Các bài suy niệm LỄ PHỤC SINH – Năm C
Lời
Chúa: Lc 24,1-12; Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
MỤC
LỤC
2.
Niềm tin.
3.
Đức Kitô sống lại
4.
Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
5.
Rao truyền ơn Phục Sinh - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6.
Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
7.
Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
8.
Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
9.
Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
10.
Sự nhầm lẫn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền.
11.
Người đã trỗi dậy rồi
12.
Mặt trời hé mọc
13.
Ngôi mộ trống.
14.
Ông đã thấy và đã tin.
15.
Phục Sinh.
16.
Mầu nhiệm.
17.
Niềm vui Phục Sinh.
18.
Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
19.
Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
20.
Xác nhận lòng tin - McCarthy
21.
Phục Sinh.
22.
Phục Sinh
23.
Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
24.
Biến đổi trở thành con người mới
25.
Hai cái nhìn
26.
Ngôi mộ trống -JKN
27.
Chú giải của Noel Quesson
28.
Chú giải của Fiches Dominicales
1. Marathon.
Hàng
năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều
thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy
chạy marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường
dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc
chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công
nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng
quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng cách thủ đô
Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng
Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang
đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô
Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành
thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở
thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường
trường trên thế giới.
Từ cây
chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và
chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh,
đã có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của
Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan. Vậy động
lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan
báo Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?
Như
chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại
chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở
nên như con rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để
những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy
thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự
nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu chỉ
chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương
thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của
Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với
Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên
khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Trở
lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng
Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena
chạy đến mồ trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng
đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì
về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất
xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Đến
lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước,
nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô.
Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp
để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén,
Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để
các khăn liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã
tin.
Từ
những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh
của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh.
Giáo Hội ấy gồm những người như Mađalena, Phêrô và
Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng
lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm
Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy
mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì
Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng
giữa những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức
tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo
Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm
nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực
sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước
đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã
trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa
lòng cuộc đời hay chưa?
2. Niềm tin.
Kết
quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84%
người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có
lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin
vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm
2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ
giảm xuống, chỉ còn độ 10%.
Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng
đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm
nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải
chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật
khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm
đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm.
Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự
dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự
trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại
niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc
sống của người tín hữu hôm nay.
Như
chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng
bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc
luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ
được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi
mộ trống rỗng. Thế
nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch
sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một
thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng
đường khám phá.
Thực
vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến
Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây
băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến
Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết
thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết
những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên
một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ
rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một
dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức
Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị
chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài
không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là
Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn
trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây
bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị
thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một
cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó,
ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của
Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến
cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một
biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng
được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả
Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống
lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống
lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với
Ngài.
3. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn
Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ.
Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực
vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc
rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải
trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong
xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được
đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy
cửa hang.
Vì hối
hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã
không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng
chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất
trong tuần.
Phải,
vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta
hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm
đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi
mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và
Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội
vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông
đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ
chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói
cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết.
Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống
trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn
Phêrô?
Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ.
Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn
lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được
hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất
xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ
trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết
Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án
và xử tử các ông.
Là
trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã
xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại
sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó
có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng
là thái độ của Gioan.
Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất
yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất
là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã
theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút
cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã
chôn cất Chúa.
Kinh
nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến
người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người
ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc
phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng
nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và
ông đã tin.
Từ đó,
chúng ta kết luận: tình
yêu dẫn đến đức tin.
Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi
tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý
luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu
của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa
Giêsu phục sinh.
Trong
cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy
sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được
mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi
gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên
con đường tình yêu của Chúa.
4. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy
niệm của Yvon Daigneault)
Mở
đầu.
Bất
chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài
giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này
vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó
mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi
chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa
Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc
có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý
sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của
các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta
đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt
Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một
thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ
mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự
Phục Sinh.
Người
ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường
hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến
bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm
sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói
quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời
gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả
những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh
của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó
chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất
mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của
Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu
tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa
ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài
tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc
tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm
thời thôi.
Chúa
Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa
là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc
và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa
Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại
được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài
trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống
hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối
mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa
Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống
của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền
Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là
chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần
thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác:
những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được,
những bài học của một cuộc đời và cả những thử
thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu
nhiệm Đức Tin.
Khi
chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”.
Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự
sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài
với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện
cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả
chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục
sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục
Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố
luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được
thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông
ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các
môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới
này.
Phục
Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống
trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói
“đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là
tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này
và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết
luận.
Đón
nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng
vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước
hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các
ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ
ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai
ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần
thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn
không ngớt biểu lộ.
5. Rao truyền ơn Phục Sinh - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sau,
ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình
trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất
vọng.
