Các
bài suy niệm CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH - Năm
C
LÒNG
THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời
Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
MỤC
LỤC
1.
Tôma.
2.
Từ sợ hãi đến niềm tin
3.
Tôma.
4.
Khoa học và đức tin
5.
Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh.
6.
Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con
7.
Tôma đa nghi – Flor McCarthy
8.
Tần số tình yêu – Thiên Phúc
9.
Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
10.
Đức tin là một sự tăng trưởng.
11.
Dấu chứng Phục Sinh
12.
Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
13.
Niềm tin.
14.
Lòng thương xót.
15.
Tin.
16.
Mọi sự đều có thể.
17.
Đức tin.
18.
Lỡ hẹn
19.
Tin.
20.
Chúng tôi đã thấy Chúa.
21.
Vui mừng vì thấy Chúa.
22.
Củng cố đức tin.
23.
Hãy nhìn xem
24.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
25.
Đóng bè để giữ vững đức tin
26.
Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà
27.
Suy niệm của Achille Degeest
1. Tôma.
Sau
một cuộc giao tranh ác liệt, giữa bao xác chết ngổn
ngang trên trận địa, người ta tìm thấy bức thư của
một người lính Nga, đã ngã gục dưới bom đạn. Bức
thư ấy có một nội dung hết sức lạ lùng về lòng tin
của một thanh niên đã từng lớn lên và được giao dục
theo chủ nghĩa vô thần. Anh đã nhận thấy Thiên Chúa
thực sự hiện hữu khi nhìn lên bầu trời lấp lánh ánh
sao. Anh không chỉ tin vào Ngài trong đầu óc anh, nhưng
trái tim anh đã thực sự rung động khi anh viết những
hàng chữ sau đây để thân thưa với Chúa:
“Lạy
Chúa, Chúa có nghe thấy tiếng con hay không? Con chưa hề
nói chuyện với Chúa bao giờ. Nhưng hôm nay con cảm thấy
cần phải chào hỏi Chúa. Con biết rằng ngay từ thời
còn thơ ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại
với con rằng: Không có Chúa. Ngài chỉ là một câu chuyện
hoang đường. Và con đã tin thật điều đó. Cho đến
những năm tháng khôn lớn, con cũng chưa bao giờ để ý
hoặc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ đến
ngày hôm nay, con mới nhận ra vẻ đẹp này. Con lặng lẽ
chiêm ngắm bầu trời với muôn ngàn tinh tú. Và con biết
rằng Chúa thực sự hiện hữu”.
Từ mẩu
tâm sự trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay
với niềm tin của Tôma. Thực vậy, Đức Kitô Phục sinh
đã chiếu cố đặc biệt tới ông khi hiện ra. Chính nhờ
vậy mà lòng tin của ông đã được chuyển biến, để
rồi ông đã thưa lên: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của
tôi. Còn chúng ta thì sao?
Dĩ
nhiên là chúng ta không có may mắn như Tôma, là được
chiêm ngắm Chúa nhãn tiền. Hiện thời, chúng ta là những
người đi trong sương mù. Đức tin của chúng ta còn nhiều
hồ nghi, còn nhiều thắc mắc, còn nhiều trăn trở. Nhưng
có lẽ vì thế mà đức tin của chúng ta có một giá trị
to lớn như lời Chúa đã xác quyết: Phúc cho những ai
không thấy mà tin. Mặc dầu chúng ta không nhìn thấy
Chúa, nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra những dấu ấn
của Ngài trong thiên nhiên, như người lính Nga đã nhận
ra Ngài khi chiêm ngắn bầu trời lấp lánh ánh sao. Với
trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng cùng với những
kỳ công trong vũ trụ, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện
đầy quyền năng của Chúa và chúng ta có thể xác quyết
người là một con vật có tôn giáo. Đồng thời thiên
nhiên là một cuốn sách vĩ đại, trong đó, mỗi trang,
mỗi dòng đều nói cho chúng ta biết về Chúa.
Chính
vì thế, chúng ta hãy xin Chúa củng cố niềm tin nhỏ bé
của chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ nhận biết Ngài qua
Kinh thánh cũng như qua thiên nhiên.
2. Từ sợ hãi đến niềm tin
Một
cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau
chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang
nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một vị linh mục
thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người
thiện chí, ra sức chạy chữa cho những người mắc bệnh.
Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy lui, dân
chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.
Từ câu
chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và
chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ
sau ba ngày đen tối.
Thực
vậy, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được
Chúa Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy
vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và mình thì sẽ
làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.
Nhưng
rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm
cho hiện tại của các ông trở nên đen tối và tương
lai thì mù mịt. Một người trong nhóm đã phản bội, nộp
Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy
đã thắt cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm,
cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài môn đệ khác đã
lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối
cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như
bị co rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế nhưng, chính trong cái bối cảnh không mấy sáng sủa
ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm
tin của các ông được củng cố. Chỉ cần điểm qua
những nhân vật của buổi sáng Chúa nhật Phục sinh,
chúng ta sẽ nhận ra điều đó.
Trước
hết là Madalêna. Cô
tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở tung, cô
nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ.
Và như vậy, cô vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ
tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi cô và chính
cô được thấy Ngài.
Kế đến
là Phêrô và Gioan.
Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và dây băng đã được
xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng
Gioan thì đã tin. Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ
hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn thấy Ngài.
Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không
tin, nếu mắt không thấy và tay không sờ. Thế nhưng,
chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm tin ấy.
Qua
những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải
chỉ là chuyện chấp nhận một số những tín điều.
Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh và
nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi
đầu tiên chính là nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào
thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó
là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông
tràn ngập niềm vui.
Và hơn
thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết
Ngài là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu
ẩn trong suốt những năm tháng đã qua, bây giờ mới được
tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó,
với niềm xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao
giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự là những chứng
nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này
hay chưa?
3. Tôma.
Qua đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện ra với
các môn đệ trong một căn phòng đóng kín vì sợ người
Do Thái. Thân xác vinh quang của Ngài tựa hồ như một
luồng ánh sáng chiếu qua những khung cửa kính. Để củng
cố niềm tin, Ngài cho các ông xem những vết thương trên
tay chân Ngài khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi
Ngài nói với các ông: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng
sai các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa Cha đã sai Ngài
đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì Ngài
cũng sai các ông đi để đem lại ánh sáng và sức mạnh
của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
Ngài
thổi hơi để thông ban thần khí cho các ông và nói: Các
con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai thì
tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội
người ấy bị cầm lại. Với tác động của Chúa Thánh
Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy quyền thiêng
liêng, đó là quyền tháo cởi. Quyền tha thứ và cầm
buộc nếu như tội nhân chưa được xứng đáng.
Thế
nhưng ngày hôm đó Tôma lại vắng mặt, ông đã tỏ ra
cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc. Chúng
ta có thể nghĩ rằng sự cứng lòng của Tôma là một sai
lỗi, là một khuyết điểm may mắn, vì nhờ đó mà chúng
ta có được một bằng chứng về sự sống lại của Đức
Kitô, bởi vì các môn đệ không phải là những người
cả tin, dễ nghe theo những lời đồn thổi, nhưng các ông
đã đòi phải có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng
chính nhờ sai lỗi và khuyết điểm này chúng ta mới có
được những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu: Vì
con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho ai không thấy
mà tin. Khi phán những lời ấy, có lẽ Chúa Giêsu đã
nghĩ tới hàng triệu triệu người qua dòng thời gian luôn
tin tưởng nơi Ngài, mặc dù đã không một lần nhìn thấy
Ngài trên mặt đất này. Và cũng thật hạnh phúc cho
chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn thấy Ngài,
chưa được sờ tới gấu áo Ngài, chưa được nghe Ngài
nói, chưa được chứng kiến những phép lạ Ngài làm,
cũng như chưa được ăn và uống với Ngài. Nhưng chúng
ta đã tin tưởng nơi Ngài dựa vào những chứng cớ của
các tông đồ, là những người đã dám chết để làm
chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh
Gioan đã viết trong sách Phúc Âm như sau: Sở dĩ một số
các phép lạ được kể lại là để anh em tin rằng Chúa
Giêsu là Đấng cứu thế, đồng thời nhờ niềm tin tưởng
này mà anh em có được sự sống, dĩ nhiên đó phải là
sự sống vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem đến cho thế
gian.
