạ Minh), Phường Hoàng (thôn Xuân Lộc, Hữu Lễ, An Thị, Cồn Mộc), Ngõa Cầu (thôn Lai Trung, Lai Lộc, Thượng Lộc).

4. Tổng Lạc Xuyên có 14 xã, thôn, tích, trại, vạn: xã Lạc Xuyên (thôn Đông, Lạc Hạ, Đan Châu, Trung, Cầu Thượng), Tư Dụng, Hóa Dục, Dư Lạc (thôn Đông Phù, Thượng Trung, Lại Lộc), tích Ly Hà, xã Nhượng Bạn, trại Văn Thai Nhự Cáy, vạn Trúc Võng.

5. Tổng Cấp Dẫn có 30 xã, thôn, vạn: Cấp Dẫn (thôn Yên Lạc, Tăng Phú, Hữu Lễ, Xuân Cẩm, Thạch Hoa, Như Nhật, Sơn Ổi, Dị Nậu (thôn Hoa Hạ, Hoàng Giang, Mạc Khê, Dạ Độ, Sơn Kinh, Hậu Độ, Hoài Liệt (thôn Phú Dẫn, Hương Sơn, Liệt Thượng, Liệt Hạ), Kỳ Nam (thôn Phú Thượng, Long Trì, Bảo Trung, Đông Hải, Trảo Nha, Đồng Trụ), trại Voi, trại Bào Trai, xã Suối Sa (thôn Cồn Sơn, Sạ Xá), Án Độ, Long Ngâm, trại Đồng Đồng.

6. Tổng Đỗ Chữ có 57 xã, trang, thôn, trại, phường, tích: Đỗ Chữ (thôn Sơn Luật, Long Phượng, Bà Đỗ, Long Ngâm, Sơn Triều, Phú Duyệt, Xuân Chử), Hà Trung (thôn Vĩnh Lộc, Văn Trường, Nhân Lý, Biểu Duệ, Đan Du, Chi La, Đại Đồng, Mỹ Lũ, Duy Suối, Hoa Hạ, Đồng Nai, Hà Trung), Phú Nghĩa (thôn Quyền Hành, An Hưng, Lạc Dị, Hưng Nhân), Hoằng Lễ (thôn Phúc Sơn, thôn Đào, thôn Vĩnh Lại, thôn Bến Đình, thôn Địa Phác, thôn Rào, thôn Đại Hào, thôn Phúc Lâm, thôn Con Bò, thôn Nhân Hòa, thôn Thầu Đầu), xã Bỉnh Lễ (thôn Thượng, thôn Điều, thôn Phác Môn, thôn Vĩnh Trung, thôn Hòa Luật, thôn Nhân Phác, thôn Vĩnh Ái), Hiệu Thuận, Xuân Điện, trang Eo Kênh, trang Vạn Tích, trang Yên Điền, trang Đồng Nghĩa, thôn Vạn Cảnh, phường Trung Hóa, phường Võng Nhi, trại Cấy Gạo, trại Vọng Liễu, sách Tăm, trại Bá Canh, xóm Long Hoa Long Thủy, phường Diên Tượng, tích Ngân Tượng, phường Trú Tượng.

Các thôn trang trong huyện phiêu biệt: thôn Bạo Tuyền, thôn Thì Hạ, trang Hội An, thôn Hải Khẩu.

II. HUYỆN THẠCH HÀ

Có 7 tổng, 54 xã, thôn, trang, sở, giáp, đội, vạn:

1. Tổng Thượng Nhất có 7 xã, đội, vạn: Tông Lỗ, Hà Hoàng, Hương Bạo, Ngụy Dương, Hoàng Cần, hai đội Cồn Cát và Phan Long, vạn Trúc Võng.

2. Tổng Thượng Nhị có 8 xã, sở: Trung Tiết, Đức Lâm, Đại Tiết, Phất Náo, Hoa Thư, Đại Mại, Đồng Môn, sở Đồn Điền.

3. Tổng Hạ Nhất có 9 xã, trang, giáp: Hoàng Hà, Bích Hội, thôn Nam thuộc xã Chỉ Châu, thôn Nguyễn Xá thuộc xã Chỉ Châu, Ngu Xá, trang Bàng Tuấn, Thủ Chỉ, giáp Trung Thủy.

4. Tổng Hạ Nhị có 7 xã, giáp, trang: Phong Phú, Hoa Mộc, giáp Thiên Lăng, Dương Luật, trang Đan Trản, Đạm Thủy, giáp Đình Côi.

5. Tổng Trung có 9 xã, vạn: Đan Chế, Đồng Lưu, vĩnh Lưu, Ngọc Điền, Phù Việt, Ngọc Lũy, Châu Lâm, Đan Hoạch, vạn Kỳ Xuyên.

6. Tổng Đông có 8 xã: Thái Hòa, Đông Bàn Thạch, Y Trụ, Việt Xuyên, Tiên Lương, Bạng Châu, Hoa Dũng, Đô Hành.

7. Tổng Đoài có 6 xã: Bàn thạch, Trải Nha, Dục Vật, Cổ Kênh, thôn Thượng Suối thuộc Suối Thạch, thôn Hạ Suối thuộc xã Suối Thạch.

Số 155: KẺ NGHÈN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hai chữ Kẻ Nghen (số 62) ở Phủ Anh Đô, tỉnh Nghệ An với Kẻ Nghèn (số 155) ở Phủ Hà Hoa, tỉnh Hà Tĩnh đang nói đây là hai xóm đạo hoàn toàn khác nhau: Kẻ Nghen chưa có nhà thờ và do các Linh mục thuộc Hội thừa sai Paris (Pháp) phụ trách, còn Kẻ Nghèn đã có nhà thờ đàng hoàng và do các Linh mục dòng Tên phụ trách.

Trong phần đất tỉnh Hà Tĩnh hiện có Cầu Nghèn dài …, thuộc Quốc lộ 1A, bắc ngang huyện lỵ hai huyện Can Lộc và Thạch Hà, cách thị xã Hà Tĩnh chừng 25 km.

Số 156: CON TLÓŬ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Con Tlóŭ đọc được là Cồn Trống.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 157: BÊN CHĂN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 158: TRAI VO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trai Vo đúng hơn là Trại Vó.

Chúng ta chưa biết địa phương này nằm ở đâu, bởi vì trong phúc trình có hai chữ làm chúng ta phải cân nhắc là Kẻ Vó, đượng khẳng định ở Thanh Hóa[41], nơi Linh mục E. Ferreyra viết phúc trình này dài 41 trang khổ giấy 19x30cm đề ngày mồng 3 tháng 10 năm 1676[42]. Còn Trai Vo đang nói đây phải chăng là Bãi Võ, Tiếp Võ?

Theo chúng tôi, Trai Vo này là Tiếp Võ, một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Nghĩa Yên, xã Thuận Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1914, tách từ giáo xứ Tràng Đình.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 529

Năm 1996: 1.513

-  Các giáo họ:

1. Họ Mẫu Tâm                      

- Nhà thờ: 12x35m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 1.202 (1996)

2. Họ Yên Thịnh

- Nhà thờ: 5x12m

- Quan thầy: Đức Mẹ Thăm Viếng

- Số giáo dân: 170 (1996)

3. Họ Yên Lạc

- Nhà thờ: 8x12m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 141 (1996)

Ngoài ra, các họ Ninh Võ và Phúc Lộc không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Phức                     1914 - 1915

2.      Linh mục Ân                         1915 - 1917

3.      Linh mục Bân                       1917 - 1918

4.      Linh mục Thung                   1918 - 1919

5.      Linh mục Ân II                     1919 - 1924

6.      Linh mục Nhiên                    1924 - 1926

7.      Linh mục Lạc                        1926 - 1933

8.      Linh mục Triều                     1933 - 1940

9.      Linh mục Phúc                      1940 - 1950

10.  Linh mục Diệm                     phụ trách

11.  Linh mục Huyên                  

12.  Linh mục Bảo

13.  Linh mục Từ

-  Các linh mục con cái giáo xứ: (?)

Số 159: TAM CHÁY

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa nhận diện được vì trong phúc trình (số 118) có tên Tam Sã thuộc phủ Đức Quang và tạm được nhận định là giáo xứ Tam Đa và ở đây là Tam Cháy, đã có nhà thờ đàng hoàng?

