Những Thừa Sai sống động qua các Trang Sử Truyền Giáo tại Giáo phận Vinh | GIÁO XỨ LỘC THỦY
12 Thánh tông đồ Audio suy niệm Audio truyện Công giáo Âm nhạc Bài Giảng mp3 Bạn có biết bạn trẻ xa nhà Bảo vệ sự sống Blog tips Ca kịch công giáo Các bài giáo lý của ĐTC Phanxicô Các hội đoàn Các mục chính Các Thánh Các thánh địa Công giáo Các thánh khác Các Tuần Cửu Nhật Kính Đức Mẹ Các vấn nạn xã hội Cắm hoa nghệ thuật Câu chuyện Giáng Sinh Châm ngôn công giáo Chiêm ngắm Chúa Chuyện phiếm đạo đời Chuyện về Giáo Lý và Giáo Dục Công Giáo đó đây Cửu Nhật Kinh Nguyện Danh Danh bạ website các giáo xứ - giáo họ việt nam Danh bạ website công giáo Di sản thế giới Du Lịch Đẹp + Để sống đạo hôm nay Đôi nét về Giáo xứ Đời sống cầu nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Đức Mẹ Lama Đức Thánh Cha phanxico Đức Tin và Khoa Học Đường Hy Vọng Gia đình Giải đáp thắc mắc cuộc đời Giao hat Vang Mai Giáo hạt Vàng Mai Giáo Hội Đông Phương Giáo lý - dân ca Giáo lý - kinh thánh Giáo sử Giáo xứ Media góc học tập Góc khám phá Góc nghệ thuật Góc thư giãn Góp nhặt Hạt Giống Lời Chúa Hình ảnh cổ xưa Hình ảnh Giáo xứ Lộc Thủy học tiếng anh Hướng dẫn sử dụng webblog Kết nối websites Kiến thức phổ thông Kính Đức Mẹ Kinh thánh tiếng anh Lẽ sống Lịch sử các Dòng tu Lịch sử Giáo Hội Việt Nam Lịch sử hình thành Giáo xứ Lộc Thủy Lòng Thương xót Chúa Lộc Thủy Lời Chúa qua bài hát Lời chúa theo chủ đề Lời chúc xuân Mùa Vọng - Advent Năm thánh Lòng Thương Xót Nghe và suy gẫm Nghệ thuật Công Giáo Nghệ thuật sống Ơn gọi-tận hiến Phim công giáo Quỳnh lưu Radio Công Giáo Sách Công giáo sách tháng đức bà Sắc màu cuộc sống Sổ tay sinh hoạt suy gẫm Suy gẫm và Cầu nguyện Suy niệm Lời Chúa Suy niệm Lời Chúa mùa Phục Sinh Suy niệm Lời Chúa mùa TN A Suy niệm Lời Chúa năm A Suy niệm mùa chay Sức khỏe - ẩm thực Tài liệu Công Giáo tổng hợp Tài liệu dạy Giáo Lý Tài liệu Tuần Thánh Thánh ca Thánh ca cầu nguyện Thánh Ca Hoàng Diệp Thánh Mẫu học Thánh Mẫu La vang Thế giới Công Giáo Thơ - Truyện Công Giáo Thơ Công Giáo Thơ và cuộc sống Thủ thuật blog Thủ thuật facebook Thủ thuật google + Thư Viện Công Giáo Tiếng anh qua Lời Chúa Tiêu điểm Tìm hiểu phụng vụ Tin Công Giáo Tin Giáo xứ Tin tức Giáo xứ Lộc Thủy Tin Việt Nam và Thế Giới Tổ chức kỳ thi Giáo lý Tông huấn Giáo hội Công giáo Trang Trí Giáng Sinh Trắc nghiệm Giáo lý Trắc nghiệm Kinh Thánh Trắc nghiệm năm đức tin Truyện Công Giáo Truyện về Mẹ Tư liệu Giáo hội Công giáo việt nam Tư liệu Giáo phận Vinh Tư liệu Giáo xứ Lộc Thủy Từ vựng công giáo Anh-việt Tv Công giáo TVs và Radios khắp nơi Vấn đáp đức tin công giáo Videos Đặc Sắc Vietnamese English Prayers Vinh Quang Đức Maria Website Công Giáo bổ ích Xứ đạo đầu tiên

Những Thừa Sai sống động qua các Trang Sử Truyền Giáo tại Giáo phận Vinh

Trong những trang sử liệu nhuốm màu thời gian, chúng ta bắt gặp những vị Thừa sai đã dệt nên câu chuyện truyền giáo đầy gian truân nhưng cũng không kém phần vĩ đại. Mỗi Thừa sai hiện lên như một mảnh ghép, khắc họa nên bức tranh sống động về một thời kỳ lịch sử trong Hội Thánh Việt Nam nói chung, cách riêng là Hội Thánh tại Giáo phận Vinh nói riêng (lúc bấy giờ được gọi chung là Nghệ Tĩnh Bình).

