PHẦN KHÁI QUÁT
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
TẠI NGHỆ AN - ĐẦU THẾ KỶ XVII
Những Cột Mốc Quan Trọng
Nói về giáo
phận Vinh, thông thường nhiều người chỉ nghĩ đến một cột mốc duy nhất là con số
1846, tức giai đoạn khoanh vùng quyết định để thành lập giáo phận Nam Đàng
Ngoài, sau đổi thành giáo phận Vinh, gồm hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Bắc Quảng
Bình.
Ranh giới này được Thừa sai Retord Liêu, Giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài ấn định và được Tòa Thánh Rôma chấp thuận để lập thành một giáo phận hoàn toàn mới. Trong đó vị Giám mục đầu tiên thuộc Hội thừa sai Paris Pháp có tên là Gauithier Ngô Gia Hậu làm Giám mục tiên khởi cùng 9 vị khác nối tiếp. Với cột mốc ấy, tiến đến nay giáo phận Vinh chỉ mới có 157 tuổi.
Cũng với cột
mốc ấy, đến năm 1924 các giáo phận Việt Nam đồng loạt đổi tên mới cho thích hợp
với tên gọi địa phương, chẳng hạn:
- Giáo
phận Tây Đàng Ngoài thành giáo phận Hà Nội
- Giáo
phận Đông Đàng Ngoài thành giáo phận Hải Phòng
- Giáo
phận Trung Đàng Ngoài thành giáo phận Bùi Chu
- Giáo
phận Bắc Đàng Ngoài thành giáo phận Bắc Ninh
- Giáo
phận
Nếu hiểu đơn
giản như vậy, giáo phận Vinh chỉ mới được 157 tuổi, chưa có giá trị gì trên mặt
bằng niên tuế đối với lịch sử và địa lý của người Công giáo vùng này sánh với
các vùng khác khắp toàn quốc. Vì thế, chúng tôi trưng dẫn ba cột mốc có giá trị
lịch sử cao đối với vùng đất này:
- Năm
1627: Thừa sai Jean Alexandre De Rhodes, thường gọi là Giáo sĩ Đắc Lộ đến
cửa Bạng (Thanh Hóa) nhằm ngày lễ kính Thánh Giuse 19.3.1627. Khoảng hai tuần lễ
sau, ngài đặt chân đến vùng đất cực Nam tỉnh Thanh Hóa là An Vực, Thôn No (Ke
No) và Van No nhìn sang cực Bắc tỉnh Nghệ An nơi có địa danh Vàng Mai tức Hoàng Mai.
Cột mốc 1627
và hai chữ Vàng Mai nằm trên bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ tuy đơn độc, không có một
chữ nghĩa nào giải thích làm cho bất cứ ai tìm hiểu lịch sử xứ đạo đầu tiên của
giáo phận Vinh nói chung và Nghệ An nói riêng phải đặt vấn đề.
- Năm 1629:
Nếu tính từ 1627 đến nay là 375 năm thì cột mốc thứ hai tiếp đó là năm
1629. Khoảng sau ngày 25 tháng 3 năm 1629, Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng buộc
phải trục xuất hai Thừa sai dòng Tên, trong đó có Giáo sĩ Đắc Lộ ra khỏi Đàng
Ngoài. Trên đường từ Thăng Long (Hà Nội) men theo các sông rạch và kênh đào qua
Nghệ An vào Bố Chính (Bắc Quảng Bình), nơi Giáo sĩ Đắc Lộ ghi nhận trên bản đồ
hai chữ Ke Hoa và nói thêm một số chi tiết không dài lắm trong hai cuốn sách Lịch
sử vương quốc Đàng Ngoài và Hành trình & truyền giáo của ngài. Dầu vậy,
cũng đủ để chứng minh sự hiện diện và hoạt động truyền giáo của ngài tại đó.
- Năm
1632: Sau khi hai Giáo sĩ Đắc Lộ và Pedro Marquez rời khỏi Nghệ An cuối
tháng 10 năm 1629, không rõ thừa sai nào là người đến tiếp nối công việc của
ngài tại đây. Chỉ biết rằng, đầu năm 1632 nghĩa là ba năm sau kể từ khi Giáo sĩ
Đắc Lộ rời bỏ vĩnh viễn phần đất này, theo bản điều trần của Thừa sai Gaspar
d’amaral thì ở Đàng Ngoài đã hình thành ba khu vực truyền giáo, trong đó Nghệ
An có: Rum, Kẻ Vĩnh, Thanh Chương, Làng
Cầu, Đậu Xá, Vàng Mai. Chứng tỏ những giáo điểm vừa nêu chính là thành quả
của Giáo sĩ Đắc Lộ. Cũng trong năm 1632 này, Linh mục dòng Tên Girolamo
Majorica đi từ Áo Môn (Ma Cao) đến Thăng Long (Hà Nội) rồi vào Nghệ An giảng đạo
và làm việc có tính qui mô tại đây.
- Năm
1647: Tức 20 năm sau kể từ khi Giáo sĩ Đắc Lộ đến Đàng Ngoài, một đoàn
thanh tri dòng Tên gồm các Thừa sai Cardoso, Girolamo Majorica, Jean Cabral đã
tới vùng này và cho những nhận xét khá chính xác về một số hoạt động tôn giáo tại
đây. Trên đường từ Thanh Hóa vào, phái đoàn đã tới Vàng Mai, Quêmangu, Rum,
Làng Cầu và khi trở về tới Quilam…
- Năm
1676: Trong thời gian Linh mục Girolamo Majorica hoạt động ở Nghệ An không
rõ ngài đã lập được những giáo điểm nào cho vùng đất này. Mãi đến năm 1676, tức
24 năm sau kể từ khi Linh mục G. Majorica rời bỏ vĩnh viễn Nghệ An, Linh mục
dòng Tên E. Ferreyra đã liệt kê được 195 giáo điểm thuộc vùng Nghệ An chưa kể
30 giáo điểm của Bắc Bố Chính cũng hiện diện vào thời đó. Như vậy, năm 1676 có
thể là năm chính thức khai sinh tập thể cho ba công trình: thứ nhất là Giáo sĩ
Đắc Lộ, thứ hai Linh mục G. Majorica, thứ ba tập thể Hội thừa sai Paris Pháp và
dòng Tên, trong đó có Linh mục E. Ferreyra.
Dưới đây,
chúng ta thử lần theo bước chân của Giáo sĩ Đắc Lộ, người có công khai phá đầu
tiên cho hoạt động truyền giáo tại giáo phận Vinh.
BÀI MỘT
BƯỚC THEO GIÁO SĨ ĐẮC LỘ
- Một Nét Tiểu Sử
Linh mục
Jean Alexandre De Rhodes, sinh ngày 15.3.1553 tại
- Năm
1612, vào tập viện dòng Tên ở Rôma, Italia.
- Năm
1618, thụ phong linh mục.
- Năm
1619, được sai đến truyền giáo tại thành
- Năm
1623, bị bệnh, chuyển qua truyền giáo ở Trung Quốc và cũng để chuẩn bị đi làm
việc ở Nhật Bản.
- Ngày
27.12.1624, được chuyển đến Đàng Trong, An Nam (Việt
- Tháng
7.1626, sau 18 tháng phục vụ, ngài được gọi ra làm việc ở Đàng Ngoài (Việt
- Ngày
12.3.1627, rời Ma Cao, Trung Quốc.
- Ngày
19.3.1627, ngài may mắn cập bến cửa Bạng tỉnh Thanh Hóa, mở đầu cho công việc
truyền bá đạo Chúa ở Đàng Ngoài.
- Trở
lại Đàng Trong từ tháng 12.1640 đến tháng 7.1641; tháng 01.1642 đến tháng
7.1643; tháng 3.1644 đến tháng 7.1645, ngài đến Nam Quảng Bình - ở Đồng Hới.
- Tháng
12.1645, ngài trở về châu Âu, đi truyền giáo ở
Tiện đây, chúng
tôi xin ghi lại công trình thiết lập “Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó” với 15 cây nến
lớn vào các ngày thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Tam Nhật Vượt Qua (Tuần Thánh).
Bản văn do Giáo sĩ Đắc Lộ trực tiếp dọn từ đầu, tuy với thời gian có sửa chữa
chút ít nhưng vẫn giữ được lối hành văn nguyên thủy các từ ngữ cổ thế kỷ XVII.
Riêng về cách thức ngắm đứng trọng thể là do sự ấn định của ngài. Chẳng hạn,
sau mỗi lần ngắm xong một thứ thì tắt một ngọn nến và lưu truyền suốt gần 400
năm nay trong toàn Giáo hội Công giáo Báo Trung Nam Việt Nam, cách riêng đối với
giáo phận Vinh. Mỗi lần Mùa Chay về, chúng ta nhớ nhắc nhau cầu nguyện cho
ngài.
Nhớ lại hồi
học chung ở Đại Chủng viện di cư Lê Bảo Tịnh 1956 - 1962, các chủng sinh của mỗi
giáo phận miền Bắc được chỉ định luân phiên… Khi ngắm xong, ra ngoài, các Giáo
sư và cả anh em chủng sinh đồng đánh giá các thầy Vinh ngắm hay hơn, cảm động
hơn, ngân nga dài ngắn đúng nhịp, đúng điệu, đúng nghĩa…
I. SỬ LIỆU QUÝ
Giáo sĩ Đắc
Lộ đến truyền giáo tại giáo phận Vinh (Nghệ - Tĩnh - Bình) là một biến cố lịch
sử, mọi người, mọi thời đều công nhận. Nhưng, thử hỏi ngài vào khi nào, mấy lần,
với tư cách nào, ở những nơi nào, nơi nào trước, nơi nào sau, thời gian bao lâu
và kết quả như thế nào? Sách Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, sách Hành Trình
& truyền giáo và bản đồ 1650 của ngài để lại có nhiều chỗ thật rõ ràng và
chi tiết về ngày giờ, nhân vật, vị trí địa lý, nhưng có những điểm khác hoàn
toàn vượt ra khỏi mọi dự đoán của chúng ta. Vì thế, để có thể trả lời những câu
hỏi nêu trên, chúng ta dựa vào một số nguồn bổ sung khác để làm sáng tỏ. Chẳng
hạn:
1. Sử Ký Hội Thánh Vắn Tắt
Trước khi
tìm hiểu những điều Giáo sĩ Đắc Lộ viết trong hai cuốn sách và ghi nhận trên bản
đồ 1650, chúng ta cùng tìm hiểu thêm Sử
ký vắn tắt thánh Ygheregia (Sử ký Hội thánh Công giáo) của một cố Linh mục
M. Fautrat Báu thuộc Hội thừa sai
Đặc biệt,
trong sách “Sử ký vắn tắt thánh Ygheregia” từ trang 113 đến 150, tác giả đã đề
cập đến việc Giáo sĩ Đắc Lộ giảng đạo tại Đàng Ngoài, nhất là từ trang 115 đến
117 liên quan đến ba thầy giảng người Đàng Ngoài đầu tiên có công giúp đỡ ngài
trong thời kỳ này:
“Thầy Alexander có ba thầy kẻ giảng rất sốt
sắng. Thầy thứ nhất tên là Phanchicô, trước làm thầy sư; thầy thứ hai tên là
Anrê là người Nghệ An; khi thầy Alexander đến Nghệ An, thì mời vào nhà mình và
xin người rửa tội cho 112 người bổn đạo ông ấy đã dạy sẵn. Từ bấy giờ ông ấy
theo các đấng và làm kẻ giảng, đến sau sang nước Lào giảng đạo một năm, đoạn trở
về; thầy thứ ba có tên là Inasu, cùng có lòng rất siêng năng đi tìm và dạy dỗ bổn
đạo mới…”.
Đoạn trích dẫn
trên cho thấy thầy Alexander tức linh mục Alexandre de Rhodes, thường gọi là
Giáo sĩ Đắc Lộ có ba thầy giảng: thầy thứ nhất là Phanxicô, trước là tu sĩ Phật giáo. Thầy thứ hai Inhaxu, đạo đức sốt sắng, nhiệt thành
tông đồ, nhưng không rõ hai thầy này quê quán ở đâu. Còn thầy thứ ba là Anrê, nói rõ là người Nghệ An. Chi tiết này giúp giải thích câu hỏi, ai là người đầu
tiên giảng đạo tạo Nghệ An? Dĩ nhiên, ai cũng cho rằng Giáo sĩ Đắc Lộ là người
đầu tiên truyền giáo tại Nghệ An vì trước năm 1627 lịch sử truyền giáo không thấy
nói đến vị thừa sai nào đã có mặt tại vùng đất này.
Tuy nhiên,
theo thiển ý trước khi Giáo sĩ Đắc Lộ đích thân đến Nghệ An thì đã có các con
cái gốc Nghệ An đệ tử của ngài nói cho người dân quê mình biết những điều cần
thiết về đạo Chúa. Cụ thể trong việc ban phép Rửa cho 112 tân tòng tại vùng Cửa
Sót năm 1629.
2. Sách Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615 - 1777
Trên đây là
một tài liệu quý trong đó liên quan đến ba thầy giảng đầu tiên của Giáo sĩ Đắc
Lộ tại Đàng Ngoài nhưng chưa thật rõ lắm. Chúng tôi còn tìm thấy một tài liệu
khác, sách Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615 - 1777 của Linh mục Tiến sĩ Đỗ
Quang Chính, liên quan đến bốn linh mục dòng Tên tại Đàng Ngoài bị chúa Thanh
Đô Vương Trịnh Tráng trục xuất về Áo Môi là: Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ),
linh mục Pedro Marques, linh mục Gaspar d’Amaral và linh mục Paulo Saito. Vì thế
các thừa sai này đã hối hả lập một nhóm tạm gọi là nhóm thầy giảng để chăm lo
giáo đoàn mới tại Đàng Ngoài chờ dịp trở lại của các ngài. Nhờ chi tiết này,
chúng ta biết thêm lý lịch, tên tuổi, quê quán, chức vụ, thời gian nhập đạo
cũng như quá trình hoạt động chức vụ thầy giảng mà cố Linh mục M. Fautrat Báu
đã nói ở trên. Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn và phân tích năm đoạn nhỏ viết
trong cuốn sách của tác giả Linh mục dòng Tên Đỗ Quang Chính:
- Đoạn
thứ nhất: Xác nhận tên tuổi và thêm một vài chi tiết về bối cảnh lập hội
thầy giảng nhân dịp phải chia tay một cách đột xuất:
“Bốn Giêusu hữu (Thừa sai Dòng Tên) phải rời
khỏi Đàng Ngoài”
Năm sáu ngày trước
khi tàu Bồ Đào Nha nhổ neo về Áo Môn, Trịnh Tráng đã ra lệnh cho bốn nhà thừa
sai phải lên tàu cùng về. Tin buồn loan ra, bổn đạo đổ xô đến nhà các cha khóc
lóc từ biệt và nhất là xưng tội, vì sợ không còn dịp nào khác, làm các cha mỗi
đêm chỉ nghỉ ngơi được một giờ.
Ai sẽ lo cho 5.602
tân tòng đây? - Các thầy giảng chăng? Oái ăm là có mấy gia đình tân tòng đang
muốn gả con cho các thầy, để các thầy dạy giáo lý cho con cháu họ cùng hàng xóm
láng giềng.
Một giải pháp tạm thời:
Kết hợp các thầy lại trong một tập thể có lời khấn “tu sĩ” đàng ngoài. Thật ra,
lúc ấy các cha chẳng có ý định lập một dòng tu; đàng khác nếu lập, thì cũng chẳng
có gì là chính thức, là hợp luật; vì dù sao thì cũng phải qua nhiều giai đoạn,
có Giám mục ở Áo Môn xem xét chấp nhận. Ý chính của các cha là “cầm chân” các
thầy lại, để họ phục vụ giáo đoàn non trẻ này cho đến khi có các Giêsu hữu trở
lại Đàng Ngoài, sau đó sẽ hay. Trong thực tế, lúc ấy chỉ có ba thầy kể từ khi
gia nhập Giáo hội, “đi ở nhà thầy ngay”, có nghĩa là sống chung trong nhà các
cha, trực tiếp giúp các cha trong việc dạy giáo lý, mục vụ. Ba thầy này đều là
ba nhà sư mới theo Chúa Kitô: Phanxicô Đức, sinh 1594 ở Thanh Hóa, tu chùa được
17 năm, do Rhodes rửa tội 03.12.1627; hai thầy kia là Anrê Ttri và Inhaxiô Nhuận,
cũng được rửa tội cuối năm 1627 sang đầu năm 1628.
Ngày 27.4.1630,
trong thánh lễ cuối cùng cho bổn đạo ở nhà thờ, sau khi rước lễ rồi, ba thầy Đức,
Tri, Nhuận, đặt tay trên sách Phúc âm, lần lượt tuyên hứa:
-
Không lập gia đình cho đến khi có các cha dòng Tên đến, để có thể rảnh rang
giúp đỡ bổn đạo;
-
Tiền của, đồ vật thuộc tập thể các thầy;
-
Vâng phục một thầy do các cha chỉ định làm bề trên, cho đến khi có các cha dòng
Tên đến.
Một người khác là
Antôn Định, cũng được tuyên hứa như trên, nhưng chỉ đóng vai trò “trợ sĩ”, để
giúp ba thầy kia về mặt vật chất. Sau đó thầy Phanxicô Đức được các cha cử làm
bề trên.
Khi biết tin các cha
phải về Áo Môn, thầy Đức xin theo các cha đi bên đó để gia nhập dòng Tên, nhưng
giáo đoàn Đàng Ngoài đang cần đến thầy, nên mãi tới năm 1643 thầy mới được nhập
vào dòng Tên, trong bậc “trợ sĩ” (Sđd tr. 166 - 167).
