Nguồn Gốc lịch sử hình thành Giáo xứ Thanh Dạ - theo bản phúc trình của Cha già Tấn I. Bản phúc trình không ghi ngày tháng. Nhưng theo mốc lịch sử hình thành giáo xứ Thanh Dạ là năm 1914, thì bản phúc trình này được viết vào năm 1920.
Đây là một sử liệu hiếm hoi về Giáo xứ Thanh Dạ. Đọc bản phúc trình này, độc giả sẽ thấy được những truân chuyên thử thách trong đời sống đức tin mà cha ông quê hương đã can trường vượt qua như thế nào; đồng thời cũng thấy được "lòng người" như thế nào ở vào thời điểm đó!
Cách hành văn có dùng nhiều từ theo cung giọng người bản địa; hoặc có một số cách dùng chính tả và hạn từ xưa. Nhưng vì là sử liệu, nên người viết sẽ giữ nguyên như bản gốc (ngoại trừ những chỗ trong ngoặc vuông là do người viết thêm vào để giải thích; hoặc do người viết phỏng đoán, vì lâu ngày quá, chữ đã mờ, không thể đọc được!).
Dưới đây là trích đoạn (phần nói về họ Thanh Dạ) nội dung bản phúc trình mà Cha Tấn viết trình lên Đức Giám mục Giáo phận Vinh lúc bấy giờ là Đức Giám mục André-Léonce-Joseph Eloy Bắc.
__________________________________
Bẩm trình Đức Cha
CÁC ĐIỀU VỀ XỨ THANH DẠ
I. các điều chung về xứ
1. xứ Thanh Dạ chưa có đổi tên hay là đổi họ trị sở bao giờ. Họ trị sở ở
làng Thanh Dạ, tổng Phú Hậu, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diện Chu, tỉnh Nghệ An.
2. Đã lập xứ được gần 6 năm. Khi chưa lập thì thuộc về xứ Cẩm Trường. Lúc
mới lập có 2 họ, rày cũng còn 2 họ, là họ Thanh Dạ và Cự Tân, mà Cự Tân có 4 xóm
ở cách xa nhau, là Cự Tân, Cồn Tro, Đò Hủ và Cát Vàng; xóm Cự Tân xa nhà xứ chừng
bảy, tám phút, Cồn Tro [Có nhà thờ] hơn một giừo, Đò Hủ [có nhà thờ] non hai giờ,
Cát Vàng hơn hai giờ.
Xưa nay vốn thuộc địa hạt Thuận Nghĩa. Xa sở địa hạt chừng hai giờ.
3. Nhân danh cả xứ được 1875.
4. Mới có cụ Tấn coi xứ được gần 6 năm mà thôi.
5. Của nhà xứ thì bởi hàng xứ liệu. Còn đất ruông thì xứ Cẩm Trường trích
lại cho 4 mậu 6 sào, lại có một người Thanh Dạ cúng thêm cho một sào, sau Nhà
Chung cho thêm được 130,#00 thì tạm thêm được 5 sào nữa, hóa ra cả
thảy được 5 mậu 2 sào. Hằng năm nộp thuế hết 6,#40.
Vườn nhà xứ được 4 sào.
6. Trong nhà xứ có 4 cái nhà: 3 cái xấu, còn nhà phòng thì cũng kha khá,
song thấp quá, 4 gian cũng rỗng vừa. Các nhà bằng gộ, trét đất cả.
7. Nhà thờ họ trị sở cũng khá, trong gộ lim, ngoài xây sò, lợp ngói; song
bởi bị bạo bổ đi rồi sửa lại, nên xem ra cũng yếu, không được vững vàng cho lắm,
lại mậu mực kiểu cách chẳng còn nhằm chi nữa; cũng vừa rỗng cho bổn đạo trong xứ
ngồi. Nhà thờ ấy là bởi của công họ được ít nhiều, còn bao nhiêu nữa, là của đi
xin các người trong họ trong xứ và của đã đi xin các nơi về, lại của các cụ người
làng cúng cho nữa.
