CHÚA
NHẬT 5 MÙA CHAY C
Lời
Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11
MỤC LỤC
1. Lòng thương xót của Chúa.
Người Do Thái là những kẻ xác
tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính
nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ
là những người sống công chính theo lề luật, thì điều
đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt
nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những
kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là
vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật
của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh
sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình
mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và
họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt
thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ
lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại
tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo
đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái
ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố
cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ
yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ
tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt
lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố
cáo Ngài.
Chúng ta biết rằng luật Maisen
truyền ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng
vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước
khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại
diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy
nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ
nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài
đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng
thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật
Maisen.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy
của họ bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy
tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội
thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ
đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh bài
chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi
tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu
từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu
thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn
họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá
ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.
Lời nói của Chúa Giêsu là ánh
sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả của họ.
Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê
chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng
lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như con mồi,
như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài
bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn
lại một phạm nhân và một người cũng đang bị kẻ
khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn
biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng
trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một
cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu:
Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ
về và từ nay đừng phạm tội nữa.
Có người nói Chúa Giêsu đã
giải tội mà quên cả việc đền tội, quên cả công
thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung
độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao,
chúng ta đối xử như thế nào đối với những kẻ tội
lỗi?
2. Gặp gỡ Đức Kitô.
Gặp gỡ người khác trong cuộc
đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc
gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp
người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau
xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong
cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người
bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui
mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống,
biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.
Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc
gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ
như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến
đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn
tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại
để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.
Trước hết là
cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp
ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà
ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá
cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại
Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết
trên đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có
chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ
tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một
sự im lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án,
đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như
để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của
mình. Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ
hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai trong các ông
sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi
Ngài lại cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện
gì xảy ra cả.
Thế nhưng có
chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ
trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường,
kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với
những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có
một tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết
án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và
kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng
của mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và
hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ sống ý thức
chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình.
Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu
họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là người đàn
bà và chính họ nữa.
Tiếp đến là
cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị
dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im
như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình
phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình. Thế
nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan
trọng để phải dùng đao to búa lớn đối với con người
hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát. Ngài hiền
lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến
khi chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ
đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải chăng Ngài
muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi
tình hình đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ
của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết luận, mới
tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị
hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa
muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án. Nhưng
chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin
tưởng ở chị một sự thoát xác, một sự đổi đời.
Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy
tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng
tích cực hơn.
Chúng ta không biết điều gì đã
xảy ra cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp
gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta
biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp
được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia,
Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời
chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài.
Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho
Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn
mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục
và đã hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.
Xuyên qua những cuộc gặp gỡ
trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta bước đi trên
con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi
từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài
hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi
cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái
sinh…
3. Đừng phạm tội nữa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị bắt quả tang phạm tội là
điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại
tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ
ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống
tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền
Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám
đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ
có bằng chứng tố cáo Ngài.
"Luật Môsê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ
sao?".
Quả là một câu hỏi bất ngờ,
lịch sự và nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược
với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái
tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc
trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự
vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các
kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng
Ngài bị dồn vào thế bí.
"Ai trong các ông vô tội thì
hãy ném đá trước đi." Ngài trả lời, rồi lại cúi
xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ
vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối
diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng
kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín
không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư
tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người
ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình
mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm
tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận
mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi
trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định
tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và
chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm
hơn cho cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá
lại nói: "Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi,
từ nay đừng phạm tội nữa."
Lắm khi việc áp dụng luật lại
dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt
răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người
phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu
một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời
người.
Dù con người vốn yếu đuối,
dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng
vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu,
nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người
phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến
đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn
có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?
Để sống với nhau cần có luật
lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp
chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi
vào những nguyên tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của
Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên
chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa:
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc
lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán
nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong
sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một
đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành
công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để
yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt)
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng
đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã
được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha
nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan
dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày
một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là
các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội
ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực
ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể
căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý
kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài
bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại
luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn
với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân
từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản
án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa
Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống
viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với
thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có
thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì
câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời
câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác
cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người
phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những
Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn
mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của
con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người
đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì
Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với.
“Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném
trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử
người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành
quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án
người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ.
Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ
Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu
làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà
cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết
người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm
giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội,
nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút
lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những
người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ
nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người
đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu!
Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của
Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu.
Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại
lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng
trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa
không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân
phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội
nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa
đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa
không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin
tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy
về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu
tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô
điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu
rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở
tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ
sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm
đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới,
bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của
Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu
rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không
lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án
những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng
thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Lên án và tha thứ, bạn làm
điều nào nhiều hơn?
2. Mỗi khi xét người, bạn có
xét mình trước không?
3. Bạn có cảm nhận được lòng
thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có
hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
5. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua Quang Vũ
nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá
chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm,
liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị.
Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ
có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những
người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã
vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía
sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà
vua bảo:
- Ta nghe tục
ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ”
có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn
nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn
vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ
biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không
thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến
hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không
thành được, con người này không thể đem danh lợi và
phú quí để mê hoặc”.
Câu chuyện
trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ,
khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt
quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là
nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất
lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ,
mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư
và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến
xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê
cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ
là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném
đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải
ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là
“Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh
vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên
đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang
suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng
có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn
ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng
hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy
vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào
lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai
trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can
đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá
cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít
phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị
tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các
viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình
vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu
xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình
trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại
tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ
nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội
phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người
ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi
tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an
tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất
cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi
người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội,
họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó.
Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng?
Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông
tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại
chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu?
Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật
là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi.
Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ,
tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết
chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội
lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng
lại thương xót tội nhân.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ
bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng
con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết
cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân
thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án
chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết
án anh em của mình. Amen.
6. Tình thương cứu độ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể
câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước
cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một
đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả
những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có.
Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có
vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu
nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì lời
bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn
khổ.
Người hành khất lặng lẽ
nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng:
“Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất
thế. Ta sẽ dùng nó để ném đá trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất
cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu
mang sự báo thù.
Năm tháng
qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự
thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất
cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó,
người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải
người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong
lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không
rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông
cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào
người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên
ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ
đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất
thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta
phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con
người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn
khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném
đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố
cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu
chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi
tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm
đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ
run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng:
họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang
phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải
ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”.
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy
Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê
thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu
Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều
mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ
gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm
đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu
hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống
lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết
gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là
muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và
Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt chịu
ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến
trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy.
(Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm
đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ,
phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì
phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một
hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong
các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên
đi!”.
Rồi Ngài lại cúi xuống viết
tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật
ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ
rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước.
Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người
trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu
và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng
đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ.
Ngài hỏi chị ta:
- Những người kia đã đi đâu
cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
- Thưa Ngài, không có ai, thiếu
phụ đáp lại.
- Vậy thì Ta cũng không lên án
chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng:
lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và
chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm
làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế
giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê
bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối
người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý
nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng
kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống
trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta
đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng
mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều
rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở
Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những
người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai
trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy
các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ
đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình
là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ
bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ
rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều
tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân
đức hơn những người khác… Câu chuyện còn đề cập
đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức
Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại
tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ
đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ
mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không
dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người
kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống
với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng
định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác,
Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất
hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị –
Chị là người có tội đấy-Chị hãy chừa cải, sửa
đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi
tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải
tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa.
Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị
luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa
mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại
dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh
thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống,
còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng
một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng
ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà
là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của
Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính
Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc
viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã
được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng
phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ
bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo,
những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết
liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái
lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một
cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ:
“Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối
với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng
ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ
ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho
tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu
thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo
Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình
thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là
kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng
tái phạm nữa.
7. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R. Veritas.
Người ta kể lại dưới thời
các hoàng đế trị vì xưa kia. Cứ sau thánh lễ Phục
sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy sáng, hoàng đế
cho thắp thêm một cây đèn lớn khác gọi là "Cây
đèn ân xá Phục sinh". Cho tới khi nào ánh đèn còn
cháy, tất cả mọi người có tội nặng đáng xử tử mà
đến đặt tay trên cây đèn ấy xưng thú tội lỗi mình
thì được ân xá, không phải chịu án phát. Từ một
phía cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng dài. Nào
là những người cướp của giết người, ngoại tình,
phá thai, gian dối, lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi
đặt tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng thú lỗi lầm,
công khai trước mặt hoàng đế và đông đảo tín hữu
tò mò đến xem, họ sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi
và nhận chứng thư tha tội, trong đó có những lời
khuyên phải cải tà qui chánh.
Người sau cùng tiến đến Cây
đèn ân xá Phục sinh là một phụ nữ trong sắc phục sám
hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng xem có cả ông
chồng, tay cầm tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng
đế đừng khoan hồng đối với bà. Trong nhà thờ im lặng
như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm đến Cây đèn
ân xá Phục sinh, bà lớn tiếng thú tội: "Tôi đã
phạm tội ngoại tình với tất cả những người đàn
ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được khoan
hồng". Nói xong, bà thổi Cây đèn ân xá Phục sinh
tắt ngấm. Rồi bà nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã
có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận: "Tội
tôi thì quá lớn không đáng được tha thứ". Bà mở
mắt ra. Thì ô kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại
cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó đã dùng
tờ đơn tố cáo bà, đốt trở lại Cây đèn ân xá Phục
sinh mà chính bà đã thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế
nghiêm mặt hỏi: "Ngươi là ai mà dám tự tiện thắp
Cây đèn ân xá Phục sinh?" Ông ta thưa: "Tâu hoàng
đế, hạ thần là chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn
tố cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó
trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy lại ánh sáng cho
Cây đèn ân xá Phục sinh đã tắt". Nghe vậy hoàng đế
nghiêng mình trước người chồng và nói: "Ngươi đã
hành động rất đúng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu
Kitô".
Không kết án, không vào hùa kết
tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống
đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để
nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình
trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó
là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài
đọc hôm nay.
Người đàn bà bị bắt quả
tang đang lúc phạm tội ngoại tình như kể trong Phúc Âm
theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng minh cho chúng ta thấy
cung cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối
với những người có tội. Chiếu theo luật Do Thái, như
ghi trong sách Lêvi chương 20 câu 10 và sách Đệ Nhị Luật
chương 22 câu 22: "Phụ nữ có chồng bị bắt quả
tang đang phạm tội ngoại tình phải bị ném đá cho chết
cùng với người đàn ông đang phạm tội ngoại tình với
bà". Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc
sống hoang dâm khỏi cộng đoàn. Theo bài Phúc Âm, các
biệt phái và những luật sĩ chỉ dẫn đến cho Chúa
Giêsu người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn
kết tội hai người: người đàn bà bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu, mà họ đang tìm mọi
dịp để lên án.