Số 160: HŎA ĐÀŎ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hŏa Đàŏ đọc được là Hòa Đồng.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 161: KẺ LÁ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên trong bảng danh sách “TLXVN”, trang 99 thấy có tên xã Kỳ La thuộc tổng Vân Tản; xã Chi La thuộc tổng Đỗ Chữ và đặc biệt thực tế xưa cũng như nay sông La là tên sông chính của tỉnh Hà Tĩnh… không biết có liên hệ gì không?

Số 162: TRAI RÔM RÔM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trai Rôm Rôm hay đúng hơn là Trại Rôm Rôm.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên trong bảng danh sách “TLXVN”, trang 99 thấy có tên Trại Đồng Đồng thuộc tổng Cấp Dẫn, huyện Kỳ Hoa, không biết có liên hệ gì không?

Theo chúng tôi, Trai Rôm Rôm, Trại Rôm Rôm chính là Trại Đồng Đồng và ngược lại. Điều không hiểu là hiện nay Trại Rôm Rôm hay Trại Đồng Đồng là địa phương nào trong Phủ Hà Hoa và hiện tình đạo Công giáo ở đó như thế nào?

Số 163: KẺ LOI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Loi có thể là Kẻ Lối?

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên ở vùng Can Lộc hiện nay có một chợ mang tên là Chợ Lối, gần Chợ Gát (số 195) thuộc giáo xứ Tam Đa sẽ nói sau.

Theo chúng tôi, Kẻ Lối là một địa phương nơi có chợ Lối bây giờ. Điều không hiểu là hiện tình Công giáo ở đó như thế nào?

Số 164: KẺ BÀNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa danh chính xác, nhưng thấy có những tên na ná như: Thạch Bằng, tên một xã thuộc huyện Thạch Hà; Chợ Vang, có tên trong sách ĐNNTC - HT, trang 80 và Hà Vàng, họ giáo thuộc giáo xứ Tân Hội, hạt Ngàn Sâu; Cát Vàng, hạt Ngàn Sâu?

Theo chúng tôi, Kẻ Vang là đúng hơn cả và nếu vậy thì hiện nay Kẻ Vang, Kẻ Bàng đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu, xã Hương Điền, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1938, tách từ giáo xứ Thổ Hoàng.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 637

Năm 1996: 641

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Vang            

- Nhà thờ: 8,5x23,5m (1940)

- Quan thầy: Thánh Micae

- Số giáo dân: 412 (1996)

2. Họ Gia Phương

- Nhà thờ: 9x21m (1993)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 229 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Quì                        1938

2.      Linh mục Hiền                      1951           

3.      Linh mục Huy                       1951 - 1958

4.      Linh mục Bang                     phụ trách

5.      Linh mục Thìn                      phụ trách    

6.      Linh mục Cẩn                       phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Giuse Chân, quê giáo họ Kẻ vang, thụ phong 1916, qua đời 1966 tại họ Hiền Môn.

2.      Linh mục Phêrô, quê giáo họ Gia Phương, thụ phong 1923, qua đời 1956 tại giáo xứ Tri Bản.

3.      Linh mục Phêrô Huyên, quê giáo họ Kẻ Vang, thụ phong 1928, qua đời 1978 tại Yên Lĩnh.

4.      Linh mục Giuse Hứa, quê giáo họ Kẻ Vang, thụ phong 1963, qua đời 1979 tại giáo xứ Đông Tràng.

5.      Linh mục Phêrô Tập, quê giáo họ Kẻ Vang, thụ phong 1994.

Số 165: KẺ NÈN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 166: KẺ KHŎAI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Khŏai đọc được là Kẻ Khâu, đúng hơn là Kẻ Khẩu.

Kẻ Khẩu cũng có tên là Hải Khẩu[43] vì tại vùng Kỳ Anh hiện còn có một cửa biển mang tên là Cửa Khẩu. Nếu nói được vậy thì hiện nay, tại vùng này đang có một xứ đạo mang tên là giáo xứ Quí Hòa, thuộc địa bàn hạt Kỳ Anh, xã Kỳ Hà, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Tái thành lập năm 1863, tách từ giáo xứ Dũ Lộc.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.097

Năm 1996: 2.953

-  Các giáo họ:

1. Họ Quí Hòa             

- Nhà thờ: 16x45x14m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 2.195 (1996)

2. Họ Đồng Nại

- Nhà thờ: 13x30m

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 493 (1996)

3. Họ Yên Hòa

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 265 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Pháp                      1863 - 1866

2.      Linh mục Khánh                   1866 - 1876

3.      Linh mục Tuấn                      1876 - 1878

4.      Linh mục Yên                       1878 - 1885

5.      Linh mục Châu (thừa sai)     1890 - 1897

6.      Linh mục Nguyên                

7.      Linh mục Thành                   

8.      Linh mục Điểm                     1905 - 1913

9.      Linh mục Đình                     

10.  Linh mục Thường                

11.  Linh mục Xuân                     1917 - 1936

12.  Linh mục Lễ                         1936 - 1937

13.  Linh mục Phụng                   1938 - 1944

14.  Linh mục Đổng                     1944 - 1945

15.  Linh mục Lộc                      

16.  Linh mục Triều                    

17.  Linh mục Bá                        

18.  Linh mục Thái                       phụ trách    

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Hoàng Bảo, quê giáo họ Quí Hòa, thụ phong 1959.

Số 167: KẺ TRỂN

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên hiện nay tại vùng Can Lộc - Thạh Hà còn có Chợ Trển hay Chợ Trện (theo cách gọi của người địa phương vùng đó) mà sách ĐNNTC - HT nói “Chợ Trẹn ở làng Đông Bàn”. Ngoài ra, trong các họ giáo thuộc xứ Kẻ Đọng có một họ giáo mang tên Kẻ Trúa, không hiểu có liên hệ gì không?

Theo chúng tôi, Kẻ Trển là địa phương nơi có Chợ Trẹn, Chợ Trển, Chợ Trện, nhưng không hiểu hiện tình Công giáo ở đó như thế nào?

Số 168: HŎA THU

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra vị trí chính xác về xóm đạo này, chỉ biết rằng trong sách Tên làng xã Việt Nam, trang 99 có Hoa Thư, là tên của một xã thuộc tổng Thượng Nhị, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Theo chúng tôi, Hoa Thu với Hoa Thư là một. Điều không hiểu hiện nay Hoa Thu, Hoa Thư là địa phương nào trong huyện Thạch Hà và hiện tình đạo Công giáo ở đó ra sao?

Số 169: AN NGHIÊN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

An Nghiên nay là giáo xứ An Nhiên.

Theo nhiều linh mục lớn tuổi thường hay gọi An Nhiên là Nhành Nhanh hay Kẻ Nhím, cụ thể trong trường hợp ba vị chưa được phong thánh là Gioan Bùi Cai, Phêrô Cao Hữu Hiền và Phêrô Phê thấy nói các ngài bị bắt ở họ giáo Nhành Nhanh, Kẻ Nhím[44]. Để dễ hiểu hơn, chúng ta lần lượt căn cứ theo hai cuốn sách nhan đề “Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt (1615-1773)” của Linh mục Tiến sĩ Đỗ Quang Chính và “Lịch Sử Giáo Phận Vinh (1846-1996)”, của Linh mục Trương Bá Cần để tìm hiểu thêm một vài đặc điểm của địa phương này:

·      Sách Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt:

- Trang 427: Năm 1701, trong văn thư công bố sắc lệnh của Tòa Thánh về việc phân chia địa phận Đàng Ngoài Việt Nam ra khỏi địa phận Macao Trung Quốc thấy nêu những tên (có lẽ còn thiếu vì lý do này hay lý do khác, các thầy giảng đã không thể đến được) như:

“… Xứ Nghệ An: Lang-eng, Dou-trac, Ke-hau, Ke-lo, Ben-lat, An-Nhien, Ki-lan, Ke-roc, Trang-mom, Nha-cao, Ke-nhac, Ke-do, Dou-van, An-ma, Ke-nghen, Ben-den, Tron-hue, Ha-huyen, Van-phan, Nga-ho, Bien-tac, Ke-hou, Chou-chua, Ben-loi, Lo-doi, Ke-dou, Ke-mui, Nui-trou, Trai-moi, Lang-phu, Ke-nui…”

- Trang 430: Năm 1707, Đức Giám mục Bourges đã kê khai chi tiết về địa điểm, nhà thờ, số bổn đạo do các giáo hữu chịu trách nhiệm coi sóc như:

Nghệ An có 4 cơ sở:

- Đông Thành           25 nhà thờ nhà nguyện    2.555 giáo dân

- Làng Einh [Enh]   30 nhà thờ nhà nguyện    2.636 giáo dân

- Kẻ Muy                  25 nhà thờ nhà nguyện    2.120 giáo dân

- An Nhiên                33 nhà thờ nhà nguyện    4.130 giáo dân

·      Sách Lịch sử giáo phận Vinh 1998:

- Trang 61: Trong phúc trình của Đức Giám mục Jean Denis Gauthier Ngô Gia Hậu chỉ nói đến Kẻ Nhím năm 1844 có 4.636 giáo dân và năm 1852 có 5.223 giáo dân mà không nói đến An Nhiên.

