PHAOLÔ
và sự
nghiệp cầm bút
viết
cho người thị thành
ở
La Mã
Phần
1
Thư
Rôma
“Thư
Rôma là thư đặc trưng/đặc thù do thánh Phaolô viết.
Là, thứ thư tín dũng mãnh, cuốn hút như bão táp, sóng
dồn, hò reo mạnh bạo và hét rất to vì vui sướng cũng
rất nhiều.”
(Jacob Taubes)
Tóm
lược
Có
thể nói, thánh Phaolô hầu như đã bỏ rất
nhiều tháng ngày quần quật lao động chống “La Mã”.
Ông chống, không chỉ mỗi tinh thần đế quốc, mà thôi;
nhưng, ông còn chống cả hệ thống cha/cố, khống chế
hết mọi người. Tuy là thế, nhưng: vào những tháng ngày
cuối đời mình, thánh-nhân những muốn về với Rôma cho
hả lòng hả dạ, và ông được tiếp đón theo cung-cách
dành cho người bị “quản thúc tại gia” khá hiền-từ,
hầu đợi trông “những gì phải đến sẽ đến,” cũng
bình thường. Tuy là thế, nhưng vụ xử án mà ông trông
đợi rất nhiều ngày vẫn không xảy đến, nên vẫn chờ.
Nhiều lúc, ông thấy mình như chết lặng trong đợi chờ,
ở nơi đó. Đợi và chờ, cho đến ngày cận kề cõi
chết cũng không thấy đến, nên nóng lòng, ông lại ghi
thư gửi cộng đoàn nơi ông từng giao du mật thiết, rất
lâu ngày. Thư ông viết, đích thực là một tuyên ngôn
thần thánh rất chín mùi, cốt để dung hoà những chuyện
ông từng đề cập một cách sôi nổi với mọi người,
để rồi người đời sau sẽ coi đó như một luận-cứ
chính thức của thần-học Hội thánh thời tiên khởi,
từng làm nên tên tuổi của ông vào mọi lúc.
Thánh
Phaolô từng có ý định đi Tây-Ban-Nha một chuyến, lại
những muốn được hậu thuẫn –cả về tài chánh cũng
như mọi chuyện- bởi cộng đoàn nơi đây vốn tạo dịp
để ông hoàn thành ước vọng nhỏ của mình trong vui
mừng. Thư Rôma, là thư đặc biệt qua đó ông đề cập
cũng khá nhiều về Đức Chúa. Về, những điều mà nhiều
người thường vẫn hỏi: sao Chúa lại cứ hướng về
Thiên-Chúa-là-Cha để rồi Ngài lại phải lo hành xử sao
cho có lợi với thế giới nhân trần. Thánh Phaolô cũng
viết về thế giới ngập tràn năng lượng của Chúa. Và
ông bảo: tất cả những thứ ấy đều là quà tặng
thuần khiết. Nên, ta hãy vui mừng mà đón nhận và ứng
đáp bằng cung cách cởi mở cách trọn vẹn, thông thoáng.
Để được thế, thánh-nhân nói: ta cần một thứ “cắt
bì nội tâm”, tức: gỡ bỏ đi, những gì là rào cản
gây ngăn trở cho việc nhận đón Chúa là Đấng trọn tốt
trọn lành, rất vẹn toàn. Thánh Phaolô gọi đó là tình
thân thương “agapè”,
tức lòng mến bao la theo cung cách rất khác hẳn.
Thánh-nhân từng nói: tất cả chúng ta được gộp chung
vào cùng ơn cứu rỗi nhờ lòng thương mến vô vàn của
Chúa.
Thiên
Chúa
là Đấng duy nhất sống theo phong cách trọn vẹn, toàn
hảo. Ngài đến với ta như Đấng đã sử dụng ảnh
hưởng của vũ trụ đầy những điều tốt đẹp gửi
thẳng đến ta. Nay, Ngài sống trong ta và với ta. Đây
không là chuyện viển vông, mơ hồ, mà là thực tại rất
xác định. Chính vì thế, ta thực sự có khả năng sống
với Ngài và trong Ngài như người phục sinh trỗi dậy,
rất thích thú. Kết quả là, ta có quan hệ mật thiết
với người chung quanh và chẳng cần gì lợi ích tư
riêng/vị kỷ để có được động thái sẻ san với mọi
người bằng vào những gì được Chúa san sẻ cho ta, và
với ta.