Tuy nhiên, cung cách hành xử của
Chúa Giêsu theo cái lôgíc của Thiên Chúa, không theo tâm
địa hẹp hòi gian ác và giả hình của con người, lại
cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một
lối thoát, lối thoát của cuộc đời hoán cải. Qua cách
hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi là
còn nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ
và ơn cứu độ cho họ. Không ai biết Chúa Giêsu đã viết
trên cát điều gì hay Ngài đang cần phải qui chiếu theo
một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương
tha thứ. Chúa Giêsu không chối bỏ những cái nặng nề
và những hệ lụy do cuộc ái tình trong cuộc sống con
người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một
sợi dây của lòng trông cậy. Bởi vì đối với Thiên
Chúa, quá khứ tội lỗi của con người không quan trọng,
điều quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng,
thơ ngây, vô tội trong tâm hồn từ giây phút này trở
lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên Chúa điều quan
trọng duy nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng
cuộc sống của chúng ta.
Kiểu cách giải quyết vấn đề
của Chúa là một tiếng sét cách mạng quật ngã mọi
người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật 17,7: "Những
ai đã bắt được quả tang người phạm tội ngoại tình,
nghĩa là đã chứng kiến tận mắt, thì hãy ném viên đá
đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có tội". Nhưng đây
Chúa Giêsu nói: "Ai không có tội, hãy ném đá trước
đi", mà có ai trong gia đình nhân loại là người vô
tội đâu? Bởi vì ai trong chúng ta cũng có tội cả. Và
phạm tội mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi thì lại
càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ cỡ, đủ
cách: tội lớn, tội nhỏ, tội kín, tội hở. Tâm lòng
và thân xác chúng ta rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi
trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè lớp
dưới.
Say giây phút im lặng làm choáng
váng mặt mày, mọi người tố cáo người đàn bà ngoại
tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống đất và rút lui
có trật tự, già trước trẻ sau. Được phép dạy phải
sửa chữa tội lỗi, nhưng mỗi một người phải bắt
đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở ra
cho người đàn bà ngoại tình con đường mới của cuộc
sống hoán cải thánh thiện: "Tôi cũng không kết án
chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa". Thì Ngài
cũng chỉ cho tất cả mọi người đã hăng hái tố cáo
và đòi ném đá xử tử chị ta một con đường mới, con
đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình là
người có tội.
Hãy cảnh giác với lương tâm
mình để tìm thấy cái mặt lọ lem của mình, để nhìn
thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình. Hãy cầm lấy
cục đá, không phải để ném người khác mà là để
vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu ăn năn sám
hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó một
cách công khai trước mặt mọi người. Nói cách khác, lời
nói và cách giải quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã
khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm hồn
bệnh hoạn, phong cùi của mỗi người hiện diện rơi
xuống đất cùng với viên đá trong tay họ. Chúa Giêsu
muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta ý
thức được tội lỗi yếu hèn của chính mình, chúng ta
mới có thể bắt đầu sống trong sạch, vì không còn
phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai
trò của chúng ta để khỏi mất mặt nữa. Chúa Giêsu
cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái nhìn mới để
hiểu rằng, một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa
đến đâu đi nữa, cũng vẫn còn một góc nhỏ xíu tinh
tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết thương
mến họ, và con đường duy nhất giúp tiến vào đó là
con đường của lòng kính trọng, cảm thông, chấp nhận
và yêu thương.
Đó là phương thế duy nhất giúp
con người biến đổi từ bên trong, để bắt đầu một
cuộc xuất hành mới ra khỏi tình trạng sống tội lỗi
và tiến bước trên con đường công chính, thánh thiện.
Cuộc xuất hành mới ấy cũng được tiên tri Isaia nói
đến trong chương 43, tình yêu thương mà Thiên Chúa dành
để cho dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi
kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn thương.
Trong lịch sử cứu độ, nước
và sa mạc có ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu hiệu cho
chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do Thái, biểu
tượng cho mọi sức mạnh chống đối với Thiên Chúa và
với con người. Còn sa mạc khô cằn không cây cối, không
nước uống, biểu tượng cho sự chết. Nhưng cũng như
xưa kia trong lần xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên
Chúa dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp nước Biển Đỏ
thế nào, thì giờ đây trong lần xuất hành thứ hai khỏi
Babylon, Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như
vậy. Nói cách khác, tiên tri Isaia muốn khẳng định với
dân Israel rằng, các biến cố lịch sử cho thấy Thiên
Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu, mọi
sa mạc mà loài người đã tạo ra với cuộc sống tội
lỗi của mình. Nhưng trong lịch sử cứu rỗi, tình yêu
thương nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có
đối với con người khi tạo dựng lên loài người sẽ
chiến thắng sự dữ và tội lỗi.
Chương trình cứu độ đó Thiên
Chúa thực hiện trong cuộc đời của từng người trong
chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy trong thư gởi tín hữu
Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô
Phụcsinh đã trao ban cho thánh nhân trong cuộc gặp gỡ
trên đường đến thành Đamas xưa kia. Thánh Phaolô nhấn
mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta phải
giúp chúng ta sống theo một tâm thức mới, với một cái
nhìn mới. Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài phải trở
thành trung tâm điểm và là điểm qui chiếu duy nhất,
hướng dẫn kiểu cách sống và hành xử của chúng ta.
Tâm thức mới ấy phát xuất từ cuộc cách mạng mà lòng
tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong tâm lòng chúng ta, nó
giúp chúng ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và
biết đánh giá mọi sự dưới ánh sáng Tin Mừng mà thánh
Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi gương Ngài. Cố gắng chạy,
nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không
nghi ngờ tình yêu của Chúa Giêsu và lời Ngài, không hối
hận vì đã từ bỏ cuộc sống và kiểu cách suy tư cũ,
không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi
ngược lại giáo huấn Tin Mừng của Chúa.
8. Suy niệm của Radio Veritas Asia
THIÊN CHÚA BÊNH VỰC NGƯỜI
YẾU ĐUỐI VÀ PHÂN TRẦN SỰ BẤT CÔNG
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời
Chúa’)
Theo luật người Do Thái như được
trình bày trong sách Lêvi 2,10 thì bất cứ ai phạm tội
ngoại tình với một người phụ nữ đã có chồng và
bất cứ ai phạm tội ngoại tình với vợ của người
khác, thì cả người đàn bà ngoại tình và người đàn
ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau trong chiều
hướng kỳ thị phụ nữ, người ta bóp méo luật pháp và
chỉ ném đá trước người đàn bà ngoại tình, còn người
nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả hoặc chỉ
bị phạt một số tiền tượng trưng.
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong
trường hợp Phúc Âm trên đây gọi là cách mạng đối
với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh
vực người yếu và phân trần sự bất công của người
phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của
những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi.
Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc Âm này vẫn giữ được
tính cách đặc biệt thời sự ngày nay.
Cũng vì thế, trong Tông thư
"Mullieris dignitatem" (Về phẩm giá người phụ
nữ), công bố nhân dịp năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú giải
về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc đến thái độ kỳ
thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ,
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm,
Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của những kẻ muốn
ném đá người phụ nữ ngoại tình, ý thức về chính
tội lỗi của họ. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn
đánh mạnh vào lương tâm và các hành động của con
người, đồng thời dường như Ngài muốn nói với những
người tố cáo rằng: Phụ nữ này với tất cả tội lỗi
của nàng, đã chẳng cho thấy những vi phạm của chính
các ông, những bất công nam giới và những lạm dụng
của các ông hay sao? Đức Thánh Cha viết: "Đây là
một sự thật có giá trị cho tất cả mọi người. Câu
chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã kể lại: người
đàn bị bỏ một mình, bị phơi bày trước dư luận quần
chúng với tội lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của
riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi nữa đồng
chịu trách nhiệm về tội lỗi đó. Vậy mà tội lỗi
của người đàn ông thì không lôi kéo chú ý. Được
trôi qua trong im lặng như thế, người đàn ông không có
trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại tình ấy. Đôi khi
người đàn ông còn nhắm mắt trước tội lỗi của
chính mình và đã trở thành người tố cáo người khác
như Phúc Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ đã
phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và phải đền
tội một mình, mặc dầu tội cả hai người phạm chung.
Biết bao nhiêu lần người phụ nữ bị bỏ rơi với bào
thai trong bụng, vì người cha của thai nhi không muốn chấp
nhận trách nhiệm làm cha của mình. Và bên cạnh nhiều
bà mẹ độc thân trong xã hội ngày nay, chúng ta còn phải
nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất bào thai của
mình rất nhiều, khi vì những áp lực khác nhau kể cả
áp lực của người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai
đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm nhiều cách để xóa
bỏ cách thức xấu xa của cuộc phá thai đó, nhưng nhiều
khi lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng mình
đã tước đoạt sự sống của đứa con mình".
Trong phần kế tiếp, Đức Thánh
Cha nhấn mạnh sự bình đẳng của nam giới và nữ giới,
theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, khi tạo dựng
loài người và Ngài kết luận rằng: "Mọi người
nam phải nhìn nhận người nữ như một người chị em
của mình và không bao giờ được coi người nữ như đối
tượng cho mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối
tượng của tội ngoại tình trong tâm hồn của mình hay
qua hành động bên ngoài".
9. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’
– Radio Veritas Asia)
Cách đây khá lâu, tình cờ
tôi đã đọc được một mẩu tin từ hãng tin quốc tế
AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung Quốc. Và
hãng tin quốc tế này lấy tin từ tờ nhật báo Trung
Quốc, nói rằng chính phủ mới ra lệnh tử hình cho một
người cha vì đã can tội giết đứa con gái của mình
mới ba tuổi. Và lý do, vì ông ta muốn có con trai.
Theo luật của Nhà Nước Trung
Quốc được thiết lập từ năm 1978, thì mỗi gia đình
chỉ được phép có một đứa con mà thôi. Vì thế người
cha này là một công chức của nhà nước làm việc trong
ngành lâm sản, đã giết đứa con gái của mình mới lên
ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có được một đứa
con trai. Việc làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước
kết án tử hình vào tháng 11 năm 1988, và hôm mùng 10
tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi hành.