Còn đâu
niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu
an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no,
người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được
tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm
hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả
đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng,
sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ
trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã
chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị
chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa
lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh
đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng
đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài
thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục
Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy
rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các
ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã
Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã
tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các
ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối
đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy
vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm
nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể
ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở
tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ
cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời
đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm
hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi
trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào
hơn.
Hôm nay
Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các
Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn
Phục Sinh đến với mọi người.
Có
những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo
mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật
nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả.
Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối
thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được
Phục Sinh.
Có
những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch
máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang
tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng
vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những
nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi
chờ ơn Phục Sinh.
Nhất
là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội
lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê
tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo
úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì
chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì
gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục
Sinh.
Đem Tin
Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi
những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao
thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên
Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy
nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi
người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong
chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống
chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng.
Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng
tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất
hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin
đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng
đang lụi tàn.
Để
đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có
thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng
tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra
khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta
phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn
Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
- Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
- Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
6. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Phụng
vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối
và ánh sáng.
Mở đầu
phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối
tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu
chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại
chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến
Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô
Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm.
Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng
sự chết.
Như cây
nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô
đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ
cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh
sáng sự sống cho ta.
Chúng
ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta
còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong
tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
- Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
- Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
- Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
- Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
- Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả
những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết
dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn
ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của
Chúa đổ vào hồn ta.
Để
ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải
quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng
như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được
ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với
chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi,
để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn
đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách
ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên
con cái ánh sáng.
Lạy
Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin
giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống
một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
7. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Một
bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn Giáo
tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình
trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một
trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào
cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến.
Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập.
Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa
hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thì leo teo mấy
người. Cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi
tu sĩ Ấn Giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào
đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn
Giáo ôn tồn bảo: Tội của cộng đoàn đó là tội vô
tình. Và ông giải thích: Đấng Cứu Thế đã cải trang
thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận
ra Người.
Từ đó,
mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế.
Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết,
sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện.
Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm, cầu
nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng
đoàn.
“Sao
các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người
không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi”
(Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu đã
vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với
Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường
Emmau, với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng
kín, trên bờ biển Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện
giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở mọi nơi,
trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho
thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui
chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời đã
xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn
đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui
chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện giữa những
kẻ tin Người sống lại, để mang lại cho họ niềm vui
và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu
ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức Giêsu Phục
Sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ
gẫy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được.
Thánh Phaolô viết: “Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?
Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm
nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm
8,35). Vì thế, Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi
cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống
mới, đời sống Phục Sinh.
Sống
niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại
và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng
ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống
niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu
thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Cộng
đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được
bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà
mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ,
trong người anh em.
8. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích
trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho
chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna,
Gioan và Phêrô.
Khi đọc
đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều
nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều
thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng
chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại.
Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy
và ông đã tin".
Để
hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau
khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ
xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn
thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy,
ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của
họ.
Phép
tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong
tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc
mặt trời lặn.
Maria
Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn
xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu
không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được
đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng
ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái.
Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và
gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ
đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong
xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn
trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối
hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn
thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng
chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong
tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ
để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa
đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội
vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên
trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước.
Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ
Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây
băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng
ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân
vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối
với Maria Mađalêna,
bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo
hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ
đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một
lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng
như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra
tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn
Phêrô,
ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ
phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên
lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông
mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra
nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại
sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ
với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó
sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để
kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng
nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã
xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ
đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm
cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể
nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần
Gioan,
ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu
đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều
gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng
kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến".
Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến
đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây
phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân
Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy
nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối
cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn
cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta
luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện
của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh
bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời
giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống
lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã
nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và
ông đã tin.
Qua câu
chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến
đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria
Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những
suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến
đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa
ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong
cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta
có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có
thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc
đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí
mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
9. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong
đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên
đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua
ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài
người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến
mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã
bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai
muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về
báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương
mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy
mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ
chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người
môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống
lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi
mộ trống là một
dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày
hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có
một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về
nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về
sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương
mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại
thật. Allêluia.
Sự
thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta,
đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của
nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa
Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng
nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác
nhau.
Trong
cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần
đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là
những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý
nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi
về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã
được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao
thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho
chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như
nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm
ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể
quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta
phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho
chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối
bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau
biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa
ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô
có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và
mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc.
Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế
cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với
những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy
chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng
siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều
siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi
khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền
toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho
cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi
người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc
sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai
dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai
đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay
hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng
cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời,
Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người.
Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu
chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy
đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải
giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn
thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương
mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại,
ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con
tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không
nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội
vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được
Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp
lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình
yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã
xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin
giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy
Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín
hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa
giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng
nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước
ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa
đã sống lại thật. Allêluia.
10. Sự nhầm lẫn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền.
(Trích
trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người
ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một
sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán
hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để
chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và
một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai
tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra
lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc:
"chúc mừng khai trương cơ sở mới". Ngược lại,
thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: "Thành thật
chia buồn".