Chúng
ta hãy Chúa xin củng cố niềm tin của chúng ta, để một
khi đã xác tín việc Chúa sống lại, chúng ta cũng sẽ
mạnh dạn làm chứng cho Chúa như các môn đệ ngày xưa.
4. Khoa học và đức tin
Trong
một cuộc hội thảo về tôn giáo, viên kỹ sư thao thao
bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê
hoặc dân chúng. Thế nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì
một cụ già đã phát biểu như sau: - Theo tôi thì khoa học
chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc
nhiên hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả
lời: - Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên
tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi đây, tôi chả biết
gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học
như tôi vừa phát biểu hay không?
Khoa học
và đức tin, phải chăng là hai thái cực đối nghịch.
Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ
những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng
hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không
phải là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là một
vị thánh có tinh thần khoa học, bởi vì các nhà khoa học
chỉ tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể
kiểm chứng được. Nhà khoa học trước khi tin, thường
nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê bình.
Jean
Guitton đã nói: Tôi luôn hoài nghi. Chính vì hoài nghi mà
tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin
vững chắc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng
óc phê bình trong lòng tin hay không? Dẫu muốn hay không,
thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp rất
nhiều nghi ngờ như Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn
giờ nghi ngờ trong một ngày, trừ những giây phút trông
cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được giữa khoa
học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân
tích, chúng ta sẽ thấy điểm cuối cùng của khoa học và
đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy nhiên phương
pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
Phương
pháp của khoa học là phương pháp thực nghiệm, đi từ
những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến
cùng Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể
ấy. Trong khi đó, đức tin thì xuất phát từ Thiên Chúa
dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để
tìm biết về Ngài. Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao
cho lý trí biết tin và nhất là làm cho lòng tin trở nên
có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối
với chúng ta, những người tín hữu bình thường thì
không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin
yêu. Càng yêu mến nhiều, thì càng tin tưởng vững chắc.
Và những người có lòng kính mến Chúa thì thường không
cần phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là
trường hợp của Gioan, khi nhìn thấy bóng người đi trên
mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ
mình Gioan đã kêu lên: Thày đấy.
Rồi
trong ngôi mộ rỗng, với những dây băng và khăn liệm
được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã
sống lại. Sở dĩ Gioan đã thấy, đã tin chỉ vì ông có
lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa thắp lên
trong chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ
bé của chúng ta sẽ được củng cố và trở nên vững
vàng.
5. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh.
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong
suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm
nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày
cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những
lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ
đã có những cảm nghiệm sau đây:
1.
Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ
trên mọi nẻo đường.
Đức
Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian.
Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác
nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người.
Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang
chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách
Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong
phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này,
Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước
Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa
xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không
ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ
có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức
Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian.
Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương
khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ
khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng
tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi
trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô
luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên
ta.
Đức
Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh
ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất
hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới,
Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành
rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người
xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với
hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất
hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi.
Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối
của Tôma.
2.
Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây
niềm bình an, tin tưởng.
Biết
các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái
chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra,
đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn
thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy
Thánh Thần”.
Cử chỉ
thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ
trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần
Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật
dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn
định.
Sau cuộc
khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan
nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô
thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem
lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành
những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh
Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở
nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở
nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời
được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối
rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối
rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh
chính là niềm bình an cho các ông.
3.
Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất,
Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi
Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ.
Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã,
chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời
đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết
với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt
vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ.
Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức
Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh,
những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt,
trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở
lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi
vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống
từ nay có một ý nghĩa.
4.
Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi
loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức
Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các
môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng
đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ
không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập
tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và
Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức
trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô
chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ
người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã
ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không
biết mệt mỏi.
Hôm nay
chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả
những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở
thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả
các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời
rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không
thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một
lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô
sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng”.
Hôm nay
Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người
luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi
ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của
tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng
cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người
vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi
trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình,
trong chòm xóm.
Người
vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc
đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me.
Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người
ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người
ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường.
Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối
thoát.
Chỉ
cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy
khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng
bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng,
không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp
được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi
sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong
phú, sống dồi dào.