Đọc qua bản tin vừa kể, tôi
không khỏi bồi hồi xúc động và thấy đây là một
thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ nơi nào
khác trên thế giới này. Thử hỏi ai là người có trách
nhiệm trong thảm trạng này? Dĩ nhiên người cha đã vô
tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng thử hỏi,
còn ai khác có trách nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn
tâm hành động như vậy không? Những kẻ có trách nhiệm
ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải chăng họ không
đáng tội chết hơn người cha đã giết đứa con gái của
mình mới lên ba tuổi hay sao? Tại sao họ lên án những
kẻ khác mà quên lên án chính mình? Phải chăng đây là
một thái độ sống giả hình. Thái độ sống giả hình
của thời đại mới chúng ta hôm nay không khác gì với
thái độ giả hình của những người biệt phái vào thời
Chúa Giêsu.
Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng
ta: những người biệt phái có quyền thế trong dân Do
Thái, họ là những kẻ nắm giữ luật lệ hay đặt thêm
những luật lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một
người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và muốn
Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ trêu là chính
những người biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi,
nhưng họ không kết án chính mình trước mà đi kết án
kẻ khác.
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra
một viễn tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha
thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn
cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ
của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh
tân đời sống: "Ta không kết án con". Đó là lời
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại
tình. "Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa". Mỗi
người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý
thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc
quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ
cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã
nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình
đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em
nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với
Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời
gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được
ơn ăn năn trở lại.
Các vị thánh trong mọi thời đại
đã thực hiện điều này. Cầu nguyện cho chính mình và
cầu nguyện cho anh chị em xung quanh được ơn ăn năn trở
lại, đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa.
Cầu nguyện với những hy sinh, cầu nguyện với những
đánh tội, hãm mình.
Và trong bài đọc thứ hai hôm
nay mà chúng ta vừa nghe qua, trích thơ của thánh Phaolô
cũng đề ra cho chúng ta một bí quyết, có thể nói được
là bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là
sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, và kể từ nay ngài
không nhìn về quá khứ tội lỗi của ngài cũng như của
những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai. "Chính
tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi
đinh ninh một điều là quên hẳng đằng sau, quên đi quá
khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía trước hướng
về tương lai. Tôi cứ nhắm đích đuổi theo để được
đoạt giải ơn kêu gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ
trời cao trong Đức Giâsu". Đó cũng là mẫu gương
cho tất cả mọi người chúng ta, quên đi quá khứ tội
lỗi của mình, quên đi quá khứ tội lỗi của anh chị
em xung quanh. Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến
lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng ta và sống
kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô. "Vì Chúa tôi đành
chịu thua thiệt mà coi mọi sự như phân bón để được
lợi Đức Kitô và được ở trong Người".
Xin Chúa gìn giữ mỗi người
chúng ta được luôn luôn sống kết hiệp với Chúa, và
từ nay không nhìn về quá khứ của mình nữa nhưng nhìn
đến tương lai, để có những dốc quyết mới canh tân
đời sống của mình, từ bỏ những tội lỗi, để giữ
vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
10. Hãy về và đừng phạm tội nữa – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời
Chúa’)
"Tin Mừng sự sống".
Đó là tựa đề một thông điệp của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25 tháng 3 năm 1995.
Như chính Đức Thánh Cha đã giải
thích, đây là một bài suy niệm của ngài về sự sống.
Đứng trước nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên
thế giới ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực
về khoa học kỹ thuật và ý thức mỗi ngày một gia tăng
về nhân quyền, về bình đẳng, về liên đới huynh đệ...
Nhân loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa
khủng khiếp nhất, đó là đe dọa của sự tự hủy. Mối
đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến tranh, từ khoa
học, vũ khí hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý
thức, về sự thánh thiêng của sự sống con người.
Một cách cụ thể chúng ta hãy
nghĩ đến nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu
đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Hai hành động giết
người này đã được luật pháp của không biết bao
nhiêu quốc gia nhìn nhận và hợp thức hóa. Cái mâu thuẫn
lớn nhất của nhân loại ngày nay chính là, trong khi mạng
sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự
sống của những thai nhi và những người vô phương tự
vệ lại càng ngày càng bị khinh rẻ. Điều khủng khiếp
nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được
hợp thức hóa. Hành động xúc phạm đến mạng sống con
người được đưa vào pháp luật. Từ nay nhân danh luật
pháp do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền
sinh sát trên người khác. Con người dựa vào luật pháp
do chính mình làm ra để chối bỏ lẫn nhau, đó là thảm
trạng của nhân loại ngày nay.
"Tin Mừng sự sống".
Chọn lấy đề tài này cho thông điệp của ngài, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban cho con người thời
đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa
Giêsu mang lại cho nhân loại là Tin Mừng của sự sống,
Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua sự tiếp cận thiết
thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với
những người tàn tật bệnh hoạn, với những cô gái
điếm, với những người thu thuế tội lỗi, với những
người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội
muốn cho chúng ta lắng nghe hôm nay là một trong những
trang cảm động nhất của Tin Mừng sự sống ấy.
Đối với thái độ đầy sát
khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt
phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng,
cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt
phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị
bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại
kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt
phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người
đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào
hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây
dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp,
còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha
nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha
thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được
mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người
phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Những giây phút thinh lặng khi
Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi
người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận
đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận
ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời
cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Đám đông đã từ từ kéo nhau
về sau khi đã nhìn sâu vào trong tâm hồn tội lỗi yếu
hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với một ý thức
mới, không phải ý thức về sức mạnh của luật pháp
do con người làm ra, mà về chính thân phận tội lỗi của
mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự sám hối.
Riêng người đàn bà cũng ra về, nhưng ra về với lời
vỗ về yêu thương, tha thứ và cổ vũ của Chúa Giêsu:
"Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Đó cũng
là lời vỗ về mà Chúa Giêsu đang nói với mỗi người
chúng ta. Đó là Tin Mừng của sự sống.
Người đàn bà đang đứng bên
bờ vực thẳm của chết chóc và thất vọng, đã được
Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống mới, một
niềm hy vọng mới. "Con hãy về và đừng phạm tội
nữa". Lời Tin Mừng sự sống này cần phải được
chúng ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận được
tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng ta được sai đi để
loan báo, làm chứng và chia sẻ tình yêu ấy với mọi
người. Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt đầu
lại, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để
tha thứ không ngừng và mang lại một cơ may mới cho người
khác. Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần
vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một
nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật
hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên
tình yêu và lòng tha thứ.
11. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’
– Radio Veritas Asia)
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng
ta hãy dứt khoát giở qua trang lịch sử đời mình, quên
đi những ngày đã qua của tội lỗi, của âu sầu, của
đau khổ, của bất hạnh. Bắt đầu lại cuộc sống mới
trong ân sủng, trong tình yêu của Chúa, thể hiện qua đời
sống vui tươi và an bình.
Trong bài đọc thứ nhất,
tiên tri Isaia loan báo cho dân Chúa thời lưu đày ở
Babylon sắp chấm dứt. Ngài nhắc lại cho họ thấy trong
quá khứ, Chúa đã thương họ, đã cứu họ ra khỏi Ai
Cập bằng cuộc vượt qua Biển Đỏ lạ lùng. Dầu hành
động uy hùng đó đã xảy ra, nhưng Chúa phán: "Các
ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng và đừng để ý tới
việc thời xa xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và
giờ đây chúng sẽ xuất hiện". Những cái mới đó
là mở đường trong hoang địa, đồng hoang khô cằn trở
thành vùng đất phì nhiêu mầu mỡ, có đường đi lại
tấp nập, có sông thấm nhuần tươi mát. Và với tư cách
là tiên tri, Isaia cũng loan báo tất cả những sự cứu
thoát kia vẫn chưa lạ lùng bằng sự cứu thoát khỏi làm
nô lệ tội lỗi, trở thành con cái Chúa.
Vậy hãy quên đi quá khứ vì
Chúa đang làm những việc mới lạ phi thường, không biến
cố, không sự kiện nào so sánh được. Từ cõi lòng tội
lỗi chai đá, khô khan của con người, ơn Chúa như dòng
sông tươi mát tình yêu, Chúa mở lối đi vào để xâm
nhập, để hoán cải. Còn gì lạ lùng bằng và bỡ ngỡ
bằng những việc kỳ diệu đó của Thiên Chúa, đến nỗi
con người chỉ còn biết thốt lên với thánh vịnh 125
dùng làm đáp ca: "Chúa đã đối xử đại lượng với
tôi, nên tôi mừng rỡ hân hoan".
Nơi bài đọc thứ hai,
thánh Phaolô tâm sự cùng các tín hữu thành Philipphê
rằng: Từ khi biết được Chúa Giêsu Kitô người coi mọi
sự ở đời này không còn giá trị đích thực gì cả,
nhưng giá trị đích thực của đời sống chính là làm
sao được ở trong Chúa Kitô và sinh lợi ích cho đời
sống ân sủng. Thánh Phaolô còn dạy chân lý đó một
cách thật rõ ràng và cụ thể. Đó là dầu những ngày
còn sống trên trần gian chúng ta đã sống trong Chúa,
nhưng không phải là đã đạt đến mục đích đuổi theo
để chiếm lấy, và ngài so sánh công việc tiến đến
cùng Thiên Chúa đó như một cuộc chạy đua nước rút.
Đừng bao giờ nhìn lại phía sau, hãy quên đi từng khoảng
đường bước chân mình đang bỏ lại, chỉ biết hướng
về phía trước mắt, đăm đăm nhìn về mục đích, vận
dụng cả sức lực từng bắp thịt, từng hơi thở để
băng mình tiến tới, để đạt được mục đích Chúa
hứa ban từ trời cao. Dưới nét họa của Phaolô, chúng
ta thấy mỗi tín hữu là một lực sĩ đang tham dự cuộc
chạy đua, nhưng khác ở điểm là phần thưởng không
phải chỉ dành riêng cho người đến trước mà cho tất
cả những người trung thành bền chí chạy theo đến
cùng. Đến trước đến sau không thành vấn đề, miễn
đừng bỏ, cũng đừng thất vọng ngã lòng là được, là
chắc chắn rồi sẽ đến nơi. Tóm lại thánh Phaolô dặn:
Có được đức tin là chúng ta dang chạy đúng đường.
Muốn đến nơi đừng bận tâm đến dĩ vảng, hãy hướng
mắt về tương lai nhắm đến mục đích và kiên tâm tiến
bước.