- Đoạn
thứ hai: Nói về thành quả của ba thầy giảng tại Đàng Ngoài trong thời
gian các Thừa si dòng Tên vắng mặt:
“Ngoài ra, các cha
còn được vui mừng vì ba sự việc cụ thể sau: Thứ nhất, lòng nhiệt thành của ba
thầy giảng Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhaxiô Nhuận; vì trong 10 tháng trời vắng
bóng các cha, ba thầy đã đi hầu hết các xứ (tỉnh) dạy dỗ, rửa tội tới 3.340 người
và dựng thêm 20 nhà thờ; các thầy lại rất trung thành với lời khấn khiết tịnh,
vì chẳng những đã sống khiết tịnh “cho đến khi các cha tới”, mà còn tiếp tục khấn
hứa trọn đời khiết tịnh. Thứ hai, lòng đạo đức sốt sắng của các tân tòng, chẳng
những sống đức Tin mạnh mẽ, can trường, lại còn góp công của dựng được 20 nhà
thờ trong 10 tháng, hầu tiện lợi cho các tín hữu đọc kinh cầu nguyện. Thứ ba,
tình đoàn kết, yêu thương của bổn đạo coi nhau như anh chị em, kẻ giàu sang quyền
quý cũng đối xử hiền từ, nhã nhặn với mọi người, tôn trọng cả đám dân nghèo…” (Sđd
tr. 173 - 174).
- Đoạn
thứ ba: Nói về trở ngại của phái đoàn trong đó có Linh mục dòng Tên
Bonelli và ba thầy giảng người Đàng Ngoài là Anrê Tri, Tôma Thắng và Giêrônimô
trong công cuộc đi truyền giáo ở Lào. Cũng trong đoạn này nói về một mất mát lớn
cho giáo đoàn Đàng Ngoài là thầy giảng Anrê Tri qua đời:
“Riêng Giovanni
Battista Bonelli khởi hành đi Lào từ đầu tháng 10.1638; theo cha còn có thầy giảng
Anrê Tri, thầy giảng Tôma Thắng (người đã đi Lào trước đây) và kẻ giảng
Giêrônimô. Mặc dù lúc ấy Bonelli đã 53 tuổi, nhưng chấp nhận mọi nguy hiểm, miễn
là đem Tin Mừng được tới triều đình và dân tộc Lào. Hành trình đầy gian khổ, vì
phải trèo qua nhiều rặng núi giá lạnh, nên ngày 04.11.1638 Bonelli tắt thở trên
rặng núi phân cách giữa Lào - Việt. Trước khi từ giã trần thế, cha còn đặt thầy
Anrê Tri làm bề trên hai thầy kia. Nhờ Tôma Thắng dẫn đường, ba người tới triều
đình Lào, nhưng vua Oupagnouvarath cùng triều thần không tiếp nhận vì thiếu “thầy
Đạo Tiến sĩ phương Tây”.
Phái đoàn nán lại một
năm, chờ mỏi cổ vẫn chẳng thấy Giêsu hữu nào đến, nên tất cả phải rời Lào quốc
về Thăng Long. Anrê Tri nguyên là đồ đệ của
- Đoạn
thứ tư: Nói về sự qua đời của thầy giảng Inhaxiô Nhuận, người đã đi
theo Giáo sĩ Đắc Lộ và Linh mục Pedro Marques trong vụ trục xuất vào Nghệ An và
Bố Chính năm 1629:
“Nếu ở Đàng Trong,
Francisco de Pina là Giêsu hữu đầu tiên bị chết đuối ngày 15.12.1625 tại bờ biển
Hội An (chôn cất tại Hội An), thì ở Đàng Ngoài cha Giaseppe Mauco la tu sĩ dòng
Tên đầu tiên gửi xác trên chính đất Thanh Hóa năm 1639, không kể mấy cha khác
chết mất xác trong vịnh Bắc bộ vì đắm tàu như Bernardino Reggio 24.5.1634,
Gaspar d’Amaral 26.12.1646, hoặc Giovanni Battista Bonelli chết cóng trên dãy
núi phân cách Lào quốc với Đàng Ngoài 04.11.1638. Nên ghi nhận rằng, vào năm
1639 - 1640, cũng có ba thầy giảng qua đời, là những người cộng tác đắc lực với
các Giêsu hữu; đó là Inhaxiô Nhuận, Tôma Thắng và Tađêu. Inhaxiô Nhuận, một người
có tài làm văn thơ, đã cùng hai cha Marques và Rhodes bị đầy ải ở Bố Chính, Nghệ
An năm 1629; ngay từ khi theo cha Rhodes ở kinh đô năm 1628, thầy Nhuận đã nhiệt
tâm, kiên trì, can đảm trong sứ vụ ròng rã cho đến năm 1639 - 1640, là năm thầy
về chầu Chúa lúc mới 45 tuổi” (Sđd tr. 190).
- Đoạn
thứ năm: Nói về tuổi tác của những thầy giảng đầu tiên ở Đàng Ngoài:
“Khi “chính thức”
thành lập Tu hội Thầy giảng ở Đàng Ngoài vào năm 1630, chỉ có ba người tuyên khấn
lần đầu tiên thì cả ba vị này nguyên là những nhà sư Phật giáo đã đứng tuổi:
Phanxicô Đức 36 tuổi, Anrê Tri 34 tuổi, Inhaxiô Nhuận 39 tuổi; còn Antôn Định
37 tuổi chỉ là “ông bõ” trong tu hội” (Sđd tr. 562).
Nói tóm lại,
qua năm đoạn trích nói trên, người đọc đã có dịp hiểu rõ hơn vai trò quan trọng
của các ngài trong hội thầy giảng do Giáo sĩ Đắc Lộ thành lập tại Đàng Ngoài đầu
thế kỷ XVII.
Riêng những
chi tiết nói về thầy Anrê Tri, gốc Nghệ An đối với chúng tôi hết sức quý vì nó
giúp giải thích một loạt vấn đề:
- Thứ
nhất: Thầy Anrê Tri nguyên là một tu sĩ Phật giáo, đã một thời làm lính
tại Thăng Long. Trong tài liệu Giáo sĩ Đắc Lộ nói là một quân binh, ở đây có thể
hiểu thầy bị động viên vào hạng ưu binh được tuyển chọn giữa những người có tiếng
trung thành tại hai vùng đất Nghệ An và Thanh Hóa, thường trực canh phòng các
dinh vua Lê, chúa Trịnh. Những ưu binh ấy được đem ra sống ở Thăng Long nơi thường
xuyên qua lại của các nhà truyền giáo và nhất là trong thời Giáo sĩ Đắc Lộ giảng
ở đó từ giữa năm 1627 đến 1629 và cả đến 1630.
- Thứ
hai: Do thầy là người Nghệ An, với ưu điểm này chắc chắn thầy đã biết
rành rẽ các sông rạch, cửa biển của địa phương.
- Thứ
ba: Thầy là một trong số những người được Giáo sĩ Đắc Lộ đích thân rửa
tội tại Thăng Long vào những ngày cuối năm 1627 đầu năm 1628, trước ngày giờ
Giáo sĩ Đắc Lộ đến Nghệ An.
- Thứ
tư: Thầy là một trong ba đệ tử thiết cốt đầu tiên của linh mục Đắc-lộ
và được Giáo sĩ Đắc Lộ cho hay ý đồ phát lưu của chúa Trịnh Tráng, và có lẽ
chính cá nhân thầy cũng dự đoán trước phần nào việc sắp xảy ra. Nhờ thế chúng
ta dễ hiểu, thầy luôn có vẻ trong tư thế sẵn sàng giúp linh mục Đắc-lộ đối phó.
- Thứ
năm: Thầy đã đặt kế hoạch xin phép về trước cùng với ông Simon người đồng
hương Nghệ An để chuẩn bị, và thực sự ông Simon đã được hân hạnh đón tiếp Giáo
sĩ Đắc Lộ tại nhà mình ở cửa Chúa, nay là cửa Lò. Còn thầy Anrê Tri ở xa hơn một
chút và đến chậm nên không gặp tại đó mà đã gặp chỗ khác cách nhà ông Simon mấy
dặm, mấy cây số.
- Thứ
sáu: Khi Giáo sĩ Đắc Lộ từ trong Bố Chính trở ra Nghệ An, ngài đã ghé một
vài nơi nhưng không nói rõ địa danh. Thầy An rê có vẻ như đã biết trước và thực
sự đã mời được Giáo sĩ Đắc Lộ vào nhà mình. Chi tiết này vô cùng quý giá vì nó
giúp xác nhận một loạt sự kiện khác nữa:
1. Thầy Anrê Tri và Giáo sĩ Đắc Lộ đã
ăn ý phần nào với nhau trong việc cố gắng tái ngộ.
2. Khi vừa thấy Giáo sĩ Đắc Lộ là thầy
mời vào nhà liền.
3. Thầy đã chuẩn bị sẵn sàng đâu vào đấy
những điều kiện cần thiết cho 112 người trong việc lãnh nhận phép Rửa.
4. Giáo sĩ Đắc Lộ đã nhận diện, điểm
danh và khảo sát phần nào trình độ hiểu biết giáo lý của họ.
5. Khi thấy mọi sự đã quá đủ thì Giáo
sĩ Đắc Lộ rất vui mừng phấn khởi, cảm tạ Chúa và bắt tay vào việc cử hành bí
tích cho số người hiện diện, mà chính miệng ngài đã nói và tay đã viết rằng: “Đến
nỗi chúng tôi không còn phải vất vả thêm lời giảng dạy”. Chi tiết này gợi
lại lần đầu tiên tại cửa Chúa, trong nhà ông Simon và lần thứ hai, dọc đường
Giáo sĩ Đắc Lộ cũng ban mà không thấy nói ngài phải dạy thêm gì.
6. Với cụm từ: “Đến nỗi chúng tôi không
còn phải vất vả thêm lời giảng dạy” chứng tỏ thầy Anrê Tri có thể được coi là một
giáo lý viên khá sành nghề, được thực tập không phải tại quê hương Nghệ An mà
ngay tại đất khách Thăng Long từ lâu trước.
7. Tất cả những điều vừa nói có thể cho
chúng ta tin tưởng rằng, nhà thầy Anrê Tri mà Giáo sĩ Đắc Lộ nói không phải ở cửa
Ròn, cửa Khẩu mà là ở cửa Sót, kẻ Sót vì: Sót là một cửa biển lớn, đông người,
các thương thuyền nước ngoài thường qua lại buôn bán. Đàng khác từ cửa Sót ra đến
bến chính Rum của tỉnh Nghệ An không xa lắm như Giáo sĩ Đắc Lộ đã nhận xét “Rồi
từ đây chúng tôi kéo thẳng tới bến chính của tỉnh”.
8. Với danh nghĩa là một tu sĩ Phật
giáo, điều này giúp chứng minh rằng: có thể một thời thầy Anrê Tri đã là tu sĩ
của một ngôi chùa nào đó gần xa quê thầy, hay chính tại quê hương Kẻ Sót của thầy.
Vì tại vùng này hiện đang có một ngôi chùa danh tiếng, sầm uát, đặc biệt đã và
đang giữ được lễ hội truyền thống hằng năm. Nghĩa là năm nào cũng có lễ hội
đông đảo, đua thuyền, rước tượng Lê Khôi từ thị trấn Cày, huyện Thạch Hà về
chùa tại Rú Bề thuộc xã Thạch Kim rồi long trọng cử hành lễ hội.
Đó là chưa
nói đến mối quan hệ có thể có giữa bản thân thầy với các chùa (nếu có) ở ranh
giới hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Sở dĩ chúng tôi đưa ra vấn đề mới mẻ là vì
xét theo thời gian, thầy Anrê Tri đã được Giáo sĩ Đắc Lộ ban phép rửa tại Thăng
Long cuối năm 1627 đầu năm 1628, nghĩa là chính năm Giáo sĩ Đắc Lộ đặt chân đến
cửa Bạng và ở lại hơn hai tháng tại những địa phương có tên như An Vực, Ke No,
Van No (giáp ranh giới Nghệ An) của Thanh Hóa đợi chúa Trịnh Tráng hành quân trở
về… Đàng khác, trong phúc trình linh mục dòng tên Jean Cabral năm 1647, tại
Vàng Mai (giáp ranh Thanh Hóa) đã có một ngôi nhà thờ lớn, giáo dân đông và đặc
biệt có một giáo hữu trước là một nhà sư danh tiếng của Phật giáo trở lại lấy
tên thánh Bênêđíctô gìn giữ và chu cấp kinh phí cho nhà thờ này.
9. Thầy Anrê Tri xứng đáng với danh hiệu
thầy giảng, người giáo lý viên đầu tiên đã làm việc truyền giáo tại quê hương
mình không lâu trước khi Giáo sĩ Đắc Lộ đến năm 1629.
10. Tuy đã có vợ, nhưng sau khi thầy đã
xin nhập tu, đã khấn hứa trong hội thầy giảng. Điề này không khó hiểu vì:
- Một là vợ
thầy đã mất không lâu trước thời điểm khấn 27.4.1630. Vì biết rõ tháng 4.1629,
thầy đưa mẹ, mẹ vợ và vợ chạy đón gặp Giáo sĩ Đắc Lộ để cho họ lãnh nhận phép rửa.
- Hai là
nguyên hội này chưa được bề trên chấp thuận. Đàng khác, càng dễ hiểu hơn nếu
nhìn về thời sơ khai, ngay chính bản thân các tông đồ như: Phêrô, Matthêu… là
những người đã có gia đình, vợ con và cũng đã được Chúa chọn vào hàng ngũ tông
đồ lớn, mẫu mực của Chúa.
11. Còn một điểm quan trọng khác liên
quan đến thầy Anrê Tri này sau khi đã trở thành thầy giảng của Giáo sĩ Đắc Lộ.
Chính Giáo sĩ Đắc Lộ đã khen thầy là một người rất sốt sắng, một tay thợ không
mệt mỏi, một người rất quan tâm đến công việc rao giảng Đạo Chúa tại Nghệ An.
Nhất là thầy Anrê Tri đã có lần bị quân gian đánh sắp chết, nhưng vẫn vui lòng
chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa. Nguyên văn ngài viết:
“… Thầy Anrê rất sốt
sắng và tay thợ không mệt mỏi của giáo đoàn mới Đàng Ngoài, thầy nóng lòng sốt
ruột muốn gặp lại chúng tôi kể từ khi chúng tôi xa vắng. Khi chúng tôi trẩy đi
thì thầy đau bệnh ở lại Kẻ Chợ, thầy tới thăm chúng tôi ở nơi đày ải và cùng
chúng tôi trong những việc chúng tôi giao cho thầy. Nhưng khi chúng tôi ngược
nơi thầy xuôi xuống, tức thì thầy trở gót về kinh thành, tới đâu thầy cũng làm
việc và sốt sắng dạy dỗ để đến lúc sẽ sinh hoa kết trái. Trong dịp hành trình
này Thiên Chúa ban cho thầy có dịp tốt đẹp để kiên tâm chịu đựng. Số là trên
quãng đường thầy không ngờ hơn cả, thầy bị quân gian cầm gậy đón đánh đập thầy
rất tàn nhẫn (…). Thầy bị thương nhừ tử và như chết nằm tại chỗ. Sau đó thầy chỗi
dậy và sau khi đã cầu nguyện cho những kẻ hành hạ mình, thì thầy tiếp tục lên
đường, đau đớn, khắp mình đầy vết thương, nhưng tâm hồn đầy vui sướng vì thấy
mình xứng đáng chịu một sự gì vì lòng mộ mến Thiên Chúa…”[1].
Nhân biến cố
này, chúng ta hiểu rõ vai trò của một nhân vật khác có tên là Phêrô, xuất hiện
một cách khá đột ngột trước không ít thắc mắc: Phêrô này là ai mà lại cộng tác
với thầy Anrê Tri trong việc chuẩn bị cho số bổn đạo được phép Rửa nói trên? Vì
theo lời Giáo sĩ Đắc Lộ nói, ngài đã ở “nhà
hai giáo dân sốt sắng Phêrô và Anrê” trong ba ngày cư trú ở đây.
Đã có lần
chúng tôi cũng như một vài ngườ khác nghĩ rằng, có thể Giáo sĩ Đắc Lộ lẫn lộn
tên ông Simon (bên làng cửa Chúa) với ông Phêrô này và cho cả hai là một. Bây
giờ thấy rõ vậy là không đúng vì ý Giáo sĩ Đắc Lộ muốn nói ba người khác nhau
và cả ba đều là ưu binh, đều đã được Giáo sĩ Đắc Lộ làm phép Rửa trước đó. Điều
không rõ là ông Phêrô này có về chung một lần hoặc về trước, về sau, hoặc về chậm
hơn so với hai ông Simon và thầy Anrê Tri?
Như vậy, trước
mắt chúng ta thấy khi Giáo sĩ Đắc Lộ đến đã có ít là ba người Nghệ An được nhận
phép Rửa và cả ba người đã làm công tác tông đồ là đem Lời Chúa, nhận được từ
Thăng Long (Hà Nội) về cho anh em bà con mình tại Nghệ An. Cho nên, chúng ta
không lấy làm lạ khi nghe Giáo sĩ Đắc Lộ nói: “Đến nỗi chúng tôi không còn phải
vất vả thêm lời giảng dạy”.