- Trang 69 - 71: Năm 1861, trong một vài nét tiểu sử của 22 vị tử đạo chưa được phong á thánh thấy nêu tên An Nhiên (Yên Nhiên), Nhành Nhanh (Kẻ Nhím), Kẻ Đông…

- Trang 97: Năm 1874, cũng chính Đức Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu đã tổng kết trong một bức thư đề ngày 7.12 về những thiệt hại của Công giáo địa phận lại không thấy có tên An Nhiên mà chỉ thấy Kẻ Nhím với 22 giáo họ, 3.800 giáo hữu, trong đó 1.000 giáo hữu bị đốt nhà, 6 giáo hữu bị tàn sát.

- Trang 28 - 45: Ngoài ra, trong phần tiểu sử các thừa sai Pháp ở Việt Nam và tiểu sử các Linh mục Việt Nam ở Nghệ - Tĩnh - Bình từ 1670 đến 1846 còn thấy nói đến một tên khác là Kẻ Nhiên (xem thêm số 171 nói sau)…

Ngày nay An Nhiên đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Văn Hạnh, xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Tên từ hồi 1676 là An Nhiên, nhưng mãi đến năm 1860 mới được tách ra từ Kẻ Nhím và lập thành giáo xứ.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.508

Năm 1996: 3.032

-   Các giáo họ: Trước đây, An Nhiên có thêm ba họ giáo là Văn Hạnh, Lộc Thủy và Xóm Nha. Sau khi họ giáo Lộc Thủy (tách ra 1914), họ giáo Văn Hạnh (tách ra 1939) và họ giáo Xóm Nha (tách ra 1993) nhập vào Văn Hạnh lấy tên là Hạnh Đức, An Nhiên chỉ còn lại duy nhấ một họ trị sở.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Phong                   1880 - 1885

2.      Linh mục Đoài                      1885 - 1889

3.      Linh mục Hiếu                      1889 - 1896

4.      Linh mục Ái                          1896 - 1913

5.      Linh mục Thành                    1913 - 1935

6.      Linh mục Diệm                     1935 - 1942

7.      Linh mục Phúc II                  1942 - 1952

8.      Linh mục Hiêng                    1952 - 1956

9.      Linh mục Trọng                    1956 - 1964

10.  Linh mục Tần     phụ trách    1964 - 1991

11.  Linh mục Đức    phụ trách    1991 - 1994

12.  Linh mục Triều  phụ trách    1994 - 2001

13.  Linh mục Tâm                       2001 - nay

-  Các linh mục con cái giáo xứ:


1.      Linh mục Cao

2.      Linh mục Linh

3.      Linh mục Thế

4.      Linh mục Bảo

5.      Linh mục Chuyên

6.      Linh mục Thung

7.      Linh mục Hiền

8.      Linh mục Hiên

9.      Linh mục Đề

10.  Linh mục Ninh

11.  Linh mục Võ Tá Khánh

12.  Linh mục Nguyễn Trọng Thể


 

Số 170: KẺ CỐT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 171: KẺ NHIÊN

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Tác giả sách Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1777 ghi ra như vậy. Tuy nhiên, đây phải là Kẻ Nhím nếu phân tích kỹ từng nét nguyên bản phúc trình. Có lẽ ở đây tác giả sách Dòng Tên trong xã hội Đại Việt đã căn cứ theo bản đô truyền giáo 1889 của Thừa sai Adrien Launay để ghi nhận địa danh này.

Kẻ Nhím là tên của một xóm đạo có đồng thời với An Nghiên - An Nhiên (số 169), Hòa Thắng - Kẻ Cường (số …), Kỳ Anh - Dinh Cầu (số …)… Kẻ Nhím cũng là tên của một vùng từ đó sinh ra các giáo xứ hiện nay như: Văn Hạnh, Lộc Thủy, Giáp Hạ, Trung Nghĩa, Hòa Thắng, Tĩnh Giang…

Ngày xưa, có khi thay vì Kẻ Nhím có người gọi là Nhành Nhanh. Chẳng hạn sách Sáu Ông Phúc Lộc Tử Vì Đạo 1910 nói đến họ Nhành Nhanh thuộc xứ Kẻ Nhím, nơi Linh mục Gioan Bùi Cai, quê giáo xứ Mành Sơ huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An làm chánh xứ; Linh mục Phêrô Cao Hữu Hiền, quê Quảng Bình làm phó xứ và Thầy Paulô Lịnh, quê xứ Trại Lê huyện Can Lộc làm thầy giảng. Tất cả bị bắt vì Đạo Chúa tháng 12 năm 1861, Tử đạo năm 1862 tại Quán Bàu, Nghệ An.

Trong thời các thừa sai hoạt động, Kẻ Nhím có khi được gọi theo tên huyện, huyện Thạch Hà (như báo cáo … ngày …), Văn Hạnh chỉ là một họ lẻ thuộc giáo xứ An Nhiên, nhưng được chọn làm trụ sở hạt (từ 1939). Các Thừa sai giữ chức quản hạt và cư ngụ tại đây thường xuyên. Các ngài đã xây dựng nhà thờ - nay vẫn còn y nguyên, nhà trụ sở hạt: hai lầu bằng gỗ - nay được thay thế bằng ngôi nhà mới (1990) do kỹ sư Nguyễn Văn Đức, người địa phương thiết kế dựa trên ngôi nhà này) và các dãy nhà phụ cận, nay cũng được thay thế bằng những ngôi nhà có qui mô hơn.

Sau năm 1945, các linh mục thừa sai không còn nữa, Văn Hạnh chỉ còn là nơi qua lại của các cha xứ chung quanh đến đây dân Thánh lễ. Năm 1950, Văn Hạnh chính thức tách khỏi An Nhiên lập xứ và là trung tâm của giáo hạt với hai họ là Văn Hạnh và Hạnh Tiến. Đến năm 1996, thời Linh mục Nguyễn Văn Đức, quê Mẫu Lâm quản hạt, Văn Hạnh đón nhận thêm họ giáo Hạnh Đức vốn nằm trong địa bàn xứ Văn Hạnh nhưng trực thuộc xứ An Nhiên.

Năm 2000, trong chương trình thành lập giáo phận mới Hà Tĩnh - Quảng Bình với kích thước: rộng 33 mét, sâu 66 mét, cao 40 mét do Sở Xây Dựng Hà Nội thiết kế đang trên đà thi công phần móng…

Thực tế, Giáp Hạ - An Nhiên - Lộc Thủy làm thành một tam giác mà Văn Hạnh là trung tâm.

·                                                                    Giáo xứ Văn Hạnh

-  Địa chỉ: Giáo xứ Văn Hạnh, xã Thạch Trung, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

-  Thành lập: Năm 1939, tách từ giáo xứ An Nhiên.