Trong bài Phúc Âm, ý
tưởng từ bỏ quên đi dĩ vãng đau buồn, tội lỗi bắt
đầu lại cuộc sống mới được chỉ dạy thật một
cách rõ ràng với câu Chúa Giêsu nói với người đàn bà
phạm tội ngoại tình bị dân chúng định ném đá. "Ta
không kết tội chị, vậy hãy về và từ nay đừng phạm
tội nữa". Thật là một sự sống lại trong đời
sống thứ hai của người đàn bà tội lỗi đó. Không
phải sống lại vì những người muốn ném đá bà còn có
lương tri là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi không dám
cầm viên đá để ném vào đầu bà, nhưng sống lại vì
sự tha thứ của Đấng Cứu Thế và lời dặn: "Từ
nay đừng phạm tội nữa". Chắc chắn người đàn bà
đó sẽ không phạm tội nữa, sẽ ăn năn sám hối không
phải vì được tha chết, nhưng vì được chính Đấng
Cứu Thế tha tội "Ta tha tội cho chị, vậy chị hãy
về bình an và từ nay nhớ đừng phạm tội nữa". Dĩ
vảng đau buồn tối tăm tội lỗi kia ra sao? Đừng nhìn
lại nữa, đừng bận tâm nữa, đừng lo âu nữa. Từ nay
hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình yêu,
trong an bình, trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời.
Tất cả những ân lành đó chỉ những ai dứt khoát được
với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa mới cảm
nghiệm được. Hạnh phúc thiên đàng không phải chỉ
được hưởng ở đời sau nhưng ngay cả ở đời này khi
con người biết sống và nếm thử. "Lạy Chúa, Chúa
là ánh sáng thế gian, xin cho con bước theo Chúa để được
hưởng ánh sáng ban sự sống".
Để có việc làm cụ thể trong
tuần, tôi sẽ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Phục sinh
bằng cách tưởng tượng rằng: đời tôi là một trang
giấy, những ngày qua tôi đã tự tay viết đủ thứ vào
đó. Hôm nay nhìn lại thấy đủ thứ lem luốc bẩn thỉu,
tôi hãy giở qua trang và một trang giấy mới trắng tinh
sạch sẽ đang trải ra trước mắt tôi. Tôi hãy ngước
nhìn lên Chúa, xin Người cầm tay tôi, soi sáng cho tôi,
chỉ dẫn cho tôi để viết lên đó những dòng vàng son
tươi đẹp làm vui lòng Chúa, làm hài lòng những người
cùng chung sống với tôi.
12. Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội mình
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’
– Lm Ignatiô Trần Ngà)
Người ta thường nhìn ra ngoại
giới nhưng rất ít khi nhìn vào nội giới, nhìn vào nội
tâm mình. Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn
vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ
có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của
chính chúng ta. Thế nên một nốt ruồi nhỏ trên mặt
người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên
trán mình, ta không thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của
người khác thì mình thấy rõ ràng, còn lỗi lầm to lớn
nặng nề của mình thì lại không hay. Thế rồi, chúng ta
dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng
bao giờ biết phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu
trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ
ràng tội lỗi của người phụ nữ phạm tội ngoại
tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của mình. Họ bận
tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm
đến việc sửa chữa lầm lỗi của mình. Chính vì thế,
Chúa Giê-su muốn nhân cơ hội để dạy cho họ một bài
học tâm linh cần thiết là hãy nhận ra tội lỗi của
mình trước, hãy trách phạt mình trước rồi lo trách
phạt người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy ta như
vậy: "Tiên trách kỷ hậu trách nhân."
Khi các kinh sư và người
Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến
với Chúa Giê-su, họ hối thúc Chúa Giê-su ra ngay một
phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà
tội lỗi. Thế nhưng Chúa Giê-su không vội phán xét ai.
Trước hết, Ngài muốn cho những người tưởng mình vô
tội hãy xét lại chính mình.
Thế nên, đứng trước những
con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu
toan ám hại mình, Chúa Giê-su lặng thinh không nói một
lời.
Ngài thinh lặng và tạo nên bầu
khí vắng lặng để cho mọi người tự vấn lương tâm.
Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống
viết, viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá
tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa
Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: "Ai
trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném
trước đi!".
Rồi Ngài ngồi xuống trong thinh
lặng. Ngài cứ viết, viết trên đất để tạo bầu khí
thinh lặng cho mọi người hồi tâm.
Nhìn lại nội tâm mình trong
thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người
khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi
còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của
người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt
rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một
mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc
ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người
có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang
tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Nhìn lại mình để thấy được
tội lỗi của mình là điều hết sức quan trọng để
cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được là mình
hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra
mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người
hôi hám.
Nếu tôi thấy được mặt mình
dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc không chần chừ. Còn
nếu không thì chẳng có gì thay đổi.
Nếu tôi thấy được sự xấu
xa của nội tâm mình, sự bê bối của đời sống mình,
tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải
thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự
nhận biết tội lỗi mình.
Nhìn lại mình, nhìn vào mình để
thấy được những tội lỗi của mình là khởi điểm,
là bước đầu cho việc cải thiện đời sống. Không có
bước nầy, chẳng thể có bước thứ hai, chẳng có gì
được cải thiện.
Lạy Chúa Giê-su, nhìn lại
mình để rà soát chính mình, để thấy được tội mình
là điều rất khó mà cũng là việc không mấy ai muốn
làm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con.
Xin cho Lời Chúa trở nên gương
soi cho chúng con, giúp chúng con nhận ra những vết nhơ
trong tâm hồn chúng con, những nết xấu trong cuộc đời
chúng con.
Lạy Chúa Giê-su, xưa kia, Chúa
Giê-su đã giúp đám người Do Thái nhận ra tội lỗi của
họ thì nay xin Ngài cũng giúp chúng con nhận ra lầm lỗi
của mình để sửa đổi ăn năn.
13. Đừng kết án anh em
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’
– Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nếu có lúc nào đó chúng ta sa
ngã vì yếu đuối, vì lầm lỡ, chúng ta cần điều gì
nơi tha nhân? Cần trừng trị cho thích đáng hay cần khoan
dung tha thứ? Cần những lời kết án cay nghiệt hay cần
những lời cảm thông nâng đỡ? Có lẽ ai cũng cần được
khoan dung để có cơ hội làm lại cuộc đời. Có lẽ ai
cũng cần sự cảm thông để tìm lại sự bình an tâm
hồn. Thế nhưng, giòng đời thường không đối xử tốt
với chúng ta như vậy. Người đời thường dễ kết án
hơn tha thứ. Người đời thường tìm cách xa lánh kẻ
phạm tội hơn gần gũi để cảm thông. Có biết bao nhiêu
lý do để người ta luận tội và kết án lẫn nhau, và
chắc chắn cũng có rất nhiều lý do để họ xa tránh kẻ
phạm tội để khỏi lụy vào thân.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy
một quang cảnh rất đời thường. Có một người phụ
nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chị đã
phạm phải trọng tội mà theo luật Do Thái phải chịu
ném đá tử hình. Các luật sĩ và biệt phái đã dẫn
người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi
người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy
sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để
làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một
án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại
cô thân cô thế. Kẻ đã từng tòng phạm với chị cũng
đã được tẩu thoát. Vì phúc âm nói rằng: "người
ta dẫn tới trước mặt Chúa một người phụ nữ bị
bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Ngoại tình phải
là hai người. Quả tang tức là bắt tại chỗ. Thế mà
chỉ có một mình chị bị dẫn ra trước đám đông, còn
kẻ đồng phạm với chị đâu? Có thể anh ta là người
có thế lực và giầu có nên đã mua chuộc các hương
chức trong làng? Có thể anh ta là loại người "vừa
ăn cướp vừa la làng" chăng? Và như thế, có thể
anh ta cũng cùng đứng chung với nhóm người đang chờ đợi
ném đá người phụ nữ tội lỗi này. Chị cúi đầu
chẳng dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã làm nên chẳng
thốt lên lời van xin. Chị đã sẵn sàng cho một cái chết
dành cho một người phụ nữ lăng loàn.
Nhưng phúc đức cho chị, những
kẻ chủ mưu ném đá chị lại muốn "mượn gió bẻ
măng". Họ muốn dùng một mũi tên mà "bắn chết
hai con nhạn". Họ đòi Chúa Giêsu làm trọng tài để
nhân cơ hội này, hãm hại chính Chúa Giêsu. Nếu Chúa bảo
tha, là chối bỏ luật của tiền nhân. Nếu Ngài bảo
phải chết, lại vi phạm quyền xét xử của Đế quốc
Rôma đang cai trị nước Do Thái.
Chúa Giêsu đã không kết án,
nhưng cũng không dung túng sự xấu mà chị ta đã phạm.
Ngài đã im lặng lấy tay viết trên cát. Có nhiều người
cho rằng Ngài đã viết lên những tội lỗi của con người
đã từng phạm. Ngài đã viết trên cát chứ không ghi
khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát sẽ bị xoá nhoà. Tội
lỗi con người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì
"nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được, nhưng Chúa
luôn rộng lượng thứ tha". Có nhiều ngừơi cũng cho
rằng: Ngài muốn trì hoãn thời gian, để mỗi người tự
vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời người mà
thanh danh đã bị bôi nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình
hay không? Ngài muốn có một khoảng thời gian tĩnh lặng
để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố được lắng dịu
hầu có thể đối xử công bằng với nhau hơn. Cuối
cùng, Ngài đã nói với đám đông rằng: "ai trong các
ông trong sạch, thì hãy ném đá người này đi". Sự
trong sạch không chỉ là không làm những điều xấu, mà
còn đòi hỏi sự trong sạch trong tâm hồn chưa một lần
ước muốn phạm tội. Sự trong sạch không chỉ là không
phạm tội mà còn là không làm gương mù gương xấu cho
người khác. Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ người
lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là người trong sạch
đủ để có thể thi hành một lề thói dã man này. Họ
đã bỏ đi hết. Một quang cảnh thanh bình đã đến với
chị. Chân trời mới đã mở ra với chị. Chúa Giêsu đã
mở ra cho chị một con đường sống, bằng một giọng
nói dịu dàng nhưng chứa đựng một nguyên tắc sống cho
cả cuôc đời của chị: "Ta cũng không kết án chị
phải chết đâu! chị hãy về bình an và từ nay đừng
phạm tội nữa". Một làn gió của yêu thương đã
xoá bỏ quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu
thương đã mang lại cho chị một niềm hy vọng những
điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của chị.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị
Em, Có bao giờ chúng ta đã từng nói điều đó với anh
em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng ta đã đối xử khoan
hồng với nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá
bỏ đi những thành kiến xấu về người anh em hay chưa?