Dưới đây là những trích đoạn về một số vị Thừa sai đã từng hiện diện và hoạt động tại Giáo phận Vinh nói chung, cách riêng là tại Quỳnh Lưu, theo những sử liệu của MEP, mà người viết truy tầm được. 

Đức Cha Pineau

Đức Cha đáng kính Pineau lần đầu hiện diện trong những dòng viết từ năm 1889. Ngài gửi gắm đến chúng ta nỗi niềm xót xa trước những mất mát của Sứ vụ truyền giáo, khi "Chúa nhân lành giáng hết đòn này đến đòn khác vào Sứ vụ tội nghiệp của chúng ta". Lời than thở ấy mở đầu cho câu chuyện về Cha Pinon. Sau này, vào năm 1900, chúng ta thấy Đức Cha Pineau đích thân tiến hành  thu thập thi thể các Vị Tử đạo. Đến năm 1902, Cha Marichal đã bày tỏ với Ngài ước muốn được định cư ở Mạnh Sơn [Mành Sơn] [tức Mành Sơn]. Đức Cha Pineau cũng là người đã viết thư về sự ra đi của Cha Pinon vào năm 1893, ghi nhận những đức tính và sự tận tụy của vị Linh mục. Năm 1901, Ngài viết về việc long trọng cử hành Lễ Tam Nhật kính các Thánh Tử Đạo tại nhiều trung tâm. Ngài cũng tường thuật về lễ làm phép nhà thờ Bảo Nham vào năm 1901, một công trình bảy năm đầy nỗ lực của Cha Klingler. Đức Cha Pineau cũng chứng kiến và tường thuật về lễ làm phép nhà thờ Đông Trang, nơi niềm vui lan tỏa khắp địa phận. Đến năm 1903, Ngài đề cập đến việc cử hành các khóa tĩnh tâm thường niên tại Xã Đoài cho các nhà truyền giáo, Linh mục bản địa và giáo lý viên.[1] 

Cha Pinon (Louis-Julien Pinon)

Cha Louis-Julien Pinon sinh năm 1854. Ngay từ thuở nhỏ, Ngài đã nổi tiếng về lòng đạo đức. Dù sức khỏe yếu ớt, Ngài vẫn chuyên tâm học hành và đạt được những thành tích xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp chương trình đào tạo Linh mục vào năm 1879, Thiên Chúa đã cho Ngài làm quen với những đau khổ. Ngài trải qua nỗi mất mát người thân và bản thân cũng mang trong mình căn bệnh. Dù vậy, Cha Pinon vẫn nuôi dưỡng ước vọng truyền giáo. Năm 1888, Ngài gia nhập Chủng viện Truyền giáo Nước ngoài và một năm sau đó, Ngài đến Nam Bắc Bộ [tức Giáo phận Vinh sau này]. Sau một thời gian ở Xã Đoài và dưỡng bệnh ở Hồng Kông, Ngài được gửi đến Mạnh Sơn [Mành Sơn] thay thế Cha Lafforgue. Tại đây, Ngài hăng say làm việc, giảng dạy giáo lý. Sau khi Cha Lafforgue trở lại, Cha Pinon về Xa Đoài [Xã Đoài] phụ trách tu viện các nữ tu và mục vụ tại nhà thờ giáo xứ. Nhưng rồi, sau một đợt nắng nóng, sức khỏe Ngài suy yếu. Ngài qua đời vào ngày 23 tháng 8 năm 1893, để lại niềm thương tiếc cho những người Ngài đã phục vụ.[2] 

Cha Lafforgue

Cha Lafforgue được nhắc đến lần đầu vào năm 1889 khi đang bận rộn xây dựng một ngôi nhà thờ bằng đá đẹp đẽ sắp hoàn thành tại Mạnh Sơn [Mành Sơn] [Mành Sơn], thuộc quận Quinh Lưu [Quỳnh Lưu] [Quỳnh Lưu]. Đến năm 1890, Đức Cha Caspar đề cập đến việc Cha Lafforgue đã được thay thế bởi Cha Pinon tại Mạnh Sơn [Mành Sơn] do Ngài cũng đang bị bệnh nặng.[3] 