-  Các giáo họ:

1. Họ Văn Hạnh                      

- Nhà thờ: cũ 13,5x33m

- Quan thầy: Đức Thánh Micae

- Số giáo dân: 2.442 (1996)

2. Họ Hạnh Tiến

- Nhà thờ: 12x27m (1996)

- Quan thầy: Thánh Khanh

- Số giáo dân: 518 (1996)

3. Họ Hạnh Đức

- Nhà thờ: 22x12m (1995)

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 649 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hiêng                   

2.      Linh mục Phúc III               

3.      Linh mục Phan Văn Tần            1966 - 1993

4.      Linh mục Nguyễn Văn Đức      1993 - 1996

5.      Linh mục Đậu Đình Triều         1996 - nay

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Hanh, quê giáo họ Hạnh Đức

2.      Linh mục Cao, quê giáo họ Hạnh Đức

3.      Linh mục Hiên, quê giáo họ Hạnh Đức

4.      Linh mục Kính, quê giáo họ Văn Hạnh

5.      Linh mục Long, quê giáo họ Văn Hạnh

6.      Linh mục Paulô Nguyễn Văn Cừ, quê giáo họ Văn Hạnh, thụ phong 2000, hiện quản xứ Ninh Cường, hạt Ngàn Sâu.

·                                                                    Giáo xứ Giáp Hạ

Như đã nói trên, Kẻ Nhím là một vùng lớn gồm những giáo xứ ngày nay có tên tuổi như: Văn Hạnh, Giáp Hạ, Hòa Thắng, Tĩnh Giang… Tuy nhiên, theo lịch sử giáo phận thì Giáp Hạ là Kẻ Nhím và ngược lại Kẻ Nhím là Giáp Hạ. Điều này có thể đúng vì trú sở hồi đó thay đổi thường xuyên nên có thời đóng tại Giáp Hạ là chuyện thường tình vì trước khi chưa đắp đê ngăn mặn (khoảng năm 1950 - 1955) là một địa bàn thuận tiện cả đường thủy lẫn đường bộ dùng làm bàn đạp để giao lưu đến các địa điểm phụ cận trong vùng Kẻ Nhím.

Ngày nay tại Giáp Hạ có khuynh hướng muốn đổi và đã thực sự đổi tên này ra Chân Thành với lý do muốn đề cao hai vị Linh mục có công lớn trong việc hình thành và xây dựng giáo xứ thời sơ khai là: Linh mục Chân. Theo lịch sử giáo phận thì Linh mục Chân quản xứ từ năm 1933 đến năm 1941 (sau Linh mục Quì 1931 - 1933) và Linh mục Thành, không thấy tên trong danh sách các Linh mục quản xứ kế tiếp nhau có trong sách Album giáo phận.

Theo chúng tôi, việc làm này rất dễ gây tranh luận và xáo trộn chung cho giáo phận, bởi vì không những riêng Giáp Hạ mà còn trên 150 giáo xứ khác cũng có những lý do như thế và hơn thế nữa. Chẳng hạn, giáo xứ Thổ Hoàng có đến ba bậc vị vọng trong hàng giáo phẩm giáo phận là Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng, một vị Quan lớn dưới triều vua Tự Đức; Đức Giám mục tiên khởi giáo phận Gioan Baotixita Trần Hữu Đức; và Đức Giám mục Paulô Trần Đình Nhiên. Thử hỏi họ có thể lấy tên của ba vị đó làm thành tên cho giáo xứ mình được không?

Hoặc giáo xứ Phú Yên có ngôi thánh đường đẹp, xây bằng bê tông cốt sắt năm 1937, kiên cố đến nỗi bom B.52 của Mỹ trút xuống hồi 1968 phá sập hoàn toàn nhà xứ mà ngôi thánh đường này không hề sứt mẻ gì hết… Thử hỏi, giáo xứ Phú Yên có thể lấy tên hai vị Linh mục Kiến trúc sư Bùi Nhật Nghiệm và Linh mục chánh xứ Cao Hữu Hân để thay thế tên giáo xứ Phú Yên được không? Và vân vân…

Đó là chưa nói đến tính bề dày lịch sử của một địa phương vốn có tên là Kẻ Hạ, Kẻ Nhím với trên 325 tuổi, tức có trước năm 1676. Ngược lại, nếu là Chân Thành thì người ta chỉ hiểu nó mới được vài ba năm tuổi mà thôi. Rõ ràng là giá trị tính lịch sử không còn nữa.

Hiện Giáp Hạ đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Văn Hạnh, xã Thạch Trung, thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Giáp Hạ là một họ đạo theo truyền khẩu có từ lâu đời (có ý kiến cho là Kẻ Nhím ngày xưa). Dẫu sao họ đạo này trong một thời gian dài vốn trực thuộc giáo xứ Hòa Thắng, đến năm 1931 mới được tách ra lập thành giáo xứ.

-  Nhà thờ: cũ: 12x45m

-  Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

-  Số giáo dân: Năm 1945: 884

Năm 1996: 2.212

-  Các giáo họ:

1. Họ Giáp Hạ             

- Nhà thờ: 12x45m

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 2.131 (1996)

2. Họ Hoàng Yên (Chợ Mướp)

- Nhà thờ: 5x12m

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 81 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Quì                            1931 - 1933

2.      Linh mục Chân                          1933 - 1941

3.      Linh mục Khang I                     1941 - 1957

4.      Linh mục Chính                         1958 - 1962

5.      Linh mục Hướng                       1963

6.      Linh mục Ninh                          1964

7.      Linh mục Phan Văn Tần            phụ trách           

8.      Linh mục Nguyễn Văn Huyền 

9.      Linh mục Đậu Đình Triều         phụ trách           

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Khắc tự, quê Kẻ Nhím, thụ phong 1828.

2.      Linh mục Gioan Bùi Cai, quê Kẻ Nhím, thụ phong 1875, qua đời 1905 tại Kẻ Cường.

3.      Linh mục Augustino Nguyễn Trinh Phượng, dòng Phanxicô, Sàigòn.

Số 172: THINH BÓI

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Chưa biết chính xác ở đâu, nhưng hiện thấy ở hạt Văn Hạnh, về giáo xứ Trại Lê có tên họ giáo Thịnh Lạc; về giáo xứ Vĩnh Phước có tên họ giáo Thịnh Đức… Không hiểu có liên hệ gì không?

Số 173: KẺ SỔ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Sổ phải chăng là Kẻ Sót và nếu là Kẻ Sót thì chúng tôi đã phân tích ở các số 75, 92, 93 và 94 rồi (xem thêm Lịch sử giáo phận Vinh 1996, trang 49, chú thích 59).

Số 174: TRAI ĐẤT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trai Đất đúng hơn là Trại Đất.

Trại Đất phải chăng nay là Trại Bắc, tên của một họ giáo thuộc xứ Thổ Hoàng thuộc hạt Ngàn Sâu, huyện Hương Khê. Tuy nhiên, xét theo vùng thấy không đúng vì phúc trình đang nói tới Phủ Hà Hoa, trong khi Trại Bắc thuộc Phủ Đức Quang.

Số 175: KẺ GÁC

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hai chữ Kẻ Gác có thể đọc được là Kẻ Các, Kẻ Cát, Kẻ Gát hay Chợ Gát (xem số 195 nói sau) hoặc Kẻ Gai - tên của một họ giáo thuộc giáo xứ Vạn Thành, hạt Văn Hạnh.

Theo chúng tôi, Kẻ Gác chính là Kẻ Gai và nếu vậy thì có thể nói Kẻ Gai, Kẻ Gác là tiền thân của giáo xứ Vạn Thành.

Ngày nay Vạn Thành đang là một giáo xứ thuộc địa bàn xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1925, tách từ giáo xứ Kẻ Đông.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 650

Năm 1996: 1.994

-  Các giáo họ:

1. Họ Vạn Thành                    

- Nhà thờ: 16x47m (1996)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 1.588 (1996)

2. Họ Kẻ Gai

- Nhà thờ: 8x15m (1984)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 154 (1996)

3. Họ Tân Yên             

- Nhà thờ: 10x18m (1993)

- Quan thầy: Trái Tim Đức Mẹ

- Số giáo dân: 94 (1996)

4. Họ Bến Đá

- Nhà thờ: 10x18m (1993)

- Quan thầy: Thánh Vũ Đang Khoa

- Số giáo dân: 158 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hoan                          1925 - 1936

2.      Linh mục Bảng                          1936 - 1939

3.      Linh mục Đông                         1939 - 1945

4.      Linh mục Thung                        1945 - 1952

5.      Linh mục Hợp                           1952 - 1956

6.      Linh mục Thanh                        1956 - 1978

7.      Linh mục Lượng                       1979 - 1988

8.      Linh mục Huyên                        1988 - nay

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Gioan Baotixita Lưu Duy Liên

2.      Linh mục Paulô Nguyễn Văn Huấn

3.      Linh mục Samuel Trương Đình Hòe.

Số 176: NHÀ LÁ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này, vì theo chúng tôi hồi đó toàn là nhà lá.