Nếu chưa, chúng ta hãy tập để đối xử tốt với nhau
hơn. Nhiều người vẫn biết rằng "nhân vô thập
toàn", thế nhưng vẫn để "bụng" và cố
chấp về những lầm lỗi của anh em. Nhiều người vẫn
đầy rẫy khuyết điểm nhưng lại dễ dàng la rầy, kết
án anh em. Nhiều người đã quên cái đà trong mắt mình,
mà lại chỉ thích tìm kiếm bới móc, bêu xấu, những
cái rác của tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng
ta: "đừng kết án để khỏi bị kết án". Hãy
sống độ lượng với nhau để xây dựng một thế giới
thanh bình. Và hãy nhớ rằng: "điều gì anh em không
muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho
người ta như vậy". Amen.
14. Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày
Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vụ người đàn
bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ
đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm
hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái
đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa.
Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ
tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng
túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng
loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã
tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen
của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc
mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể
bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng
nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng
thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành
một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan
sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại
tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp
may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích
lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội
lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên
Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy
nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm
tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây
phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ
ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là
trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự
nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm
chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa,
Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên
ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của
Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân
loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng
ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy
sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ
lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa
không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức
Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu
theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban
cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có
quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm
cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách
nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa
nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có
tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ
trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu
xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc
quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội.
Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới
giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để
nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với
người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ
bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
15. Người phụ nữ ngoại tình - McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI
VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn
ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước
mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ
người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ,
người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh
ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy.
Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có
thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó
mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói
rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi
đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết
này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn
tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và
giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người
ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt
giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống này
phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa
bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người
đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó
được”. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên
quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống
này được chứ ạ?”.
Nhưng vị quan này từ chối,
nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không
phải là của tôi”. Sau đó, người ăn trộm quay sang
người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài
có thể trồng hạt giống này chứ?”. Nhưng người canh
giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã
giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã
có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi”.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ
còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn
trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống
này”. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng,
có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha
ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói
“Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và
không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai
trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong
khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang
chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ”.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu
chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không
được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự
kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của
người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết,
và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể
có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận
theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ
nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm.
Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó,
nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã
bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ
lại tội lỗi của mình phía sau, và có một bước khởi
đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết
án chị ta không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại
tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi.
Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương
xót. Cách thức Người đối xử với người phụ nữ này
đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình.
Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết
của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người đó
sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự
yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của
Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta.
Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi
của chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều
tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là
bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy,
chúng ta luôn luôn cần đến lòng thương xót của Thiên
Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế
mình, trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA
THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị
phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người
công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì
người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay
đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra
trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một
sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản
thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất
cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái
ngược lại. Không người nào có lòng thương xót và hiểu
biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng
người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của
các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời của Đức
Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này,
trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị
bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ
nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội
–tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và
là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư
và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một
tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục
đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có
người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô
nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những
cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm
đến chị ta, với tư cách là một con người. Chị ta chỉ
được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử
dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta
giống như một con mồi đối với người câu cá. Để
bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi.
Việc sử dụng người khác theo cách này đúng là một
thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối
với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những
con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ
có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói
cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất
chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu muốn
buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những
thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính
Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có
nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời.
Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ,
nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công chúng. Thậm
chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ
tự nhận xét bản thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu
hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên mặt đất.
Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ
xem xét lương tâm của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách
cư xử của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với
người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết
án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế.
Phương pháp của Người giống như của một bác sĩ phẫu
thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch
thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ.
Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương xót và ơn
tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án.
Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của
ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức
Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở
đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết
án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học
hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính
hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi.
Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa
lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều đó, là
cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời
cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự
chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi, thì lại
có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản
thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình
cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà
chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị
lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời,
không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót
đối với người đồng loại.
“Hãy cứ để cho ai không phạm
tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để
có được câu nói đó” (Oscar Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về
Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng
ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm
kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường
như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt
và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người
cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một
ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt
đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà
ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức
khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống
nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói
với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi
xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện
đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền
lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho
ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác,
đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được
sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin
Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự
ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước
hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình,
để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân
bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể
biến thành sự mù quáng.
16. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa
Nhật’)
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do
Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa
Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi
dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ
không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật
ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn
gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên
hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người
ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải
quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo
sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả
tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại
tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy: “Người Do Thái
phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát
nhân và ngoại tình”. Ngoại tình là một trong ba tội
lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách
xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn
của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn
mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách
ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư
và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này
đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn
Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải:
Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá
cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn
được nổi tiếng là người đầy yêu thương và nhân
từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy
yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi
là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh
xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì
người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử
tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn
bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ
luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến
khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các
Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã
khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước
hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao
Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
1. Ngài muốn trì hoãn trong chốc
lát để khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh
khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa
trình vấn đề lên Thiên Chúa.
2. Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm
câu: “Như thể Ngài không nghe họ nói gì”. Có thể
Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để
trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của
họ.
3. Trong quyển
Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm thấy
xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái
nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có
lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối
rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường
như giấu mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có
thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh
sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo
của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông, sự xấu
hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày
vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa
Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi mắt của Ngài”.
4. Nhưng điều gợi ý thú vị
hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau này. Bản
Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi
xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố
tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ
viết trên đất”. Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết
trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang
tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì
từ viết “Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là
viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào.
Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người
khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi
của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và
đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả
lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái
như sau: “Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người
nào vô tội ném đá trước!”. Chữ vô tội chẳng những
có một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không
có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói
rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với
một điều kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn
làm như bà này đã làm”. Mọi người đều im lặng, và
những người tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với
người đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: “Bây giờ chỉ
còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng
thương xót vĩ đại”. Chúa Giêsu nói với người phụ
nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: “thưa
không”. Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy
đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta
biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.
1. Quan niệm của họ về
thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái
là những chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn
đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định.
Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế
và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm
quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm
và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm
vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi người
khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm
lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng
xuống những hình phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ
thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người
xem địa vị cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm
vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho
phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn
luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân
chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy
một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George
Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không nhờ
ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó”.
Nhiệm vụ đầu tiên của người
cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân
phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội
lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố
gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm
vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải
hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc
trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai
tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của
người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại
trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để
khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền
phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất
là cứu giúp người khác.
2. Biến cố này cho thấy
cách sống động thái độ thô bạo của họ đối với
dân chúng.
Họ không xem
người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ
vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để
tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để
thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con
chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt
trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại
trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có
thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ
đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương
tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn.
Ta thấy tâm tính của con người thường biểu lộ bằng
những phương tiện họ sử dụng để đạt mục đích.
Biến cố này cho chúng ta biết
nhiều về Chúa Giêsu.
1. Nguyên tắc đầu tiên Chúa là
chỉ người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm
của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán
ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán
xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà
trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong
mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm
thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi
kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề
cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án
người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc
phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét
người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự
thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong
chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con
người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền
đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành
đủ để đoán xét người khác.
2. Một nguyên tắc khác không kém
quan trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với
người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm.
Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh
thoảng chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và
luôn luôn an ủi”. Khi một bệnh nhân được đưa đến
một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm
bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh
đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường
khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp,
chữa trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi,
trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với
hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên hệ”
nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người
ấy? Mình có thể làm gì để hoà giải những hậu quả
của lỗi lầm?”. Nói cách đơn giản, ta phải dành cho
người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ
người khác dành cho, khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn
cảnh ấy.
3. Điều quan trọng chúng ta
phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ
nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học
hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng,
dễ dàng như tội này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều
Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy
đi và đừng phạm tội nữa”. Trong một cách Chúa Giêsu
đã không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: “Đừng lo,
không sao đâu!”. Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết
án, Ngài phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi
và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn.
Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ
luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại
xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái độ của Chúa
Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số
điều sau đây:
a. Một dịp thuận tiện thứ
hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa
lỗi lầm, như thể Người đến bảo người đàn bà ấy
rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời
vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ
hội để chuộc lấy mình”. Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng
về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến
một người, không những đã sống như thế nào, mà còn
có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những
gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật
pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ
trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một
tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.
b. Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa
Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn
Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng
ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này
cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được làm
điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết
tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ.
Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát xuất
từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái
nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ
việc coi mình là thánh thiện.
c. Một niềm tin vào bản tính
con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng
hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết:
“Hãy đi, đừng phạm tội nữa”. Điều lạ lùng và
phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện
với một người từng làm ác, Ngài không bảo “ngươi
thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa”.
Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có
thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu
không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã
có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ
một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước
đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành
thánh nhân.
d. Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với
sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu
bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường
lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây
là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa
kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên
Chúa.
17. Tha thứ trong thinh lặng
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin
Vui’)
Phiên tòa xử người đàn bà
phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu
bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của
bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào
khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn
đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự
giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người
đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến
trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu
đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi
xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ
qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu
mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại
biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung
của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự
thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời
của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể
được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài
muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy
rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời
Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có
những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ
ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với
các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn
đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó
Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con
người.
Chỉ trong thinh lặng, con người
mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng
nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa
Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến
nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao
nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt
Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người
ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình
hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án
người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng
rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới
đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người
mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có
thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người
khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã
tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm
tội ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt
đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh
lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng
ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung
của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ
tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài
cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài
cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như
Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người
đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong
suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh
lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên
thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh
lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im
lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng
của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh
tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của
thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời
nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm
và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ
các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại
và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả
bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội
mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng
nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ
trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với
cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta,
để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để
tha thứ cho người khác.
18. Lòng Chúa khoan dung
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng
tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một
sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh
nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì
ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải
chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ
tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh
tẩy?
Đoạn Tin mừng
hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn
tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ
và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của
chúng ta sẽ được Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở
về với Ngài.
Đọc lại Phúc
âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa
Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những
hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống
trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải
phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên
đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy,
liền vác nó lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến
chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm ngơ
trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa,
Ngài còn xoá bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết:
Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng
vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần
sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà
đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh rơi và Ngài
nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là
những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến
để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi
kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví
mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng,
để khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc ăn
mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy
về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn
biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động
cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà
tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã
chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào
những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay,
Ngài đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà
chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.
Dựa vào những
sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng: Tôi
tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang
gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết
chạy đến nơi toà cáo giải, bí tích của lòng nhân từ
và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét
tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp
một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn
mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta
kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi
chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm
cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của
cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội.