Lạy
Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần
mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
6. Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong
tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên
phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu
ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa
là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy
từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới
rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị
kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải
giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải
phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc
chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành
giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn
nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau
khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên
đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và
những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẫu
thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi
lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu
khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi
chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng
kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma
không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là
tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy
dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa
Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức
được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập
giá. Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy
hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã
kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng
sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn
da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã
hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như
Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Thưa
anh chị em,
Câu
chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin
mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người
chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức
tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta
tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ giúp ích cho
chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa
đù. Chúng ta phải tực tiếp xúc trực tiếp bằng đức
tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu
chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay.
Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại
tí là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng
chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi
được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân
xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy
mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết
không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được
sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông
Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với
đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã
đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục
Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng
thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được
biến đỏi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ
nữa. Ông nói: “Không
có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của
họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ
đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.
Blaise
Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với
đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe
dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa
Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống
lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn
sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.
Trong
cuốn sách mang tựa đề “Ngang
qua thung lũng sông Kwai”,
Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh hai ngàn
tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử
tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức
tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu
đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy
nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần
chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong
chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng,
họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần
họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp
có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy,
hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại
thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu
Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu
Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với
Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được
biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính
cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống
thưa Chúa Giêsu “Lạy
Chúa là Thiên Chúa của con”.
Anh chị
em thân mến,
Chúng
ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu
như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư
thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta
không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch
sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu
tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh
nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta
có thể làm gì?
Chúng
ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta
có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa
Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa
Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng
giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh
nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho
chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng
ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy
nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà
tin”.
Thưa
anh chị em,
Khi Chúa
Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà
tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như
với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử.
Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho
chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức
tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh
nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại
và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và
luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối
cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những
dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các bí tích, không có
Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy
sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức
tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích
nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành
dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến
cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng
ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể
tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
7. Tôma đa nghi – Flor McCarthy
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Bài
giảng 2: Học hỏi từ Tôma
Thật
dễ sai lầm khi cho rằng những ai đã nhìn thấy Đức
Giêsu, thì dễ có lòng tin hơn so với chúng ta. Tin Mừng
chứng tỏ rằng có nhiều người đã được nhìn thấy
Đức Giêsu, nhưng vẫn không có lòng tin nơi Người. Nhìn
thấy không nhất thiết là tin. Động tác tin tưởng lôi
kéo theo một quyết định tin tưởng.
Trên
thực tế, Tin Mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông
đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là
người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại.
Tất cả các Tông đồ đều như vậy cả. Thánh Maccô kể
cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào
buổi tối Phục sinh, “Người
khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các
ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người,
sau khi Người chỗi dậy”.
(Mc 16: 14).
Chúng
ta có thể thông cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu
bị đóng đinh đã làm cho họ bị tuyệt vọng. Họ đã
dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng lớn lao. Họ đã
bỏ hết công việc của mình, và để lại mọi sự để
đi theo Người. Thế mà Người lại đột ngột ra đi.
Càng nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự mất
mát của họ càng trở nên lớn lao hơn. Giá trị và ý
nghĩa của tất cả mọi sự đều bị đe doạ: tình bạn
đồng hành, lòng tin và toàn bộ cuộc sống của họ.
Và rồi
một điều không thể tin nổi đã xảy ra – một lần
nữa, Người lại đứng giữa họ. Việc đầu tiên mà
Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy những vết
thương của Người. Tại sao Người lại làm như vậy?
Trước hết, bởi và những vết thương này giúp cho các
ông nhận ra Người chính là Đấng đã bị đóng đinh.
Thứ hai, những vết thương này là bằng chứng tình yêu
của Người đối với họ. Tình yêu phải được chứng
tỏ bằng những hành động cụ thể. Sau đó, Người còn
mời gọi các ông “nhìn
xem và sờ tay vào”.
Trường
hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng
tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ông không hề cố
gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường
nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu
đuối. Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội lỗi, vì đã
có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm
nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước lên
để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều
chắc chắn đối với Tôma, bởi vì trong Tin Mừng theo
Thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên
xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy
Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Ở nơi
đây, trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối
biết chắc chắn về những điều thiêng liêng. Nếu biết
chắc chắn, thì không còn cần đến lòng tin nữa. Sự
tuyệt đối chắc chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo,
không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ
tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là
kẻ tin nữa” (Thomas
Merton).