Số 177: KẺ NỦI

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Nủi là một làng xưa, nay vẫn còn y nguyên. Kẻ Nủi nằm gần Chợ Gát, gần các giáo xứ Trại Lê, Tam Đa…

Số 178: KẺ SÒ

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, ngoài một vài giáo điểm như số 94: Kẻ Sót, số 173: Kẻ Sổ…

Số 179: KẺ CUỒNG

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Kẻ Cuồng đúng hơn là Kẻ Cường, tên xưa của giáo xứ Hòa Thắng, hạt Văn Hạnh như tác giả Lịch sử giáo phận Vinh (1946-1996) ghi nhận ở trang 261: “Giáo xứ Hòa Thắng được thành lập năm 1880, tách từ Kẻ Nhím, có tên cũ là Kẻ Cường”.

Ngày nay Hòa Thắng đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Văn Hạnh, xã Thạch Tượng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1880, tách từ Kẻ Nhím (Giáp Hạ), có tên cũ là Kẻ Cường.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.786

Năm 1996: 3.328

-  Các giáo họ:

1. Họ Hòa Thắng (Kẻ Cường)            

- Nhà thờ: ? (1943)

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 1.336 (1996)

2. Họ Thủ Chỉ

- Nhà thờ: 9x25m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.122 (1996)

3. Họ Làng Khe                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 840 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Hoàng                        1880 - 1882

2.      Linh mục Quang                        1882

3.      Linh mục Cai                             1887 - 1905

4.      Linh mục Thận                          1905 - 1916

5.      Linh mục Hoan                          1916 - 1933

6.      Linh mục Đường                       1933 - 1936

7.      Linh mục Nhiên                         1936 - 1937

8.      Linh mục Hưu                           1937 - 1938

9.      Linh mục Lễ                             

10.  Linh mục Hiêng                         1940 - 1948

11.  Linh mục Lâm                           1948 - 1954

12.  Linh mục Hiển                           1955 - 1957

13.  Linh mục Trọng                         phụ trách

14.  Linh mục Diệm                          1958 - 1967

15.  Linh mục Trọng                         phụ trách

16.  Linh mục Hợp                          

17.  Linh mục Huyên                        phụ trách

18.  Linh mục Hóa                            1993

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Thu, quê giáo họ Thủ Chỉ, thụ phong 1892, qua đời 1902 tại quê hương.

2.      Linh mục Giuse Lý, quê giáo họ Thủ Chỉ, thụ phong 1918, qua đời 1956 tại quê hương.

3.      Linh mục Gioan Thuyên, quê giáo họ Thủ Chỉ, thụ phong 1918, qua đời 1945 tại giáo xứ La Nham.

4.      Linh mục Phêrô Triều, thụ phong 1940, ở miền Nam.

Số 180: KẺ BÁY

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 181: KẺ KHING

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 182: CHỢ BỨC

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện nay chưa tìm ra địa danh mang đúng tên này, tuy nhiên có hai nơi dễ gợi ý để tìm như:

- Về phương diện xã hội, thực tế xưa cũng như nay tại vùng này có chợ mang tên là Chợ Vực mà sách “ĐNNTC - HT”, trang 33 nói “Chợ Vực ở xã Mỹ Duệ, huyện Cẩm Xuyên”?

- Về phương diện tôn giáo, hiện trong hạt Ngàn Sâu có một giáo xứ mang tên na ná là Thọ Vực, không biết có liên hệ gì không?

Theo chúng tôi, Chợ Bức đang là nơi ngày nay có giáo xứ Thọ Vực thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu, xã Hà Linh, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1937, tách từ giáo xứ Vạn Căn.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 349

Năm 1996: 735

-  Các giáo họ:

1. Họ Thọ Vực            

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 385 (1996)

2. Họ Vĩnh Viễn

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 161 (1996)

3. Họ Trại Trăn                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 189 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Ân                             1937 - 1938

2.      Linh mục Mục                           1938 - 1939

3.      Linh mục Năm                           1939 - 1940

4.      Linh mục Triều                          1940 - 1945

5.      Linh mục Tạo                            1946 - 1951

6.      Linh mục Lưu                            1951 - 1953

7.      Linh mục Phác                          

8.      Linh mục Hân                            phụ trách

9.      Linh mục Duyệt                       

10.  Linh mục Thìn                          

11.  Linh mục Thượng                     

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phanxicô Xaviê Chỉnh, quê giáo họ Thọ Vực, thụ phong 1951, qua đời 1974 tại Đại Chủng viện Vinh - Thanh.

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Ngọc Tâm, ở Hoa Kỳ.

Số 183: KẺ MÙNG

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Đây là địa danh mang chữ “KẺ” chót thứ thì trong bản phúc trình.

Nói như vậy chúng tôi muốn lưu ý người đọc rằng, trong phúc trình có rất nhiều tên mang chữ “Kẻ” ở đầu. Có chữ chúng tôi đã tìm được và hiện liên hệ mật thiết với những nơi đã thành giáo xứ, giáo họ trong giáo phận Vinh. Tuy nhiên, số tìm ra được như vậy còn hạn chế, nhất là thời nay nhiều tên cũ đã được thay thế bằng tên mới mà xét về ý nghĩa không liên quan với nhau. Riêng ở Hà Tĩnh, có hai phủ là Phủ Đức Quang và Phủ Hà Hoa, nhất là Phủ Hà Hoa chỉ có 51 xóm đạo đã có đến 16 xóm đạo mang chữ “Kẻ” như: số 155: Kẻ Nghèn, số 161: Kẻ Lả, số 163: Kẻ Loi, số 164: Kẻ Bàng… và số 183: Kẻ Mùng đang nói đây.

Riêng hai chữ Kẻ Mùng xưa ấy, nay có lẽ là Hà Mưng, một giáo họ thuộc xứ Tràng Lưu và nếu đúng vậy thì Hà Mưng chính là tiền thân của giáo xứ Tràng Lưu cũng có tên là Kẻ Mắt. Chữ Kẻ Mắt này rất có giá trị để khẳng định niên tuế của giáo xứ Tràng Lưu, nhưng tiếc là hai chữ Kẻ Mắt không có tên trong phúc trình.

Ngày nay Tràng Lưu đang là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Ngàn Sâu, xã Lộc Yên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1875, tách từ giáo xứ Làng Truông.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.378

Năm 1996: 3.749

-  Các giáo họ:

1. Họ Tràng Lưu (Kẻ Mắt)                 

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Gioan Baotixita

- Số giáo dân: 525 (1996)

2. Họ Giang Lĩnh

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 258 (1996)

3. Họ Đông Lưu                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Đức Mẹ Dâng Mình

- Số giáo dân: 330 (1996)

4. Họ Hà Mầng           

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Anna

- Số giáo dân: 373 (1996)

5. Họ Tân Lộc

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Giuse

- Số giáo dân: 233 (1996)

6. Họ Đô Khê              

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 260 (1996)

7. Họ Đồn Điền           

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô Hoàng Khanh

- Số giáo dân: 417 (1996)

8. Họ Tràng Thị                      

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 168 (1996)

9. Họ Tân Phương

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 478 (1996)

10. Họ Vĩnh Phúc       

- Nhà thờ:

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 385 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Cẩm                           1872 - 1892

2.      Linh mục Chuyên                      1892 - 1901

3.      Linh mục An                             1902 - 1904

4.      Linh mục Chiểu                         1904 - 1907

5.      Linh mục Đình                         

6.      Linh mục Chấn                          1907 - 1913

7.      Linh mục Thưởng                      1913 - 1920

8.      Linh mục Thận                          1920 - 1921

9.      Linh mục Bổn                            1921 - 1930

10.  Linh mục Đỉnh                          1930 - 1934

11.  Linh mục An                             1934 - 1942

12.  Linh mục Đông                         1942 - 1943

13.  Linh mục Giám                          1943 - 1945

14.  Linh mục Hoàn                          1945

15.  Linh mục Tạo                            1945 - 1946

16.  Linh mục Bảng                          1946 - 1951

17.  Linh mục Huề                            1951 - 1953

18.  Linh mục Bân                            1953 - 1956

19.  Linh mục Bang                          1956

20.  Linh mục Thái      phụ trách      1962

21.  Linh mục Quí                              

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Paulô Tri, quê giáo họ Kẻ Mắt, thụ phong 1890, qua đời 1943 tại Thịnh Lạc.