II. THỬ TRÍCH ĐOẠN VÀ GIẢI THÍCH
Dựa theo mấy
nét hướng dẫn sơ khởi, dưới đây chúng tôi xin phép trích dẫn một vài câu, đoạn
cụ thể trong sách “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài” của Giáo sĩ Đắc Lộ:
1. Chương 24, trang 148
“Rồi chúng tôi lên
buồn đi từ tỉnh Thanh Hóa tới tỉnh Nghệ An và chúng tôi thấy hiện ra bến Bà
Chúa, người bản xứ gọi là cửa Chúa…”.
Chính ở điểm
này mà có những giải thích không ăn khớp với nhau giữa những người gốc địa
phương Nghệ - Tĩnh - Bình, chẳng hạn:
- Linh mục
Trần Minh Công đã giải thích một cách có tính khoa học, cửa Chúa là cửa Cờn
(Càn), lạch Cờn (Càn) - nơi có đền thờ Bà Chúa rất nổi tiếng[2]…
- Linh mục
Trương Bá Cần nói, theo một số linh mục giáo phận Vinh thì cửa Chúa có thể là cửa
Quèn, lạch Quèn[3].
- Riêng
chúng tôi, xin tôn trọng tất cả các ý kiến mới mẻ ấy, nhưng vẫn đồng ý với lối
giải thích truyền thống của Linh mục Đỗ Quang Chính và nhất là linh mục thừa
sai Sajot Hậu khi cho rằng cửa Chúa mà Giáo sĩ Đắc Lộ nói là cửa Lò.
2. Chương 28, trang 148
“Có một quân binh tốt
lành tên là Simon, trên kia chúng tôi đã nói và đã nói về những phép lạ chữa bệnh
bằng nước phép[4],
ông này không ở xa bến. Được tin chúng tôi tới, ông vội vã ra đón và được thuyền
trưởng cho phép chúng tôi đến tận nhà ông. Ở đây, ông đã thu xếp cho rất nhiều
họ hàng và bạn hữu đến xin chịu phép rửa…”.
Điểm này cho
thấy rõ quê quán của ông là cửa Cờn, cửa Quèn hoặc cửa Lò nếu nơi đó là đúng sự
thật như nguyên bản muốn nói.
“Ông này
không ở xa bến”, nói khác đi ở gần bến, ở ngay bến. Chi tiết này có ý so sánh vớ
một người khác có tên là thầy Anrê Tri mà chúng tôi đã có dịp nói tới ở phần hướng
dẫn. Tiếc là tại điểm này nói Giáo sĩ Đắc Lộ có ban phép rửa lần thứ nhất trên
phần đất tỉnh Nghệ An mà chỉ nói sơ qua bằng cụm từ “rất nhiều” chứ không rõ số
liệu bao nhiêu.
3. Chương 28, trang 148, 149
“Một quân binh khác
tên là Anrê, ông này đã bỏ kinh thành và vội vã trở về trước chúng tôi, ông tưởng
sẽ gặp chúng tôi ở bên này, xa nơi ông ở chừng mấy dặm, như vậy ông có thể đưa
chúng tôi về nhà và xin cho mẹ, mẹ vợ và vợ ông chịu phép rửa. Nhưng vì ông về
trễ quá sau khi chúng tôi đã khởi hành, lại cũng về đêm (…). Ông đành đi theo
đường bộ đưa mẹ, mẹ vợ đã có tuổi và vợ ông đi đường tắt thông qua rừng núi để
gặp chúng tôi trước khi chúng tôi tới Đàng Trong. Mà vì ông sợ bị đẩy lui ở
biên giới do chiến tranh giữa hai chúa, nên tất cả đã vác theo bị lúa giả vờ
đem đi bán. Thiên Chúa đã ban cho họ được dễ dàng gặp chúng tôi ở nơi họ đã trù
tính và được chịu ơn lành, họ đã sốt sắng mong mỏi và đã từ xa tìm đến với rất
nhiều nghị lực”.
Như vậy chứng
tỏ Giáo sĩ Đắc Lộ đã ban phép rửa lần thứ hai trên phần đất tỉnh Nghệ An, tại một
nơi nào đó hoặc cửa Hội - nơi có giáo xứ Trang Cảnh, hoặc cửa Cương Gián - nơi
có họ giáo Cương Gián, giáo xứ Kim Lâm, hoặc có thể một nơi xa hơn như cửa Sót
- nơi có họ giáo Kim Đôi, giáo xứ Trung Nghĩa… vì những nơi đó thuyền bè thường
phải đi qua và có khả năng cập bến. Số lượng người nhập phép Rửa lần này tí là
đã có ba người gồm: mẹ, mẹ vợ và vợ thầy Anrê Tri.
Còn về cụm từ
“mẹ, mẹ vợ và vợ”, theo chúng tôi cũng giống như ông Simon, có thể phỏng đoán
phía quê vợ của ông là vùng cửa Hội hoặc một nơi nào đó gần nhà ông Simon hơn
như Giáo sĩ Đắc Lộ nói: “chừng mấy dặm”. Còn quê nội ông có lẽ là ở vùng cửa
Sót như đã nói chứ không đến nỗi vào xa hơn và cũng cần hiểu thêm rằng việc họ
“vác theo bị lúa giả vờ đem đi bán” chỉ có khả năng phòng xa mà thôi.
4. Chương 28, trang 148
“Rồi từ đây chúng
tôi kéo thẳng tới bến chính của tỉnh gọi là RUM, nơi ở của quan tỉnh niềm nở
đón tiếp chúng tôi”.
Câu nói này
cho phép chúng ta hiểu khoảng cách giữa nhà ông Phêrô và thầy Anrê Tri đến dinh
quan trấn tỉnh Nghệ An hay rõ hơn là cửa Rùm, cửa Hội không xa bao nhiêu. Tại
vùng đất mang tên họ Rum, Rùm, Rầm này có một cái cầu với tên gọi là cầu Rầm do
Nam Triều xây dựng, tồn tại từ lâu trước cho đến khi thực dân Pháp xây dựng
thành phố Vinh thì cầu này không còn nữa. Điều này chúng tôi đã viết và ghi chú
trong sách Lịch Sử Giáo Phận Vinh 1996, ở trang 51, chú thích 61.
“Nơi ở của
quan tỉnh niềm nở đón tiếp chúng tôi”? Vấn đề đặt ra là vị quan tỉnh Nghệ An cầm
quyền thời Giáo sĩ Đắc Lộ đến khoảng tháng 5.1629 là ai, tên gì, bao nhiêu tuổi,
sinh quán tại đâu…? Tài liệu cho biết, vị quan này đã niềm nở đón tiếp phái
đoàn người Bồ, trong đó có Giáo sĩ Đắc Lộ và Mazkez:
“… Quan tỉnh niềm nở
đón tiếp chúng tôi (…) để chúng tôi tự do giảng lời Thiên Chúa và cho dân chúng
các vùng lân cận đến nghe (…). Vì thế ông rất quí mến chúng tôi…”[5].
Nhớ lại cách
đó không lâu, khoảng 20.4.1629, khi phái đoàn truyền giáo trong đó có Giáo sĩ Đắc
Lộ mà Mazkez vào Bố Chính (Quảng Bình) đã được Quan Trấn Tỉnh tại đó tiếp đón rất
nồng hậu. Ông đã dành cho phái đoàn mọi sự dễ dàng, kể cả mọi phí tổn trong thời
gian phái đoàn ở lại. Nhưng lịch sử không nói rõ tên quan trấn đó là ai. Sau
nhiều cố gắng, chúng tôi đã biết được tên ông là Quan Quận Công Nguyễn Khắc Kham, quê ở xã Trung Hòa, tỉnh Bố Chính
(Quảng Bình). Điều này đã được chúng tôi trình bày khá chi tiết trong cuốn “Đi
Tìm Lịch Sử Giáo Hạt Bình Chính 1999” từ trang 95 - 103. Sự kiện lịch sử này hết
sức quan trọng đối với Giáo sĩ Đắc Lộ, cách riêng đối với đạo Công giáo tại Bố
Chính và Nghệ An thời sơ khai.
Cuối cùng, đọc
bản tường thuật của Giáo sĩ Đắc Lộ về vụ phát lưu vào Đàng Trong, chúng ta thấy
có nhiều trở ngại vất vả nhất là tại vùng cửa Rùm, bị mưa bão, bị dân ném đá
xua đuổi, phải đói khát, túng thiếu, nhưng cũng có những điều hết sức thuận lợi[6].
Đành rằng mọi
sự đều do chương trình an bài nhiệm mầu và đầy tình thương của Thiên Chúa,
nhưng chúng ta cũng phải khâm phục tài năng của Giáo sĩ Đắc Lộ và phái đoàn.
Ngài là một linh mục, một nhà truyền giáo, đồng thời cũng là một nhà khoa học,
đặc biệt một nhà tâm lý học tuyệt vời đến nỗi trên đường phát lưu từ Thăng Long
vào Bố Chính chỉ một chuyến thuyền: người đông, thuyền chật, đường dài lâu
ngày, sông biển khe suối quanh co chèo chống suốt mấy ngày đêm mà không xảy ra
một điều gì bất bình đáng tiếc, khó chịu, nhất là toàn bộ ba mươi hai quân binh
đều là người không công giáo phục vụ cho bốn người Công giáo trong tư thế của
những nhân là: Giáo sĩ Đắc Lộ, Linh mục Marques, Thầy giảng Inhaxu Nhuận và ông
bõ Antôn Định.
Thêm vào đó,
sự cộng tác của ba quân binh Công giáo người Nghệ An là Simon, Phêrô và Anrê
Tri, đồng nghiệp với ba mươi hai người không Công giáo này cũng đã gây được phần
nào ảnh hưởng đến chuyến đi của phái đoàn. Nhất là sau khi mười hai người trong
số ba mươi hai quân binh đã lãnh nhận phép rửa do chính Giáo sĩ Đắc Lộ ban thì
lợi điểm đó càng được tăng lên gấp nhiều lần. Cho nên, chúng ta có thể mạnh dạn
phỏng đoán rằng, khi số quân binh này từ giã phái đoàn ở Bố Chính để trở về
Thăng Long sau khi hoàn tất bàn giao công việc, chắc chắn vị sự tín nhiệm cao độ
ấy, nhất là viên Sĩ quan thuyền trưởng tân tòng Augustinô, Giáo sĩ Đắc Lộ đã
“biên thư giới thiệu với các bổn đạo cũ ở kinh thành”[7] và
sẽ không quên gửi gắm lời thăm hỏi, an ủi và tin tức cập nhật của ngài về cho
các ông Simon, Anrê Tri và Phêrô mà các ông có thể sẽ gặp trên đường trở về.
Chính vì lẽ
đó, khi Giáo sĩ Đắc Lộ trở ra Nghệ An, vừa thấy ngài, tức khắc ông Anrê Tri hớn
hở, vồn vã mời ngài và phái đoàn về nhà mình liền. Đó là chưa kể đến óc khoa học
thông minh của ngài đã làm cho quan trấn tỉnh Nghệ An tín nhiệm một cách tuyệt
đối nhờ báo trước ba ngày về hiện tượng Nhật Thực 25.8, nhằm ngày lễ kính thánh
Louis Gonzaga để từ đó quan tỉnh cho phép ngài được tự do giảng Lời Thiên Chúa
mà không sợ ai làm khó dễ.
Lưu ý:
Vì cần hình ảnh minh chứng, chúng tôi đã tìm
thấy một số trong Album, một số khác ở ngoài, tuy phong phú nhưng không hợp với
nhu cầu, buộc lòng chúng tôi phải tạm qui tụ vào từng cụm trọng điểm. Do đó,
khách quan có thể đánh giá thừa hay thiếu, biệt vậy chúng tôi vẫn cố gắng làm
theo khả năng thủ công nghèo nàn và mong sự bổ túc của những người hiểu biết địa
phương. Bởi vì, riêng hay chung, chúng tôi luôn tự coi đây chỉ là bản thảo mở
đường cho công việc tìm kiếm sau này.

LINH MỤC
ALAXANDRE DE RHODES (ĐẮC-LỘ)
(15.3.1553 -
05.11.1660)

BÀI
HAI
GIÁO SĨ ĐẮC LỘ
TRUYỀN GIÁO TẠI NGHỆ AN
Những Giây Phút Đầu Tiên (Tại Thanh Hóa)
Do hai phần
đất Nam Thanh Hóa và Bắc Nghệ An gối đầu với nhau cho nên trước khi đi sâu vào
tìm hiểu những hoạt động của Giáo sĩ Đắc Lộ trên phần đất Nghệ An, chúng tôi
xin điểm qua những giây phút đầu tiên của ngài tại vùng cửa Bạng, cửa Thánh
Giuse của tỉnh Thanh Hóa và những thôn xã lân cận trong khoảng thời gian mười lăm ngày:
Thoạt tiên
chúng ta chỉ thấy Giáo sĩ Đắc Lộ kể tỉ mỉ về những chi tiết liên quan đến việc
ngài và các đồng nghiệp vào cửa Bạng (Thanh Hóa) đúng ngày lễ kính Thánh Giuse
ngày 19 tháng 3 năm 1627. Ngài làm việc ngay tại nơi mới đặt chân đến mà ngài gọi
là: “xóm Thánh Giuse và những thôn xã lân
cận”[8]. Tại đây, “trong một thời gian chưa đầy 3 tuần chúng
tôi đã rửa tội cho 32 người, đầu tiên là hai gia đình ông Giuse và ông Inhaxu[9]. Ngài “dựng Cây Thánh Giá trên đỉnh núi” ngày
nay có tên là “Núi Do”[10] vào ngày thứ Sáu,
Tuần Thánh 02.4.1627.
Sau đó được
lệnh đi gặp chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng đang đợi trên đường hành quân
phương
Giả thiết 1: Nếu gặp ở chính nguồn sông
Mã là điều không thể vì quá xa so với nơi đang ở, quá chung so với chiều dài
mênh mông 380 km[15] của con sông này.
Giả thiết 2: Nếu gặp ở sông Chu chính gốc
hay một chỗ nào đó từ ngã ba sông Chu với sông Mã ra biển, hoặc một nhánh phụ
nào đó của sông Chu nối với sông Vằng (cửa Bạng) bằng kênh đào Nhà Lê. Điều này
có thể chấp nhận được phần nào chăng?
Như vậy, khi
được lệnh vị sứ giả của chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng sai đến có thể đã dẫn
Giáo sĩ Đắc Lộ và Mazkez cùng phái đoàn người Bồ Đào Nha đi theo một trong hai
con đường:
Thứ nhất: Xuất phát từ Duy Xuyên môn (cửa
Duy Xuyên hay cửa Bạng) qua Ngọc Giáp môn (cửa Ngọc Giáp) vào Hội Triều môn (cửa
Hội triều, nay có tên là cửa Hới hay cửa Hội Trào nói theo bản đồ ngày nay là
sông Chu và sông Mã). Cửa này xưa rộng 1.800m, “vượt cửa này vô cùng nguy hiểm”,
vì thường có gió lớn trong đất liền đổ ra nước chảy xiết, gặp sóng biển ập vào,
gây ra những đợt “sóng đá gà” rất nguy hiểm[16].
Thứ hai: Xuất phát từ nơi gần hơn là cửa
Ngọc Giáp đi theo đường biển vào cửa Hội Triều như đã nói trên. Theo giả thiết
này thời gian có lẽ không đến nỗi phải mất tới hai ngày đường như Giáo sĩ Đắc Lộ
đã ghi lại.
Thứ ba: Xuất phát từ cửa Bạng, men theo
sông cửa Bạng, qua kênh đào Nhà Lê và các sông rạch của tỉnh này để vào gặp
chúa Trịnh Tráng. Theo chúng tôi đây là giải pháp thích hợp nhất mà người được
chúa sai đến đã dẫn Giáo sĩ Đắc Lộ và phái đoàn người Bồ Đào Nha đi.
Tuy nhiên,
điều quan trọng muốn nói ở đây là không rõ Giáo sĩ Đắc Lộ và chúa Thanh Đô
Vương Trịnh Tráng đã gặp nhau tại điểm nào trên dòng sông rộng lớn này, để từ
đó “đi theo chúa tám ngày”[17] trên đường hành
quân và dừng lại theo lệnh của chúa.
I. TÌM HƯỚNG ĐI CỦA GIÁO SĨ ĐẮC LỘ
Để thi hành
công việc truyền giáo tại Nghệ An, Giáo sĩ Đắc Lộ có thể có ba hướng đi:
1. Hướng Đi Đến
Không rõ lắm
vì đây chỉ là một phỏng đoán dựa trên cơ sở đáng tin cậy là hai chữ Vàng Mai mà ngài viết trên bản đồ của
ngài. Hay nói cách khác, ngài biết được vị trí địa lý Vàng Mai nhân dịp đi gặp
chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng và ở lại những nơi như An Vực, Ke No, Van No gần
ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An để đợi chúa đi hành quân phương Nam trở
về.
Trong thời
gian hai tháng tức 60 ngày tức 1440 giờ đối với người vô ý thức thì có thể
không hiểu thêm được gì, không làm thêm được gì còn đối với Giáo sĩ Đắc Lộ - một
nhà khoa học, một nhà truyền giáo lừng danh chắc chắn ngài phải coi đó là một
cơ hội ngàn vàng để nghe ngóng, tìm hiểu, vạch kế hoạch lý tưởng là đưa Lời
Chúa đến cho mọi người, bất cứ ở đâu.