Cha Phaolô Nguyễn Hoằng

Cha Phaolô Nguyễn Hoằng, một Linh mục bản xứ, lần đầu được nhắc đến vào năm 1890. Cha Phaolô Nguyễn Hoằng từng là thông dịch viên cho các vua Tự Đức và Đồng Khánh, và uy tín cùng lòng nhiệt thành của Ngài đã giúp nhiều người cải đạo. Ngài được kỳ vọng sẽ phát triển giáo xứ này thành một trong những giáo xứ lớn nhất. Đến năm 1893, câu chuyện về cuộc đời Cha Phaolô Nguyễn Hoằng được kể chi tiết hơn. Ngài được thụ phong Linh mục năm 1868 và từng được vua Tự Đức triệu về kinh đô làm gia sư cho các hoàng tử, dù Ngài không muốn sống trong môi trường ngoại giáo. Dù Đức Cha Gauthier [tên việt là Ngô Gia Hậu, vị Đức Cha đầu tiên của Giáo phận Vinh] không muốn Ngài rời đi, vua Tự Đức vẫn cương quyết giữ Ngài [Cha Phaolô Nguyễn Hoằng] lại. Cha Phaolô Nguyễn Hoằng đã dành mười năm ở kinh đô [Huế], phục vụ nhà vua, nước Pháp và Sứ vụ [Linh mục]. Ngài luôn giữ hành vi đạo đức và thường xuyên đến tòa Đức Cha Huế để xưng tội. Cha Phaolô Nguyễn Hoằng cũng dũng cảm đề đạt nguyện vọng của người Pháp được giao dịch trực tiếp với nhà vua, một hành động suýt khiến Ngài mất mạng. Sau khi vua Tự Đức qua đời, Ngài được phục hồi chức vụ. Năm 1889, Đức Cha Caspar đã cử Ngài lãnh đạo giáo xứ mới Yên Hòa, nơi Ngài đã xây dựng dinh thự và nhà thờ, đồng thời phát triển cộng đoàn từ 30 lên gần 600 tín hữu. Đến năm 1906, dù đã 75 tuổi, Ngài vẫn nhiệt thành truyền giáo.[4] 

Cha Cudrey, và Cha Emile-Constant Cckrey

Cha Constant Cudrey, sinh năm 1800, gia nhập quân đội Bourbaki năm 1870 và sau đó vào Chủng viện Truyền giáo Hải ngoại, thụ phong Linh mục năm 1878 và đến Nam Bắc Bộ [tức Giáo phận Vinh] năm 1879. Sau những nỗ lực không thành công ở Trấn Ninh, Ngài được điều đến quận Quinhluu [Quỳnh Lưu] năm 1883 và trở thành vị chủ chăn toàn vùng Quỳnh Lưu vào năm sau.[5] Ngài coi sóc Quỳnh Lưu trong 30 năm (từ năm 1884 đến năm 1914). Từ năm 1885, Ngài đã chiến đấu với quân nổi dậy [Văn Thân] và có công lớn trong việc bảo vệ quận Quinhluu [Quỳnh Lưu]. Ngài được người dân gọi là "Thượng Phụ Quinhluu [Quỳnh Lưu]". Dù có tật cận thị và cách nói năng đặc biệt, Ngài là một Linh mục gương mẫu, tận tâm với việc giải tội. Giáo xứ Thuận Nghĩa dưới sự chăm sóc của Ngài đã trở thành một trung tâm quan trọng. Đến năm 1914, do sức khỏe suy yếu, Ngài đã từ chức và lui về Xã Đoài, dành thời gian để hoàn thiện cuốn từ điển Pháp - An Nam. Ngài qua đời tại Xã Đoài vào năm 1919, sau những cơn tắc nghẽn [tai biến] não.