2.      Linh mục Gioan Baotixita Phúc, quê giáo họ Kẻ Mắt, thụ phong 1915, qua đơi 1956 tại Tiếp Võ.

3.      Linh mục Paulô Cao Đình Thuyên, quê giáo họ Tràng Lưu, thụ phong 1960, tấn phong 1992, Giám mục giáo phận Vinh.

Số 184: TANG CHO

Với dấu Thánh Giá vẽ trước, phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo đã có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Số 185: CÂY LA

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên trong bảng danh sách Tên làng xã Việt Nam, trang 99 thấy có tên xã Chi La thuộc tổng Đỗ Chữ, huyện Kỳ Hoa? Ngoài ra, còn có những tên như:

- Sông La, sông chính của tỉnh Hà Tĩnh.

- …

Số 186: VAN XẾP

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trong phúc trình về Phủ Hà Hoa này có đến 5 giáo điểm với tên gọi mang chữ Van, Vàn ở đầu như: số 186: Van Xếp đang nói đây và số 187: Van Cảnh, số 188: Van Cao, số 190: Vàn Trô, số 193: Van Khi Xuênh sẽ nói sau. Không biết 5 giáo điểm này ngày xưa cũng như ngày nay có liên hệ gì với nhau không?

Số 187: VAN CẢNH

Không có dấu Thánh Giá, với phần chữ xiên gạch dưới, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục người Đàng Ngoài phụ trách.

Van Cảnh đúng hơn là Vạn Cảnh.

Trong bảng danh sách TLXVN, trang 99 thấy có tên Vạn Cảnh, thuộc tổng Đỗ Chữ, huyện Kỳ Hoa.

Trong các giáo xứ thuộc giáo phận Vinh hiện nay, ở hạt Văn Hạnh về giáo xứ Lộc Thủy thấy có tên họ giáo Đan Cảnh[45] nay được ghi nhận là không còn nữa.

Không biết Vạn Cảnh và Đan Cảnh có liên hệ với nhau như thế nào? Theo chúng tôi có lẽ hai nơi là một?

Tuy Vạn Cảnh, Đan Cảnh hiện nay không có tên trong các họ giáo của giáo xứ Lộc Thủy, nhưng dẫu sau Vạn Cảnh, Đan Cảnh cũng được coi là một trong những giáo điểm cổ xưa nhất góp phần hình thành nên giáo họ, giáo xứ Lộc Thủy hiện có hôm nay. Hay nói cách khác, Van Cảnh, Vạn Cảnh là tiền thân của Lộc Thủy, một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Văn Hạnh, xã Thạch Long, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1914, tách từ giáo xứ An Nhiên.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 2.310

Năm 1996: 3.851

-  Các giáo họ:

1. Họ Lộc Thủy                       

- Nhà thờ: 10x25m (1993)

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 2.177 (1996)

2. Họ Tân Lâm

- Nhà thờ: 10x25m (1993)

- Quan thầy: Sinh Nhật Đức Mẹ

- Số giáo dân: 676 (1996)

3. Họ Tiến Thủy                     

- Nhà thờ: 9x25m (1991)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 529 (1996)

4. Họ Thanh Thủy                  

- Nhà thờ: 12x34m (1996)

- Quan thầy: Thánh Antôn

- Số giáo dân: 496 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Lâm                           1907 - 1907

2.      Linh mục Nguyên                      1913

3.      Linh mục Nhơn                         1913 - 1916

4.      Linh mục Hồi                            1916 - 1922

5.      Linh mục Thiện                         1922 - 1928

6.      Linh mục Hiêng                         1928 - 1934

7.      Linh mục Hưu                           1934 - 1937

8.      Linh mục Hiển                           1937 - 1940

9.      Linh mục Lâm                           1940 - 1948

10.  Linh mục Phước                        1948 - 1952

11.  Linh mục Điều                           1952 - 1953

12.  Linh mục Thung                        1953

13.  Linh mục Tần                            phụ trách

14.  Linh mục Ái                             

15.  Linh mục Tần                            phụ trách

16.  Linh mục Đức                           phụ trách

17.  Linh mục Tần                            1993 - nay

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

Số 188: VAN CAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, nhưng theo chúng tôi rất có thể là một địa phương nào đó gần và có liên hệ mật thiết với địa phương Dinh Cầu tức Kỳ Anh nói sau.

Số 189: DINH CAO

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Dinh Cao sau trở thành Dinh Cầu, nơi một thời là trung tâm của tỉnh Nghệ An. Đến năm (?), đời vua (?) trung tâm này được dời ra xã An Tường, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Còn Dinh Cầu nay chính là huyện Kỳ Anh.

Dinh Cầu là địa điểm quan trọng thuộc địa bàn truyền giáo huyện Kỳ Hoa (Kỳ Anh), đồng thời cũng là cầu nối liền với vùng Bắc Bố Chính, tỉnh Quảng Bình - phía trong đèo Ngang giúp cho công việc truyền giáo của hai nơi được tiến hành một cách dễ dàng.

Sở dĩ nói Kỳ Anh là Dinh Cầu ay ngược lại là vì chính Dinh Cầu, một trong những giáo điểm cơ sở có tên trong bản phúc trình và hiện đang nằm trong vùng đất Kỳ Anh.

Ngày nay, Dinh Cầu tức giáo xứ Kỳ Anh đang là tên của một giáo xứ lớn, kỳ cựu, đồng thời là tên của giáo hạt thuộc địa bàn xã Kỳ Châu, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Tái thành lập năm 1937.

-  Số giáo dân: Năm 1943: 620

Năm 1996: 892

-  Các giáo họ:

1. Họ Dinh Cầu                       

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 792 (1996)

2. Họ Trại Cày

- Nhà thờ:

- Quan thầy:

- Số giáo dân: 100 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đức                           Thừa sai

2.      Linh mục Nam                           Thừa sai

3.      Linh mục Phước   Thừa sai       1891 - 1905

4.      Linh mục Châu     Thừa sai       1905 - 1921

5.      Linh mục Khanh  Thừa sai       1921 - 1922

6.      Linh mục Mỹ        Thừa sai       1922 - 1934

7.      Linh mục Bổn                            Thừa sai

8.      Linh mục Bảng II                      1945 - 1946

9.      Đức Giám mục Nguyễn Năng   1946 - 1952

10.  Linh mục Lộc       phụ trách      1959

11.  Linh mục Đổng                         1965

12.  Linh mục Triều                         

13.  Linh mục Bá                             

14.  Linh mục Thái                          

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Paulô Nguyễn Bá Triêm, quê giáo họ Dinh Cầu (Kỳ Anh), thụ phong 1871, qua đời 1891 tại giáo xứ Trang Nứa.

2.      Linh mục Phêrô Năng, quê giáo họ Dinh Cầu (Kỳ Anh), thụ phong 1885, qua đời 1913 tại Kẻ Tùng.

3.      Linh mục Phêrô Hoan, quê giáo họ Dinh Cầu (Kỳ Anh), thụ phong 1921, qua đời 1929 tại giáo xứ Quí Hòa.

4.      Linh mục Khoa.

5.      Linh mục A, Phanxicô.

6.      Linh mục Lê Đức Trung, giáo phận Phan Thiết.

7.      Linh mục Phổ, Phanxicô.

8.      Linh mục Gioan Ngư, quê giáo họ Quí Hòa, thụ phong 1891, qua đời 1894 tại giáo xứ Làng Truông.

Số 190: VÀN TRÔ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên hiện nay trong các họ giáo của giáo xứ Kim Lâm, hạt Nghĩa Yên có một họ giáo mang tên Văn Thọ và trong các họ giáo của giáo xứ Nhượng Bạn, hạt Văn Hạnh có một họ giáo mang tên Vạn Te… Không biết Văn Thọ và Vạn Te có liên hệ gì với Vàn Trô hay không?