Đây
không nhất khiết chỉ nói về mặt tư tưởng hoặc lý
thuyết suông, thôi. Nhưng, vẫn là thực tại rất thật,
và rất rõ. Đó, là chứng cứ cụ thể về việc “Thần
Khí Chúa” tác động lên ta và mọi người, để mọi
người và mọi sự lại sẽ nên đồng hình/đồng dạng
với ta.
----------------------
“Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?
Phải chăng là gian truân, khốn khó,
đói rách, hiểm nghèo, bắt bớ hoặc gươm giáo? Như có
lời chép: Chính vì Ngài, mà mỗi ngày chúng con bị giết,
bị coi như bầy cừu để sát sinh… Nhưng trong thử thách
ấy, ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến ta.
Đúng là thế. Tôi tin chắc: cho dù sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hoặc bất cứ loài thọ tạo nào, không có gì tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa vẫn thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.”
(Rm
8: 35-39)
Rôma
Thật
sai lầm, nếu có
người lại cứ tưởng rằng La Mã thời ấy –bây giờ
gọi là Rôma- vẫn tràn ngập toàn người Ý. Thật ra thì,
người Ý khi ấy, chỉ đếm được không đầy 10% hoặc
12% dân số ở đây thôi. Người xưa có nói: “Đám
Orontes bao giờ cũng dồn về đồng bằng sông Tiber” hết.
Đó là điều cũng dễ hiểu. Bởi, điều này có nghĩa:
lúc ấy, đã có đợt di dân tràn đồng từ miền Đông
kéo về tận xứ miền gọi là La Mã. Cũng có thể, một
số người da mầu/đen đuốc đã từng về nơi đó để
sinh sống. Nhưng, Rôma ngày ấy không đông lắm. Điều
này, ai cũng thấy xảy đến rất thường tình từ thế
hệ này qua thế hệ khác, như cung cách sống động của
những người nhất quyết quay về đây mà sống cho tiện,
thế thôi.
Thật
ra, chúng ta cũng không biết gì nhiều về giòng đời lịch
sử vào lúc ban đầu. Ở thời điểm, mà hầu hết dân
con Đạo Chúa sống ở Rôma, lại cứ hỏi: ai là người
dám tra tay dựng xây một thành đô hồ đồ đến là thế?
Thành đô này được xây dựng từ hồi nào mà sao chẳng
có chứng cứ lịch sử rõ rệt khả dĩ cho thấy thánh
Phêrô là đấng sáng lập ra chốn miền thần thánh linh
thiêng ấy. Cũng chẳng ai lại cứ tin rằng có thánh tông
đồ nào đó từng dấn thân theo Chúa lại đã tác tạo
nên chốn phồn hoa đô hội tựa hồ là thế. Ngay đến
thánh Phaolô ngài cũng đâu buộc phải đích thân đến
những nơi hoặc những vùng do mình thành lập để kinh lý
hay kinh lược đến chộn rộn. Tuy vậy, ông vẫn đến.
Dù, có đến cũng chỉ để “thăm dân cho biết sự tình”
một đôi ngày rồi thôi. Thời thánh Phaolô, cộng đồng
dân Chúa gồm cả người Do thái lẫn người ngoài Đạo,
nhưng hầu hết những người như họ đều thấy là các
vị nào từng hồi hướng trở về với Đạo Chúa lại
không chỉ xuất xứ từ gốc nguồn Do-thái-giáo, thôi.
Ở
đây, ta
cũng hiều: số tín hữu có nguồn gốc Do-thái-giáo sống
ở Rôma quả là khá đông. Tác giả Josephus ước định
khá rộng lượng là: giả như ta tính việc ấy bắt đầu
từ năm thứ tư trước Công nguyên, thì số người sống
ở đây đếm được khoảng chừng trên dưới 8 ngàn
người. Trong khi đó, tác giả Philô lại cho rằng: những
người sống ở nơi này từng sinh hoạt bên sông Tiber mà
người thời đó gọi là “Trastevere”;
tức: một nơi có đến 13 hội đường thường có những
sinh hoạt đình đám, không hề thiếu. Nhưng, khởi từ
năm 41 sau Công nguyên, Hoàng Đế Claudius lại đã ra chiếu
chỉ cấm mọi người không được la cà/bén mảng hoặc
tụ tập gặp gỡ ở chốn công đường, hoặc cả nơi
chính lộ cũng đều thế. Kịp đến năm 49, ông nhất
định đòi tống xuất những người này ra khỏi Rôma, vì
họ có ý đồ làm loạn ngay ở thành đô mà người Ý
khi trước gọi là “vụ rối ở miền đồi Crestô.”