Đã để Mình Thánh được hơn 4 năm rồi.
8.Trong xứ có 6 trường học kinh bổn
9. Trong cả xứ đã được mười một đấng chịu chức thầy cả rồi; là cụ Tuế, cụ
Triêm, cụ Mĩ, cụ Quí, cụ Thông Triệu, cụ Hoàng, cụ Thông Giám, cụ Miến, cụ Huệ,
cụ Biện. Mà mười ông ấy thì thuộc Thanh Dạ cả.
II. Các điều riêng về họ Thanh Dạ
1. Họ Thanh Dạ chưa đổi tên bao giờ; ở riêng một nơi toàn đạo.
2. Gốc tích họ là thể này: xưa có một người ngoại đạo ở làng Quỳnh Đôi gần
đây tên Phan Hợp phải đi lánh nhà nước đời Hậu Lê vua Cảnh Hưng, mà ra ở đông
Phú Sơn về tỉnh Thanh Hóa, không biết làm sao mà đã lấy được một người đàn bà bên
đạo về họ Ba Làng. Nhưng mà hai bên cứ giữ hai đạo như thường. Đến sau có giặc
Thằng He dữ tợn lắm, nó đánh giết quân quan nhà nước chết mất đã nhiều, cho nên
ai ai cũng lo sợ phải đi đánh giặc ấy lắm. Nỏ hay ông Phan Hợp cũng phải sai đi
đánh giặc ấy, thì ông ta kinh khiệp sợ hãi quá sức, cứ năn nỉ với vợ con, thể nào
thì trận ni cũng phải chết mà thôi. Khi ấy bà vợ mới yên ủi khuyên bảo ông ấy
phải cậy trông Đức Bà phù hộ cho, thì mới khỏi chết được; mà ông ấy cũng nghe
theo lời vợ khuyên, thì Bà ấy đưa cho một mậu indu [tức ảnh vải Đức Mẹ] mà đi
trận, thì chẳng những là đã được khỏi chết như lời Bà vợ đã khuyên, mà lại cũng
đã được thắng trận cả thể nựa, quân giặc phải tan đi; song quan quân nhà cũng
chết mất nhiều lắm, nhất là toan quân ông Phan Hợp thì mất gần hết. Yên giặc rồi
về, thì vua thưởng cho ông Phan Hợp được chức chưởng lãnh binh. Mà ông ấy biết
thật mình đã được khỏi chết lại được chức quan lớn làm vậy, thì là nhờ ơn Đức Bà
đã cứu giúp cho mà thooi, cho nên ông ấy mới tin đạo. Khỏi ít lâu thì ông ấy từ
chức quan mà về quê; song về làng ở giữa kẻ ngoại cả thì khó giữ đạo lắm, vì nó
cứ chê cười nhão báng cách nầy cách khác, cho nên ông ấy mới dời nhà xuống nới đồng
hoang, kêu bằng Cồn Dạ mà ở đó cày bừa lằm ăn cùng giữ đạo cho đỡ hơn. Đến sau
có đôi người ở trên làng Quỳnh Đôi cũng theo xuống xin ở đó với ông ấy mà cày bừa
làm ăn cho dễ, song ông Phan Hợp buộc phải đi đạo mới cho ở, mà người ta cũng
phải theo. Dần dần sau người ta thấy dễ làm ăn, nên lại có người các làng lân cận
xũng đến xin đi đạo mà ở đó nữa, hóa ra đã thành được xóm có đạo. Đến sau dân
Quỳnh Đôi nó thấy ông quan chưởng Hợp đã chết rồi, lại đồng hoang của nó thì kẻ
có đạo đã phở thành điền; nên nó mới dũng tình mà làm cho kẻ có đạo phải bỏ đất
mà đi, nó thừa thế các quan tư trong làng mình mà quấy quắt làm khổ sở kẻ có đạo
nhiều thể nhiều cách… Kẻ có đạo thấy vậy cũng phải