Điểm nổi bật
nhất trong thời gian lưu lại vùng này là ngài đã tiếp xúc một cách rộng rãi với
các thầy chùa, các sư cô, sư bà và đã gây được ảnh hưởng lớn lao như chúng ta
thấy khi đọc vào những bản tường thuật của chính ngài viết trong hai cuốn sách
“Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài”, quyển một, từ chương 4 đến chương 7 và “Hành
Trình và Truyền Giáo”, phần một, từ chương 5 đến chương 9. Nhờ đó mà ngài đã giảng
đạo và rửa tội được cho mấy thầy chùa, mấy sư cô, sư bà, nhiều đạo hữu Phật
giáo… để rồi chính những người này sau khi nhận được đức tin mạnh mẽ từ linh mục
Đắc-lộ họ đã trở thành những cộng tác viên đắc lực. Cụ thể họ đã dâng nhà cửa,
đất đai, chùa chiền để làm nhà thờ, làm nơi ở, nơi đọc kinh, cầu nguyện, hội họp
giáo dân.
Chính vì thế
mà chúng ta không lấy làm lạ khi đọc thấy năm 1647, nghĩa là chỉ cách hai mươi
năm sau trong phúc trình của linh mục Jean Cabral đã viết rằng tại Vàng Mai có
một ngôi nhà thờ lớn, giáo dân đông, đặc biệt có một người phụ trách với chức vị
lớn tên là Bênêđíctô, nguyên là một tu sĩ Phật giáo.
Chúng tôi
coi đây là một hiện tượng độc nhất xảy ra tại Nghệ An do ảnh hưởng trực tiếp từ
Giáo sĩ Đắc Lộ, cũng giống như nhiều hiện tượng khác xảy ra tại Thanh Hóa và
nhiều nơi khác trong thời gian Giáo sĩ Đắc Lộ hoạt động. Cụ thể như trường hợp
ông Gioan Kim (trang 89…), ông Gioan (trang 92), bà Lina (trang 93)… mà Giáo sĩ
Đắc Lộ kể tên trong hai cuốn sách nói trên.
Với một vài
sự kiện như vậy, chúng tôi mạnh dạn phỏng đoán rằng, sự có mặt trực tiếp của
Giáo sĩ Đắc Lộ trên đất Nghệ An, hoặc có mặt gián tiếp gặp gỡ vị thầy sư
Bênêđíctô nơi những chùa bạn gần xa trong vùng đất thuộc Nam Thanh Hóa, tức
vùng ranh giới Thanh Hóa - Nghệ An để nhờ đó mà thầy được hiểu đạo, nhận đạo và
thực hành đạo khi trở về nhà. Điều này cũng dễ hiểu vì xưa nay các sư phụ Phật
giáo thường có nhiều “chúng”, nghĩa là nhiều đệ tử thụ giáo có khi không phải gần
sát nhà mà xa cả mấy chục cây số. Cũng càng dễ hiểu hơn bởi vì vị trí địa lý
hai địa danh Van No của Thanh Hóa và Vàng Mai của Nghệ An được thấy vẽ gần bên
này, bên kia ranh giới hai tỉnh.
2. Hướng Đi Vào
Xuất phát từ
Thăng Long, trên chuyến thuyền nhà nước, men theo đường sông vào tỉnh Thanh
Hóa, ghé thăm các nơi hồi 1627 ngài đã đi qua và đã ít nhiều hoạt động tại đấy,
nhất là nơi ngài viết rõ hai chữa Ke No[18] và
từ Ke No ấy ngài nhìn sang làng bên kia sông tức Van No và thấy tại đó có một
nhà thờ mới xây cất đàng hoàng với một nhà trụ sở của dòng Tên[19].
Tiếp đó ngài đi ra biển tiến vào cửa Chúa - cửa Lò, vào nhà ông Simon rửa tội một
số người, tiến thêm gặp ông Anrê rửa tội mấy người nữa cho đến khi vào đến ranh
giới hai tỉnh Nghệ An, Bố Chính đúng vào tối thứ bảy Tuần Thánh - Lễ Phục Sinh
15.4. Vào nữa gặp quan trấn Bố Chính tên là Quan Quận Công Nguyễn Khắc Kham và
được vị quan này dành cho mọi dễ dàng.
3. Hướng Đi Ra
Nhờ hướng đi
này linh mục Đắc-lộ đã có dịp đi sâu vào nhiều nơi trong phần đất thuộc phạm vi
tỉnh Nghệ An để giảng đạo, rửa tội và đặt cơ sở cho nền tảng Đạo Chúa tại tỉnh
này.
Nếu tính cho
thật đúng, thật khít, sau khi trừ thời gian ba tuần, 21 ngày ở Bố Chính, Quảng
Bình và ba ngày ở nhà hai ông Phêrô và Anrê Tri, Kẻ Sót thì linh mục Đắc-lộ
chính thức hoạt động ở vùng Rum là khoảng ngày 10 tháng 5 đến hết tháng 10, thời
gian chưa đầy 6 tháng, ngài trở lại Thăng Long trong một vòng tròn khép kín.
Chỉ có điều
muốn biết là trên đoạn đường từ cửa Rum đến Thanh Hóa ngài có ghé Vàng Mai
không? Theo chúng tôi có thể có trong ba hướng đi:
Một là đi thẳng
theo đường biển từ cửa Rum, cửa Hội của tỉnh Nghệ An đến những cửa sông lớn
ngoài Ninh Bình… Nếu theo hướng này đương nhiên không có vấn đề gì hết.
Hai là đi một
phần đường biển ra đến cửa Quèn, lạch Quèn để vào sông Mai Giang (sông Hoàng
Mai - Vàng Mai), men theo kênh đào Nhà Lê (kênh đào Mã Viện), qua ranh giới,
sang đất Thanh Hóa… Theo hướng đi này đương nhiên tàu phải ghé qua Vàng Mai, tiếp
qua Van No, An vực, Ke No như ngài đã nói.
Ba là cũng
đi một phần đường biển ra đến cửa Bạng, cửa Thánh Giuse để từ đó đi theo đường
sông tiến về Thăng Long. Theo chúng tôi rất có thể phái đoàn người Bồ Đào Nha
trong đó có Giáo sĩ Đắc Lộ, Linh mục Marques đã đi theo hướng này vì những lý
do:
- Thứ nhất,
Giáo sĩ Đắc Lộ đã kinh nghiệm được hướng đi này nhân chuyến theo chúa Trịnh
Tráng về kinh thành năm 1627.
- Thứ hai,
có tính tâm lý “kẻ đi trước dẫn bước người đi sau” nếu chúng ta đọc kỹ đoạn tường
thuật của Giáo sĩ Đắc Lộ trong những giây phút cuối cùng của ngài tại phần đất
tỉnh Nghệ An sẽ thấy rõ điều đó. Ngài viết:
“Đã qua đi mười lăm
ngày kể từ khi thầy Antôn trẩy đi kinh thành. Khi thầy trở về đem của giáo dân
bố thí và một thư của cha Gaspar d’Amaral thuộc dòng chúng tôi, cha tới cùng
tàu người Bồ đậu ở bến tỉnh Nghệ An nơi chúng tôi đang có mặt. Chúng tôi hằng
nhận thấy một dấu hiệu đặc biệt của lòng nhân lành và sự quan phòng của Thiên
Chúa. Để yên ủi và nâng đỡ chúng tôi, Người đã chỉ đường dẫn lối cho chiếc tàu
đến cái bến hẻo lánh này, trước đây chưa bao giờ và sau này không bao giờ có
tàu người Bồ tới, vì bất an toàn và khá xa kinh thành. Tin mừng này làm cho
chúng tôi đầy hoan lạc và lam tiêu tan hết những cơ cực đã qua, chúng tôi ra khỏi
túp lều ông già Simêon tốt lành đã cho chúng tôi mượn và đi thẳng tới tàu vừa cập
bến. Được gặp các cha chúng tôi từ rất lâu và rất mong ước chờ đợi, chúng tôi
ôm nhau thân thương và mắt nhỏ lệ, giòng châu đôi bên chan hòa. Ngày còn lại là
một phần ban đêm chúng tôi hỏi tin tức các cha và tin tức thế giới, từ ba năm
nay chúng tôi không nghe nói tới, không biết mất còn ra sao! Vì chúng tôi đã ở
gần tám tháng (…).
Ít ngày sau chúa sai
một hoạn quan đem giấy thông hành để đưa tàu và các thương gia người Bồ đến
kinh thành. Họ làm khó dễ cho chúng tôi muốn đi theo vì sắc lệnh trục xuất chưa
bị hủy. Nhưng người Bồ nhất định từ chối nếu chúng tôi không đi cùng mấy cha họ
đem theo. Sau cùng viên hoạn quan phải chịu, mặc dầu chưa có lệnh của chúa, để
chúng tôi trở về kinh thành, nơi từ chừng tám tháng nay chúng tôi bị trục xuất…”[20].
Từ điểm này
chúng ta thấy có một vài chi tiết sau:
- Nhờ ông bõ
Antôn Định về thông tin hoàn cảnh túng thiếu mà chẳng những các linh mục dòng
Tên và cả giáo dân ở kinh thành đã quyên góp gửi vào trợ cấp tạm thời.
- Nhờ thông
tin của ông bõ Antôn Định mà người Bồ Đào Nha biết rõ vị trí đích xác nơi Giáo
sĩ Đắc Lộ đang hoạt động để bố trí tàu vào tìm đưa về và thực sự đã có tàu đi
tìm, đã đến, đã gặp. Nếu tính theo thời gian tàu đến là vào chiều ngày 2.10 đến
áp ngày lễ kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa mà các ngài được hân hạnh cử
hành thánh lễ đầu tiên trên chiếc tàu này sau gần tám tháng.
Cũng trong
chi tiết này đã cho chúng ta hiểu thêm rằng, khi tàu đến, gặp được Giáo sĩ Đắc
Lộ và Linh mục Marques, tàu chưa đi liền, tàu còn ở lại mấy ngày, ít là ba, bốn
ngày như Giáo sĩ Đắc Lộ đã viết “ít ngày sau”.
- Trên tàu
có sự hiện diện của chính Linh mục Gaspar d’Amaral, là người đã viết thư nhờ
ông bõ Antôn Định đưa về cho Giáo sĩ Đắc Lộ mấy ngày trước đó cùng với một vài
linh mục khác được gói gồm trong cụm từ “mấy cha”. Chúng ta không hiểu trong
thư nói những gì nhưng có thể phỏng đoán: ngoài việc hỏi thăm sức khỏe thông
thường Linh mục Gaspar d’Amaral còn báo tin cho Giáo sĩ Đắc Lộ và Linh mục
Marques biết là chính các ngài sẽ đến tận nơi để tìm hiểu, để rút kinh nghiệm về
sau.
- Trong cụm
từ “mấy cha” có thể cho phép chúng ta hiểu ngoài sự có mặt của Linh mục Gaspar
d’Amaral còn có thêm ít là một hai linh mục khác mà Giáo sĩ Đắc Lộ không nói rõ
tên. Tuy nhiên về điểm này một tài liệu khác, sách “Để Hiểu Lịch Sử Đạo Thiên
Chúa ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII” của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên, xuất bản tại
Hoa Kỳ 1994, trang 142 nói rõ hai Linh mục là Gaspar d’Amaral người Bồ Đào Nha
và Linh mục Saulô Saito người Nhật Bản:
“Nhưng khi tới tỉnh
Nghệ An thì thấy có một chiếc tàu người Bồ ngược lên kinh thành, có hai người của
chúng ta, cha Gaspar d’Amarl, người Bồ và cha Phaolô Saito, người Nhật, sau này
chết vì tử đạo ở Nhật, chịu hành hung trong hầm. Các cha liền nhập bọn và cùng
đồng hành lên kinh thành, như thể vừa mới từ
Nói tóm lại,
trong chuyến đi ra này có thể Giáo sĩ Đắc Lộ không ghé trực tiếp được Vàng Mai
do phải ghé qua cửa Bạng để hướng dẫn cho các linh mục đồng nghiệp để biết những
hoạt động của ngài trên vùng cửa Bạng, cửa Thánh Giuse ngay từ những giây phút
đầu tiên khi ngài đặt chân tới xứ Đàng Ngoài, nhưng rất có thể ngài đã đi qua
vùng gần ranh giới để đến những địa điểm đã có nhà thờ Công giáo đầu tiên mà
ngài nói rõ như: Ke No, Van No tức vùng ranh giới mà gần đó có Vàng Mai của Nghệ
An.
II. VÀNG MAI CỬA RA VÀO THANH – NGHỆ
1. Giáo Sĩ Đắc Lộ Vào Nghệ An
Như trên
chúng tôi đã nói, Giáo sĩ Đắc Lộ vào tỉnh Nghệ An là một biến cố lịch sử, mọi
người, mọi thời đều công nhận như thế, nhưng thử hỏi ngài đã vào khi nào, mấy lần?
Trước mắt chúng ta có thể trả lời ngay được rằng Giáo sĩ Đắc Lộ đã công khai
vào Nghệ An hai lần:
Lần
Thứ Nhất: Trên đường bị tống xuất từ Thăng Long vào Đàng Trong cuối
tháng 3.1629, ngài đã lợi dụng thời gian bị áp tải bằng ghe thuyền với các quân
binh Nhà Nước để ghé qua vùng cửa Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa và các
nơi như cửa Càn (huyện Quỳnh Lưu), cửa Chúa (huyện Nghi Lộc), cửa Sót (huyện Thạch
Hà)… tỉnh Nghệ An.
Lần
Thứ Hai: Bằng phương tiện tự túc từ cửa Gianh của tỉnh Bố Chính (Quảng
Bình) ra cửa Khẩu, cửa Nhượng, cửa Sót, cửa Cương Gián, cửa Hội để từ đây lên
dinh Quan Trấn gặp quan tỉnh Nghệ An. Nhưng thử hỏi, ngoài hai lần này Giáo sĩ
Đắc Lộ còn có lần nào vào Nghệ An nữa hay không?
Thưa có, và
có thể vào năm 1627, trong khoảng thời gian Giáo sĩ Đắc Lộ ở vùng cửa Bạng, cửa
Thánh Giuse (15 ngày), tiếp đó đợi chúa Trịnh Tráng hành quân phương Nam trở về
vùng An Vực, Ke No, Van No của Thanh Hóa, Ranh Giới, Vàng Mai của Nghệ An! Bởi
vì căn cứ theo bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ cách đây (357 - 375) năm thì thấy
rõ ràng hai chữ Vàng Mai nay là Hoàng Mai, và thực tế Hoàng Mai hiện vẫn là một
địa phương sầm uất, một xứ đạo (Yên Hòa) khá đông giáo dân… Điều đáng quan tâm ở
đây là Giáo sĩ Đắc Lộ đã đến Hoàng Mai khi nào? Muốn hiểu vấn đề này chúng ta
phải nhờ đến những nguồn tài liệu khác có giá trị cao, đặc biệt:
- “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài”
& “Hành Trình và Truyền Giáo” của Giáo
sĩ Đắc Lộ:
Chúng ta
không thấy ngài nói rõ những địa danh nào ngoài Cvaciva (cửa Chúa), Cua Rum
(cửa Rùm), Cua Sot (cửa Sót) là ba
chỗ rõ ràng nhất. Thực tế hiện nay ba địa danh ấy được đổi thành cửa Lò, cửa
Sót, cửa Hội.
- “Bản Đồ” của Giáo sĩ Đắc Lộ:
Không thấy đề
rõ niên độ nào, nhưng căn cứ vào bản đồ này chúng ta nhận thấy, từ trong Bố
Chính trở ra cho đến hết phần đất tỉnh Nghệ An có hai nơi xa nhất là: Tại Bố
Chính, ngay bờ Bắc sông Gianh, Giáo sĩ Đắc Lộ đề rõ ràng hai chữ Ke Hoa thuộc
xã Trung Hòa. Và cuối phần đất tỉnh Nghệ An, giáp ranh Thanh Hóa ngài đề rõ hai
chữ Vàng Mai nay là Hoàng Mai. Còn bảy địa danh khác nữa nằm ở trung tâm tỉnh
Nghệ An, ngay vùng Cua Rum, Cửa Rùm (Cửa Hội) đi vào gồm: Ke Len tức Khi Lan
(?), Ke En nay là Làng Ênh, Cvaciva (Cửa Chúa) nay là Cửa Lò, Cua Rum (Cửa Rùm)
nay là Cửa Hội, Rum nay là Cầu Rầm, Ke Vinh (Kẻ Vĩnh) nay là Vĩnh Giang, Cua
Sot (Cửa Sót).
Cũng cần nói
thêm về chữ RUM ở đây bởi vì trong phần đất tỉnh Nghệ An thời đó có một dòng chảy
mang tên là sông Rum, cũng gọi là sông La thuộc phần đất tỉnh Hà Tĩnh ngày nay
như tục ngữ đã chép:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây,
Sông Rum[21] hết nước, họ này hết
quan”
Hai chữ “Họ
Này” có ý nói về dòng họ của Thi sĩ Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nếu căn cứ kỹ
hơn vào bản đồ ấy chúng ta biết thêm vùng hoạt động chính của Giáo sĩ Đắc Lộ,
đó là vùng lân cận sông La của tỉnh Hà Tĩnh và sông Lam của tỉnh Nghệ An.
Tại vùng
sông Lam, ngày nay chúng ta thấy có nhiều làng Công giáo như: Mỹ Dụ, Phù Long,
Thượng Nậm, Vạn Lộc, Qui Chính…
Tại vùng
sông La này nay có các giáo xứ như: Thọ Ninh, Nghĩa Yên, Kẻ E, Kẻ Đọng, Đông
Tràng, Kẻ Mui…
- Phúc Trình của Linh mục E. Ferreyra:
Đặc biệt hơn
hết là nhờ bản phúc trình của Linh mục dòng Tên Emmanuel Ferreyra mà chúng ta
nhận thấy rõ hơn vùng hoạt động của Giáo sĩ Đắc Lộ trước đó 48 năm (1629 - 1676).