Kịp đến năm 54, khi hoàng đế Claudius băng hà, mọi
người mới quay về chốn “đường xưa lối cũ” để
tái lập một số sinh hoạt cộng đồng, như thừa-tác-viên
Priscilla và Aquila vẫn từng làm.
Lại
thêm
một sai lầm nữa, nếu ta cứ nói đến “cộng đoàn dân
Chúa” ở Rôma theo cung cách khách quan, lịch sử mà không
có chứng-cứ. Bởi, đoàn/nhóm Kitô-hữu ở đây, là một
hoà trộn gồm những vị trước kia từng theo Do-thái-giáo
và cả những người kính sợ Chúa –tức dân con ngoài
Đạo- đều do thánh Phaolô gom nhặt từ các hội đường
ở đây đó, rất quanh quất. Và, thánh-nhân lại đã qui
tụ các vị này cốt để thiết lập thành nhóm/hội cộng
đoàn con dân biệt lập. Thánh-nhân không gọi nhóm/hội
của các vị này là hội thánh, ở số ít, gồm các
thừa-tác-viên nữ như Priscilla, Aquila tức các nữ-lưu
vị-vọng chuyên qui tụ và gom gộp bạn đạo từng sống
ở đâu đó, rồi thu về một mối. Vị nào hồi hướng
trở về Đạo Chúa từ Do-thái-giáo cùng các vị có gốc
đạo Do-thái sống ở đó, cũng di dời khỏi Rôma từ năm
54, sau cái chết của hoàng đế Claudius. Dân ngoài Đạo,
vốn hồi hướng trở về Đạo lại muốn các vị này
nên sống bên ngoài để không dính dự gì với nhóm ở
trong. Các vị, thậm chí còn muốn tống xuất cả những
người ấy ra khỏi cộng đồng dân Chúa cho đỡ “rách
việc”. Thế nên, chẳng ai có ý định lên đường rao
giảng cho người Do thái giống như thế. Đồng thời, các
vị lại muốn nêu lý lịch của tín hữu thuộc Đạo
Chúa vốn cứ dùng ngôn ngữ không phải là tiếng Do thái.
Thánh Phaolô không đồng ý chuyện này. Thế nên, người
đọc thư Rôma sẽ thấy là tác giả thư này không đả
động gì đến những chuyện đại loại như thế.
Trong
số các vị chuyên đặt vấn đề, lại thấy đưa ra một
vài thắc mắc tràn lan nơi cộng đoàn, để các ngài lại
sẽ hỏi: sao Chúa chỉ chọn mỗi đất nước và con người
Israel là dân tộc có giòng lịch sử hào hùng vào buổi
đầu như thế? Sao dân con nhà Đạo từng thiết lập giao
ước với Chúa lại vẫn chỉ là dân Israel hoặc Hội
thánh, mà không mang tinh thần đạo của cả một tổng
thể rất gói gọn, để rồi tất cả sẽ biến hình đổi
dạng ra như thế? Thắc mắc này, được coi như hậu
thuẫn chống đỡ cho thư Rôma do thánh Phaolô viết rồi
gửi cho các vị lâu nay sống ở đây.
Thánh
Phaolô viết thư, là viết cho cư-dân thị-thành ở nơi
này bằng tiếng Hy Lạp, tức: thứ ngôn ngữ thực dụng
vào thời đó, khi thánh-nhân đặt chân lên đây lần thứ
ba, ở vùng này, vào thời gian khoảng từ năm 54 đến 58,
tức 5 năm đầu triều đại Nêrô. Thánh-nhân viết, là
viết từ A-kai-ya, nơi có thủ-phủ nổi tiếng rất bê
bết, là Côrinthô. Bạn đạo nơi đây, như Gai-ô và
Ê-ras-tô cũng đính kèm lời chào thăm hỏi ở thư này.
Thêm vào đó, còn có bạn đạo từng dấn thân ra đi làm
công tác mục vụ cùng với thánh Phaolô,là: Timôthê,
Lucius, Jason, Sôsiphatê…và các vị sinh hoạt chung, tại
Côrinthô nữa. Ter-siô là người ghi chép những gì thánh
Phaolô đọc cho ông ghi. Chị Phêbê, người sống ở thủ
phủ mang tên Kench-krê gần Côrinthô, là người đem thư
này đến người nhận.