Theo chúng tôi, rất có thể Vàn Trô chính là họ giáo Vạn Te của giáo xứ Nhượng Bạn, một giáo xứ thuộc vùng cửa biển Nhượng hiện có hôm nay. Muốn biết thêm về giáo xứ Nhượng Bạn xin xem thêm số 192: Cửa Sou nói sau.

Số 191: KẺ TRUM

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Trong các họ giáo của giáo xứ Kẻ Đọng, hạt Nghĩa Yên có một họ giáo mang tên là Kẻ Trúc, không hiểu Kẻ Trum trong phúc trình với Kẻ Trúc trong giáo xứ Kẻ Đọng có liên hệ gì không? Theo chúng tôi Kẻ Trúc chính là Kẻ Trum hay nói cách khác Kẻ Trum là tiền thân của Kẻ Trúc và là tiền thân của giáo xứ Kẻ Đọng đang có hôm nay.

Ngày nay Kẻ Đọng là một giáo xứ thuộc địa bàn hạt Nghĩa Yên, xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Năm 1918, tách từ giáo xứ Đông Tràng.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.565

Năm 1996: 2.418

-  Các giáo họ:

1. Họ Kẻ Đọng            

- Nhà thờ: 12x31x26m (1995)

- Quan thầy: Thánh Phanxicô Xaviê

- Số giáo dân: 1.740 (1996)

2. Họ Kẻ E

- Nhà thờ: 8x25m (1990)

- Quan thầy: Đức Mẹ Vô Nhiễm

- Số giáo dân: 561 (1996)

3. Họ Kẻ Trúa             

- Nhà thờ: 8x20m (1990)

- Quan thầy: Thánh Giuse Thợ

- Số giáo dân: 117 (1996)

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Đông                         1918 - 1935

2.      Linh mục Lễ                              1935 - 1936

3.      Linh mục Báu                            1936 - 1938

4.      Linh mục Hưu                           1938 - 1939

5.      Linh mục Bang                          1939 - 1944

6.      Linh mục Kim                           1944

7.      Linh mục Lĩnh                           1944 - 1951

8.      Linh mục Hạnh                          1951

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

1.      Linh mục Phêrô Lễ, quê giáo họ Kẻ E, thụ phong 1918, qua đời 1947 tại giáo xứ Lập Thạch.

2.      Linh mục Phanxicô Xaviê Quyền, quê giáo họ Kẻ E, thụ phong 1923, qua đời 1953 tại giáo xứ Xã Đoài.

3.      Linh mục Phêrô Đông, quê giáo họ Kẻ Đọng, thụ phong 1924, qua đời 1953 tại giáo xứ Gia Hòa.

Số 192: CỬA SOŬ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, nhưng nhờ có chữ “Cửa” mà chúng ta có thể ước đoán đây là một trong hai cửa biển còn lại của tỉnh Hà Tĩnh, thuộc phía Nam cửa Sót mà tên thường gọi là cửa Nhượng và cửa Khẩu. Cửa Khẩu như đã tạm nói sơ qua ở số 166: Kẻ Khẩu, còn cửa Nhượng theo sách ĐNNTC-HT trang 58 nói ở làng Nhượng bạn, phía Nam huyện Cẩm Xuyên. Tại đây hiện có giáo xứ Nhượng Bạn cũng có tên là Văn Hội thuộc địa bàn hạt Văn Hạnh, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh:

-  Thành lập: Cẩm Nhượng (Văn Hội) là một giáo xứ có từ lâu đời, được tách từ giáo xứ Kẻ Đông, không rõ năm nào.

-  Số giáo dân: Năm 1945: 1.588

Năm 1996: 1.983

-  Các giáo họ:

1. Họ Nhượng Bạn                  

- Nhà thờ: 10,5x37,5m

- Quan thầy: Thánh Phêrô

- Số giáo dân: 1.299 (1996)

2. Họ Song Yên (Hội Yên và Yên Giang)

- Nhà thờ: 11,5x18,5m

- Quan thầy: Đức Mẹ

- Số giáo dân: 191 (1996)

Ngoài ra, họ giáo Vạn Te… không còn.

-  Các linh mục quản xứ:

1.      Linh mục Khanh                        1870

2.      Linh mục Đức                           1876 - 1883

3.      Linh mục Ất                              1883 - 1887

4.      Linh mục Thông                        1887 - 1896

5.      Linh mục Năng                          1896 - 1901

6.      Linh mục Nhơn                         1901 - 1913

7.      Linh mục Lân                            1913 - 1919

8.      Linh mục Tân                            1919 - 1921

9.      Linh mục Khoa                          1921 - 1923

10.  Linh mục Thung                        1923 - 1931

11.  Linh mục Bường                       1931 - 1936

12.  Linh mục Đường                       1936 - 1943

13.  Linh mục Hoàn                          1943 - 1945

14.  Linh mục Giám                          1945 - 1946

15.  Linh mục Trung                         1946 - 1952

16.  Linh mục Lâm                           1952 - 1971

17.  Linh mục Bài                             phụ trách

18.  Linh mục Ninh                          phụ trách

19.  Linh mục Chất                           phụ trách

-  Các linh mục con cái giáo xứ:

Số 193: VAN KHI XUÊNH

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra địa phương mang đúng tên này, tuy nhiên trong sách TLXVN, sđd trang 99 về tổng Trung, huyện Thạch Hà có một địa phương mang tên là Vạn Kỳ Xuyên. Theo chúng tôi, Vạn Kỳ Xuyên chính là hậu thân của Van Khi Xuênh. Có điều không hiểu hiện nay Vạn Kỳ Xuyên, Vạn Khi Xuênh là địa phương nào trong huyện Thạch Hà và có vết tích gì về đạo Công giáo ở đó nữa hay không?

Số 194: TRANG LÔ

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Hiện chưa tìm ra chứng liệu liên quan đến địa phương này.

Số 195: CHỢ GÁT

Không có dấu Thánh Giá, chỉ có dấu Hoa Thị vẽ trên, biểu hiệu xóm đạo chưa có nhà thờ và do các linh mục dòng Tên phụ trách.

Chợ Gát ở gần Truông Bát, gần Chợ Gát có họ giáo Phương Mỹ thuộc xứ Trại Lê. Từ Chợ Gát có đường xuống Hà Tĩnh, đường đó qua Cầu Sông. Từ Chợ Gát đi theo đường lên Hương Sơn phải qua Làng Nủi (số 177).

Trong sách ĐNNTC - HT, trang 82 có nói đến CHợ Gát, mà người vùng Nghệ Tĩnh hay dùng lẫn lộn chữ Cát hay Gát.

Gần Chợ Gát có họ giáo Phương Mỹ thuộc xứ Trại Lê, quê hương Thầy giảng Paulô Lịnh (1818 - 1862). Thầy là nghĩa tử của Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Trúc, quê xứ Thuận Nghĩa, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cả hai cha con cùng bị bắt vì Đạo Chúa và bị giảo quyết cùng lúc ngày 11.7.1962 tại Quán Bàu, Nghệ An, thọ 24 tuổi, xác để tại Xã Đoài.

Ngày nay Phương Mỹ đang là một họ giáo thuộc giáo xứ Trại Lê, xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh:

- Nhà thờ: 13x35m (1997)

- Quan thầy giáo họ: Thánh Augustinô

- Số giáo dân: 855

- Các linh mục con cái giáo họ: (?)



[1] Ngay cả sách “Lịch Sử Giáo Phận Vinh”, 1998 của linh mục Trương Bá Cần viết sau chúng tôi mà cũng không nói đến bản phúc trình này.

[2] Chúng tôi đã gặp linh mục này 3, 4 lần hồi còn sinh thời nhưng nhớ một lần đầu năm 1997 được ngài trả lời một câu làm chúng tôi nếu không kiên tâm thì đã bỏ cuộc rồi. Ngài nói “Các anh không thực tế, biết bao nhiêu chuyện trước mắt hôm nay đáng làm và phải làm hơn những chuyện như thế! Các anh đem những chuyện đâu đâu mấy trăm năm về trước nói với thời đại này nào có ích lợi gì? Riêng tôi, gần 80 tuổi đầu đây cầm lấy tài liệu nói là bản phúc trình mà cũng không hiểu gì chứ đừng nói ai hết…”. Đó là chưa kể trước khi vào đề chúng tôi đã manh nha nói cho ngài biết trong đó có cả quê hương của ngài.