Về Cha Constant Cudrey còn được ghi lại trong một số sử liệu khác. Các sử liệu ấy nhắc tới Ngài trong bối cảnh năm 1886-1887, khi Ngài lãnh đạo quận Quinh Lưu [Quỳnh Lưu] và có những hành động kiên quyết chống lại quân nổi dậy [Văn Thân], để bảo vệ người Công giáo. Ngài được ca ngợi về sự quyết tâm và nghị lực phi thường. Năm 1887, Ngài phải đối mặt với dịch tả hoành hành nhưng vẫn giữ vững tinh thần và chứng kiến nhiều người cải đạo. Ngài bày tỏ niềm vui và nỗi buồn khi nhìn thấy sự phục hồi của Sứ vụ [truyền giáo] sau những khó khăn. Đến năm 1888, “quyền lực” của Cha Cudrey trong dân chúng đủ để duy trì trật tự sau khi các đồn quân sự bị bãi bỏ. Năm 1889, Ngài tiếp tục tận hưởng sự yên bình và tập trung vào việc phát triển đời sống đức tin cho giáo dân. Năm 1901, Ngài thỉnh cầu Đức Cha Pineau cử Cha Marichal làm phụ tá (do thị lực kém). Ngài đã đến thăm Cha Marichal, khi vị Linh mục này lâm bệnh tại Mạnh Sơn [Mành Sơn]. Năm 1903, tình hình ở Quinh Lưu [Quỳnh Lưu] vẫn ổn định dưới sự lãnh đạo của Ngài. Năm 1904, Ngài đề cập đến tình trạng hư hại của nhà thờ Thuận Ngãi [Thuận Nghĩa] [Thuận Nghĩa]. Đến năm 1909, Ngài vẫn là người đứng đầu huyện Quinh Lưu [Quỳnh Lưu], với hai giáo xứ lớn. Năm 1914, Ngài đệ đơn từ chức do sức khỏe suy yếu. Năm 1919, Ngài qua đời tại Xa Đoài [Xã Đoài].[6]

Một vị Thừa sai khác tên là Emile-Constant Cckrey, sinh năm 1850, cũng gia nhập Chủng viện Truyền giáo Hải ngoại [MEP] và thụ phong Linh mục cùng ngày với Cha Constant Cudrey (21 tháng 9 năm 1878) và cũng đến Nam Bắc Bộ. Tuy nhiên, tài liệu không cung cấp thêm thông tin cụ thể về vai trò của Cha Emile-Constant Cckrey tại Quinhluu [Quỳnh Lưu], mà tập trung vào hoạt động của Cha Constant Cudrey. [7] 

Cha Le Gourriérec

Cha Le Gourriérec được nhắc đến vào năm 1886, khi Ngài đã hoàn thành nhà thờ Phú Kính xinh đẹp (hai lần do một cơn bão tàn khốc gây hư hại sau lần hoàn thành đầu tiên). Ngài đã đặt một bàn thờ lộng lẫy trong nhà thờ này. Đến năm 1901, Đức Cha Pineau dẫn lời Ngài về việc làm phép nhà thờ Đông Trang, nơi Ngài bày tỏ niềm vui và tin rằng những kỷ niệm này sẽ in sâu trong tâm hồn người tham dự.[8]

Cha Blanck

Cha Blanck xuất hiện lần đầu vào năm 1881, khi Đức Cha Croc giao cho Ngài cùng với Cha Satre và Cha Cudrey thực hiện dự án truyền giáo cho người Lào ở vùng Trấn Ninh. Dự án này sau hai năm không thành công đã phải bỏ dở. Đến năm 1883, Cha Cudrey được điều động đến quận Quinhluu [Quỳnh Lưu]. Năm 1883, Cha Munier được Đức Cha Croc gửi đến Thuận Ngãi [Thuận Nghĩa] dưới sự chỉ đạo của Cha Blanck để học tiếng và phong tục địa phương. Năm 1880, Cha Blanck được bổ nhiệm làm bề trên của Phái đoàn truyền giáo cho những người dân tộc thiểu số. Năm 1896, Đức Cha Pineau đề cập đến Cha Blanc, người phụ trách quận Vinh, đã thực hiện việc điều hành mà không gặp trở ngại và rửa tội cho nhiều người ngoại đạo.[9]

Cha Satre

Cha Satre được nhắc đến cùng với Cha Blanck và Cha Cudrey vào năm 1881, khi Ngài được Đức Cha Croc giao phó dự án truyền giáo cho người Lào ở Trấn Ninh, một dự án không thành công. 

