“Một
thời mây biếc đã trôi qua,”
“Nay
tưởng cây vàng lại nở hoa.”
(Dẫn
từ thơ Đinh
Hùng)
Lk
13:
1-9
Cây
vàng hôm
trước có nở hoa, đâu vì mây biếc đã trôi qua! Cây vả
hôm nay đà khô đẹt, cũng chẳng do Chúa quở trách mới
vừa qua, như trình thuật hôm nay còn kể lại.
Trình
thuật, thánh Luca nay kể về cây vả, một
loại cây vẫn thấy đầy đường ở Israel. Cây vả bị
Chúa chúc dữ còn ám chỉ rất nhiều điều. Điều trước
tiên về cây vả, là cây gặp thấy ở vùng Địa Trung
Hải, từ nhiều năm. Có tài liệu bảo rằng: từ 11,500
năm nay, người Trung Đông thay đổi nếp sống kể từ
ngày lo thu gom hột giống của các cây dại rồi thuần
phục chúng biến thành cây sinh lợi.
Khai
quật Qumran ở Gilgal, gần Giêricô khi xưa, đã đưa ra
bằng chứng cho thấy: “vả” có mặt ở vùng này suốt
11, 400 năm. Người xưa có nói: chỉ cần chặt cành vả
cắm xuống đất, sau một thời gian nó sẽ đâm chồi
sinh hoa trái cho mọi người. Có người còn bảo: “vả”,
là loài thực vật đầu tiên được con người trồng
trọt, thế nên mới có câu hát: “Thuở
đầu đời người thấy cây vả…”.
“Vả”,
cao từ 3 đến 9 thước. Tàn nó xoè rộng hơn cả chiều
cao. Có loại “vả” mọc vút cao hơn 10 thước. Mỗi cây
mang dáng vẻ riêng, có lá cành xum xuê, mỗi năm cho đến
2 vụ mùa, rất nhiều trái. Vụ mùa chính là vào cuối hạ
hoặc chớm thu. “Vả đực”, vẫn có trái; nhưng trái
hơi khô và chẳng mùi vị. Trong khi đó, trái “vả” từ
cây cái lại rất ngọt, nhiều nước cốt. Trái “vả”
nào sống sượng không thích hợp bữa ăn ngày Sabát chỉ
đáng quăng bỏ cho người nghèo nhặt nhạnh.
Giống
“vả” đôi lúc cũng cho hoa trái rất sớm; được như
thế, là nhờ vụ mùa nở rộ vào xuân mùa năm trước.
Có văn bản lịch sử còn cho biết: nhiều năm cây “vả”
đực lại cho trái đến 4 vụ mùa; đôi khi nó không trổ
cành lá nào hết. Thành thử, “vả” là loại cây cho
trái sớm/muộn còn tùy vào nhiều thứ, nhất là thời
tiết. Có khi cả lá lẫn trái “vả” đều đâm chồi
trổ sinh cùng một lúc. Có lúc, người ta còn nhờ lá
“vả” để biết trước vụ mùa sắp tới có đạt kết
quả hay không, hoặc năm đó sẽ không có vụ mùa nào
hết.
Sách
Đệ Nhị Luật, nói về Đất Lành Chúa hứa cho dân con
Israel là “miền
đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu,
miền đất có cây ô-liu để ép dầu và có mật ong, miền
đất ở đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế.”
(ĐNL 8: 8) Ở sách tiên tri Giêrêmia, Giavê Thiên Chúa lại
cũng nói: “Ta
quyết sẽ thu về, không để trái nào trên cây nho, không
để trái nào trên cây vả, cả lá cây cũng phải héo
tàn, vì Ta sẽ trao chúng cho những kẻ qua đường.”
(Giê 8: 13) Cũng trong cùng chiều hướng như thế, tiên tri
Habakhúc lại thêm vào: “Thật
thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho
không được trái nào. Quả ô-liu, đợi hoài không thấy,
ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn.” (Hab
3: 17)
Ở
đoạn
23-29, sách Giêrêmia lại thấy sử dụng hình ảnh cây
“vả” để nói về lưu đày và cuộc “xuất hành”
về đất hứa. Ngay tại Giêrusalem, lại cũng thấy nhiều
người được sánh tày như cây “vả” thối vữa không
đâm chồi nẩy lộc, chỉ đáng bứt gốc nhổ bỏ, thôi.
Tuy thế, người lành thánh như cây “vả” tốt tươi
từng trở về sau lưu đày lại “hiểu biết kính sợ
Chúa” nên được tháp tùng Chúa đi vào Giao ước, đáp
ứng lại ân huệ Ngài ban bằng cả tấm lòng thành thật.
Thánh
Mátthêu cũng sử dụng cây “vả” để diễn tả hiện
trạng của một số người Do thái như đoạn Tin Mừng 21
câu 19 có nói: “Trông
thấy cây vả bên đường, Ngài đến gần nhưng không tìm
được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Ngài nói: "Từ
nay, không bao giờ ngươi sinh trái nữa!" Cây vả chết
khô ngay lập tức. Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên
hỏi: "Sao cây vả lại chết khô ngay tức thì như
thế?"