cố công đồng lứa với nhau mà lo liệu cho
được lập thành triện thì mới có thể mà ở đó với dân Quỳnh Đôi được. mà phải chịu
khó mại cho đến thời Tây Sơn vua Quang Trung nhị niên mới được thành triện, kêu
bằng Thanh Dạ trại, rồi đến thời nhà nguyễn vua Minh Mệnh thập nhị niên thì mới
liệu xong đất ở. Từ đó về sau thì Quỳnh Đôi mới bớt hà hiếp. Trong các lúc cấm đạo
trước thì không ai biết được điều gì hay dở cả. Song đến thời Tự Đức thập tam
niên có chỉ ra cấm đạo truyền bắt các Cố các cụ thì có Cố Thanh trốn ở trong họ
nầy, các đồ lễ của Người thì phải chôn đi, còn Người thì cũng phải ở dưới hầm,
nhưng mà đến sau nó tầm nạ quá lẽ, thế không mần răng được, nên Người đã dạy họ
phải cử người thuê thuyền đưa Người về Hồng Công. Qua năm sau lại có cụ Triêm cũng
trốn về đây nựa. Mà họ thấy hơi đã yên yên, sợ đồ Cố để dưới đất lâu mà hư đi
chăng, thì nhủ nhau đào lên mà phơi. Vì lúc ấy quan bắt khai chân thành, rồi thì
sai thục sư đến dạy đơm cúng cho qua chuyện, nên họ phải cử một ít người đàn
anh ra mà đứng chịu việc đơm cúng cho qua chuyện, còn bao nhiêu lánh đi, mà thục
sư thì ít lâu đến ngày giộ nó mới đến mà bày cho mà cúng xong việc rồi thì nó lại
về nhà nó. Chẳng may trong họ có một người xấu nết, nó giận họ vì phạt nó đánh
bạc, nên nó lên cáo với quan, có cụ đang trốn ở trong họ, thì quan liền bắt phu
các làng lân cận, mà đến bọc họ cả đêm, đến sáng ngày mới vào tầm nạ, phá phách,
lục xét, tra khảo cả họ khốn cực lắm; trước hết thì chúng nó bắt được đồ Cố
Thanh, vì họ mới phơi chưa kịp cất, mà nó ngỡ là của cụ, nên nó lại đập đánh
treo kẹp các Kẻ đàn anh trong họ cách dữ tợn hơn nữa, sau nó lại bắt được hai
người Kẻ giảng là thầy Từ, không biết người ở mô, và sau có được làm cụ chăng,
còn khi ấy thì theo cụ Triêm về, và thầy Triêm là người họ nầy, mà sau được làm
cụ, gọi là cụ Thông Triêm. Bởi đó cho nên chúng nó lại càng làm khốn cực hơn bội
phần mà tra cho được cụ. Còn cụ Triêm thì người trốn ở nơi đám lúa trước cửa làng,
mà chúng nó cứ tìm đi tìm lại đó mai, song không thấy. Nhưng mà sau người thấy
chúng nó làm khốn khổ quá sức, cho nên người mới đứng dậy tỏ mình cho chúng nó
bắt đi cho xong, kẻo dân tình phải khổ sở quá. Khi chúng nó vừa thấy cụ thì chúng
nó vui mầng quá sức, hò hét reo mầng tuôn đến bắt trói người, rồi chúng nó giải
cụ, hai người Kẻ giảng và các Kẻ đàn anh [bị giải]
về huyện mà giam. Đến sau thì nó nộp cụ và hai người Kẻ giảng vào tỉnh. Đến
năm Tự Đức thập ngụ niên, ngày 14 tháng giêng thì cụ Triêm phải xử tử tại tỉnh,
mà hai người Kẻ giảng thì phải đi lưu.