Chúng ta được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi
những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một
so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống
như một người đàn bà già. Đúng thế, thuở trước khi
còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan
sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn
trên khuôn mặt, người ấy đã đập bể tấm gương để
không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không
bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn
nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn sẽ khám phá ra
những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng
tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn
thấy khuôn mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí
tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta
ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng
tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng.
Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập
vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết.
Sự chết được truyền thông cho mọi người, bởi vì
tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là nguồn
gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho
chúng ta sự sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và
buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình an và hạnh
phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây,
thì sự tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây
cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận
con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là
chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót của
Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp
phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng
tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là
niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn
sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức
Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng ta xưng thú
tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha
thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những
bồn chồn lo lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để
được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm gương
phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu
mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng
làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta
là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung.
Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi
dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một
ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được
Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân
Chúa và đã được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực
ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy,
với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà
cáo giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng
bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
19. Lòng thương xót
Trong cuộc đời
của mình, chúng ta có khuynh hướng đưa ra một giá trị
cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt,
thông thường và diễn ra hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc
sống của mình, chúng ta cảm thấy tiếc nuối, khi nhớ
đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại
những hành động ân cần tận tuỵ của mình, thì đó
thật là những giây phút đáng yêu. Sự tử tế chủ yếu
là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt
thương cảm đối với những kẻ mà người ta đưa ra cho
Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là câu chuyện
nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình.
Câu chuyện này cảnh báo chúng
ta chống lại thói quá vội vã trong việc đưa ra phạm vi
luân lý cao. Ai trong chúng ta là người vô tội? Chúng ta
phải học hỏi từ ví dụ của Đức Giêsu. Người kết
án tội lỗi của người phụ nữ đó, nhưng Người từ
chối không kết án bản thân chị ta. Không phải là tội
lỗi đó không thành vấn đề đối với Người. Có chứ.
Nhưng Người phân biệt giữa tội lỗi và tội nhân.
Người kết án tội lỗi, nhưng lại tha thứ cho tội
nhân.
Và động cơ quan trọng nhất
trong tất cả hành động này của Người, đó chính là
tấm lòng thương xót. Vấn đề không phải là hào phóng,
nhưng là biết thương xót. Một người thánh thiện,, thì
càng ít có khuynh hướng phán xét người khác. Trong mỗi
con người, đều có khuynh hướng muốn tránh né quyền
phê phán của bất cứ người nào khác.
Đức Giêsu từ chối việc phán
xét người phụ nữ ngoại tình. Nhưng Người nói với
chị ta “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa!”. Nói cách khác, Người không hề phủ nhận tội
lỗi của chị ta. Người bảo chị ta hãy thừa nhận và
chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Thật là dễ
dàng hơn nhiều, khi người ta chối tội, biện hộ, hoặc
đổ tội cho người khác. Khi người ta biết trực diện
với tội lỗi và giải quyết nó, thì không còn gì để
đổ tội, hối tiếc, ân hận, hoặc thất vọng nữa.
Lòng thương xót và sự tha thứ
của Đức Giêsu mang lại sự sống. Người phụ nữ đó
đã được tự do ra đi – tự do để thay đổi thái độ
sống của mình, và lấy lại được lòng tự trọng. Đức
Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng con người có khả năng
thay đổi, nếu được tạo cho cơ hội.
Sứ vụ của
Giáo Hội phải là một nơi dành cho sự tha thứ, sao cho
những kẻ đã bị sa ngã (tất cả chúng ta đều đã từng
sa ngã, theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau) đều
cảm nghiệm được tình yêu thương và lòng thương xót
của Đấng đã khước từ việc kết án. Giáo Hội phải
trở thành một cộng đoàn của ân sủng, một cộng đoàn
không câu nệ vào luật lệ, một cộng đoàn sẽ không
kết án, nhưng sẽ yêu thương, một cộng đoàn quan tâm
đến lòng thương xót, hơn là sự công bằng.
Ngày kia, có một phụ nữ đến
van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho người con trai của
bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật
đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng
đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng bà mẹ nài nỉ “Thưa bệ hạ, tôi đến van xin
lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý”.
Hoàng đế Napoléon trả lời “Nhưng hắn ta không xứng
đáng được thương xót”. Bà mẹ nói “Thưa bệ hạ,
nếu nó xứng đáng, thì không còn gọi là lòng thương
xót nữa”.
Hoàng đế Napoléon đáp “Thôi
được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó”. Và ông sai thả
người thanh niên đó ra.
Về bản thân,
sự thương xót thuần tuý là một quà tặng. Đây là điều
gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến, và do đó,
chúng ta phải sẵn sàng mở lòng ra với người khác. Chúa
nói “Phúc cho kẻ có lòng thương xót”.
20. Khoan dung
Những người
Pharisêu và kinh sư thời Chúa Giêsu luôn cố gắng tìm mọi
cách để tố cáo và hạ bệ Ngài. Ngài là một chướng
ngại, một cái gai rất khó chịu trước mắt họ, vì họ
thấy Ngài đối xử nhân từ với những người thu thuế,
những người tội lỗi, những phụ nữ xấu nết và
những người sống ngoài luật Môsê. Để đối đầu với
Ngài, nhiều lần họ đã giương cao cạm bẫy, nhưng lần
nào cũng vậy, họ đều thất bại và phải xấu hổ bỏ
đi. Vì thế, lần này, họ nhất định ăn thua đủ với
Ngài. Họ đã kinh nghiệm rồi, họ không đặt ra những
vấn đề lý thuyết như việc đóng thuế cho hoàng đế
Xêda hay những trường hợp giả tưởng như chuyện người
đàn bà goá lấy bảy anh em làm chồng. Trái lại, lần
này là một việc cụ thể, với những vai chính sống
động, rõ ràng, chắc chắn.
Đó là trường hợp một phụ nữ
phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Theo luật Môsê
thì tội này bị kết án tử hình ném đá. Như vậy,
người phụ nữ này có thể bị giết chết mà không cần
một lời tố cáo nào và cũng chẳng cần cho người có
dịp bào chữa, vì đã trở thành đồ bỏ rồi. Vậy tại
sao họ còn đem người phụ nữ này đến để hỏi Chúa
Giêsu về cách trừng phạt, vì tội bà ta đã rõ ràng và
hình phạt đã được luật pháp qui định cũng rõ ràng?
Thưa, họ muốn gài bẫy Chúa để loại trừ ảnh hưởng
của Ngài và bêu xấu Ngài. Hoặc là Ngài phải đứng về
phía luật pháp với tất cả sự gay gắt của nó, điều
đó trái ngược với thái độ nhân từ Ngài thường có.
Hoặc là Ngài xác định sự biệt lập của mình để trở
thành kẻ bất trung và lạc giáo vì chống lại luật
Môsê. Nói rõ hơn, nếu Chúa tuyên bố không ném đá, tức
là Ngài chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa tuyên bố
ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài là phạm đến quyền
của đế quốc Rôma, vì người Do thái lúc đó đang sống
dưới sự đô hộ của Rôma, họ không có quyền xử tử
ai, chỉ quan toàn quyền Rôma mới có quyền đó. Thật
không dễ gì trả lời. Chống lại luật Môsê thì sẽ bị
dân phản đối, chống lại quyền của đế quốc thì sẽ
bị đế quốc trừng trị. Chúa Giêsu sẽ chọn đàng nào?
Chúa xử trí vụ này ra sao?
Chúa không nói lời nào, Ngài im
lặng và cúi xuống lấy ngón tay viết trên mặt đất.
Đây là lần đầu tiên Tin Mừng ghi lại Chúa Giêsu viết
nhưng không nói Ngài đã viết gì. Người ta đã tìm đủ
cách để đoán xem Chúa viết gì. Có người cho rằng Chúa
chỉ nguệch ngoạc, không viết rõ chữ gì để tỏ thái
độ không muốn dây mình vào việc xét xử ai. Có người
cho rằng Chúa viết những lời than trách của ngôn sứ
Giêrêmia về tội dân Do thái phản bội Chúa còn nặng
tội gấp mấy người phụ nữ này. Có người cho rằng
lần nhất Chúa viết số thứ tự của mười điều răn,
lần hai Ngài viết các tội nặng của những kẻ đứng
ra tố cáo về ngày giờ, nơi chỗ và lý do phạm tội với
ai. Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán mà thôi. Bản văn
Tin Mừng đã cố ý không nói Chúa Giêsu viết gì. Có thể
Chúa chỉ lấy tay vạch vẽ trên đất mà chẳng viết chữ
gì cả. Đây chỉ là cách Chúa tạo một khoảng thinh lặng
chờ đợi để cho những kẻ tố cáo người phụ nữ này
kịp suy nghĩ lại.
Những người Pharisêu và kinh sư
thấy thái độ của Chúa có vẻ như không quan tâm gì đến
vấn đề họ đặt ra, nên họ phải nhắc đi nhắc lại
câu hỏi. Và bây giờ Chúa mới đưa ra quyết định. Ngài
không trả lời câu hỏi của họ, nhưng lời Ngài nói ra
làm cho họ ngạc nhiên đến choáng váng. Chúng ta thấy
Chúa không nói: “Đừng ném đá chị ta”, vì Ngài không
muốn tỏ vẻ chống lại luật pháp. Và Ngài cũng không
nói: “Hãy ném đá chị ấy”, vì Ngài đến không phải
để làm mất đi những gì Ngài đã tìm lại được,
nhưng là để tìm kiếm những gì đã hư mất. Vì vậy
Chúa nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ
việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa không phủ nhận
tội của người đàn bà kia, cũng không phủ nhận luật
Môsê, nhưng Chúa đưa ra một quan điểm mới: hãy tự xét
xử mình trước khi xét xử người khác. Họ đang dựa
vào luật Môsê để xét xử người khác, thì Chúa bảo
họ hãy dựa vào đó mà xét xử chính mình trước đã.
Ngài yêu cầu họ hãy trở về với chính mình. Họ mưu
toan bên ngoài nhưng họ lại không nhìn vào đáy lòng
mình. Họ trông thấy người ta ngoại tình nhưng họ không
nhìn vào chính mình, vì hễ ai chú ý xét mình, người ấy
sẽ thấy mình là kẻ tội lỗi. Vậy hoặc là trả tự
do cho người phụ nữ ấy, hoặc hãy cùng với bà ta chịu
sự trừng phạt của lề luật đi. Nói rõ hơn, họ đang
đòi xử tội người đàn bà này vì tội ngoại tình,
nhưng thật sự ý đồ của họ là đang tìm cách mưu giết
Chúa. Những lời của Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen
của họ. Thế là họ lần lượt bỏ đi, vì họ nhận ra
rằng chính họ cũng là những kẻ có tội.