Đức Cha Croc [tên việt là Croc Hòa]

Đức Cha Croc lần đầu được nhắc đến vào năm 1881, khi Ngài lập dự án truyền giáo cho người Lào ở Trấn Ninh và giao cho Cha Blanck, Cha Satre và Cha Cudrey thực hiện. Năm 1883, Ngài điều động Cha Cudrey đến quận Quinhluu [Quỳnh Lưu]. Năm 1880, Ngài chủ trì khóa tĩnh tâm hàng năm mà Cha Munier tham dự. Năm 1890, Đức Cha Caspar đề cập đến việc Đức Cha Croc đã thụ phong Linh mục cho Cha Phaolô Nguyễn Hoằng năm 1868. Năm 1893, người ta biết rằng phó vương tỉnh có quan hệ tốt với Đức Cha Croc. Năm 1887, Cha Cudrey nhắc đến một trường đại học do Đức Cha Croc thành lập tại nơi cư trú của Ngài. Năm 1889, Đức Cha Caspar đề cập đến việc Ngài đã chuyển lời thỉnh cầu của các tân tòng Yên Hòa xin biến làng thành giáo xứ tới Đức Cha Croc, nhưng dự án không thành công.[10] 

Cha Marichal

Cha Marichal chỉ ở cơ sở truyền giáo một năm trước khi tháp tùng Đức Cha Pineau thu thập thi hài các Vị Tử đạo vào cuối năm 1900. Năm 1901, như đã nói ở trên, do thị lực kém, Cha Cudrey đã xin Đức Cha Pineau cử Cha Marichal làm phụ tá. Đến tháng 8 năm 1901, Cha Marichal đến Quinh Lưu [Quỳnh Lưu] làm việc cùng Cha Cudrey. Ngài rất nhiệt thành và muốn một mình quản lý hầu hết các cộng đồng Công giáo trong quận, dành nhiều thời gian ngồi tòa giải tội. Ngài đã tạo điều kiện để các tín hữu được hưởng Năm Thánh. Sau các buổi cử hành Năm Thánh, Ngài thường xuyên đến các cộng đồng Công giáo xa xôi để cử hành thánh lễ và giảng dạy. Ngài đặc biệt yêu thích giáo xứ Mạnh Sơn [Mành Sơn] và mong muốn được định cư tại đó. Đến tháng 1 năm 1902, Ngài xin phép Đức Cha về việc này và bắt đầu sửa chữa nơi ở. Ngài mong muốn nhiều tín hữu hoàn thành nghĩa vụ Phục Sinh [Rước Lễ trong mùa Phục Sinh]. Tuy nhiên, sức khỏe Ngài suy yếu nhanh chóng và Ngài qua đời vào ngày 24 tháng 2 năm 1902 tại Xa Đoài [Xã Đoài] sau khi được Cha Cudrey đến thăm và giải tội. Sự ra đi của Ngài là một mất mát lớn cho Sứ vụ.[11] 

Cha Klingler (Adolphe Klingler)

Cha Adolphe Klingler được nhắc đến vào năm 1886, khi cuộc đàn áp đạo Công Giáo diễn ra, và Ngài đã cứu được toàn bộ Sứ vụ bằng cách bảo tồn trụ sở chính Xadoai [Xã Đoài], nơi hơn 20.000 người Công giáo đã đến trú ẩn. Ngài đã chỉ huy lực lượng chống lại quân nổi dậy, đẩy lùi chúng và thành lập "Pháo đài Xuân Kiều". Câu chuyện về việc giải cứu 1.600 người Công giáo ở Baonham [Bảo Nham] của Ngài đã trở thành kinh điển, khi Ngài dẫn 300 người đánh tan 2.000 quân nổi dậy. Ngài tiếp tục chỉ huy các cuộc phòng thủ tại Huyền Kiều. Đến năm 1901, Đức Cha Pineau ca ngợi tài năng của Cha Klingler trong việc xây dựng nhà thờ Bảo Nham bằng đá cẩm thạch địa phương, một công trình kéo dài bảy năm.[12] 

Cha Roux

Cha Roux lần đầu xuất hiện vào năm 1886, khi Ngài được cử đến Mạnh Sơn [Mành Sơn], một xóm đạo Công giáo lớn với bến cảng quan trọng của Quinhluu [Quỳnh Lưu], dưới sự chỉ đạo của Cha Cudrey. Ngài đã tham gia chiến dịch chống lại quân nổi dậy và cùng Cha Cudrey trang bị vũ khí cho những người Công giáo kiên quyết, khiến quân nổi dậy phải rút lui. Vào mùa xuân năm 1886, Ngài được triệu hồi về Xadoai [Xã Đoài] và đưa những người Công giáo ở Đông Thanh về. Đến tháng 6 năm 1887, Ngài được cử đi Bình Chính [Quảng Bình ngày nay], một khu vực quan trọng nhưng bị tàn phá. Cùng với Cha Tortuyaux, Ngài đã giúp đưa hàng ngàn người tị nạn trở về nhà. Sau một thời gian dưỡng bệnh ở Hồng Kông, Ngài trở lại Bình Chính vào năm 1889 và nhiệt thành hoạt động mục vụ, tìm hiểu về lịch sử đạo Công giáo và gia đình. Năm 1899, Ngài đã nỗ lực cứu giúp trẻ em trong nạn đói ở Bình Chính. Đến năm 1903, Ngài được bổ nhiệm làm huyện trưởng Vân Hanh [Văn Hạnh], Hà Tĩnh.[13] 