[3] “DTTXHĐV, ĐQC, tr. 367, chú thích 370.

[4] Con số 195 này là nói chung Nghệ An (bao gồm cả tỉnh Hà Tĩnh). Nếu tính thêm 30 giáo điểm của Bắc Bố Chính - cũng có vào thời đó và cũng được nói qua trong phần kết của bản phúc trình; mặc dầu không được kể rõ tên như ở Nghệ An. Như vậy tổng cộng tất cả là 225 giáo điểm vào thời 1676. Vậy mà theo Lịch Sử Giáo Phận Vinh, 2000 thì cả ba nơi Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình chỉ mới 142 giáo xứ chính có tên để được phân chia phiên thứ chầu lượt hằng năm.

Vậy thử hỏi sau 325 năm, việc truyền giáo của giáo phận tiến triển nhiều không?! Tuy nhiên cũng không thể dựa vào con số mà quyết đoán vì do phải trải qua ngần ấy năm trời, xảy ra bao nhiêu biến cố ly tán trầm trọng chẳng hạn như: bắt đạo, chiến tranh, di cư, thiên tai…

[5] Là nói theo cách chia địa lý trước Các Mạng Tháng Tám, năm 1945.

[6] Thực kê có 36 xã

1thêm Bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài, 1889, Adrien Launay.

[7] Những người này đã đóng góp phần lớn trong việc tái thiếu nhà thờ mới của giáo xứ Mành Sơn.

[8] Đại Nam Nhất Thống Chí - tỉnh Nghệ An, 1965, tr. 88

[9] Rất tiếc ngôi nhà thờ giáo họ Trường Cửu này đã bị đập bỏ năm 1999, dưới thời Linh mục … làm quản xứ, sau đổi ra Hoàng Mai - Yên Hòa.

[10] Hàng Giáo Sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, tr. 95, 96

1thêm A. Launay, Histoire de la Mission du Tonkin - Documents histoiriques, tr. 441 (xem STXHCRCT, ĐQC, tr. 410).

7 Xem một số hình ảnh giáo xứ Bảo Nham

8 Một số hình ảnh giáo xứ Bảo Nham

[11] Xem Album giáo phận Vinh, tr. 164

[12] Thực kê có 96 xã, thôn

1them Album GPV, tr.132

2them La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn, trang 45, 124, 126, 128. ở

3them LSGPV, 1996, CPV, trang 49 - 61 và LSGPV, 1998, TBC, trang 10 - 26

[13] Tiện đây, chúng tôi xin ghi một đính chính cần thiết về ngày Nhật Thực này bởi vì sách lịch sử giáo phận Vinh 1996, trang 51, chú thích 62 ghi: Khoảng 20.8.1629 sánh với ngày 25.8.1629 là ngày Nhật Thực. Còn ở chu thích 63 lại ghi: Năm đó có Nhật Thực vào ngày lễ thánh Louis Gonzague nhằm ngày 25.8.1629.

[14] Album giáo phận Vinh tr.57.

2them LSGPV, 1998, trang 239.

[15] LSVQĐN, chương 28, trang 148

[16] Truyện Sáu Ông Phúc Lộc, trang 1.

1them Les Missionnaires Francais au Tonkin et au Siam XVIIe-XVIIIe siècles, tập II Lịch sử Đàng Ngoài, Alain Forest, trang 160.

2them Nhật Ký Truyền Giáo Của Đàng Ngoài 1684 - 1685 (LSGPV, 1998).

3them Les Missionnaires Francais au Tonkin et au Siam XVIIe-XVIIIe siècles, tập II Lịch sử Đàng Ngoài, Alain Forest, trang 184.

4them Sđd trang 302.

5them Sđd trang 156, 158, 189, 219…

[17] LSGPV, CVP, 1996, tr. 282 - 284

[18] Adrien Launay, Tokin, tr. 201 (xem LSGPV, TBC, tr.45)

[19] Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, Néez, trang

[20] Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, Néez, trang 104 - 105

1them Les Missionnaires Francais au Tonkin et au Siam XVIIè-XVIIIè siècles, Alain Forest, trang 146.

[21] LSGPV 1996, CVP, tr. 94 - 96

[22] Truyện Sáu Ông Phúc Lộc Tử Vì Đạo 1910, tr. 233.

1them Sách Quarante deux ans sous le soleil de L’Indochine, Tiểu Chủng viện Thừa sai Abgrall Đoài

[23] LSGPV, TBC, tr. 231

[24] Bản đồ truyền giáo địa phận Nam Đàng Ngoài 1889, Adrien Launay

[25] Xin xem nhân vật Công giáo, tập một: giáo dân, tu sĩ, linh mục thế kỷ XVII, Lê Ngọc Bích, trang 141 - 143

[26] Hồi còn nhỏ 15 - 16 tuổi, tôi thường nghe bác Linh mục Cao Hữu Hân, nguyên cáhnh xứ Trung Nghĩa, Cương Gián, Cam Lâm, Gia Hòa trước năm 1931 nói đến hai chữ Tả Ao với tư cách là một nhà địa lý có tên tuổi của địa phương. Vì quá lâu, không nhớ rõ ngài nói những gì, ngoài việc ngài là nhà địa lý nổi tiếng rất được nhiều người kính trọng. Hầu hết mộ của các nhà giàu có và các quan lại trong vùng đều đến thỉnh ý của ông, trước khi xây cất. Bây giờ lớn lên, nghiên cứu bản phúc trình, tôi lại càng khâm phục. Bởi vì, tên tuổi ông, một con người không Công giáo đã trở thành tên của một họ đạo thuộc giáo xứ Gia Hòa hiện có hôm nay.

[27] Les Missions Jésuites au Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Thần học Đại học Công giáo Paris 1959, Linh mục Vũ Khánh Tường, bản đánh máy trang 368 – 369 (xem thêm LSGPV 1998, trang 24)

[28] Les Missionnaires au Tonkin et au Siam XVIIè - XVIIIè siècles, Alain Forest, trang 146

[29] Histoire de la Mission du Tonkin - Documents Historiques (1658 - 1757), Adrien Launay chương 3, trang 93

[30] Lịch sử giáo phận Vinh 1998, Trương Bá Cần, trang 37 - 38

[31] Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, trang 102

[32] Xứ Mỗ Vĩnh trước đây có họ giáo Hoàng Cầu mà nay không còn nữa. Có thể tác giả lẫn lộn giữa Hoàng Cầu này là Làng Cầu chăng?

[33] Histoire de la Mission du Tonkin – Documents Historiques (1658 - 1757), Adrien Launay, sđd tr. 201 (xem LSGPV 1998, tr. 45).

[34] STXHCRCT, ĐQC tr. 421, 422.

[35] Missions Catholiques 1875, tr. 319 (xem LSGPV 1998, tr. 97).

[36] TLXVN, tr. 101

[37] Xem thêm LSGPV, CVP, trang 397 - 402

[38] Xem thêm LSGPV, CVP, trang 125 - 134

[39] Xem thêm LSGPV, CVP, trang 144 - 145

[40] Thực kê có 19 xã, thôn

[41] Xem DTTXHĐV, ĐQC, tr. 389

[42] Sđd tr, 381

[43] TLXVN, trang 99

[44] LSCGPV, CVP, trang 238, 241

[45] LSGPV, TBC trang 99

Đi Tìm Xứ Đạo Đầu Tiên Giáo phận Vinh 1627 - 2003 : Phần Phúc trình Linh mục E. Ferreyra ngày 03 tháng 10 năm 1676

Đăng nhận xét

[blogger][facebook][disqus]

Author Name

{picture#https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr3JIeR3kk_h-xB5gPYp7rDm9RC56LumWJPjoTfBoC4n_mW0jWN9_5wSQzelzwE0nO_iVa7R2Cx5Orj04fxiIJnwcz7j0nwqkZoDbz-E7RdldZhQuxUP9bDt4ANZSunmKSXBvI6trFmZG7/s1600/Ch%25C6%25B0a+%25C4%2591%25E1%25BA%25B7t+t%25C3%25AAn-1.png} {facebook#https://www.facebook.com/giaoxulocthuygpvinh} {twitter#https://twitter.com/giaoxulocthuy} {youtube#https://www.youtube.com/@giaoxulocthuy}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.