Một
cộng đoàn đều có thể rút được kinh nghiệm từ một
nhân vật như Tôma, nghĩa là một người có can đảm đặt
ra những câu hỏi mà không một người nào khác dám hỏi.
Đó là người chân thành, người như vậy cũng giúp cho
những người khác giữ được chân thành. Họ làm cho
những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng dòn nơi
lòng tin của họ; họ làm cho những kẻ hoài nghi tức
giận, khi làm cho những người này cảm thấy sự dằn
vặt của nỗi trống rỗng trong tâm hồn.
Sau khi
chế ngự được khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh
Tôma đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Giêsu, và
trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất
của Giáo Hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa
Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ, là nơi ngài
chịu tử đạo. Thánh Tôma là người Tông đồ đầu tiên
chịu chết vì đức tin.
Đức
Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Người trong lòng
tin, và nhìn vào những vết thương của Người. Mặc dù
chúng ta không được đụng chạm vào Người về mặt thể
lý, nhưng chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về
mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang
lời chứng đến cho những người khác. Công việc của
Chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn
thấy được” trên
thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách này.
Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy
bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết người.
Thế
giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin
tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến
đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn
thấy” Đức Giêsu và
“đụng chạm”
vào Người thông qua những kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ
đi theo Người lại không hề có vết thương tình yêu để
bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết
phục được những kẻ không tin.
Xin cho
chúng ta xứng đáng được kể và số những người mà
Đức Giêsu chúc phúc, nghĩa là “những
kẻ không thấy mà tin”
Bài
giảng 3: trào lưu chính thống
“Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh
sườn Người, thì tôi không tin”.
Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta
có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống.
Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ
là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích
thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề
có thật.
Ngày
nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự
thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ có rút lại
vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp
dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường
lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản.
Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn
trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này tước đoạt mất
sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một
thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý
và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành
một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn
là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người
đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một
đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây
là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường
tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng.
Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên
họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng
qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ
e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng
họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng,
người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con
đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi
xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện
được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng
trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con
đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tìm kiếm được
nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự
làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú
cả khu rừng.
Người
thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một
cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường
mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn
là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không
nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ,
nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm
cung cấp cho anh những phương hướng, đế mặc dù đang ở
bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc
lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho
anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được
tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng
tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu
biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường
mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người
thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính
thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo
một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như
không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc
sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý
đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách
này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp
anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả
những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng
đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu
nhiệm của cuộc sống.
Đức
tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một
đường lối an toàn. Đức tin này bảo về người đó
khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó là đi tìm
kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó
giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương
đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay
đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu
chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng
sự thiếu tự tin.
Đối
với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ
là một phần của cuộc sống. Còn đối với người
không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc
sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi
sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không
muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự
kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức
tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự
kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng
ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị
khô héo và chết đi.
Đức
Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không
muốn những kẻ đi theo Người cách mù quáng. Trái lại,
Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề
đe doạ hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong
muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả
sự sáng suốt của họ. Và Người còn đi đến chỗ mong
muốn chúng ta co thể có được sự sống, không chỉ ở
cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất
này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Tiếp
Cận Khác: Khủng hoảng đức tin
Tông đồ
Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều
người cũng đang khủng hoảng đức tin. Tolstoy là một
con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc sống của ông cũng
đang bị một cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm
1879, ông được 51 tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện
với chính mình. Ông đã hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết,
Chiến tranh và Hoà bình
và Anna Karenina. Nếu
ông không viết một tác phẩm nào khác nữa, thì hai cuốn
tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông có một vị trí
xứng đáng trong cuốn sử biên niên của nền văn học
thế giới. Văn phong của hai cuốn sách này đã giúp cho
ông có thể diễn tả được tính cách vĩ đại và khả
năng sáng tạo của ông. Đáng lẽ ông rất hạnh phúc.
Tuy nhiên, ông lại cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy
cuộc sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu hỏi
cứ lảng vảng trong ông: “Liệu
có bất cứ ý nghĩa nào trong cuộc sống của tôi sẽ
không bị cái chết huỷ hoại đi chăng?”.