Cuối cùng, chỉ còn lại một
mình người đàn bà đứng trước mặt Chúa, chỉ còn lại
hai bên: kẻ đáng thương đối diện với tình thương. Kẻ
đáng thương chờ đợi tình thương xót; và tình thương
xót chờ đợi kẻ đáng thương. Chúa Giêsu ngẩng đầu
lên và nói với người đàn bà: “Này chị, họ đâu cả
rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị ta thưa lại: “Thưa
ông, không có ai cả”. Chúa
Giêsu nói tiếp: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị
đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa”. Đó là lời của tình thương, tôi đến để kêu
gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để
lên án.
Tóm lại, Chúa Giêsu đến trần
gian để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ
không phải để kết án. Câu chuyện người phụ nữ
ngoại tình là một bằng chứng. Và Chúa dạy chúng ta hãy
theo gương Chúa mà đối xử với nhau như thế: đừng bao
giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người
khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình,
nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy
những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để
được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho
mỗi người trong Mùa Chay này.
21. Thức tỉnh
Hôm nay Tin Mừng dẫn chúng ta
tham dự vào một vụ xử án có thật xảy ra cách đây
hơn 2000 năm. Vụ án “Người phụ nữ ngoại tình”. Một
vụ án được xét xử thật kỳ lạ: vụ xử kết thúc
mà không có một bản án. Chỉ một lời thẩm vấn của
Đức Giêsu, các nguyên cáo bỏ đi hết chỉ còn lại bị
cáo.
Vụ án không oan uổng đối với
bị cáo với chứng cứ rõ ràng, tưởng chừng nắm chắc
cái chết trong tay, nhưng bị cáo lại tìm được con đường
sống.
Phải chăng mấu chốt của sự
kỳ lạ ấy nằm ở con người vị thẩm phán tên Giêsu?
Từ sự kỳ lạ ấy giúp chúng
ta khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đó là: Đến
với Thiên Chúa lương tâm ta được thức tỉnh, ta biết
thật về con người mình, và ta được mời gọi sống
đời sống mới.
Căn cứ trên trang Tin Mừng trước
hết chúng ta thấy các nguyên cáo có vẻ hăm hở đắc
thắng khi mang bị cáo đến trước Đức Giêsu, với những
chứng cớ rõ ràng: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị
bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê
thì người đàn bà này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy
xử thế nào?”. Thế nhưng sự việc đã không xảy ra
như dự đoán và mong muốn của họ.
Sự thinh lặng của Đức Giêsu
cùng với cử chỉ viết trên đất cho câu trả lời, đó
như một sự nhắc nhở khéo léo nhẹ nhàng và tế nhị
đối với những người kết tội. Một khoảng lặng để
cho họ bình tĩnh nhìn lại mình. Một khoảng lặng để
họ xét lại những việc họ đang làm. Thế nhưng họ như
không hay biết điều đó hoặc cố tình lờ đi để rồi
tiếp tục ép buộc Chúa lên tiếng.
“Ai sạch tội
thì hãy ném đá người này trước đi”. Đức Giêsu trả
lời. Một câu trả lời thay vì xét xử và kết tội phạm
nhân thì lại là một câu thẩm vấn đánh sâu vào lương
tâm các nguyên cáo để họ có thể nhận ra chân tướng
của mình, con người thật của mình với đầy tội lỗi
chẳng kém. Chính họ cũng đã đồng loã liên kết với
nhau, dùng mưu mẹo để hại người, để loại trừ kẻ
mà họ không ưa, một người đang có ảnh hưởng trong
dân có vẻ như lấn át vị thế của họ. Lại một
khoảng lặng nữa bắt đầu.
Và thái độ “bỏ đi hết, kẻ
trước người sau bắt đầu từ những người lớn tuổi”
cho thấy rõ lương tâm của các nguyên cáo đã được
đánh động và thức tỉnh họ như đã dần dần nhận ra
con người thật của mình.
Còn với bị cáo: Người phụ nữ
ngoại tình? Tội đã rõ rành rành, chẳng cần chứng cớ,
không chạy đâu được. Nếu như ta thử đặt câu hỏi:
giả như chị ta không bị bắt quả tang phạm tội, thì
hỏi rằng chị sẽ còn làm sự tội ấy nữa không? Điều
đó sẽ cho chúng ta nghĩ rằng: có lẽ chị cho rằng
chuyện tội lỗi chị làm trước đây khi chưa bị phát
hiện, chẳng tội lỗi gì? Khi đến trước Đức Giêsu
lương tâm của chị cũng đã được thức tỉnh bởi lời
của Ngài: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Đừng phạm tội nữa, một lời khẳng định cho chị
thấy rõ chuyện chị làm là tội lỗi.
Vâng! Con người ngày hôm nay cũng
đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì
các kinh sư và Pharisêu hoặc như người phụ nữ ngoại
tình. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự
tội mà không biết mình tội. Sống trong sự tội mà cho
rằng mình không mắc tội. Lương tâm của họ xem ra như
chai lì hoặc bị ngủ mê. Hầu như vô tư trước những
tội lỗi của mình xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân.
Thật vậy có những người bỏ
việc thờ phượng Thiên Chúa nhất là thánh lễ Chúa nhật
với những lý do biện hộ rất đơn giản khi nại vào
công việc hoặc đạo tại tâm, hoặc có tham dự cũng chỉ
máy móc cho qua.
Có những người đang sống thiếu
thành thật trong lời nói, thiếu ngay thẳng trong công việc
làm ăn: gian lận thủ đoạn, lừa gạt… nhưng vẫn coi
đó là bình thường chẳng tội lỗi gì.
Có những bạn trẻ hôm nay đang
lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh
nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm được
như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Họ tự do yêu
đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái.
Có những người cho rằng rất
bình thường chẳng có tội lỗi gì khi nói xấu, lên án
người khác hoặc có thái độ cố chấp không cho rằng
mình có lỗi khi gây ra những tổn thương cho tha nhân.
Ngay trong cuộc sống gia đình
cũng vậy, chồng hoặc vợ xúc phạm đến nhau mà chẳng
ai chịu nhận lỗi về mình.
Vâng, còn rất
nhiều nếu đi vào từng chi tiết ngõ ngách của cuộc
sống, chúng ta sẽ thấy chẳng thiếu những cung cách sống
và thái độ sống thiếu ý thức về tội như vậy, đến
nỗi Đức Thánh Cha trong Tông huấn “Sám hối và hoà
giải” đã phải lên tiếng: “Con người ngày nay gần
như mất cảm thức về tội, họ làm điều tội mà không
biết là tội, họ sống trong tội mà không biết mình mắc
tội”.
Trước mặt Thiên Chúa, không ai
không là tội nhân. Chẳng ai có thể tự vỗ ngực nói
rằng mình không có tội, như thánh Gioan nói: “Ai bảo
mình không có tội là kẻ nói dối tự lừa dối mình”.
Điều quan trọng tôi có ý thức mình là tội nhân không?
Hãy có những khoảng lặng để gặp Chúa, để cho lời
Ngài thức tỉnh chúng ta như Ngài đã thức tỉnh các kinh
sư, người Pharisêu và người phụ nữ ngoại tình để
chúng ta có thể nhận ra mình là tội nhân.
Thiên Chúa không chỉ thức tỉnh
lương tâm chúng ta, nhưng Thiên Chúa còn mời gọi và đề
nghị chúng ta sống một đời sống mới.
“Ta không kết tội chị, chị
hãy về và đừng phạm tội nữa”. Một lời thức tỉnh,
tha thứ nhưng cũng là một lời đề nghị.
“Hãy đi và
đừng phạm tội nữa” cũng là lời đề nghị và mời
gọi của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay khi đã
nhận ra lỗi lầm và sám hối rồi, chúng ta không chỉ
dừng lại ở đó, nhưng phải tiến xa hơn, vượt lên
trên bằng một sự thay đổi tận gốc rễ với một cuộc
sống mới. Một lời xin lỗi xong chưa đủ, nhưng là đừng
để cho điều lỗi xảy ra nữa. Đời sống mới là đời
sống không còn như đời sống cũ trước đây đang sống
tội nữa. Ví như trước đây tôi sống gian dối, nay tôi
sống thành thật và ngay thẳng. Trước đây tôi hay vu
khống kiện cáo, nay tôi sống khiêm tốn hoà nhã với tha
nhân.
Mùa chay đã
bước vào tuần thứ năm. Những ngày đại thánh mừng
cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô sắp đến
gần. Thiên Chúa đang rộng mở bàn tay đón chờ và mời
gọi chúng ta đến với Ngài để lãnh nhận ân phúc. An
phúc trước hết đó là chúng ta được Thiên Chúa đánh
động và thức tỉnh lương tâm; ân phúc được ơn giao
hoà với Thiên Chúa và được mời gọi sống đời sống
mới qua việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh
Thể và Giải tội. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng
ta ơn can đảm, lòng khiêm nhường để chúng ta mạnh dạn
đến gặp Chúa.
22. Thiên Chúa đang làm điều mới
(Suy niệm của Lm. Phạm Thanh
Liêm)
Tiên tri Isaia
nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào quá khứ để
nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại,
vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó
Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở
Babylon; hôm nay, Đức Yêsu là điều mới Thiên Chúa đang
làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã
nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để bắt
quả tang, và họ đã thành công, để chị không còn có
thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không
còn thái độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát
cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có
trách nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị.
Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của
chị.
Không ai có thể cứu chị trừ
phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng
liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị,
có nghe tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái
nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải
ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội,
để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng
phải làm như vậy thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức
Yêsu, người hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người
hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem
ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người
thực và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng
chẳng muốn gài bẫy Đức Yêsu, nhưng để làm “cho ra
lẽ” một giáo huấn “nhân từ”
hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ đứng
trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Yêsu- Đấng thương
cảm và tha thứ
Đức Yêsu cảm thấy khó giải
quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói
Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể,
nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối
không biết giải quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài
phải trả lời, Ngài đứng lên và nói: “ai trong các ông
vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”,
rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không
thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để
có thể vì tự ái họ “làm liều”. Có thể Ngài cầu
nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì chính
khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá
chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá
chị phụ nữ. Đức Yêsu đã thành công. “Không có ai
kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không
kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có
mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại
không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ,
cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa.
Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị
ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ
và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối
với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ
trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa
qua hành vi “nhận biết chính mình”.
Phaolô trở thành con người
mới nhờ biết Đức Yêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời
là được biết Đức Yêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả,
để được Đức Yêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay
Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa.