Chỉ riêng Phủ Đức Quang, gồm một phần
Sở dĩ có được
con số kỷ lục ấy là nhờ sự tiếp tay của các nhà thừa sai vừa của dòng Tên, vừa
của hội thừa sai Paris Pháp. Nhưng phải thành thực mà nói là nhờ Giáo sĩ Đắc Lộ,
người đã đặt cơ sở, nền móng mở đường trước để các vị kế tiếp noi theo…
2. Tính Quan Trọng Của Vàng Mai
Theo lịch sử
địa lý tỉnh Nghệ An, Vàng Mai này xưa là tên của một đơn vị hành chánh lớn nằm ở
địa đầu huyện Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ An mà ngày nay gồm có các xã như: Quỳnh
Vinh, Quỳnh Thiên, Quỳnh Hợp, Quỳnh Đôi, Quỳnh Lâm, Quỳnh Dĩ… thuộc Bắc tỉnh
Nghệ An đã được liệt kê vào hàng số một của các giáo điểm có tên trong bản phúc
trình. Nói theo ngày nay, Vàng Mai được coi như là nơi đầu tiên của giáo hạt
Thuận Nghĩa, giáo phận Vinh được đón nhận đức tin đạo Chúa ngay từ những giây
phút đầu khi Giáo sĩ Đắc Lộ vào tỉnh này, năm 1627.
Về mặt tôn
giáo, cho đến nay chưa thấy có ai tìm được chứng từ nào nói rõ về vai trò quan
trọng của Vàng Mai trong thời đầu truyền giáo sau khi Giáo sĩ Đắc Lộ rút lui khỏi
Đàng Ngoài. Tuy nhiên, qua một vài tài liệu sẵn có, chúng ta thấy Hoàng Mai dưới
danh nghĩa bao quát “nơi giáp ranh tỉnh Thanh Hóa” hoặc dưới danh nghĩa chính
thức “Vàng Mai”. Cho nên, dầu nói ra hay không thì Vàng Mai vẫn được hiểu ngầm
là điểm nối giữa hai vùng truyền giáo Thanh Hóa và Nghệ An, gắn bó với nhau từ
những vị kế thừa công trình Giáo sĩ Đắc Lộ. Cụ thể liên tục có các chứng từ của
các vị sau:
- Chứng
từ Giáo sĩ Đắc Lộ:
Năm 1627,
Giáo sĩ Đắc Lộ đã đến, đã biết và ghi rõ hai chữ Vàng Mai trên bản đồ của ngài mà không thêm một chi tiết nào. Dầu vậy,
nếu tính theo thời gian tám tháng mà ngài nói rõ đã ở Nghệ
An thì xét ra chưa đủ như đã nói trên. Thử hỏi, còn hai tháng, tức 60 ngày nữa
ngài ở đâu? Theo chúng tôi, phải chăng khi nói tám tháng tức Giáo sĩ Đắc Lộ muốn
tính gộp luôn cả thời gian hai tháng của năm 1627 khi ngài hoạt động ở vùng
ranh giới Thanh Hóa - Nghệ An trong đó có Vàng Mai.
- Chứng
từ của Linh mục Gaspar d’Amaral:
Sau khi hai
Giáo sĩ Đắc Lộ và Pedro Marquez rời khỏ Nghệ An cuối tháng 10 năm 1629, không
rõ thừa sai nào là người tiếp nối công việc của ngài tại đây. Chỉ biết rằng, đầu
năm 1632 nghĩa là ba năm sau kể từ khi Giáo sĩ Đắc Lộ rời bỏ vĩnh viễn phần đất
này, theo bản điều trần của Thừa sai Gaspar d’Amaral thì ở Đàng Ngoài đã hình
thành ba khu vực truyền giáo, trong đó Nghệ An có: Rum, Kẻ Vĩnh, Thanh Chương, Làng Cầu, Đậu Xá, Vàng Mai. Chứng tỏ những
giáo điểm vừa nêu chính là thành quả của Giáo sĩ Đắc Lộ.
- Chứng
từ Linh mục Giolamo Majorica:
- Linh
mục Girolamo Majorica sinh tại
- Gia
nhập dòng Tên năm 1605.
- Đến
thành
- Đến
Đàng Trong, An Nam (Việt Nam) năm 1624 cùng với 6 linh mục dòng Tên trong đó có
Giáo sĩ Đắc Lộ, Linh mục Marques và Linh mục Antonio De Fontes.
- Bị
trục xuất khỏi Đàng Trong năm 1629, ngài trốn xuống vùng Phan Rí (lúc đó còn
thuộc Vương Quốc Chăm).
- Đến
Đàng Ngoài năm 1632, thường ở Kẻ Rum, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Làm
Bề Trên Đàng Ngoài năm 1649 (?).
- Qua
đời ngày 27 tháng 1 năm 1656 tại Thăng Long.
Thời ngài đạo
Công giáo ở Đàng Ngoài phát triển mạnh. Chỉ riêng năm 1639, ngài đã rửa tội cho
2.472 người ngoại trở lại…
Sách “Lịch Sử
Truyền Giáo Việt
- “Còn hai cha
Majorica và cha De Fontes thông thạo tiếng nói và khu vực hơn thì đi thăm các họ
đạo trong vùng Nghệ An, Thanh Hóa. Đã ba năm từ khi Giáo sĩ Đắc Lộ trong thời kỳ
lưu vong, đi qua truyền giáo cho họ, họ vẫn chưa được thấy bóng người linh mục…”.
- “Suốt bốn năm liền,
hai cha chia nhau đi thăm các họ, cha Majorica vùng Nghệ An, cha Antonio De
Fontes vùng Thanh Hóa, họ một đôi ngày, họ bốn năm ngày”.
Chi tiết này
cho phép chúng ta hiểu ngầm rằng, Nghệ An bao gồm cả Vàng Mai và cùng được hai
linh mục này săn sóc. Riêng Linh mục Majorica là người ở Nghệ An lâu nhất, có
thể nói là từ đầu năm 1632 cho tới lúc từ trần (đầu năm 1656) cả lúc được bầu
làm bề trên của dòng Tên ở Đàng Ngoài (cuối 1637 - đầu 1638) thay Linh mục Jean
Cabral phải về Ma Cao chữa bệnh ngài cũng vẫn ở Nghệ An chứ không về Thăng
Long. Lẽ dĩ nhiên, trong thời gian dài như vậy bắt buộc ngài phải qua lại nhiều
lần để thăm nom các bổn đạo trong xứ Đàng Ngoài, trong đó đặc biệt là các bổn đạo
vùng ranh giới Nghệ An - Thanh Hóa và Vàng Mai là đầu mối quan trọng của Nghệ
An. Vì tính gắn bó như vậy, chúng ta cần biết thêm sự liên hệ mật thiết giữa
ngài - là tông đồ Đàng Trong ra làm tông đồ Đàng Ngoài, ở giáo phận Vinh và ngược
lại. Từ đó có được một mối dây liên hệ dưới sự quan phòng nhiệm mầu của Chúa
khi đưa một số đông giáo sĩ, giáo dân Vinh vào định cư ở miền Nam, nhất là Phan
Thiết để lập thành nhiều giáo xứ con cái Vinh tha phương, cụ thể:
Từ năm 1820
đến năm 1887, đời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, giáo dân Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình (hạt Bình Chính) đã chạy vào miền Nam để lánh nạn bắt đạo. Họ
định cư rải rác khắp nơi và đặc biệt ở các vùng: Bình Chính (Phan Rang), Phan
Rí, Long Hương, Mũi Né, Lạc Đạo, Cù Mi, Tân Lý… Đặc biệt, sau năm 1954, phong
trào di cư đã đem hàng vạn giáo sĩ, giáo dân miền Bắc, trong đó có đủ mặt: Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đến định cư ở giáo phận Phan Thiết và đã tạo thành những
giáo xứ, giáo họ mới như: Vinh Phú, Vinh Thủy, Vinh Lưu, Vinh Tân, Vinh Thanh,
Vinh An, Thuận Nghĩa, Thanh Xuân, Tân Lập, Tân Tạo, Hiệp An, Hiệp Nghĩa, Hòa
Vinh, Võ Đắt. Giáo phận Phan Thiết cũng đón nhận một số tín hữu Công giáo không
ít đến từ các giáo phận miền Bắc khác như: Ma Lâm, giáo phận Hải Phòng; Thanh Hải,
Ba Làng, giáo phận Thanh Hóa; Chính Tâm, giáo phận Bắc Ninh.
Ở đây chúng
ta muốn mở một dấu ngoặc: rất có thể linh mục Paulo Cát (Đất), người xứ Yên Đại,
Nghệ An, giáo phận Vinh bị phân tháp vào Bình Thuận (Phan Thiết) và qua đời ở
đó thời vua Tự Đức đã lén lúi phụ trách phục vụ cho các giáo hữu trong chốn lưu
đày này. Ngài là một trong số 22 vị tử đạo của giáo phận Vinh, đã có hồ sơ đầy
đủ bên Tòa Thánh. Hồ sơ này được Cố Chính Tân (Louis Dalaine Tân) điều tra và
đã được Đức Giám mục Pineau Trị lập hồ sơ gửi cho Bộ Phong Thánh năm 1909, cùng
với 21 vị khác dược nêu gọn quí danh trong bốn câu thơ sau:
CHÂU, THÔNG,
KHOA, CẨN, TĂNG, KHIÊM, NĂNG,
TRẠCH, NGHI,
HỘ, LẠNG, HIỀN, DONG, QUANG,
CAI, CHÂN,
XUÂN, CÁT, NIÊN, TRÚC, LỊNH,
PHÊ, TRỊ,
TÂN tra LA MÃ trình[22].
Năm 1973, một
số giáo dân từ Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Qui Nhơn, Quảng Ngãi tránh chiến
tranh đã chạy vào Bình Thuận và lại hình thành thêm các giáo xứ: Hiệp Đức, Tân
Châu, Đông Hà, Thánh Linh, Gio Linh, Tin Mừng…
Sau ngày thống
nhất đất nước 1975, một số khá đông giáo dân ở các giáo xứ miền Bắc gốc Vinh lại
ào ạt chạy vào để tăng cường cho những giáo xứ đã có sẵn. Và vào tháng 8.2001,
một Vị trong linh mục đoàn giáo phận Phan Thiết gốc giáo phận Vinh đã được Tòa
Thánh kén chọn, đặt lên làm Giám mục phó giáo phận Phan Thiết, Đức Cha Paulô
Nguyễn Thanh Hoan. Phải chăng Thiên Chúa đã xếp đặt và chuẩn bị trước cho sự kiện
này???
- Chứng
từ Linh mục Jean Cabral:
Đầu năm
1647, nghĩa là 20 năm sau khi Giáo sĩ Đắc Lộ đến một hái đoàn dòng Tên gồm:
Linh mục Majorica, Linh mục Cardoso - Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài và nhất là
Linh mục Jean Cabral, thanh tra viên dòng Tên Rôma đã đích thân đi đường sông từ
tỉnh Thanh Hóa vào tới Vàng Mai, tỉnh Nghệ An. Với tư cách là một nhà truyền
giáo, một nhà thanh tra, Linh mục Jean Cabral đã nhận xét về Vàng Mai này,
nguyên văn như sau:
“Sau khi làm xong
các nghi lễ và phân phát tặng quà (ở Thanh Hóa), chúng tôi lên đường đi Nghệ
An, thừa sai Magiorica (Majorica), thừa sai Cácđôsô (Cardoso) và tôi, trong lúc
thừa sai PhighêIra (Figuerira) ở lại (Thánh Hóa) để học tiếng với thừa sai
Xơ-lê (…).
“Sau 12 hay 13 ngày
đường, chúng tôi tới làng Vag May (Vàng Mai), nơi đây có một nhà thờ lớn do một giáo hữu có tên thánh là Bentô
(Bênêđíctô) gìn giữ và chu cấp kinh phí. Giáo hữu này trước kia là một nhà sư,
nay là một tôi tớ lớn của Thiên Chúa. Chúng tôi dâng thánh lễ, các thừa sai đã
làm phép cáo giải, tôi đã cho một số đông rước lễ, tôi cũng làm phép rửa cho
nhiều người…
“Vào tảng sáng chúng
tôi tới làng Quêmangu (?) nơi thừa sai Calopressi đã từ trần. Ông trúm của họ đạo
này có tên là Gioan Kim Đang bị tù nên chúng tôi không muốn lên bờ, nhưng giáo
hữu đã đến đón chúng tôi quá làng này một ít…”[23].
Ở đây chúng
tôi xin phép dừng lại ở hai địa danh:
1. Trước tiên địa danh Vàng Mai gợi lại
những giây phút đầu tiên khi Giáo sĩ Đắc Lộ đặt chân lên vùng đất cửa Bạng, tỉnh
Thanh Hóa ngày 19.3.1627 và sau đó khoảng ngày 13.4.1627[24] tại
ranh giới Thanh Hóa - Nghệ An, nơi có các địa danh: An Vực, Thôn No = Ke No,
Van No của Thanh Hóa và Vàng Mai của Nghệ An. Từ chỗ hai chữ Vàng Mai trốn trơn
của năm 1627, vậy mà 20 năm sau, tức ngày 12.10.1647, trước mắt phái đoàn 3 vị
linh mục thanh tra, Vàng Mai đã có một bộ mặt khác hẳn về hình thức cũng như về
nhân sự. Chẳng hạn, một ngôi nhà thờ lớn, tức là một xứ đạo lớn, có nhiều giáo
dân sống đạo và thực hành đạo nhiệt tâm, nhiệt tình, xưng tội, rước lễ suốt
đêm.
Cao điểm của
vấn đề Vàng Mai mà phúc trình Jean Cabral 1647 nói đến là một cựu nhà sư Phật
giáo, có uy thế về văn hóa, đạo đức, khả năng kinh tế để làm điểm tựa cho sự sống
còn của môi trường này, và làm cho nó khác hẳn với môi trước khác. Hơn thế, sau
khi trở về với đạo Chúa, phúc trình không nói rõ ông là giáo sĩ hay linh mục,
mà chỉ nói ông là một tín hữu, nghĩa là một giáo dân bình thường, nhưng được tặng
thêm biệt danh là một tôi tớ lớn của
Thiên Chúa. Điều này có thể giải thích cho lập luận nếu có về ông hoặc ông
câu, hoặc ông biện, ông trùm, chánh trương, chánh xứ… trong nội bộ hoặc ngoài
giáo xứ anh em. Cũng có thể ông là một bề trên của hội thầy giảng mà chính Giáo
sĩ Đắc Lộ đã thiết lập ở Bắc Kỳ hồi đó.
Sự lớn mạnh
quá đột phá ấy chắc chán không phải là việc bình thường, nếu không muốn nói rõ
là chính bàn tay Giáo sĩ Đắc Lộ đã ít nhiều ngấm ngầm hay công khai yểm trợ cho
việc phát triển ấy. Bởi vì sau chuyến đi đó, ngài còn ở lại Đàng Ngoài hơn kém
3 năm. Thử hỏi và đem so sánh về mấy nơi mà chính bản thân Giáo sĩ Đắc Lộ trụ
trì và đào tạo như: Kẻ Rùm, Khi Lan có được phát triển trong tư tế vững vàng
như Vàng Mai không.
2. Quêmangu là tên lạ, cả về lối viết cả
về ý nghĩa. Trước tiên thử phân tích Quêmangu là gì, gồm những gì, ý nghĩa làm
sao, nguồn gốc của nó là tiếng vì, tiếng Chàm hay tiếng Hoa, tiếng Tây hay tiếng
Ta mà do các linh mục thừa sai nước ngoài phiên âm theo giọng nói.
Chắc chắn
không phải tiếng Chàm, vì địa lý ảnh hưởng văn hóa Chàm chỉ ở Đèo Ngang trở vào
cho đến Bình Thuận cũng không phải tiếng Hoa do ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc
trong các thời kỳ đô hộ mà chỉ có thể do tiếng người đia phương Quỳnh Lưu phát
âm không rõ sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã… Nếu được phép phân tích và được phép viết
rời ra chúng ta thấy đây là kiểu nói nghề nghiệp theo phong tục địa phương, chẳng
hạn: Quê - Ma - Ngủ hoặc Quê - Mã - Ngư…
Nói Quê Ma
Ngủ, là muốn nói một địa phương nào đó quá âm u, vắng lặng, ít ai đến, ít ai
đi, chỉ dành cho ma quỷ ở, ma quỷ ngủ mà thôi. Còn nói Quê Mã Ngư, có thể muốn
chỉ riêng về nhóm người chuyên đánh lưới cá ngựa, hay cá ngừ. Điểm này chúng
tôi đã được mắt thấy tai nghe khi còn nhỏ, học ở Trường Tập Xuân Phong, Phủ Diễn,
người dân quen kéo lưới rùng, hoặc khi lớn làm mục vụ ở các miền biển, thấy người
ta đánh bắt được nhiều thứ cá như: cá ngựa, cá ngừ, mực nang, mực ống… Theo
chúng tôi, chìa khóa để mở chữ này gồm có ba từ là: “Quèn”, “Mành” và “Ngư”. Ba
nơi này gần nhau, nằm dựa lưng nhau như Quèn và Mành Sơn.