Xem ra
sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý.
Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi
khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất
mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật
lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của
tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui
của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như
vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc.
Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về?
Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền
thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở
về, là quy tiên, là trở về nơi mình đã xuất phát ra
đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta
thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần
trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này
ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính
nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm
cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng
là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không
phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới
lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn
cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát
ra đi.
Hôm
nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ
đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã
bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì.
Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm
kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng,
tưởng là người làm công nên mới hỏi: "Ai đã lấy
xác Chúa tôi rồi?". Nhưng các bà lại nghe một lời
mà chưa bao giờ được nghe: "Tại sao các bà lại tìm
người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và
ra khỏi mồ". Nấm mồ này và khăn liệm này đã
không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó
không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ
cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong
cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi
mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp
các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng,
Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật
tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã
bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người
sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm
tưởng. Sinh ra - lớn lên - gia nua - rồi chết. Thế là
hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta
hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc
hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam - Eva đã
từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của
Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa
Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành
hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi
"không còn sự chết, không còn than khóc đau thương
nữa". Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những
cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ
thương.
Hôm nay
Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân
hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho
người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai
tin theo Ngài: "Ta đi để dọn chỗ cho các con, để
Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đó
chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào
Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước
gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con
người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự
do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị
những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm
giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình
ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng
ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác,
chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng
cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng
được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là
Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên
đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được
chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
11. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Có vẻ
sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến
chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ
nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy
ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không
hiểu.
Là
những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen
với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện
tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng,
ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi
sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà
chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị.
Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ
thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn
là một bí ẩn khôn dò.
Khi các
bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã
xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện
lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu
bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã
phục sinh!
Phêrô
đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông
cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh
ngạc thôi, chứ không tin.
Quả
thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức
Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự
phục sinh của Ngài.
Các môn
đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường
như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần
hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ
lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức
Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau
Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho
họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc
nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương
lai. Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng
ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả
năng để hy vọng và vui sống.
"Sao
các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức
Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp
được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ. Kitô giáo
không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.
Đức
Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác
Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến
khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại
nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng
ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta
không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống,
cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
- Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh
Lúc
chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên
chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc
bên mộ.
Lúc
chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con
trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ
Emmau.
Lúc
chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng
giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn
đệ.
Lúc
chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và
khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông
Tôma cứng cỏi.
Lúc
chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy
dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh
và cá cho bảy môn đệ.
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh, xin
tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng
con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật
gần bên chúng con. Amen.
12. Mặt trời hé mọc
Suy
Niệm
Để
hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại
thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất
ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người
trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm
thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm
Thầy cẩn thận.
Hãy đến
thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im
lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo
nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù
Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai.
Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã
bị nuốt chửng.
Xác Đức
Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng
đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có
ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm
dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp
thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với
xác của Thầy nằm đó.
Và
khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì
cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua
được để ướp xác.
Khi đi
đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn
giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là
một trở ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy
tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy
cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin
Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn
gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ
ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã
bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không
cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ
đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng
đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có
những ngôi mộ trong đời ta.
Những
ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng
ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ
vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc
nuối?
Chỉ sự
phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có
mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta
lớn lên và cứng cáp. Ước
gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám
chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
- Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban
cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi
xanh tươi.
Xin ban
cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa
sóng gió cuộc đời.
Xin ban
cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn
tươi tắn.
Xin ban
cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái
lên đường.
Xin ban
cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới
lại đời con.
13. Ngôi mộ trống.
Tại
một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được
chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương,
bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ
được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một
người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người
ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự
sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới
mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ
không bao giờ mở ra”.
Thời
gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một
hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp
đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành
cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối
cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu
truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu
vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho
Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con
người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có
thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn
ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên
Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người
tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng
khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp
tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là
Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của
ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại
bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi
và chờ đợi con người.
Anh chị
em thân mến,
Chúa
Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn
ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong
tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà
Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người
ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và
Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở
toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác
Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan,
người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng
như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa
anh chị em,
Tất cả
khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi
mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu
chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và
nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa,
vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ
ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng
ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên
tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ
những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất
đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị
tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ
của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị
mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu
Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như
cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết
liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới
gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng
đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của
hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe
dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú
sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống
mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng
là một trò chơi không xứng với một con người? Trò
chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu
Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh
Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì
chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất,
vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn
mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được
chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được.
Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu
hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không
có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường
cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng,
Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo
những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt
vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của
người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau
của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự
sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống
trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một
phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh
cửu.
Đức
Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu
hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không
còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa
Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối
con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng
Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền,
vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều
khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh
quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan
cùng với Ngài.
Chúa
Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ,
tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả
nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải
chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn
một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc
sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa
Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa
Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ
duy nhất của nhân loại.