Cha Tortuyaux

Cha Tortuyaux được nhắc đến vào năm 1886, khi cuộc đàn áp đạo diễn ra và Ngài đã cứu được huyện Bình Chính. Đến năm 1887, Ngài là người đứng đầu quận Bình Chính, một khu vực quan trọng bị tàn phá, và cùng với Cha Roux đã giúp đưa người tị nạn trở về.[14] 

Cha Aguesse

Cha Aguesse được nhắc đến vào năm 1886, khi Ngài đã cứu được huyện Hà Tĩnh trong cuộc đàn áp đạo. Đến năm 1893, Cha Aguesse, người đồng hương của Cha Pinon, nhận xét rằng trước đây Ngài không nghĩ rằng Cha Pinon sẽ đi truyền giáo nước ngoài.[15] 

Cha Magat

Cha Magat được nhắc đến vào năm 1886 khi Ngài đã cứu được huyện Ngheyen [Nghĩa Yên] trong cuộc đàn áp đạo. Đến năm 1903, Đức Cha Pineau nhắc đến Cha Magat quá cố, người là kiến trúc sư của nhà thờ đẹp nhất trong toàn bộ Sứ vụ ở Vạn Hạnh.[16] 

Cha Munier

Cha Munier, có sức khỏe rất tốt, đã bị sốt ngay khi đến với Sứ vụ. Đức Cha Croc đã gửi Ngài đến Thuận Ngãi [Thuận Nghĩa] để học tiếng và phong tục dưới sự hướng dẫn của Cha Blanck. Ngài đã tiến bộ nhanh chóng và thi hành Sứ vụ, khi mắc bệnh đậu mùa. Năm 1880, Cha Blanck được bổ nhiệm làm Bề trên, và Cha Munier tiếp tục quản lý một quận đông dân. Năm 1881, khi trở về quận sau khóa tĩnh tâm, Ngài đã bị một người ngoại giáo lăng mạ và bị trói vào cột chùa, nhưng sau đó Ngài được thả về.[17] 

Cha Abgrall (Jean-François-Marie Abgrall)

Cha Jean-François-Marie Abgrall sinh năm 1854. Ngài lần đầu được nhắc đến vào năm 1896, khi ông de Calama trích dẫn thư của Ngài về tình hình giáo xứ giáp ranh với Tây Bắc Kỳ. Ngài bày tỏ sự hài lòng về lòng nhiệt thành của giáo dân và số lượng người cải đạo. Ngài cũng xây dựng một nhà thờ mới tại Tân Hội. Đến năm 1903, Ngài coi sóc huyện Cầu Ram [Cầu Rầm] và ghi nhận nhiều lễ rửa tội cho người lớn. Năm 1914, Cha Kerbaol nhắc đến Cha Abgrall đáng kính, người đã chỉ đạo quận Thuận Nghĩa trong 15 năm cuối đời. Năm 1918, với vai trò tỉnh trưởng, những nỗ lực của Ngài tại quận Quinhluu [Quỳnh Lưu] với sáu giáo xứ và hàng ngàn tín hữu đã đạt được thành công lớn. Đến năm 1921, với tư cách provicar, Ngài nhận xét về sự tốt đẹp của các giáo xứ ở Quinhluu [Quỳnh Lưu] và lòng nhiệt thành của giáo dân, đặc biệt là ở Thuận Nghĩa. Năm 1927, với vai trò provicar, Ngài mô tả cuộc sống Kitô hữu ở Thuận Nghĩa đang được duy trì và phát triển, đồng thời đề cập đến dịch tả và nguy cơ hạn hán. Ngài qua đời tại Xa Đoài [Xã Đoài] vào năm 1929, sau 42 năm hoạt động truyền giáo. Những mối quan tâm hàng đầu của Ngài là việc xây dựng nhà thờ và hướng dẫn các tân tòng. Từ năm 1898 đến 1929, Ngài cũng là người cung cấp cho toàn bộ Phái bộ và ba lần làm Bề trên tạm thời.[18] 