Cho nên khi
người nước ngoài đặt chân đến đây, họ phải hỏi người địa phương cho biết vùng
này là gì, thì họ sẽ trả lời, một trong ba tên vừa nói, và tên nào cũng hiểu được,
chẳng hạn trong những câu đối thoại quen miệng như:
- Đây là gì?
- Đây là
Quèn, đây là Mành hoặc cửa Quèn, cửa Mành.
- Đây là
Quèn, Mành hả?
- Ừ! Đây là
Quèn, Mành.
Quèn là cửa
biển theo chữ Hán ngày xưa là cửa Tấn Quyền đọc nhanh là Quèn, là cửa Lạch mà
ngoài đó có hòn Ngư cách núi Mành Sơn theo đường chim bay khoảng hai cây số.
Mành Sơn là một dãy núi giống như chiếc thuyền mành lớn, cao, dài độ hai cây số.
Theo bản phúc trình của Linh mục Jean Cabral nói, Linh mục Calopressi đã ở, đã
làm việc và chết ở đây, nghĩa là chết tại Quêmangu này. Điều này có thể giải
thích, Linh mục Calopressi đã chết một trong ai nơi là nhà thờ Quèn, nói theo
tên xưa là làng Phú Nghĩa Thượng hay là Phú Nghĩa Hạ, hoặc có thể chết ở làng
Mành Sơn, hiện nay vẫn là giáo xứ Mành Sơn. Còn chuyện chôn xác của ngài thì lại
ở Làng Cầu, cách năm mươi cây số đường biển. Hồi đó Làng Cầu là trụ sở quan trọng
của các xứ đạo ở Nghệ An do các linh mục dòng Tên coi sóc. Còn những tên khác
như: Cửa Rum, Làng Cầu, Quilam sẽ thấy khi đề cập đến những chỗ khác trong tập
nghiên cứu này.
- Chứng
từ Linh mục Victô Trí:
Linh mục
Victô Trí, người gốc Nghệ An, thụ phong linh mục năm 1670 tại Sơn Nam, được
phân công phụ trách vùng Nam tỉnh Thanh Hóa tức vùng giáp ranh giới tỉnh Nghệ
An.
Từ năm 1671,
Linh mục Victô Trí được đổi vào Nghệ An, khi vừa vào đến ranh giới tỉnh này,
ngài đã được giáo dân ở đây đón tiếp một cách nồng hậu, nguyên văn như sau:
“Cha vừa tới ranh giới
tỉnh, giáo dân đã bao vây cha, xin cha ban các bí tích cho họ. Cha phải lưu lại
đó gần hai tháng rưỡi.
Lòng khao khát và
nhiệt thành của giáo dân đã khiến cha vô cùng xúc động và không hề lìa bỏ họ,
dù hai giáo dân xấu nết bị cha quở trách vì đã bỏ vợ có đạo để lấy vợ ngoại đạo,
đã đi tố cáo cha với tên lãnh binh của quan tổng đốc. Trong khoảng thời gian ngắn
ấy, cha đã giải tội cho 2.618 người và ban phép rửa cho 441 người…”[25].
Theo đoạn
trích này, chúng ta thấy ý tác giả muốn nói đến địa phương Vàng Mai và chỉ có
Vàng Mai là ranh giới xưa cũng như nay.
- Chứng
từ Linh mục E. Ferreyra:
Ngày 03
tháng 10 năm 1676, tại Kẻ Vó, tỉnh Thanh Hóa, nơi xưa kia Đức Giám mục Lambert
đã đặt một cha xứ coi sóc toàn tỉnh Thanh Hóa (hồi đó chưa có Ninh Bình) và mấy
huyện của tỉnh Nam Định, linh mục dòng Tên Emmanuel Ferreyra đã viết một bản
phúc trình dài 41 trang, khổ giấy 19x30cm. Mục đích chính của bản phúc trình là
báo cáo cho Linh mục Feliciano Pacheco, giám sát dòng Tên hai tỉnh Nhật - Hoa về
các xóm đạo ở Nghệ An năm 1674 và 1675 do ngài phụ trách. Trong phúc trình này
Linh mục Emmanuel Ferreyra đã liệt kê được 195 giáo điểm thuộc vùng Nghệ An, với
Vàng Mai là vị trí đầu tiên, vị trí đứng số
1 kể từ ranh giới Thanh Hóa vào đến đèo Ngang, giáp ranh Bố Chính, Quảng
Bình (xin xem thêm ở phần Phúc Trình nói sau).
- Chứng
từ Linh mục Domenico Fuciti và E. Ferreyra:
Trước khi phải
ra khỏi Đàng Ngoài tháng 10 năm 1684, hai Linh mục dòng Tên Domenico Fuciti (ở
Đàng Trang từ 1658 - 1665; năm 1668 đến Đàng Trong mấy tháng; ở Đàng Ngoài từ
1669 - 1684; 1693, Đức Thánh Cha cho phép trở lại Đàng Ngoài, nhưng vì già yếu,
nên chưa đi Đàng Ngoài được thì qua đời tại Áo Môn ngày 19.10.1696, thọ 71 tuổi)
và Linh mục E. Ferreyra nhóm họp các thầy giảng ở Kẻ Loi, là một trong số những
nơi ở của các linh mục dòng Tên, gần một cửa sông Đàng Ngoài, cũng là nơi tàu
Hòa Lan đậu trước khi căng buồm ra khơi. Trong buổi họp, Linh mục E. Ferreyra
phân chia trách nhiệm cho các thầy giảng địa phương tại 9 khu vực, trong đó
Vàng Mai với tên gọi Ke Mai, bao gồm toàn thể xứ Nghệ An:
- Kinh Đô, có một nhà thờ và 2, 3 nhà nguyện;
- Ke Vo, xưa kia Đức Giám mục Lambert đã đặt một
cha xứ, gồm toàn xứ Thanh Hóa và mấy huyện xứ
- Cao Mai, trong xứ Sơn
- Ke Loi, gồm miền hạ xứ Đông;
- Ke Tuom, gồm miền thượng xứ Đông;
- Ke Noi, bao gồm toàn xứ Bắc;
- Ke Blu, bao gồm toàn xứ Đoài;
- Ke
Mai, bao gồm toàn thể xứ Nghệ;
- Một nửa Bố Chính về phía
Tại mỗi nơi, E. Ferreyra cử một thầy giảng
lo mọi việc gần như một cha xứ, có 5, 6 kẻ giảng phụ tá, giống như các cha phó.
Thầy giảng phụ trách nhà thờ ở hàng bè (tại kinh đô) là bề trên tất cả các thầy
giảng, kẻ giảng và toàn bộ 9 khu vực trên là thầy Anton Trịnh Tường, được bổn đạo
gọi là “thầy cả” hay “cha cả” vì kính mến[26].
- Chứng
từ Đức Giám mục Jacques De Bourges:
Theo báo cáo
các linh mục ở Đàng Ngoài năm 1699, gửi lên Đức Giám mục Jacques De Bourges
(Giám mục đại diện tông tòa Tây Đàng Ngoài, kiêm giám quản giáo phận Đông Đàng
Ngoài, vì mãi đến năm 1702, linh mục Raimundo Lezzdi Cao, O.P, mới được tấn
phong Giám mục đại diện tông tòa giáo phận Đông Đàng Ngoài) thì năm đó các linh
mục dòng Tên coi sóc 26.197 bổn đạo tại 7 xứ, trong đó KE MAI là nơi ở của các
cha hai tỉnh Nghệ An và Bố Chính:
Tên xứ Số xã Nơi ở các cha Số bổn đạo
Thanh Hóa 41 chu Ke Vo 3.082
Nghệ An, Bố Chính 97 xã Ke Mai 5.658
Sơn
Đông, An Quảng 52 nơi Ke
Loi, Ke Tuom 3.016
Bắc, và bốn xứ
nhỏ 19 xã Ke Noi 990
Đoài 27 xã Ke Blou 6.205
Kinh đô ? Hàng Bè ?
Tổng cộng: 292
xã, chu, nơi 26.197[27]
- Chứng
từ Linh mục Paulô Nguyễn Hoằng:
- Sinh ngày 12.11.1839.
- Năm 1852, nhập học Tiểu Chủng
Viện Xã Đoài.
- Năm 1854, đi học trường Penang
Malaisia.
- Năm 1863, đi với Quan sứ An
Nam sang Pháp và Tây Ban Nha rồi đến thành Rôma, Italia chầu Đức Giáo Hoàng Piô
IX, ngài ban cho một tượng vàng và hình Ngài.
- Năm 1868 (02.8), thụ phong
linh mục.
- Tháng 10 năm 1868, vào Kinh Đô
Huế dạy học cho con Vua Tự Đức.
- Năm 1889, lập giáo xứ Yên Hòa.
Tại đây, được các làng xã chung quanh nhượng đất ngài đã lập thành các họ giáo
như: Trang Hộ, Nhạc Sơn (Làng Mít)…
- Năm 1902, làm nhà thờ giáo xứ
Yên Hòa…
- Năm 1909,
qua đời tại giáo xứ Yên Hòa.
Hiện tại năm
2002 này, Vàng Mai tức Hoàng Mai, Yên Hòa vẫn là một xứ đạo khá sầm uất với
2.933 giáo dân (1996).
Sẵn dịp đây, chúng tôi đề nghị giáo xứ Yên Hòa nên lấy lại đúng tên cũ Vàng Mai vì nó có gần 400 năm và là nơi đầu tiên trong giáo phận Vinh được lãnh nhận đức tin từ Giáo sĩ Đắc Lộ năm 1627 như đã nói một vài nơi đó đây.

Tại
khuôn viên nhà thờ Vàng Mai (Hoàng Mai)


BÀI BA
NHỜ VÀNG MAI
ĐI TÌM AN VỰC, KE NO, VAN NO [28]
I. TỪ LÝ THUYẾT SÁCH VỞ
1. Trích câu, đoạn liên quan
Cũng theo lời
Giáo sĩ Đắc Lộ, kết thúc cuộc gặp gỡ ấy đã diễn ra “ở một cánh đồng rộng lớn gần một
thôn gọi là An Vực”[29], là nơi chúa
Trịnh Tráng đã dừng lại, cúng tế, sắp đặt chỗ lưu trú cho đoàn hậu cần và phái
đoàn ngườ Bồ Đào Nha trong đó có Giáo sĩ Đắc Lộ. Sau đó tiếp tục hướng dẫn đoàn
quân Nam tiến.
Riêng phái
đoàn Giáo sĩ Đắc Lộ và người Bồ Đào Nha đã được vị hoạn quan ưu ái săn sóc chỗ ở,
chỗ sinh hoạt như lịch sử đã viết:
“(…) Chúa giao chúng
tôi và người Bồ cho một hoạn quan trong phủ, một người chính đáng săn sóc chúng
tôi và cắt lính gác để không ai làm phiền lụy đến chúng tôi. Viên quan này thừa
hành rất tốt, ông còn sửa soạn cho chúng tôi một nơi ở khá rộng, bằng gỗ, theo
kiểu nhà trong xứ này, nơi chúng tôi đặt một nhà nguyện và một bàn thờ với ảnh
Chúc Cứu Thế…”[30].
Căn cứ theo
những chi tiết sử liệu này chúng ta thấy Giáo sĩ Đắc Lộ đã viết và vẽ những địa
phương có tên như: An Vực, Thôn No = Ke No (bên
này sông) và Van No (bên kia sông),
gần ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An. Chỉ tiếc là những địa phương nói
đây tuy có tên trong lịch sử và riêng An Vực, Van No lại có tên trong bản đồ của
chính linh mục Đắc-lộ vậy mà cho đến nay chưa ai tìm ra dấu tích gì liên quan đến
những địa danh ấy. Dưới đây là mấy nét nguyên văn trích từ sách “Lịch Sử Vương
Quốc Đàng Ngoài” của Giáo sĩ Đắc Lộ về ba địa phương này:
·
AN VỰC
- Chương 5, trang 87:
“(…) Một hôm chúa dừng
lại cùng tất cả đạo binh ở một cánh đồng rộng lớn, gần một thôn gọi là An Vực…”.
- Chương 7, trang 92:
“Từ nơi chúng tôi
làm trụ sở thứ nhất, việc rao giảng Phúc Âm được truyền bá tới vùng lân cận và
các thôn gần đó cũng bắt đầu trở lại. Một trong các viên quan chính yếu của tỉnh
này đã mời chúng tôi đến nhà nhân ngày lễ lớn ông ăn mừng cùng rất đông người,
thế là chúng tôi được dịp làm đạo sâu rộng hơn trước mặt một đám hội lớn về những
mầu nhiệm chính yếu của đức tin (…) Trong số này có một ông sãi rất danh tiếng
trong vùng (…) khi nhận biết đạo sai lầm của ông và sự thật đạo ta thì ông (…)
chịu phép thánh tẩy lấy tên là Gioan, vợ thì gọi là Anna và tất cả gia quyến.
Đa số dân xã An Vực (…) đã xin chịu phép rửa tội sau ông…”.
·
THÔN NO =
KE NO
- Chương 6, trang 89, 90:
“Ngay sau khi chúng
tôi có một nơi riêng để thừa hành chức vụ và giảng Phúc âm thánh, thì có rất
nhiều thính giả tuôn đến và sau khi được dạy dỗ về đức tin thì họ chịu phép rửa
tội. Trong số đó mấy vị sư mở đường làm gương cho dân chúng trở lại. Vị sãi
chính yếu và kỳ cựu hơn cả được các đồng sự trong tỉnh cảm phục và tôn trọng
như bề trên, cũng là người đầu tiên theo đức tin và Kitô giáo (…) Lấy tên rửa tội
là Gioan Kim, một nhân vật có thế giá và đạo hạnh, đã thu hút được nhiều người
khác thuộc cả hai giới (…) Ông liền dâng một thửa ruộng cạnh đấy thuộc về ông để
dựng một nhà thờ rộng hơn, nhà thờ làm bằng gỗ như lối bản xứ do lòng sốt sắng
của giáo dân tân tòng và trang trí do hảo tâm của người Bồ. Chúng tôi làm phép
trọng thể ngày mồng 3 tháng 5, ngày tìm thấy thánh giá.
Đồng thời xảy ra một
vụ một quân binh của chúa ngã bệnh nặng ở thôn chúng tôi đang ở gọi là NO…”.
- Chương 28, trang 147:
“… Một hôm chúng tôi
tới thôn gọi là Ke No là trụ sở cũ và thứ nhất của chúng tôi, khi chúng tôi mới
tới xứ Đàng Ngoài và cũng là nơi đã dựng nhà thờ Công giáo đầu tiên, thêm một bệnh
viện khang trang để săn sóc các giáo dân cùng khổ và chữa các bệnh nhân, cả người
lương dân tỏ lòng muốn trở lại đạo (…) Nhưng khu nhà thờ, như chúng tôi được
tin về sau, không còn[31]. Bởi vì sau khi ông
già Gioan Kim chết (như chúng tôi đã nói), chính ông đã dâng đất để dựng nhà thờ
(…) Chúng tôi đã thấy bỡ ngỡ khi đi đày trở về, lúc qua nơi này[32]…”.
·
VAN NO
- Chương 7, trang 93:
“… Ở một thôn bên
kia sông gọi là Van No có một bà lão xưa kia thờ mê tín, nhưng từ khi nhận đức
tin với phép rửa tội thì hết sức nhiệt thành chinh phục mọi đồng hương. Bà đã sửa
soạn cho một số đông tin theo đạo thật (…) Bà chỉ buồn phiền vì ông chồng phản
đối (…) Cuối cùng làm mềm được lòng cứng rắn của ông để nhận ơn Đức Thánh Linh,
sau khi ông bỏ vợ bé làm cho ông nô lệ tội lỗi thì ông chịu phép thánh tẩy và lấy
tên là Giuse và với ông có tất cả những con cái của bà vợ mọn ông giữ lại trong
nhà. Và hai ông bà này chuyên chú làm các việc bác ái và biến nhà mình thành một
nhà nguyện thờ kính cho giáo dân tới, lại còn hăm hở làm các việc nghĩa, thêm
vào việc nhà thờ (giáo dân tân tòng đã dựng ở đây) lại có một nhà thương cho
người nghèo, trong đó hai ông bà thi thố các việc bác ái rất đáng khen.
Không xa nhà chúng
tôi, có một bệnh xá cho một số người cùi (…) Họ đã dựng trong hàng rào họ ở một
nhà nguyện để hội nhau mỗi chủ nhật để đọc kinh trước ảnh chúng tôi cho họ…”.
2. Thử phân tích, tìm hiểu địa danh
Trên đây là
ba địa danh quan trọng trong sự nghiệp truyền giáo của Giáo sĩ Đắc Lộ tại Đàng
Ngoài, vậy mà ngày nay không thấy nơi nào nói đến một cách đích xác trong phạm
vi giáo phận Thanh Hóa:
Có người
nói, Ke No và Van No là một, hiện là giáo xứ Hảo Nho thuộc hạt Phát Diệm, giáo
phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình.
Người khác
nói, An Vực nay là Mai Vực - Tây Bắc Thanh Hóa, thuộc huyện Vĩnh Lộc, giáp ranh
giới Ninh Bình[33].
Riêng Linh mục
Đỗ Quang Chính, trong cuốn “Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615 - 1777”, 2000,
từ trang 138 đến 145 cho biết các địa điểm này thuộc phần đất tỉnh Thanh Hóa và
nằm ở phía ngoài sông Mã: “… Tới vùng
Thanh Hóa, chúa ra lệnh cho đoàn khách Tây phương ngừng tại An Vực (Yên Vực) nằm
phía tả ngạn sông Mã (…) Từ An Vực, hai giáo sĩ băng ngang qua phía Vân No và
các làng xã chung quanh…”.