Thêm nữa, thánh Mátthêu còn ghi rõ ở đoạn khác: “Anh
em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh
tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè
đã đến gần.” (Mt
24: 32)
Tin
Mừng Thánh
Luca hôm nay cũng dùng văn bản do thánh Mátthêu viết rồi
theo phong cách/thể loại của thánh-nhân lại kể rõ từng
chi tiết: “Người
kia có cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây
tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh
coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không
thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để
nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón
phân cho nó.May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông
sẽ chặt nó đi." (Lc
13: 6-9)
Đoạn
19 câu 29 Tin Mừng, thánh Luca để Đức Giêsu dùng dụ
ngôn cây vả vào lúc Ngài đến với Giêrusalem, qua
Bết-Pha-Ghê và Bê-ta-ni-a, nên nói rõ: “Khi
đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền
núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo:
"Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy
một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó.
Các anh cởi dây ra và dắt nó đi.” Như
thế nghĩa là: Ngài sửa soạn cho Lễ Lá mà vào thành
Giêrusalem, gần Lễ Vượt Qua. Địa danh Bết-Pha-ghê có
nghĩa là “nhà có cây vả chưa kịp chín.” Gọi thế là
bởi, mùa đó chưa là mùa hái “vả”, và cũng chưa là
mùa “vả” trổ nụ đơm hoa.
Địa
điểm kể truyện lại nói là quanh núi Ô-liu. Như thế,
phải chăng bối cảnh sự việc diễn ra ở trên núi
Ô-liu? Thật ra, chỉ một vùng đáng kể ở quanh đó là
có ô-liu bọc quanh cây “vả” không trái, đó là vùng
Ghét-sê-ma-ni thôi.
Ở
Ghét-sê-ma-ni, Chúa cảm nghiệm giờ phút khổ đau/mệt
mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác theo cung cách rất
cực kỳ. Cực mệt, đến độ Ngài phải thốt lên lời,
âu cũng là chuyện ít thấy. Ở Tin Mừng thánh Máccô, Đức
Giêsu còn lớn tiếng kêu vời Chúa Cha đến tiếp cứu.
Tuy nhiên, dù Ngài có kêu hoặc có vời thì Chúa Cha vẫn
im hơi lặng tiếng, chẳng đáp từ. Thành thử, lối nói
theo kiểu chúc dữ cây “vả” ở giữa đường là cung
cách diễn tả cơn đau cực kỳ vào lúc Ngài hấp hối.
Với
thánh Mátthêu, Đức Giêsu lại nói trực tiếp với cây
vả, là: “Từ
nay, không bao giờ ngươi có trái nữa!" Và, cây “vả”
đã chết khô ngay lập tức.” (Mt
21: 19) cũng hệt như lời nguyền/chúc dữ, không chỉ cho
cây “vả” mà thôi, nhưng cho cả những gì là kết quả
tích cực dù ở hoàn cảnh nào cũng thế. Điều đó cho
thấy: Chúa cảm nghiệm đích thực về sự cực kỳ, tột
cùng của con người.
Ở
Tin Mừng thánh Luca, Đức Giêsu muốn cho cây “vả” bị
đốn/chặt đồ bỏ đi, tức: Ngài muốn nó không bị bật
gốc khỏi mặt đất. Điều đó dẫn đến thắc mắc:
tại sao mọi sự phải đâm hoa sinh trái trước sự việc
đau thương thống khổ của thập giá?
Một
lần nữa, ở Tin Mừng thánh Mátthêu, Đức Giêsu kể cho
tông đồ kém lòng tin tưởng biết mình phải có niềm
tin vững mạnh và nguyện cầu mới được như thế, cả
vào khi các thánh phải đối đầu với hoàn cảnh khổ
đau rất cực kỳ, tựa như Chúa.
Với
thánh Luca, đây lại
mang ý nghĩa một đề nghị: mọi người cần có lòng
kiên nhẫn kéo dài nhiều tháng ngày. Khi ta nói với Đức
Giêsu tương tự như hoàn cảnh xảy đến nơi vườn
Ghét-sê-ma-ni, là ta nói với Ghét-sê-ma-ni bé nhỏ của
chính ta. Và, như thể cũng bảo rằng: “Ngay
tôi đây, cũng sẽ làm được như thế, cũng thế thôi.”
Có
bao giờ những người như ta cảm thấy như mình
chẳng có gì là cần thiết, cả khi mình thật sự rất
cần những điều như thế, không? Sống ở hoàn cảnh
tương tự, ta gọi là sống có kiên nhẫn. Đó, còn là
cung cách để ta sống theo đường lối sẻ san có kiên
nhẫn như Chúa từng sống, chí ít là vào mùa Chay.
Trong
cảm nghiệm những điều như thế, ta lại ngâm lên lời
thi ca đầy chất thơ và nhạc, mà rằng:
“Một
thời mây biếc đã trôi qua,”
“Nay
tưởng cây vàng lại nở hoa.”
Em
chẳng mơ gì, tôi chẳng nói,
Đôi
hồn không biết có nhìn xa?”
(Đinh
Hùng – Bướm
Xuân)
Cứ
tưởng cây vàng, cây “vả”
đã nở hoa, cả khi “đau khổ tình chết lặng” đến
như thế, phải chăng đó cũng là cảnh tình của nhiều
người, ở mọi nơi?
Lm
Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai
Tá lược dịch
Đăng nhận xét