Ở
đây, tôi có nhận xét tương tự đề nghị của một số
vị lâu nay thường hay cho rằng: vào năm 64, có vụ cháy
lớn ở Rôma từng đốt sạch phân nửa thành đô nổi
cộm, vì lúc đó bạo chúa Nêrô lên cơn làm chuyện tày
trời, rồi đổ lỗi cho người Đạo Chúa ra tay phóng hoả
đến như thế. Theo tôi, thì: sau khi đổ diệt cho người
Đạo Chúa đốt trụi tài sản của chúng dân rồi, quan
quân ở đó lại đã ra tay trả đũa cách tàn bạo. Theo
chỗ tôi hiểu, thì: việc này càng làm cho tình thế căng
thẳng đến cực độ, khiến quan quyền ở đó trở thành
đám hỗn quân hỗn quan không thể dừng tay được nữa.
Và, bạo chúa Nêrô lại vẫn tiếp tục bách hại thường
dân vô tội khiến cộng đoàn tín hữu ở đây đành chọn
giải pháp chết vì Chúa, và cho Chúa. Tôi cũng nghĩ: thay
vì đem chôn hoặc bảo trì thánh tích của một Phaolô
quyết sống chết vì Đạo ở nguyện đường hoặc mộ
phần nào tương tự, thì họ lại quẫn bách/hãm hại ông
tựa hồ như người vô danh tiểu tốt được quan viên
vứt xác xuống huyệt mộ ở đâu đó chốn thành đô, xô
bồ, loạn náo. Kết quả là: thánh Phaolô đã thực sự
trở nên hư vô/trống rỗng đến tuyệt hảo. Riêng tôi
không có bằng chứng cụ thể hoặc tài liệu nào khả dĩ
xác minh được những chuyện như thế; nhưng, cũng chửa
biết chừng: mai kia mốt nọ lại sẽ có người làm được
chuyện đó! Và, tôi cũng không có tư cách để khẳng
định rằng: thánh-nhân đã qua đời tại “Tre Fontane”;
rồi sau đó, bị bọn “đầu trộm đuôi cướp” kia
chặt đầu dùng đó làm thứ bóng đá mà tung/ném đến
“3” lần. Câu chuyện như thế chỉ là giả tưởng,
tuyệt nhiên không mang tính khách quan lịch sử, chút nào
hết.
Thánh
Phaolô viết lên chỉ một phần của thư Rôma này thôi.
Bởi, ông muốn hỗ trợ cho Rôma để còn đi Tây Ban Nha
cho “thoả chí tang bồng”. Và, ông lấy làm thích thú
khi có cơ hội giao dịch với cộng đồng ở nơi này. Và,
đây là bức thư duy nhất được ghi chép trước khi ông
có dịp trở lại với cộng đoàn nơi đó.
Thư
ông viết cho cộng đoàn ở đây cũng từ tốn, khiêm nhu,
có cân nhắc cẩn thận như một tuyên ngôn đã chín mùi,
nhẹ nhàng về những chuyện mang tính cảm xúc mà có lần
ông từng bộc lộ vào thời trước. Bộc lộ, đường
lối Chúa hoạch định một thế giới mang tính tích cực
hơn. Bộc lộ, cả thắc mắc: sao Chúa lại mỗi hướng
về với Cha bằng cả sự công chính để duy trì kế
hoạch Ngài ban một cách tốt đẹp, tuyệt diệu; hoặc:
sao công cuộc sáng tạo lại mang ý nghĩa của việc bộc
lộ kế hoạch, vẫn tràn đầy việc Chúa biến hình/đổi
dạng ra như thế.
Để
sự việc như thế có thể xảy ra, cũng cần đến thứ
“cắt bì nội tâm” ngõ hầu dân con mọi người mới
nhận được những thứ như quà tặng đơn thuần. Theo
cung cách lịch sử, nhiều sự việc đã đi vào đường
lối giống như thế. Tất cả, đều như vậy. Thành thử,
Thiên Chúa chỉ chọn mỗi dân tộc đặc trưng là Israel
qua đó mọi sự có thể xảy đến cách tích cực và như
thế mới chứng tỏ cho mọi dân nước thấy được đâu
là vấn đề. Và, kế hoạch này không đạt theo nghĩa
thông thường của ngôn từ. Vì thế nên, có một người
Do thái là Đức Giêsu Kitô đã đến từ Thiên Chúa để
thực hiện ơn gọi của Israel. Từ ngày Ngài phục
sinh/trỗi dậy, tất cả chúng ta mới có khả năng được
sống tích cực như thế, và sống tự do trọn vẹn. Và
có thế, ta mới yêu Chúa, thương Đức Kitô, Israel, thương
mến mọi dân nước và mến thương mọi người. Và,
thánh Phaolô đặt tên cho tình yêu thương này là lòng mến
thương agapè,
tức cung cách yêu đương như Thiên Chúa đương yêu mọi
người.