Anh chị
em thân mến,
Chúa
Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của
Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được
Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh
như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau
khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui
tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá
đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là
tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái
chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa
Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến
thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không
còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi,
mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống
và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm
ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã
được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm
nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng
ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của
chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày
bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa,
yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là
chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta
ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
14. Ông đã thấy và đã tin.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Niềm
vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra. Xác của Thầy
đặt bên trong đã biến mất.
Thật
là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối. Có lẽ cả đêm
qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để
lên đường.
Ai có
thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga
19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61). Bây
giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương
mến...
Maria
hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy. Vấn đề duy
nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để
Người ở đâu (Ga 20,2.13.15). Bà cần biết chỗ đó, để
lấy ngay xác về.
Maria
chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong
tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có
ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn
che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải
liệm. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria
Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như
Gioan. Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến
cố:
- ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,
- ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng
ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay
hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát
trong cuộc đời. Đời
chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải. Những gì
chúng ta yêu quý nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm
tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà
Maria (Ga 20,11)
Nhưng
nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà
Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục
sinh? Phiến đá cửa mộ
không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được
Ngài ra đi.
Sự
sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù. Tình yêu thắng
trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng. Niềm vui
phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria. Bà sẽ chẳng
bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ
gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
- Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình
chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa
đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi
sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ
khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang
dở.
Vì Chúa
đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái
liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái
liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái
liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự
phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức
thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự
của từng thụ tạo.
Sự
phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với
Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất
gì, nhưng lại được tất cả.
15. Phục Sinh.
Có
một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành,
lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán,
tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng
ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới
ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần
chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết
rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông.
Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận
được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt
trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng
say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu
chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng
ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì
đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm
được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm
cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh
quang đầy mới mẻ.
Đây
cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy,
trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ
đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống,
các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi
ước mơ vào Ngài.
Thế
nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy
vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng
tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng
bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã
chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã
trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên
đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy
ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức
Kitô đã sống lại.
Kể từ
lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt
dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt
vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ.
Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng
Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ
nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng
Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã
từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ
diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước
cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu.
Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta,
chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ
diệu ấy?
Trước
hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở
rộng cõi lòng cho Đức Kitô
để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã
thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời
các ông giảng dạy.
Tiếp
đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta biết
yêu thương trở lại
sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ,
đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng
trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản
bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng
trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của
chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau
cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta lau
khô những giọt nước mắt,
tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã
khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục
sinh đem lại cho chúng ta.
16. Mầu nhiệm.
Chúa
Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết
sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi
để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ
cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã
loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay
lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự
nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai
dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn
sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành:
đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây
Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa
hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái
tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim
mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng
cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?
Đúng
thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con
Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người,
nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không
riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người
tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng
cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã
sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng
nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống
lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó
không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể
biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba
điều:
- Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật.
- Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan.
- Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả
thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi
là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con
người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm
xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính
quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con
người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an
táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận
có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước,
ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong
mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại,
một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị,
có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục
sinh.
Đây là
một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ
mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là
một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền
tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa
sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như
Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có
quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại
để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng
sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho
tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời
đời.
Như
vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh
không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh
chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo
lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có
một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí
nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn
đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì
sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực
nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay
những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi
xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người
ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu
quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội
Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng
chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô,
chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô
giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là
nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh
không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục
sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã
đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu
Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của
chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên
đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến
cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của
Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt
này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay
đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng
ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc
Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi
chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu
nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của
toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm
lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những
chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền
tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng
ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn
mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về
sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử,
về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy
không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi
người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng
ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có
nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức
tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức
tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống
tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo
đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu
thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang
thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục
sinh của chính mình.
17. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm
vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục
sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ
giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm
vui của họ:
Trong
thế chiến thứ nhất, một người Nga Cô-dắc có hai cậu
con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một
lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã
đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ
huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc
khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là
Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày
10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết
một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về
anh ấy…”
Tin
này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối
với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ
rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần
như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc.
Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí
khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống
nhiều rượu.
Ông
đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp.
Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô
con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu
đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì
ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị
linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con
trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
Mười
hai ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ mười
ba, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư
này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị
thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường.
Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về
hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương.
Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng
thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến
nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại
bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi
nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp
lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ
người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người
đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn
sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng
can đảm của nó!”.
Câu
chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về
niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ
Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt.
Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức
Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt
cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống
trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên,
chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là
trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống
lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm
vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng
đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích
của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự
chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất
phục nơi Người.
Niềm
vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả
chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi
chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng
ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng
cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục
được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là
những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu
không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ
chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên
trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng
nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng
bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta
đừng e ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng
ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới
bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng
ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy
nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm
vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi
chết.
18. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Giáo
Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về
lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho
một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc
mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói:
“Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả
trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống
lại, Halleluia”.
Ngày
nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người
ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô
vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả
trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng
mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa
anh chị em,
Quả
trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế,
ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi
chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời,
con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức
Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống
lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống
và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài
đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ
mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng
hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”.
Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai
ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn
đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ
Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật
như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã
sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài
sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng
tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy
Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng
Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang
sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa
Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng
từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một
số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ
đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với
Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người
Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp
liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô
nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng
ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống
của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn
còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được
chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được.
Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những
người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt
tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô
không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô
nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát
và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường
cùng.
Nhưng
Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy
vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người
qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn
quại của con người không còn là nỗi quằn quại của
kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của
người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống
mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu
hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin
Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu
được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông
đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao
trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa
Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta
không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng
nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi
chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng
ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu
Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi
Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được
xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất
diệt.
Anh chị
em thân mến,
Chúng
ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ
phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và
sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới
trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống
mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết
tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang
với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của
chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng
ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa
Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì
chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa
Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để
chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư
giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích
kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và
như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu
đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm
những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác
thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng
đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại
cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm
cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng,
nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc
sống vĩnh cửu.
Nếu sự
Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính
Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại
rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều
người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái
làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con
người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin
vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho
người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất
cả…
Nếu
chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm
chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp
nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi
người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người
được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu
chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền
bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của
Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không
dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải
thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo
xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí
mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp
tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư
giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả
thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy
mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó.
Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm
phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển
hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong
ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem:
chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng
ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa?
Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người
bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin
vào của cải vật chất hay của một người tin vào một
cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm
cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự
của nó?
Trong
Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã
chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin
Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống
cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
19. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
(Suy
niệm của Achille Degeest)
Những
bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ
Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn
đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự
kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình
khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các
bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể
thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều
là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn “Đức Giêsu
Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh
Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ
sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có
thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh
cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của
những sự kiện.
1)
Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các
tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người
ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều
chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải
vậy. Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh,
không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng
ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý
của hành vi tin như vậy là tốt.
2)
Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ
nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín
rằng Chúa đã sống lại.
Câu của
thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được
đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và
không có bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan
đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết
nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử
là ngôi mộ trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng
nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên,
phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về
thượng tầng ấy là những lần Chúa hiện ra cho các môn
đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu
Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây
chúng ta tiếp xúc với một điều gì khiến chúng ta có
được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử,
đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên
ngoài hay bên trong, nhưng được kích động cả ngoài và
trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ
của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta
ngày nay.
3)
Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi
tâm hồn các ông.
Chúa
hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý
thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời
sống thật sự của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để
thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững.
Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng
và não trạng các môn đệ. Não trạng Do Thái của các
ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây
các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan
mật thiết với chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một
niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo
Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông
phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa
chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên
(Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh trên đây
chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt
nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao
quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
20. Xác nhận lòng tin - McCarthy
Suy
Niệm 1. BƯỚC
NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi
khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ
đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả
các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy
Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm
vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ.
Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng
ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng
ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như
các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những
phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng,
các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt
nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo
ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi
nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không
thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên
Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và
nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ
nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như
họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng
Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác
vĩ đại của lòng tin.
Điều
này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã
từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy
Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi
Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng
được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm
tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc
do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người
gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các
Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống
Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày
Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin
tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không
chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người,
sau khi Người sống lại (Mc 16,14).
Tất cả
những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng
ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các
Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện
diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần
Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được
xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta
không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải
sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy.
Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta
phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng
bằng cách nào để những người như chúng ta có thể
nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được
lòng tin?
Chúng
ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ
gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức
nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự
đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể
từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều
lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng
về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa
bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo
thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại
trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời,
thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất
cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta
trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn
bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng
Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh,
nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi.
Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của
chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả
năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết
rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ
chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy
Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào
buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi
chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc
u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó
không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn
được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho
cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận
chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả
được.
Bản
thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy.
Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời,
chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người
đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm
thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết.
Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được
nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm
dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại
có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này
thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng
là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng
ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã
bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong
buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc
cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ
ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ
hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra
trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà
là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại
không diễn ra như dự định.
Tại
mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với
họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ
chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã
sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên
được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này:
Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ
không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người
tại chốn mồ mả.
Tất cả
chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa
trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái
chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu
tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp
khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống
trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần
đầu tiên đã được công bố.
Thông
qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến
cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn
tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu
đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân
Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu
tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo
Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa
cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống
như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của
chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn
sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống
thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở
cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn
nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên
Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng
ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu
đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn
cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy
tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho
ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng
tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo
đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy
ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta
sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG
CÂU CHUYỆN KHÁC
1.
Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn
sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã
chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi
được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên
suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại
giam vài dặm đường.