Cha Denis

Cha Denis được nhắc đến vào năm 1909 khi phong trào hoán cải ở huyện Đông Thành diễn ra mạnh mẽ, rất an ủi cho Ngài, nhà truyền giáo của huyện.[19] 

Cha Monnier

Cha Monnier, thường trú tại Vinh và phụ trách giáo xứ người Pháp, đã viết vào năm 1896 về các hoạt động mục vụ của Ngài, bao gồm việc rửa tội, giải tội và ban rước lễ cho cộng đồng người Pháp. Ngài cũng bày tỏ hy vọng về sự cải thiện đời sống đức tin trong giáo xứ này.[20] 

Cha Geoffroy

Cha Geoffroy được nhắc đến vào năm 1903, khi Ngài quản lý làng Mạnh Sơn [Mành Sơn] và Phú Yên, những nơi trước đây do Đức Cha Retord thành lập. Ngài vui mừng nhận thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng tín hữu ở hai cộng đồng này. Đến năm 1917, Ngài được nhắc đến là người hỗ trợ Cha Gudrey (có lẽ là một cách viết khác của Cudrey) coi sóc quận Quinhluu [Quỳnh Lưu].[21] 

Cha Bổn

Cha Bổn, Linh mục chánh xứ Trang Lưu [Tràng Lưu], đã giảng trong buổi lễ lớn tôn vinh Đức Trinh Nữ tại đồi Giapho vào một ngày Chúa Nhật sau Lễ Hiện Xuống, theo tường thuật của Cha Bayle năm 1921.[22] 

Cha Bayle

Cha Bayle viết vào năm 1921 về lòng nhiệt thành của các Kitô hữu ở Ngansau [Ngàn Sâu, Hà Tĩnh] và việc cử hành long trọng lễ tôn vinh Đức Trinh Nữ tại đồi Giapho, có sự tham gia của nhiều giáo xứ. Ngài cũng đề cập đến việc đồng hành cùng Đức Cha Pineau trong chuyến thăm quận Quinh Lưu [Quỳnh Lưu] dù đang bị bệnh.[23] 

Cha Phan

Cha Phan, một Linh mục bản địa trong làng Đông Trang [Đông Tràng], đã có bài diễn văn cảm động trong lễ làm phép nhà thờ vào năm 1901, giải thích về sự cần thiết của đội danh dự cho Mình Thánh Chúa.[24] 

Cha Bonnet

Cha Bonnet được nhắc đến vào năm 1888, khi Đức Cha Pineau giảm bớt gánh nặng cho Ngài do sức khỏe yếu kém, bằng cách thành lập các xóm đạo ở phần trên quận của Ngài thành giáo xứ riêng biệt. Đến năm 1890, Đức Cha Caspar đề cập đến những khó khăn mà Cha Bonnet, người đứng đầu quận Đồng Hành, đang phải đối mặt, và tình hình bất ổn của những người Công giáo dưới sự coi sóc của Ngài.[25] 

Cha Tessier

Cha Tessier được nhắc đến vào năm 1888 là bề trên của đại chủng viện, nơi có 20 chủng sinh.[26] 

Đức Cha Masson

Đức Cha Masson được nhắc đến vào năm 1890 khi Cha Roux tìm được một số bản thảo dịch các sách đạo đức do Ngài và một số nhà truyền giáo thực hiện.[27] 

Cha Kerbaol [tên việt thường gọi là Cố Khanh]

Cha Kerbaol viết vào năm 1936 về việc ngạc nhiên khi được giao phó huyện Thuận Nghĩa, nơi đã được chuẩn bị tốt bởi những người tiền nhiệm, đặc biệt là Cha Abgrall. Ngài ghi nhận đời sống Kitô hữu mạnh mẽ và mong muốn mang nhiều linh hồn đến với Chúa. Ngài cũng đề cập đến những nỗ lực trong việc truyền giáo cho người ngoại đạo và củng cố các cộng đồng Kitô giáo mới [tại Hạ Lân thuộc làng Phương Cần, tức khu vực từ xã Quỳnh Liên đển Quỳnh Phương ngày nay]. Năm 1937, Ngài viết về sự gia tăng dân số Công giáo ở Thuận Nghĩa, những kết quả khả quan trong việc cải đạo và sự phát triển của giáo dục Kitô giáo.[28] 

Cha Delalex

Cha Delalex, Linh mục giáo xứ Vinh, nhận thấy sự tiến bộ thực sự trong đời sống Kitô giáo của các tín hữu vào năm 1936. Ngài ca ngợi lòng nhiệt thành của các cha sở và sự chuyên tâm của giới trẻ.[29] 