Phaolô không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại
Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô
vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên
Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất
cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với
Phaolô: quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích
Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Yêsu. Đức Yêsu đã
là tất cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì đánh động bạn
nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại tình”?
2. Theo bạn, tại sao Đức Yêsu
chi phối đời Phaolô đến thế?
3. Đức Yêsu có chi phối đời
bạn không? Tại sao? Đến độ nào?
23. Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Luật Môsê - cũng là luật của
Thiên Chúa - buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị
bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không?
Tại sao?
2. Luật mới của Đức Giêsu -
luật yêu thương - đòi hỏi những gì? Nếu không biết
thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án,
ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Các kinh sư Do Thái gài
bẫy Đức Giêsu
Các nhà lãnh
đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ
ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ
tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ
nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết:
«Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với
một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử
tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật
Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân
chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và
Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. - Nếu
Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài
với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma
xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma,
người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả
(x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những
giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn
làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn
cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
2. Tại sao Đức Giêsu không
tuân theo luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên
Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do
Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa
thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong
Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật
vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv
6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu
(x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ
luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên
Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì
được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165;
Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả
con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa,
trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử
tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức
Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho
người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải
vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm
luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi
cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
3. Đức Giêsu đến lập
luật mới là luật yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ
đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn
đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là
luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc
trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên
Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài.
Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người.
Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh
và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển.
Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải
thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật
cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của
Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã
được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm
3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên
bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống
như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha
mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ
thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động
cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng
khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày
xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động
cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng
nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân,
thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng
thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù
hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế
nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã
trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã
khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài.
Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau, như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Vì thế,
Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành
xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy
của tình yêu.
4. Luật yêu thương đòi hỏi
sự thông cảm và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông
cảm và tha thứ… Thông cảm vì
bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu
đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết
cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm 5,12): «Không ai
là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm
3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại
kết án người khác, thì quả thật có chút gì «vô liêm
sỉ» ở trong đó.
Đức Giêsu tuy
không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên
án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất
am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng
trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình
huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn
cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn
thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm
thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi
gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị.
Dường như kết án chị, họ mới thoả mãn niềm kiêu
hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ
thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo
tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng
kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ,
Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ
trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong các ông sạch tội,
thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã
là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên
giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói
của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một
khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai
cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ
một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi
của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội
lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi
lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất
yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng
phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy
tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh
mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn
Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi
người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và
tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con
là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy
sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự,
biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của
mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.
24. Chú giải của Noel Quesson
Còn Đức Giêsu thì đến
núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong
tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua
đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người.
Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư
và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một
phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã
ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự
nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người
Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông
giãn ra và làm thành vòng tròn. "Người ta đã bắt
gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông…
Chị ta phản bội chồng mình... Chị ta đáng chết... luật
lệ đã rõ ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ
chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một
vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật
lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng
chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo
thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng
này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ
mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời
về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và
gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị
và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở
giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn
bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật,
ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn
bà đó
Quả thực,
ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều
lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi
thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt.
Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người
phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá
phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia
đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương
tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng,
Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của
hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất
trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ
lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ
ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã
có tội rồi: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt
5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là
Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử
Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người
pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các
tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du
với người tội lỗi. "Ông ấy ăn uống với người
tội lỗi". Thực sự, vụ xét xử người đàn bà
ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để
họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người
đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà
Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó,
Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự
tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn
bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ
thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng
đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử
án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người
đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những
người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt
theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư
và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống
lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự
im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính
Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên
rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người
không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một
người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không
phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt
lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ.
Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết
các biến cố dựa trên những phân tích của con người.
Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi,
tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp
giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có
giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị
đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường
hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường
xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau
khổ...Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có
tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã
trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy
có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch
để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế,
con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức
Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như
Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó
có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là
không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực
khác".
Vì họ cứ hỏi mãi, nên
Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy
Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình
dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con
ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt
lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương,
rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội,
thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi
họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày
nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát
những người Galilê" hay trong tai hoạ do “tháp Silôa”
đổ xuống.
Đức Giêsu đặt
cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt
Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và
cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ,
như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán,
thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng
lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy
tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong
bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em
bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang
cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ
khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết
thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh
dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương
mà lại “ngoại tình" bằng những hành động "điếm
đàng". Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ
ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị
tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu
thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ
bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn
với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc
tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của
tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi.
Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để
mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống
viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước
người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai
này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự
Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người
Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này,
trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha, xin tha cho
họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). ôi!
Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ
công khai, Chúa đã cho phép họ "lần lượt" âm
thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người
đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của
mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị.
Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính
nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương
của Thiên Chúa, "không lên án" chị, sẽ phút
chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực
sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con
người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc... Chị ta đã
thoát chết... Chị không còn là người “ngoại tình"
nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức
Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ”
đối với "lòng xót thương", Thánh Âutinh đã
bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn
chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói:
"Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị
sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai
cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không
lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng
phạm tội nữa!"
Tất cả những người tội lỗi
khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì
nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu
họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha
thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường
nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả" (Ga
8,l5). "Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất"
(Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này
con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở
lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận
dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình
yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại
diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây:
"Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay
đừng phạm tội nữa".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng
con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô
cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là
những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối
không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa". Tạ
ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con
trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà
chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn
được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu
thôi... " Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con
người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người
đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một
cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát
sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu
thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là
Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo
nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
25. Chú giải của Fiches Dominicales
Đức Giêsu mở ra một con
đường hướng về tương lai cho người phụ nữ phạm
tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại muốn
giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trước bẫy giăng của
đối thủ
Câu chuyện quí giá này tự nó
có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu
từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội
nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự
chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ
chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự
có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ.
Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với
những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ
bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.
Tại sao có sự
do dự này? A. Marchadour giải thích: "Câu chuyện thì
xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại
sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít
gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai,
lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức
Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị
chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu
“Hãy về và đừng phạm tội nữa"). Dễ dãi thế
đe doạ sự trung tín trong hôn nhân" ("L'Eavngile de
Jean", Centurion 1992. trg 121).
Sau một ngày giảng dạy ở đền
thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi
Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng
dạy dân chúng.
"Các kinh sư và những người
Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu
làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử
Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải
có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến.
Một thiếu phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình". Rẽ đám đông, các kinh sư và những người
Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ
họp và nói với Đức Giêsu: "Trong sách Luật, ông
Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"
Bẫy đã giăng, thoát thế nào
được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném
đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng
nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu
phụ là chính án xử Đức Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang
xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ
thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học,
nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu
phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của
một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu "cúi
xuống" và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ
vẽ trên đất.
Các nhà chú
giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên
đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ
tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết
lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): "tất cả những ai
lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại
với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất ". A.
Marchadour cho rằng: "Tốt nhất nên trung thành với sự
mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để
kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp
thốt ra thêm trọng lượng". (sđd; trg 124).
Người ta như
không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức
Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước lên". X.
Léon-Dufour thắc mắc: "Sao lại nhấn mạnh đến cử
chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?"
Rồi trả lời: "Tên núi Ôliu được nhắc đến ở
đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh
cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang
một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và
đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân
loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa"
("Lecture de l'evangile selon Jean", Cerf, tập 2, trg
313).
2. Trước hết, câu trả lời
của Đức Giêsu là sự thinh lặng.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm
trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai
trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước
đi". (Dnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm chứng sẽ
ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử
bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công
chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở
đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng
của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử
chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm
mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân
phận như "người phụ nữ kia", người mà họ đã
lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội
lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên
cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như
thánh sử ghi nhận cách hài hước: "Họ rút lui từng
người một, bắt đầu từ người già nhất".
3. Rồi lời giải thoát đến:
Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên
"lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện
với người phụ nữ". Thánh Augustinô chú giải: "Chỉ
còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.
Nếu trước đó, những người
tố cáo gọi chị là "hạng đàn bà đó” một cách
khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy
một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi
chị như gọi một con người: "Này chị". Hơn bất
cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác
nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm
chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những
người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào
con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một
"Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và
từ nay đừng phạm tội nữa ".
Sau đó thì sao? Câu chuyện để
ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ
thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng
không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện
"độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng
khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước
đi trong tự do của con cái Thiên Chúa" (x. Léon-Dufour,
Sđd, trg 332).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một mạc khải sâu xa về
bản chất của tội lỗi
Câu chuyện là hạt ngọc quí của
Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ
để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội
lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt
vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối
với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các
bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là
một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi,
và bản chất của sự tha thứ... theo cái nhìn của Thiên
Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một
thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng
tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà
xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm
nam, nữ, gia đình, cộng đồng... không thể vận hành nếu
như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm
cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi.
Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng
này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình
là điều rất rõ. " Đừng phạm tội nữa".
- Ý niệm về lỗi phạm... Nếu
trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin
cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-,
thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về
điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng:
những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân
họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ
hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm
như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót
nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở
một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm
gián đoạn "mối tương quan với Thiên Chúa". Chúa
nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội
lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người
ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin
Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví
tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước
giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví
loài người như một người vợ bất trung đối với
chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một
ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu
xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu,
người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý
nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người
sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp
và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa,
Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng
ta làm tổn thương "khuôn mặt" của Người... nơi
chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
2. Một lời nói và một ánh
mắt giải phóng và cứu độ.
Những người Pharisêu tốt lành
và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo
Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người
phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu
người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết
án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với
những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha
cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo
sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng
không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá
đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ
gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị
trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội.
Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và
tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công
chính và trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề,
khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân
lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin
Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền
thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những
trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng
hẹp hòi của con người. "Đừng nghĩ tới chuyện xa
xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một
thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy
không? "
Phán quyết của Chúa là lời tha
thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi
lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức
Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái
răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt,
những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận
giả dối của “những người công chính" cho rằng
mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn
sẵn sàng trừng phạt tội người khác.
3. Một vết nứt trên các
hệ thống khép kín của chúng ta.
(“Célébrer", tạp chí của
Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).
Ai cũng khát vọng một thế giới
mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm
thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội
cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc
hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ
phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ
khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc
tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của
những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa
pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có
trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay
đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý,
Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho
họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng
họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy
có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống
độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái
nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không
đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá
khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta
tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương
lai.
Vết nứt trên
các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái
tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và "
sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ
hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao.
Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được
cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối
vào tương lai.
Đăng nhận xét