Cánh
đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót
vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp
chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không
có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la,
tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng
đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung
quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh.
Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã
được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói
chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà
anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù
chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự
do của không gian”.
Anh
không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó
trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này.
Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại
thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi
tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa,
tôi được trở thành một con người”.
Chúng
ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận
được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa,
với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam.
Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu
trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như
vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của
Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người.
Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau
đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng
các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương
khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để
Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không
thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật
Phục Sinh.
2.
Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên
đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc
mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào
mộ?
Có một
người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả
là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với
ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm
đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã
rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn
một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và
tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết
đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong
mồ rồi.
Chúng
ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ
chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn,
người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá
ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc
một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi
ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và
bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ
được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách
đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể
làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta
không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân
mình.
21. Phục Sinh.
Hôm
nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những
người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan
mừng kính cuộc chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu
Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị giết
chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng
ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã sống lại. Đây là một
biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu,
độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã
sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn
sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng
đều không cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào.
Vì thật sự không có ai có mặt để chứng kiến biến
cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng
đã nhìn thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa
không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần
với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy
bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số
phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa
Giêsu.
Như
vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Giêsu Phục
sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta
minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa
là không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được,
vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống
lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc
Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay, vấn đề
chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị
em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo lường được tình
yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy
họ hay đi với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện
với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân mật với
nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào
Chúa Giêsu Phục sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa
sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh Thánh đã nói về
việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế
kỷ qua: Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập
giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự trong nhà chầu…
là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn
thờ Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta.
Không, chúng ta tin Chúa đang sống, Ngài đang điều hành
vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với
chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu
cũng có Ngài, Ngài là Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu.
Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin
Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin
Chúa Giêsu Phục sinh không chỉ là một nhân vật lịch sử
được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn sống
động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về
Ngài mà thôi, nhưng chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài,
như Ngài đang sống động hiện diện giữa chúng ta.
Nói rõ
hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên chúng ta không chỉ
nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó,
chẳng hạn như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà
nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng nọ. Nhưng có một
khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người
bình thường hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã
chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa Giêsu thì
khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết
Ngài và gặp gỡ Ngài một cách thực sự.
Tiếp
đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta
được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu
chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các
giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc
chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là
Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc tất cả chúng
ta.
Đàng
khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta:
tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ
sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính:
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì
thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục
sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã
làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống
lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến
thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung
hưởng chiến thắng đó.
Tóm
lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta xác tín:
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi
và sự chết. Ngài đang sống thật sự và đang ở với
những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta. Chúng ta hãy cảm
tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được
cứu chuộc: sống công bình và yêu thương, sống vui vẻ
và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là một lời
ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
22. Phục Sinh
Tầm
thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng
ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là
một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa
Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và
đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con
người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng
Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa
tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận
Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ
này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu
chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi
mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài
đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê
như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì
anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự
bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên
trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”.
Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông,
mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời,
không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi
và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để
đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của
Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục
vụ anh chị em.
Sống
hướng về trời để
có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha
nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những
mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh
chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ
lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu
nữa.
Sống
hướng về trời,
về những điều trên trời là điều cần thiết như
người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn
lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng
thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị
lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào
trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương
tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn
Phục sinh của Ngài.
Các
tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo
trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống
lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể
lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô,
mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những
giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn
thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa
biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành
những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có
một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn,
khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách
đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây
kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác
thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời:
Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những
địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức
hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng
về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung
là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ
trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây
là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ
không có ích lợi gì cả.
Hình
ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về
người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại,
như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người
Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường
tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có
tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế,
không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào,
nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói
lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió
cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu
người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên
trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là
những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa
Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui
hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn
chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn
nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị
em xung quanh.
Việc
chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác
động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của
Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành
động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo
thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa
Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài
nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các
ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận
Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến
sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc
con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì?
Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như
thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa
hay không?
Một
thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa
vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy
dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên
thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của
Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng
không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa
Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc
này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến
sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những
lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh
Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho
Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như
chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một
Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương
trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô
Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước
dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu
rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của
thánh lễ hôm nay.
Chúng
ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến
cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông
đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào
chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập
giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú
mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria
khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân
Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho
các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như
chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín
hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để
từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn
cảnh.
Mừng
lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình
đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được
Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa,
trở thành người Kitô hữu sống động.
23. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một
người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm
thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay,
bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà
thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự
thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng
thù ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi
người cha của bà chết, người chị đã không chia gia
tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần
đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm "eczema", và
kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải
ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà
biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì
bà mới hết được cái bệnh ngứa."
Ngày
xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc
tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh
vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm
nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương
sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là
ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn
đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện.
Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành
khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du
khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ
thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa
Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô
Phục Sinh.
Đấng
phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc
của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét:
một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho
cả.