Cha Massardier

Cha Massardier viết vào năm 1935 bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến công việc truyền giáo cho người ngoại đạo ở hai huyện Đồng Tháp [Đông Tháp] và Thuận Nghĩa. Dù có một số lễ rửa tội, Ngài vẫn cho rằng năm đó không mấy thành công trong việc cải đạo do người ngoại đạo đã hiểu rõ hơn về các yêu cầu của Công giáo. Ngài đề xuất việc xuất bản một tạp chí tôn giáo và đạo đức để đánh thức lương tâm họ.[30]

Cha Nivet

Cha Nivet nhận xét vào năm 1921 về sự ít thành công của các trường tiểu học và mong muốn có một trường học tiếng Pháp tốt tại Mission, vì nhiều Kitô hữu đã phải đi học ở xa.[31]

Cha Cherrière

Cha Cherrière viết vào năm 1921 về tình hình kinh tế của giáo dân và việc xây dựng một số nhà thờ. Ngoài ra không thấy có báo cáo gì đặc biệt về mặt coi sóc của Ngài trong đời sống thiêng liêng cho Giáo dân.[32]

         Qua những trang sử liệu này, mỗi vị Thừa sai hiện lên với những câu chuyện riêng, những đóng góp và những thử thách khác nhau, nhưng tất cả đều góp phần làm nên một trang sử hào hùng của công cuộc truyền giáo tại vùng đất Quỳnh Lưu nói riêng và Nam Bắc Kỳ [Giáo Phận Vinh] nói chung. Các Ngài là những chứng nhân sống động của một thời kỳ lịch sử đầy biến động trong lòng Hội Thánh Việt Nam nói chung, và trong Giáo phận Vinh nói riêng. Cách đặc biệt là tại Quỳnh lưu. 

ALB-Launay-Tong-King-meridional-
Bản đồ Giáo Phận Vinh, năm 1889 [Tong-King-meridional] (nguồn: Vietnam - IRFA)


[1] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1893, 1901, 1902-1903.

[2] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1893.

[3] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1889

[4] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1890, 1893

[5] Lãnh thổ của xứ Trấn Ninh ngày nay chính là các huyện phía Tây của tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La và tỉnh Hủa Phăn (Lào). x. “Lý Nhật Quang - Đứa con kinh thành hiển thánh trên đất Nghệ”, trên https://doluong.nghean.gov.vn/den-ly-nhat-quang/ly-nhat-quang-dua-con-kinh-thanh-hien-thanh-tren-dat-nghe-365730, truy cập ngày 03 tháng 04 năm 2025.

[6] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1886, 1887, 1888, 1889, 1901, 1903, 1904, 1909.

[7] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1886, 1887, 1888, 1889, 1901, 1903, 1904, 1909.

[8] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1901.

[9] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1883, 1896.

[10] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1883, 1887, 1889, 1890, 1893.

[11] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1901, 1902-1903.

[12] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1917, 1901.

[13] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1917, 1889, 1890, 1901, 1903.

“Huyện trưởng” hay “Quận trưởng”, tương đương với chức vụ Quản hạt bây giờ.

[14] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1917, 1889.

[15] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1917, 1893.

[16] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1917, 1903.

[17] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1883.

[18] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1896, 1903, 1918, 1921, 1927, 1929.

[19] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1909.

[20] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1896.

[21] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1903, 1917.

[22] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1921.

[23] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1921, 1904.

[24] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1901.

[25] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1888, 1890.

[26] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1888.

[27] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1890.

[28] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1936, 1937.

[29] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1936.

[30] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1935.

[31] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1921.

[32] Société des missions étrangères, Compte-rendu des travaux de 1921..

Đăng nhận xét

[blogger][facebook][disqus]

Author Name

{picture#https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr3JIeR3kk_h-xB5gPYp7rDm9RC56LumWJPjoTfBoC4n_mW0jWN9_5wSQzelzwE0nO_iVa7R2Cx5Orj04fxiIJnwcz7j0nwqkZoDbz-E7RdldZhQuxUP9bDt4ANZSunmKSXBvI6trFmZG7/s1600/Ch%25C6%25B0a+%25C4%2591%25E1%25BA%25B7t+t%25C3%25AAn-1.png} {facebook#https://www.facebook.com/giaoxulocthuygpvinh} {twitter#https://twitter.com/giaoxulocthuy} {youtube#https://www.youtube.com/@giaoxulocthuy}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.