Chúng tôi
không rõ tác giả còn có những văn bản nào khác do chính tay Giáo sĩ Đắc Lộ hoặc
tác giả nào của dòng Tên viết vào thời đó để có thể đem ra những giải thích như
vậy. Nếu có, chúng tôi thành thực cám ơn tác giả đã cho biết thêm những chi tiết
hữu ích như thế. Tuy nhiên, nếu đó cũng chỉ là giả thiết cá nhân và nếu còn được
phép tham gia ý kiến thì chúng tôi nghĩa rằng: Con sông Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ trong
bản đồ của ngài không nên hiểu nguyên cho sông Mã mà có thể một trong những
sông khác hoặc một nhánh nào đó ngoài con sông ấy. Ý chúng tôi muốn nói đến
sông Vằng, nơi có cửa Bạng (cửa Thánh Giuse) và sông Yên, nơi có cửa Ngọc Giáp
(Ngọc Giáp môn, theo bản đồ Hồng Đức).
Bởi vì, bản
đồ truyền giáo Đàng Ngoài 1650, trong phần đất tỉnh Thanh Hóa, Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ
hai dòng sông chảy bắt nguồn từ hướng Tây đổ ra Biển Đông, nơi có cửa biển là
Cua Bic (Cửa Bích, phía ngoài) và Cua Bang (Cửa Bạng, ngài đặt tên là cửa Thánh
Giuse[34],
nằm gần cực Nam chứ không phải Trung, càng không phải Bắc tỉnh Thanh Hóa. Trong
khi theo lịch sử địa lý ngày nay của tỉnh Thanh Hóa thì:
“Tỉnh Thanh Hóa có
khoảng 20 sông rạch chảy từ hướng Tây xuống Đông
Vì Giáo sĩ Đắc
Lộ không nói rõ tên sông gì, đặc biệt trong trường hợp con sông nói trên có
liên hệ mật thiết với ba địa danh quan trọng là An Vực, Ke No và Van No. Hơn nữa
hai địa điểm An vực, Ke No đã được Giáo sĩ Đắc Lộ khẳng định ở “bên này sông” sánh với “bên kia sông” là Van No và chính Van
No này lại tiếp giáp với Vàng Mai thuộc phần đất cực Bắc Nghệ An qua ranh giới
hai tỉnh. Cho nên vì tính cố định của ranh giới chia đôi hai tỉnh, vì tính cố định
của địa điểm Vàng Mai, của cửa biển và con sông Vằng cũng như kênh đào Nhà Lê
(kênh đào Hồng Đức, kênh đào Mã Viện), vì thế thiết nghĩ khó có thể chấp nhận một
lối giải thích nào khác như thế.
Đàng khác, nếu
lấy bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ ngày xưa đem sánh với bản đồ Việt
Nhánh phía Bắc
gọi là sông Vằng, chảy theo triền núi Xước đổ ra cửa Bạng, Thanh Hóa, nơi Giáo
sĩ Đắc Lộ đã cập bến đúng ngày lễ kính Thánh Giuse, 19.3.1627.
Nhánh phía
Thêm vào đó,
kênh đào Nhà Lê tức kênh đào Mã Viện nối liền các sông của hai tỉnh nơi ranh giới
của hai huyện địa đầu là Nghi Sơn, Thanh Hóa và Quỳnh Lưu, Nghệ An. Trong đó
Hoàng Mai xưa là tổng Hoàng Mai, nay là một đơn vị hành chánh lớn của tỉnh đang
thời phát triển, có nhà máy xi măng, có trường trung học, có ga xe lửa…
Về mặt tôn
giáo (xem ở bài hai, mục Tính Quan Trọng Của Vàng Mai nói trên).
Mặc dầu như
có lần đã nói, Giáo sĩ Đắc Lộ không thêm một chi tiết nào ngoài hai chữ Vàng
Mai, thế nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Ngài đã có một định hướng
tiên tri nào đó có giá trị phòng hờ giúp những thế hệ mai sau muốn nhờ địa danh
Vàng Mai để tìm ra lai lịch Ke No, An Vực, Van No là những nơi ngài đã chính thức
hoạt động và dựng nhà thờ ở đó. Ngược lại, cũng có thể nhờ ba địa danh này mà
chúng ta nhận ra vai trò quan trọng của Vàng Mai, một trong những “vùng lân cận”
gắn bó với những nơi nói trên. Và thật đúng như vậy, vì lúc này đây Vàng Mai
hay nói theo ngày nay là Hoàng Mai, Yên Hòa đang là điểm tựa (điểm cứu tinh),
cũng là điểm xuất phát số một giúp chúng ta nếu không tìm ra một cách tuyệt đối
thì ít ra cũng được tương đối phương hướng những địa danh đã có nhà thờ, nhà
nguyện, nhà thương, bệnh xá đầu tiên trong phạm vinh Nam tỉnh Thanh Hóa.
Rất tiếc
trong hai sách của Giáo sĩ Đắc Lộ chưa tìm ra chỗ nào khác nói về Vàng Mai
ngoài hai chữ mà ngài đã đề trên bản đồ. Nói như vậy không có nghĩa Vàng Mai
không thành vấn đề. Theo chúng tôi, nguyên hai chữ Vàng Mai mà ngài đã viết một
cách trang trọng ở phần Bắc tỉnh Nghệ An cũng đủ để nói lên tính cá biệt của địa
phương này.
Đã hơn một lần
chúng ta thấy Giáo sĩ Đắc Lộ làm một việc y hệt như thế tại Bắc tỉnh Bố Chính,
Quảng Bình với hai chữ Ke Hoa nơi cửa biển sông Gianh của tỉnh này[36].
Cho nên, nếu so sánh giữa hai địa điểm Bắc Nghệ An là Vàng Mai với Bắc Bố Chính
là Ke Hoa, chúng ta có thể hiểu được ý đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ muốn khẳng định rằng
chính ngài đã đến, đã biết và đã làm việc ít nhiều bằng cách này cách khác tại
những nơi như vậy.
Riêng với địa
danh Vàng Mai, chúng ta thấy ý nghĩa này được hàm chứa trong những kiểu nói:
“xóm làng lân cận”, “thôn xã lân cận”… khi ngài đang hoạt động tại những địa điểm
như: cửa Bạng, Van No, An Vực, Thôn No = Ke No của tỉnh Thanh Hóa. Hơn nữa, với
tư cách là một nhà truyền giáo, làm việc cho Nước Chúa chắc chắn Giáo sĩ Đắc Lộ
không có thành kiến hay phân biệt đối với bất cứ nơi nào, người nào, miễn là
làm sao có được cơ hội tiếp xúc để truyền rao đạo Chúa đến với hết thảy mọi người.
Còn về đường
hành quân vào miền Nam, nguyên bản Giáo sĩ Đắc Lộ đã không nói rõ hướng đi cụ
thể sông biển như thế nào, ra vào ở đâu…, trong khi tác giả sách “Dòng Tên
Trong Xã Hội Đại Việt 1615 - 1777” viết rằng:
“Khi dẫn quân từ
Thăng Long đi đánh Đàng Trong, thì đoàn quân, có lẽ xuôi sông Đáy ra cửa biển,
rồi mới tạt vào An vực, Vân No, sau đó lại theo đường biển tiến xuống phía Nam”[37].
Về điểm này
đặt ra một nghi vấn phụ, khi tác giả dùng kiểu nói “rồi mới tạt vào An Vực, Vân
No”. Như vậy có nghĩa hai nơi này nằm ngay bên bờ biển sao?... Thực tế nếu tính
theo tỉ lệ tương đối có trong bản đồ của Giáo sĩ Đắc Lộ thì hai nơi này phải
cách bờ biển tối thiếu 15 cây số.
Theo chúng
tôi, đường hành quân của chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng không nhất thiết phải
ra cửa sông Đáy, cửa Thần Phù như Linh mục Đỗ Quang Chính đã nói vì đây là nơi
rất nguy hiểm[38] mà có thể hoặc ra một
trong các cửa biển như cửa Tuần Bồi, cửa Đại Hải - Linh Trường, cửa Hội Triều rồi
vào cửa Ngọc Giáp, tiếp theo kênh đào Nhà Lê sang sông Vằng, sông cửa Bạng. Hoặc
một giải pháp an toàn hơn là tiếp tục men theo các sông rạch, kênh đào để vào
sông Vằng, sông cửa Bạng hay một nháh phụ nào đó của con sông này, nơi có địa
danh An Vực mà chúa Trịnh Tráng về đến kinh thành là rất thuận tiện. Nguyên văn ngài viết:
“Tất cả hành trình
và con đường chúng tôi theo chúa về kinh thành, kể từ lúc rời bỏ tỉnh Thanh
Hóa, đó là không đi qua đường biển mà qua đừung các sông lớn chảy khắp xứ và
thông với nhau rất thuận tiện”[39]…
Cuối cùng,
chắc chắn chúa Trịnh Tráng phải chọn một trong hai con đường trước khi đi theo
đường biển thẳng tiến vào Đàng Trong:
- Xuôi theo
sông Vằng hướng ra cửa Bạng.
- Tiếp tục
men theo kênh đào Nhà Lê vào tỉnh Nghệ An rồi mới xuôi ra một trong các cửa biển:
cửa Càn (cửa Cờn), cửa Quyền (cửa Quèn), cửa Thai (cửa Thơi), cửa Bích (cửa Vạn
Phần).
Theo chúng
tôi con đường tiếp tục men theo kênh đào Nhà Lê vào tỉnh Nghệ An rồi muối xuôi
ra một trong các cửa biển này là giải pháp an toàn, thích hợp hơn hết mà chúa
Trịnh Tráng đã chọn khi hành quân. Bởi vì, nguyên kênh đào Nhà Lê tự thân nó đã
được thiết lập để phục vụ cho những mục đích như vậy.
Nên hiểu rằng,
sông Vằng được hình thành do dòng chảy phát xuất từ phía Tây men theo phía Bắc
triền núi Xước đổ ra biển tạo thành cửa Bạng, cửa Thánh Giuse hay còn gọi là lạch
Bạng, lạch Thánh Giuse. Ngược lại, dòng chảy theo triền phía
Sở dĩ chúng
tôi nói như vậy là vì tài liệu Giáo sĩ Đắc Lộ không nói rõ tên con sông nằm giữa
An Vực, Thôn No, Ke No và Van No là tên sông gì, chính hay phụ…
Vẫn biết rằng
có một vài ý kiến cho là tỷ lệ mà Giáo sĩ Đắc Lộ vẽ trên bản đồ còn có chỗ thiếu
sốt nào đó về kỹ thuật, về tỷ lệ xích, nhất là sánh với các bản đồ được vẽ vào
thời nay. Chúng tôi không dám phủ nhận điều đó, nhưng nếu có thì cũng chỉ ở một
mức độ rất giới hạn không đáng kể.
Xuất phát từ
ý kiến như vậy, có người dám cho rằng, con sông chảy ra Cửa Bạng mà Giáo sĩ Đắc
Lộ vẽ trong bản đồ của ngài là sông Mã để rồi căn cứ vào đó giải thích hai vị
trí An Vực và Ke No.
Chúng tôi
cũng không dám phủ nhận, nhưng nếu căn cứ theo bản đồ này thì rõ ràng hai con
sông mà ngài muốn diễn tả được bắt nguồn từ hướng Tây đổ ra biển hướng Đông.
Riêng con sông chảy ra cửa Bạng thuộc phía
Nếu tính
theo từng con số cụ thể, chúng ta có thể dựa vào sách “Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
Nam” về phần đất tỉnh Thanh Hóa sẽ thấy một bảng chỉ dẫn những địa danh nằm
chung quanh thị xã tỉnh Thanh Hóa, nguyên văn như sau:
“TỪ
THỊ XÃ THANH HÓA ĐI:
- Hướng
Đông Nam: Khoảng 20 km là tới
Hoàng Nghĩa, quê quán của Trang Quỳnh, 42 km tới Mũi Bạng và bán đảo Ba Làng
(…) Năm 1627, Giáo sĩ Đắc Lộ đã giảng đạo tại đây. Đi thêm 2 km nữa là thấy
thành Tĩnh Gia cũ. Núi Xước chặn bên trái đồi Ba Làng, cửa Bạng; 49 km là Khoa
Trường, có đảo hòn Mê (…) đi tiếp 10 km là Sơn Châu, vào đất Nghệ An.
- Hướng
Đông Bắc: Khoảng 5 km là tới cầu
Hàm Rồng thời danh (…) 29 km tới Sen Cừ (…), 39 km tới đảo Hòn Mẹ (…) đây chính
là khu vực cửa Thần Phù, đáng sợ ngày xưa.
- Hướng
Tây Bắc: 4 km tới vùng đồi Đông
Sơn, thêm 2 km nữa tới khu vực tìm thấy di tích thời “đồ đá cũ”, là thời tiền sử
cổ nhất. Đi 5 km nữa tới nơi sông Mã và sông
- Hướng
Tây Nam: 56 km phía Tây tới Bái
Thượng (…) Đi hướng Nam 18 km tới Nông Cống, phía tây huyện là núi Nưa (Na Sơn)
dài 20 km, cao 400m; đi 35 km là tới huyện lỵ Như Xuân”[40].
Như vậy phải
chăng nhờ địa danh Vàng Mai, Hoàng Mai, Yên Hòa mà chúng ta có thể tìm ra một
cách tương đối vị trí của các địa danh như: An Vực, Thôn No = Ke No và Van No
có trong sách và bản đồ của linh mục Đắc-lộ.
II. ĐẾN THỰC TIỄN
1. Một Lá Thư Từ Nguồn
Nói cách
khác, trên đây là những lập luận riêng tư dựa trên những cơ sở đã trở thành lịch
sử. Tự thân chúng tôi muốn tìm hiểu đến nơi đến chốn để không những cho chúng
tôi mà còn cho bất cứ ai cùng quan tâm đến vấn đề này. Vì thế tình cờ, nếu được
phép nói như thế, hôm 04.6.2000 nhân dịp ông Nguyễn Văn Thông, 51 tuổi (1951)
và ông Nguyễn Văn Thế, 63 tuổi (1937)[41] gốc
thôn Xuân An, xã Quỳnh Xuân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là những người đang
sống gần Vàng Mai, Hoàng Mai tức vùng ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An,
thấy các ông có chút trình độ hiểu biết, chúng tôi đã nhờ các ông giúp tìm cho
một số vấn đề nêu trên. Các ông đã làm và đã gửi kết quả cho chúng tôi trong lá
thư đề ngày 22.7.2000.
Trước khi
trình bày lá thư này, chúng tôi xin có lời chân thành cảm ơn riêng ông Nguyễn
Văn Thông đã không qsuản ngại thì giờ, vất vả đến tận nơi, xem tận gốc, tra cứu
được một phần lớn để minh họa những gì chúng tôi đã nói cũng như những tài liệu
lịch sử đã có. Chúng tôi cũng xin mừng ông vì khi làm việc ấy ông đã không ngờ
rằng mình đã học được một chút bài học quí về cách làm việc của nhà khoa học và
cách riêng của các nhà sử học.
Đối với
chúng tôi, không dám có ý kiến tiên quyết đúng hay không đúng nhưng cho phép
chúng tôi suy nghĩ rằng những dẫn chứng, những lập luận nói trên tương đối đã
tiếp cận được chính mục tiêu đòi hỏi.
Sau đây là
nguyên văn lá thư tác giả với một số hình ảnh minh họa do ông gửi kèm và xin
phép nhường quyền lại cho các nhà sử học hoặc người địa phương trên mấy địa
danh: Cửa Bạng, Ba Làng, Làng Kén, Kiến Giang của tỉnh Thanh Hóa và Yên Hòa
(Hoàng Mai - Vàng Mai) của tỉnh Nghệ An và bản đồ trong đó có ranh giới với những
con sông mang tên như sông Vằng, sông Yên, sông Mai Giang:
“Vừa qua có
người vào
Chúng con vừa
làm một chuyến tìm hiểu về Vàng Mai, Hoàng Mai ra các điểm của hai huyện Tĩnh
Iga, Nông Cống của tỉnh Thanh Hóa và đã thu lượm được một số điều bổ ích, học
thêm được nhiều chuyện không có trong sách vở… nhất là cảm thấy dường như đã tiếp
cận được mục tiêu chuyến đi của mình nếu không muốn nói là đã tìm thấy nó và
đang tìm hiểu về nó.
Trong thư
này con xin phép trình bày với Cha về hai điểm trong tọa độ tìm kiếm, đó là hai
họ giáo xa xôi của giáo xứ Ba Làng ngày trước và nay (từ 1951) là hai họ giáo
láng giềng của giáo xứ Kiến An thuộc giáo phận Thanh Hóa.
Xứ đạo Kiến
An được thành lập năm 1951 bởi bốn họ giáo: Kén, An Cư, Xuân Yên, Phú Nẫm;
trong đó An Cư và Xuân Yên là hai họ giáo thuộc huyện Tĩnh Gia. Giáo họ Xuân
Yên mới được thành lập vào những năm 1940 - 1945. Giáo họ An Cư này có từ lâu đời
và có mối quan hệ mật thiết với họ Kén, làng Kén, cách họ Kén, làng Kén khoảng
một cây số bởi cánh đồng và dòng chảy bắt nguồn từ vùng núi phía Bắc, Thọ Xuân,
Thanh Hóa chảy vòng vèo về Nông Cống, chảy về Ghép, ra lạch Trường, và một
nhánh chảy qua làng Kén, ra sông Vằng về cửa Bạng với tên gọi là con sông Yên.