Thánh
Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau, "Thiên
Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn
phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới
đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi
vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà
Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài
đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang hiện diện.
Những
kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế,
quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong
những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta
có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật
hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những
người đang mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói
khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa
Giêsu Nagiarét là "Ai" trong mùa Phục Sinh? Và
chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết
của Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một
cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm nhạc.
Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại
theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn thật
sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi "Linh
hồn của Ngài sống mãi", hoặc là "Tư tưởng
của Ngài còn sống", hay là "Ngài sống qua những
người môn đệ." Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét
sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học
để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức
của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự
việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không
thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi
sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại
cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số
người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng
rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và
không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới.
Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không còn
thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho
những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống
theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được
vinh hiển như Ngài.
Chúng
ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê:
"Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên
hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức
Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng
trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú
tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã
chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng
với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn
có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một
cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn?
Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân
thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục
Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi
bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới
bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất
độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu,
nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này sẽ được
mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống
khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu." Khi tiếng loa cuối
cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con
người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được
biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết một
phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự
vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha
của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo
lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng
sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu
Kitô" (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ
cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và
đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng
ta bằng tình yêu.
24. Biến đổi trở thành con người mới
Một
câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị
gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước,
bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua
Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo
Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc
thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị
Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không
chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận
nhưng với hai điều kiện:
- Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
- Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm
như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của
mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để
tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem
trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu
trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như
bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài
ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình
như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng
nữa.
Đây là
một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người
Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của
mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể
xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng
tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội
lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng
tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể
của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những
khuyết tật tinh thần của mình.
Không
bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử
có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng.
Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra
khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào
bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở
thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng
vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không
những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn
thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết
hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ
trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông
Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống,
mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi
sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống
trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã
thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để
thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát
chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành
của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành
con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô,
và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải
thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn
bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc
sống mới với Chúa.
Vậy
mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết
luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để
mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như
Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
25. Hai cái nhìn
Trước
ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến
hai cái thấy khác nhau:
-
Cái nhìn của bà
Maria Magdala là cái
nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới
nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị
tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì
khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người
ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này
không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn
rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái
nhìn của người môn đệ Chúa yêu
được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã
lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất
kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm
khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại
những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn
này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống
lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui:
“Ông đã thấy và đã tin”.
Có
thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn
các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng
ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt
thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu”
là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự
nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin.
Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi
sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng
hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem
ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một
là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức
tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối
với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”.
Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại
mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt
đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức
Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất
cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta
cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần
xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp
mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng
ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc
trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
26. Ngôi mộ trống -JKN
Câu
hỏi gợi ý:
- Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
- Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy
tư gợi ý:
1.
Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm
nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh.
Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự
và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại,
làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói:
«Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng
của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em
cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không
sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và
anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa,
cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị
tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ
vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng
thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2.
Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh
của tôi?
Nhưng
thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng
hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa
là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi?
Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi,
hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm,
chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi?
Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần
Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì
đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống
mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều
đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên
hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người
cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy
chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố
hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu
Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà
không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy
ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải
sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc
ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm
của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3.
Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức
Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống
mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và
chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự
trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu
sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức
Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí
của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của
anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng
là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh
vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu
sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng
ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác,
thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống
lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà
làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ
thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải
chúng ta nên con người mới?
4.
Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức
Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được
sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế,
muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới,
ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả
những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ:
«Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị
đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con
người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6).
Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con
người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát
vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần
Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người
mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện»
(Ep 4,22-24).
5.
Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như
vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát
từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ
tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau
khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo
cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi
người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ,
là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự
sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ
những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em
sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống
phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một
tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu
chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương
tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi
mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không
làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá
huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có
thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta
phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy
không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại
mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của
con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa
hơn lên ngàn lần.
6.
Một nghịch lý thực tế
Đừng
tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình,
chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong
phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm
đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn
hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của
nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25).
Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng
cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và
cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài
lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng
tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều
hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại,
những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân,
lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù
xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ
cực nhiều hơn ai hết.
7.
Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh
Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được
sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người
mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống
như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy,
con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là
trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được
Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó
là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên
Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới,
một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với
một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ
con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho
bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người
sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta
quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập
tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu
sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con
người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta
phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời
sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần
Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep
4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí
anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại,
Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm,
cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở
thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống
lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời
sống Kitô hữu của ta.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ
như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn
nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã
bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết
tâm trở nên một con người mới, một con người sống
vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha
hãy biến đổi con.
27. Chú giải của Noel Quesson
Sáng
sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn
Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là
biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau
ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất
nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày
thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới
đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ
sáng thế mới.
Đau khổ
và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại
sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc
Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất
hạnh như thế?