Mà thằng nội công đã cáo cụ thì quan cho nó làm hương mục trong làng, cho
nên nó cậy thế mà làm cực cho làng lắm, đến nỗi nó bắt làng phải đào nhà thờ đã
chôn lên, mà khiêng sang huyện cho quan làm công đường, làng bất đắc dĩ phải chịu,
vì khi ấy nó đăc thế lắm, không nghe thì sợ nó thưa quan làm tội.
Đến rằm tháng tám năm ấy thì có giấy ra truyền bắt trong làng những người
có tên bộ thì phải giam, còn các kẻ khác thì phải tháp đi ở lộn lạo trong các làng
ngoại đạo; khi ấy cữa nhà, của cải và hoa lợi ngoài đồng thì Quỳnh Đôi cướp lấy
hết. Lúc phải tháp vào các làng ngoại đạo, thì nó bắt ép con gái nhà có đạo phải
kết bạn với kẻ ngoại, có nhiều người không thể lánh được thì cũng phải chịu,
song đến sau được tha về, thì bỏ mà về dần dần, kẻ trước, người sau, có kẻ lại đưa
được cả con về theo đạo nữa; chỉ có một người không chịu bỏ mà về, cứ ở với kẻ
ngoại mai cho đến già mà chết, dù ai khuyên bảo thể nào cũng không nghe. Còn mấy
lúc văn thân Khỉ lên làm hãi kẻ có đạo sau, thì họ Thanh Dã nầy cũng không thiệt
hãi chi mấy, vì nhờ ơn Chúa thương cũng chống lại với nó được mấy trận, giết nó
nhiều được, cho nên chúng nó không dám đến mà phá phách chém giết như các nơi nữa.
Từ ông quan chưởng Hợp xuống lập ở đây cho đến rày đã được chừng 150 năm.
3. Nhân danh cả được 1017. - Rày đông hơn trước. – Trong họ chẳng có của
công gì, còn nhà thờ thì hằng năm đến ngày mùa người ta có làm phúc cho ít nhiều
lúa, giữ đã được 500 Cường.
4. Số phận bổn đạo: Nó cày ruộng và xiếc mò tôm cá, phải khó nhọc vất vả
lắm, song cũng kiếm ăn lần hội được, bớt dói. – Trong họ không có mấy người chữ
nghĩa, chỉ được ít người biết trệ trạo vậy mà thôi. – Trong các Kẻ đàn anh thì
có mấy người hào cuộc ăn lo việc đời ăn ở kém, hay lừa đảo dối trá dân sự, song
cũng không hay kiện cáo nhau. – Trong họ giữ đạo sốt sắng khá, chỉ có ít người
lươn khươn hay chơi nhởi bài bạc rượu chè, sửa nhà thờ nhà thánh, nhác xưng tội
chịu lễ. – Người ta siêng năng xem lễ và giữ ngày lễ lạy hẳn hoi. – Hầu hết thường
xưng tội chịu lễ vài ba tháng một lần; cingx có nhiều người tháng một; còn kẻ mọt
tháng đôi ba lần cũng khá; lại có ít nhiều người một l=tuần chịu lễ ba bốn lần
nữa.
5. Các trẻ cũng chăm học kinh bổn. Có ba thầy giáo biện dạy chúng nó.
6. Nhà thờ thì là nhà thờ họ trị sở như đã kể trên, còn bàn thờ thì khá tốt, song cũng còn mộc, chưa có sức mà sơn được. Đồ thờ và đàng câu rút [tức là Đàng Thánh Giá] thì đã cũ rách.
Xin xem phần tiếp theo: nói về Giáo họ Cự Tân



Trích đoạn bản gốc về Phúc trình của Cha già Tấn I (Cha quản xứ tiên khởi Giáo xứ Thanh Dạ) |
Đăng nhận xét