Giáo họ Kén,
làng Kén đến nay qua 50 năm thành lập xứ mới và được đặt tên là Kiến An tuy vậy
tên họ, tên làng vẫn giữ nguyên. Thử hỏi đây có phải là Thôn No = Ke No mà Giáo
sĩ Đắc Lộ nói đến một cách chi tiết trong sách “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài”
không?
Theo linh mục
chính xứ Trần Văn Niên với một số ông cựu, ông trùm, chánh trương và nhất là
qua hồ sơ lưu trữ của giáo xứ, thì Kén là một họ giáo của giáo xứ Ba Làng. Và
trước đây, thời phong kiến Kén thuộc phủ Tĩnh Gia, huyện Tĩnh Gia, sau khi phân
chia lại Kén thuộc huyện Nông Cống.
Làng Kén là
một thôn Công giáo toàn tòng với số nhân khẩu hiện nay gần 5 trăm, chuyên sống
nghề nông nghiệp, xa chợ, đời sống kinh tế, văn hóa thấp. Phía Đông là cánh đồng
tiếp giáp với giáo họ An Cư bởi con sông Yên, Tượng Sơn. Phía Tây là dãy An
Hoành Sơn, có trong bản đồ đời Hồng Đức. Phía Nam là con sông Yên, áp sát phía
Bắc là đồng ruộng.
Từ nhà thờ
Kiến An đi: về hướng Đông, cách Quốc lộ 1A khoảng 10 cây số, cách Ba Làng 18
cây số. Về hướng
Linh mục
chính xứ lấy ra một quyển sách xá vàng được chép tay cẩn thận mà ngài gọi là
Hương Ước… đó là điều lệ của họ Kén. Trang đầu sách ghi:
“… Điều lệ này có từ năm 1720 và đến năm
1878 viết lại bằng chữ Hán và đến nay (bản này năm 1956) sao lại bằng chữ quốc
ngữ…”.
Kính thưa
Cha,
Trong giáo xứ
Kiến An, cách nhà thờ làng Kén về hướng Tây Bắc khoảng 6 cây số đường chim bay
và 8 cây số đường vòng, họ giáo Phú Nẫm cũng là điểm cần lưu ý. Bởi vì làng Phú
Nẫm cũng nằm cạnh sông Yên, sông Yên ở đây chảy sát làng, cách nhà thờ chừng
năm chục mét về phía Tây.
Theo các cụ ở
đây thì trước kia họ giáo Phú Nẫm được gọi là Nếnh vì ở trong trại Nếnh, rừng
cây Nếnh, nơi cha ông đã phải trốn tránh vào đây để giữ đạo trong thời kỳ bách
hại. Các cụ con cái cho biết, ông bà kể lại trước đây còn có các hầm trú ẩn. Lịch
sử xứ đạo minh xác thêm, năm 1886 Văn Thân bao vây họ Nếnh đốt phá nhà thờ và
chém 79 giáo hữu quăng xác xuống sông Yên. Nền nhà thờ cũ cho đến nay vẫn còn
và nhà thờ mới được khởi công xây dựng năm 1999 đến nay đã hoàn thành nhưng
chưa làm phép khánh thành.
Cách làng Nếnh
tức họ giáo Phú Nẫm khoảng hơn một cây số hướng Đông là làng Van Đô, một làng
lương ở giữa cánh đồng trước đây gọi là Long Vực… Trong cuộc tiếp xúc với các cụ
làng Nếnh, mấy cụ cho rằng “Nghe nói trước
kia bà con ở đây có gốc gác từ làng Van Đô”. Như vậy rất co`1 thể Nếnh là
nơi trước kia ông bà làng Van Đô lẩn tránh để giữ đạo sau đó không có khả năng
trở về làng mình nên đã định cư lập nghiệp tại đây như nhiều nơi khác gặp thấy
trong giáo phận. Giáo dân ở đây tan tác khắp nơi như Ngọc Nẫm, Thái Yên, Giảng
Tín, Ba Làng và cả trong
Làng Phú Nẫm
cách đường Quốc lộ 1A khoảng 13 cây số về hướng Đông, cách đường ray xe lửa khoảng
một cây số rưỡi hướng Đông, cách làng Van Đô khoảng một cây số cũng về hướng
Đông. Dân làng ở đây sống thuần nông, đời sống kinh tế, văn hóa hơi nhích hơn
làng Kén vì chính phủ mới mở con đường lớn xuyên thôn xuống tận quốc lộ 1A.
Thưa Cha
kính mến, những gì chính yếu của hai họ giáo có lịch sử nguồn gốc lâu đời nhất
tại vùng núi này mà theo thiển ý con có gần gũi và liên quan đến công cuộc truyền
giáo của Giáo sĩ Đắc Lộ. Hai địa danh này nếu không phải là Thôn No = Ke No và
Van No thì cũng là những nơi mà có thể đích thân linh mục Đắc-lộ đã truyền giáo
giữa một xứ sở nhiệt đới, sông ngòi chằng chịt, thuận tiện cho việc lưu thông
thuyền bè mà các nhà truyền giáo đã dùng làm phương tiện chính yếu để nay đây
mai đó.
Các họ nhỏ
này được nằm cạnh sông Yên, con sông hiền hòa như chính tên gọi của nó. Con
sông này tuy không lớn lắm nhưng nó kéo dài và liên quan đến ba cửa lạch là cửa
Bạng, lạch Trường và cửa Ngọc Giáp (theo bản đồ thời Hồng Đức).
Một vài điểm
nữa con biết thêm trong khi thực tế xứ Bền là một giáo xứ lớn, có từ lâu đời,
nơi đó có ông Đỗ Hưng Viễn được truyền tụng là người đầu tiên tòng giáo. Lại có
Thánh Năm tử đạo và hàng trăm vị tử đạo vô danh khác. Ở đây trước kia gọi là
Mai Vực thuộc phủ Hà Huy, tỉnh Thanh Hóa.
Theo sách
“Thân Thế Sự Nghiệp Của Giáo sĩ Đắc Lộ”, tác giả Phạm Đình Khiêm và Nguyễn Khắc
Xuyên, xuất bản 1961 tại Sàigòn thì An Vực là nơi giáp ranh giới Ninh Bình ngày
nay, là nơi tiếp cận đức tin từ Giáo sĩ Đắc Lộ một cách nồng nhiệt nhất. Chính
Giáo sĩ Đắc Lộ đã dựng nhà thờ đầu tiên ở xứ Bắc (Đàng Ngoài), địa điểm gần cửa
Thần Phú:
“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm”
Và cũng là
nơi có lễ hội công giáo sầm uất nhất thế kỷ XVIII:
“Thứ nhất đền thánh Pha Pha
Thứ nhì cửa Bạng thứ ba Thần Phù”…”.
2. Suy Nghĩ Về Lá Thư
AN VỰC, KE NO, VAN NO CÒN NỮA KHÔNG?
Đọc xong lá
thư trên, đáng lẽ chúng tôi khỏi có ý kiến gì vì nó đã quá rõ ràng, nhất là những
điểm liên quan đến các địa danh Van No, Ke No, An Vực hay nói ngược lại An Vực,
Ke No, Van No, cộng với ranh giới cố định
và địa danh cố định Vàng Mai, Hoàng
Mai. Tất cả những vị tir1 ấy là những cột mốc có giá trị cố định để chúng ta tìm hiểu về cả chiều sâu lẫn chiều rộng của nó.
Đó là chưa nói đến địa danh cố định
thứ tư cửa Bạng, nơi Giáo sĩ Đắc Lộ đến đầu tiên tại Đàng Ngoài đúng ngày
19.3.1627, ngày lễ kính Thánh Giuse và địa danh cố định thứ năm núi Do, nơi Giáo sĩ Đắc Lộ đã dựng cây thánh giá
vào ngày thứ sáu Tuần Thánh, 03.4.1627.
Trước tiên,
ba địa danh được Giáo sĩ Đắc Lộ viết trong sách và vẽ trong bản đồ cách 375 năm
(1627 - 2003) về trước là An Vực, Ke No, Van No thì cũng chính là những địa điểm
hiện đang có và chính ông Nguyễn Văn Thông đã thay chúng tôi đạp chân đến, khi
ông viết những dòng này ngày 22.7.2000.
Sở dĩ chúng
tôi nhấn mạnh và in đậm năm lần hai chữ cố
định là cố ý để khỏi ai hiểu nhầm điều chúng tôi đang nói và để thấy rõ điều
mà tác giả trình bày trong tác phẩm “Thân Thế Sự Nghiệp Của Giáo sĩ Đắc Lộ”,
1961. Để thấy rõ sự thiếu chuẩn xác này, chúng tôi xin phép nhắc lại ý của các
tác giả muốn nói là:
“An Vực là nơi giáp
ranh giới Ninh Bình, là nơi tiếp nhận đức tin một cách nồng nhiệt nhất. Chính
Giáo sĩ Đắc Lộ dựng nhà thờ đầu tiên ở xứ Bắc (Đàng Ngoài), địa điểm gần cửa Thần
Phù…”.
Chúng tôi
không dám có ý kiến về những gì các tác giả nói, nhưng thiết tưởng (nếu được
phép) thì giữa chúng tôi và các tác giả có sự khác biệt, thậm chí trái ngược
nhau về một số điểm:
Thứ nhất,
phía chúng tôi luôn luôn căn cứ vào những mốc cố định vừa có trong sách vở vừa
có trong bản đồ vừa có trong thực tế hôm nay năm 2003. Còn phía các tác giả thì
dựa trên cảm tình và truyền khẩu để đưa ra một địa điểm khác hẳn là vùng ranh
giới Thanh Hóa - Ninh Bình. Nghĩa là hai nơi cách xa nhau 130 cây số, đúng bằng
chiều dài của tỉnh Thanh Hóa xưa cũng như nay.
Thứ hai,
phía chúng tôi muốn nói đến sự kiện lịch sử Giáo sĩ Đắc Lộ đã phải dừng lại
cùng với hoàng tộc vua Lê, chúa Trịnh tại địa điểm gần ranh giới, tức phía Nam Thanh Hóa là An Vực, Ke No, Van No,
Vàng Mai theo lệnh của chúa Trịnh Tráng. Còn phía các tác giả lại muốn nói đến
nơi Giáo sĩ Đắc Lộ giảng đạo đầu tiên, địa điểm gần cửa Thần Phù thuộc phía Bắc Thanh Hóa. Hơn nữa, thực tế ngày
nay cửa Thần Phù và vùng phụ cận đã được bồi đắp thành đất liền hầu như toàn bộ.
Cho nên sợ dễ rơi vào câu nói của ông bà: “Khẩu thuyết vô bằng”, nói thiếu bằng
chứng. Trong khi An Vực tức An Cư hoặc Long Vực; Ke No tức Làng Kén hoặc Kiến
An; Van No tức Van Đô hoặc Nếnh ngày nay của Thanh Hóa cùng với Vàng Mai của
Nghệ An vẫn còn đó.
Đàng khác,
xét về thời điểm xuất phát năm 1961, là năm phát hành tác phẩm nói trên, nghĩa
là 7 năm sau biến cố di cư 1954. Nói rõ hơn, các tác giả viết tác phẩm này tại
Sàigòn, càng không phải tại những địa danh có tên như: An Cư, Làng Kén, Van Đô,
Nếnh, Ba Làng, Ranh Giới, Vàng Mai. Cho nên nếu các tác giả viết tác phẩm này
vào thời điểm đất nước thống nhất 1975, nhất là năm 2000, 2003 sau khi đã đến tận
nơi, nghiên cứu tại chỗ, để ý đến ranh giới và nhất là căn cứ theo bản đồ của
Giáo sĩ Đắc Lộ thì chắc chắn sẽ không dễ gì nói suông được như vậy…


[1] LSVQĐN, chương 32, trang
157, 158
[2] “Đền Cờn trong bối cảnh
truyền giáo của Giáo sĩ Đắc Lộ”, Trần Minh Công (xin xem thêm ở phần phụ bản).
[3] LSGPV, TBC, tr. 16.
[4] Theo LSVQĐN, chúng ta thấy
Giáo sĩ Đắc Lộ đã hai lần nói đến tên nhân vật này:
- Lần thứ nhất: “Có một quân binh tên rửa tội là Simon, ông
trở về quê quán xa kinh thành chừng mấy dặm…” (LSVQĐN, chương 18, trang
118).
- Lần thứ hai: “Có một quân binh tốt lành tên là Simon,
trên kia chúng tôi đã nói (…) ông này không ở xa bến. Được tin chúng tôi tới,
ông vội vã ra đón và được thuyền trưởng cho phép chúng tôi đến tận nhà ông. Ở
đây, ông đã thu xếp cho rất nhiều họ hàng và bạn hữu đến xin chịu phép rửa…”.
Chứng tỏ hai ông này là một
và có hai quê quán: một là quê quá ở gần kinh thành, khoảng
Nói ông có hai quê quán
cũng dễ hiểu bởi đời quân binh, lính tráng có thể lập gia đình ở bất cứ nơi nào
thuận tiện.
[5] LSVQĐN, sđd chương 30
trang 152, 153
[6] Xem LSVQĐN, sđd chương 31,
trang 154
[7] LSVQĐN, chương 28, trang
149
[8] LSVQĐN, chương 5, trang
84, 86, 92…
[9] Để kính nhớ ngày lễ kính
Thánh Giuse và Thánh Inhaxu vị tổ phụ dòng Tên (Xem LSVQĐN, chương 3, trang 82,
83).
[10] Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
[11] LSVQĐN, từ chương 3 đến
chương 32
[12] Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
[13] Bản Đồ Hồng Đức, trang 11
- 18
[14] Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
[15] Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
[16] Lịch Sử 25 Giáo Phận Việt
[17] LSVQĐN, chương 5, trang
87
[18] LSVQĐN, chương 28, trang
147
[19] Không biết ai là người đã
xây nhà thờ và nhà trụ sở dòng Tên tại Van No này bởi vì Giáo sĩ Đắc Lộ không
nói rõ nhưng chúng ta có thể phỏng đoán hoặc trực tiếp do ngài, hoặc gián tiếp
do các thầy sư mà ngài đã làm phép rửa năm 1627, hoặc do các thầy giảng ngài
sai đến hay do linh mục dòng Tên nào đó cùng làm việc đồng thời với ngài tại
Đàng Ngoài.
[20] LSVQĐN, chương 32, trang
156, 157
[21] LSGPV, CVP, trang 51
[22] Câu này được giải thích
như sau:
- Chữ PHÊ đây vừa có nghĩa là tên riêng của thầy Phê tử
đạo, vừa có nghĩa là châu phê.
- Chữ TRỊ đây có nghĩa là Đức Cha Pineau Trị vừa là
giám mục giáo phận vừa là chánh án lập hồ sơ theo lệnh Tòa Thánh về vụ này năm
1906.
- Chữ TÂN đây có nghĩa là tên riêng của cố Louis Dalaine
Tân điều tra viên có đủ thẩm quyền theo giáo luật liên hệ.
- Chữ LA MÃ trình gợi ý rằng bộ hồ sơ này đã được
thành lập đầy đủ và đệ trình về Tòa Thánh năm 1906.
[23] Xem LSGPV, TBC, tr. 22,
23
[24] Ngày 19.3.1627 cập bến cửa
Bạng + 15 ngày ở tại cửa Bạng + 2 ngày đi theo quan dẫn đường + 8 ngày đi theo
chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng bằng 25 ngày, tức ngày 13.4.1627.
[25] Hàng Giáo Sĩ Bắc Kỳ Thế Kỷ
18 và 19, Bút ký Đức Giám mục Néez, tr. 70.
[26] DTTXHĐV 2000, ĐQC, tr. ?
[27] Histoire de la Mission du
Tonkin, Andrien Launay, tr. 408, 409 (Xem DTTXHĐV 2000, ĐQC, tr. 430, 431).
[28] Vấn đề này đã được tóm lược
trong tập nhỏ 22 trang (tài liệu đánh máy, khổ giấy 21x29,7cm) gửi Đại chủng viện
Vinh - Thanh và Tòa Giám mục giáo phận Thanh Hóa để tham khảo Mùa Hè Đại Năm
Thánh 2000.
[29] LSVQĐN, chương 5, trang
87, dòng 30, 31. Phải chăng đây là cánh đồng rộng lớn Nông Cống hay một phần
nào đó thuộc cánh đồng này? Để diễn tả sự rộng lớn của cánh đồng này, dân gian
có câu:
“Được mùa Nông
Cống
Sống khắp mọi
nơi”.
[30] LSVQĐN, chương 5, trang
88, dòng 5 - 11.
[31] LSVQĐN, chương 28, trang
147
[32] LSVQĐN, chương 28, trang
147
[33] DTTXHĐV, ĐQC, sđd tr. ?
[34] LSVQĐN, chương 3, trang
82
[35] LS25GPVN, trang 86
[36] Lịch Sử Giáo Hạt Bình
Chính 1998, Cao Vĩnh han, tr. 99
[37] DTTXHĐV, ĐQC, tr. 152
[38] LS25GPVN, Trần Phúc Long,
trang 86
[39] LSVQĐN, chương 11, trang
101
[40] LS25GPVN, Trần Phúc Long,
tr. 38
[41] Vào chữa mắt tại bệnh viện
Saint Paul, đường Điện Biên Phủ, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
[42] Tiếc là số hình ảnh này đã bị thất lạc tất cả, không đến được với chúng tôi như ông đã nói.
Đăng nhận xét