Vấn
nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận
biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người
quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có
thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo
đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người
đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng
tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự
chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa,
vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc
trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn
Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó
là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá
ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc
biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria
Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức
Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy
tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông
Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta
"chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị
chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng
trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất
thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy
hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách
nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi
đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ
danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến".
Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình
thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong
nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì
Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết
sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên
ghi nhận điều đó.
Bà
nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng
tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc
này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem
Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện
theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không
tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn
đều nói ngược lại.
Rõ
ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm
thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng
chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi
mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi
ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ
"ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc
này, mới chỉ có thế!
Ông
Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng
chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã
tới mộ trước
Gioan
nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết
hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một
yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có
thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn
đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là
trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24;
18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh
đến điểm bất thường này?
Ông
cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó,
nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi.
Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở
đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn
với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một
nơi.
Cách
dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và
viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải
bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với
băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng
chỗ của nó”.
Tóm
lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ
thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột
bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu
(đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ
quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái)
vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên
trong băng vải.
Bấy
giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng
đi vào
Gioan
nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý
nghĩa.
Ông
đã thấy và đã tin.
Phêrô
vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm
mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở
về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc
24,12).
Maria
Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta
đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô
thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì? Ông đã chứng kiến cũng một
sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để
tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con
mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại
sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu
thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh
hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin
sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ
Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước
Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây
chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức
tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội
chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền
bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời
gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình
yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã
thấy và đã tin.
Đối
với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng
là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa
nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn
đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực
giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không
thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng
chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên
trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà
những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với
Phêrô.
Dấu
chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một
ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt
qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin
nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc
thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như
thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông
tin, dù không thấy.
Đức
tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con
người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà
những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được
những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu
chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết
đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự
vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần
phải được giải thích, nhưng không phải là không có
nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi
điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế
nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc
gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi
buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở
và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm
chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu
biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận,
đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai
người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp
trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế,
sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được
sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có
thể hiểu được.
Ta cũng
cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật
vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh,
Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng
hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu
Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực
vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống"
chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp
Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để
cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của
dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn
biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã
trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng
nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời
sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố
đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm
Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính
tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải
yêu mến.
28. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI
MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Người đang sống
Thật
nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở
chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không
dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria
Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các
môn đệ: "Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời
Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm
nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những
chứng nhân đầu tiên.
Trong
đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp
xếp một quá trình "tiệm tiến gây ấn tượng".
- Trước tiên đó là những "di chuyển" rất nhiều và rất nhanh: động từ "chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
- Kế đó là những “dấu chỉ" ngày càng rõ nét (với những động từ "nhìn", "thấy"), và "lời giải thích" về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
- Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. "Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra". Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự "kinh ngạc" của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: "Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết".
- Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó "ông đã thấy và ông đã tin".
2.
Và ông đã tin
Dưới
mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở
thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, "Môn đệ kia"
được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn
đệ, người môn đệ tuyệt hảo; "Người môn đệ
được Đức Giêsu yêu mến"; Người trong bữa Tiệc
ly đã "tựa đầu vào lòng Đức Giêsu", với trực
giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không
của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt
gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một
thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được:
"Ông đã thấy và ông đã tin". Theo ông, chẳng có
ai "lấy đi" thi thể của Đức Giêsu như Maria
Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác
Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn
thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết
đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh.
Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến
hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được
xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức
Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã
đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi
Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn
khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã
từ thế giới loài người" (A. Marchadour, “Tin Mừng
thánh Gioan". Ccnturion, trg 244).
Là một
trong những chứng nhân đầu tiên đã "thấy Đức
Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu
mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: "tin dù
không thấy" (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).
BÀI
ĐỌC THÊM
1.
Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các
ngài: (‘Cử
hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và
phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các
động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra
đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn
trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo
hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc
ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra
với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn
biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng:
"Tin dù không thấy" và “tin nhờ vào quyển sách
của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong
chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu
tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: "Chúng tôi không
biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu". Cần một
cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp
theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến
ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna:
tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận
thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng.
Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận
trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý "đã
thấy và đã tin".
Ánh
sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức
Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của
một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu
cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở
nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi
người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ
mời ta hãy bước theo họ.
2.
Tại ngôi mộ để ngỏ
(G.
Boucher trong "Thiên đường tại thế")
Buổi
sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ
Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung
ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn
ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận,
một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không
chấp nhận được.
Phải,
phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế
trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy
đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi
tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi
ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật
là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô
và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ
phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan
đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan
thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà
thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta
hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen
ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông
chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang
đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la
lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn
hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ
thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả
mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với
một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí
quyết.
Ai đã
sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu
có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ
chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ
đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín.
Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm
nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng
mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự
hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới
ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi
người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết.
Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng
còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép
lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng
này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung.
Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo
sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ
mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự
sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta
hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng
tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục
sinh đã báo trước.
Đăng nhận xét