Thánh
Phaolô hiểu rõ rằng thế giới quanh mình, đặc biệt tại
La Mã, còn tăm tối, đầy bạo lực. Thánh-nhân lại cũng
biết rằng nơi đây cần được cảnh cáo về tình trạng
hiện thời. Ông không đưa ra thuyết lý nào đẹp như
bánh vẽ. Ông cảnh báo sự việc xảy đến sẽ ở giữa
hai tầm nhìn về thế giới không thể ăn khớp với nhau.
Nhưng cuối cùng, qua thư Rôma, thánh-nhân nhấn mạnh rằng:
tất cả phải tỏ ra tích cực. Tất cả phải yêu thương
nhau, và một ngày nào đó tình trạng tăm tối và bạo
lực sẽ không không thể thắng thế.
Thánh
Phaolô không thiết lập nền thần học tu đức nào dành
cho dân thánh trong hệ thống của người đi
Đạo. Thánh nhân nói đến hệ thống La Mã và ông cũng
cho họ biết về sự thể đã diễn ra rằng: hai hệ thống
này không thể hoà hợp, ăn khớp nhau được. Quan hệ
giữa hai hệ thống ấy, không thể nào có được sự hài
hoà, chung sống. Và, ngôn từ về sự bất hoà này rồi
cũng sẽ đến, rất sớm thôi. Ông từng nói: “Hỡi La
Mã! Ngươi không thể nào chiến thắng được ai hết!”
Quả thực, thì: đỉnh cao của những gì được thánh
Phaolô diễn tả nơi văn bản này vẫn là thành phần của
niềm xác tín mang tính chính trị. Đó không là những gì
được thêm vào cho đủ nghĩa.
Sự
chết, Phục sinh, Đóng đinh vào thập giá, Trỗi dậy, Lời
Nguyền/Chúc dữ, Tự do, Đau khổ, Yếu kém, Hành xử cách
sầu não, Tính khí dễ chịu và Tình yêu vào cuối đời…
đều là ngôn từ có đổi thay, nhưng ý nghĩa không thay
đổi. Và, muốn lập thành danh bạ theo thứ tự nào đó
cũng cần có hành trình dài đằng đẵng. Theo tôi thấy,
thư Rôma chừng như bắt đầu vào lúc thư Galát đã được
tác giả viết cùng lúc với phần cuối thư Côrinthô nữa.
Tất cả là tình thương, nhưng tình thương phải nói ra
ngoài càng nhiều càng tốt. Và, thư Rôma đã làm được
việc này.
Thời
gian
thánh Phaolô lưu lại ở Êphêsô là lúc ông viết lên bức
thư Philípphê chính tại đây. Và, ông cũng viết thư gửi
cho dân thành Côrinthô cũng từ Êphêsô và một vài nơi
khác chính vào lúc thư Galát được hình thành. Ông đặt
ý tưởng chính về tình thân thương agapè,
và nay –từ Côrinthô/Kench-krê ông lại viết về những
tư tưởng rất chín mùi chung quanh đề tài ấy.
Cùng
một lúc, lại có một thứ âm thanh kiểu “đứt khúc”
trong thư ông viết cho dân thành Rôma. Ông sử dụng ngôn
từ Hy Lạp được gọi là me
genoito (tức:
phụ thêm vào) đến 10 lần. Ông còn lập đi lập lại
các đoạn thư trong đó không mang nhiều ý nghĩa và cũng
không hoàn toàn mang tính gỡ múi thắt cho nó. Ông sử
dụng từ dikaiosune
tou theou (tức:
sự công minh chính trực của Thiên Chúa) đến 60 lần.
Ông cũng qui chiếu cơn giận dữ của Thiên Chúa mang ý
nghĩa: Thiên Chúa có thể xử phạt, nhưng Ngài lại không
vô-hiệu-hoá một tuyệt đối nào hết. Mãi về sau, ta có
thể sử dụng nền thần học này để phân biệt ý nghĩa
đúng đắn của sự công chính/lòng Chúa xót thương từ
ý nghĩa biểu trưng của sự nổi giận rồi gán hết cho
Chúa.
-------------------
(còn
tiếp)
____________________
Lm
Kevin O’Shea, CSsR
Mai
Tá lược dịch
Đăng nhận xét