Đối
với ông, đây là một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn
–ông đã từng dự tính tự tử. Ông tìm kiếm một lời
giải đáp cho những câu hỏi của ông trong từng lãnh vực
của kiến thức nhân loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm,
cả ngày lẫn đêm, giống như một người đang giãy chết
tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông vẫn không hề
tìm thấy gì cả.
Thế
rồi ông quay trở lại với niềm tin của các Kitô hữu.
Ông đã từng được nuôi dưỡng trong lòng tin, nhưng ông
đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi. Ông cảm thấy khó
chịu đối với niềm tin này, và coi đó như là thứ vô
nghĩa lý trên môi miệng của những kẻ có cuộc sống
trái ngược hẳn với cuộc sống của ông. Nhưng khi nhìn
vào những con người sống bằng niềm tin, thì cũng chính
niềm tin này lại lôi cuốn ông và dường như gây cho ông
sự xúc động.
Từ đó,
ông được lôi kéo quay trở lại với niềm tin này và
ông đã nhận ra được ý nghĩa của niềm tin. Ông nói:
“Tôi
đã từng suy nghĩ rằng trong cuộc sống, không hề có
chân lý chắc chắn. Nhưng rồi tội đã tìm thấy một
nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng, và nét rạng ngời
của ánh sáng đó đã làm ngây ngất cõi lòng tôi. Trong
những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra rằng
đó là một học thuyết tinh tuyền nhất và đầy đủ
nhất trong cuộc đời. Từ 2000 năm nay, lời rao giảng cao
cả và quý giá của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh
hưởng trên con người, theo cách thức mà không có bất
cứ người nào khác có thể tạo ra được. Một ánh sáng
đã chiếu toả trên con người tôi và chung quanh tôi, và
kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi nữa”.
Một số
người đã được đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ
lúc mới sinh, và theo năm tháng, họ nhận thấy lòng tin
này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn được duy trì. Khi
có được lòng tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn
lao. Nhưng đối với những người khác, lòng tin là một
cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật vậy, có thể một số
người đã phải trải qua một cơn khủng hoảng, rồi mới
đến được một lòng tin sâu xa và mang tính cách cá
nhân.
Chỉ có
lòng tin mới có thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa
nhất và quan trọng nhất trong cuộc đời. Nhưng chúng ta
không được mong đợi lòng tin soi sáng tất cả mọi sự,
bởi vì chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là
chúng ta biết được tất cả mọi câu trả lời. Nhưng
chúng ta không nhất thiết biết tất cả những câu trả
lời. Lòng tin là sự tin tưởng, chứ không phải là biết
chắc chắn.
Câu
chuyện của Tôma đa nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng
lòng tin được chứa đựng trong bình chứa là con người
nhân loại thật mỏng dòn biết bao. Và điều này cũng
chỉ ra cho chúng ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết
phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu thương
chúng ta –và Người đã có những vết thương để chứng
tỏ tình yêu này. Tất cả cốt lõi của lòng tin trong
Kinh Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có được nơi
Thiên Chúa, nhưng còn là lòng tin mà Thiên Chúa có nơi
chúng ta.
CÂU
CHUYỆN KHÁC
Walter
Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua
15 năm sống trong các trại cưỡng bức lao động tại
Siberia. Trong suốt những năm tháng đó, ông thuộc về
những lữ đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải
làm những công việc bẩn thỉu nhất – đào nền bằng
tay, khiêng vác những vật liệu xây dựng nặng nề, bò
qua những khu hầm mỏ tối tăm, ẩm thấp, tại đó, chỉ
cần sơ ý một chút là đủ đưa đến cái chết.
Điều
gì đã giúp cho ông tồn tại được? Ông nói “Nhiều
người đã chết, đặc biệt khi mất đi niềm hy vọng.
Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và nhờ đó, không
bao giờ tôi cảm thấy mất niềm hy vọng. Không phải là
tôi duy trì được lòng tin, nhưng chính lòng tin đã giúp
tôi tồn tại”.
Hạnh
phúc cho những ai có được một lòng tin như thế.
8. Tần số tình yêu – Thiên Phúc
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Người
cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát
thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi
người cha: - Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người
cha giải thích:
- Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều
Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ,
vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm
chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám
ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có
cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma,
hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn
Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”
(Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người:
“Lạy Chúa của con,
lạy Thiên Chúa của con”
(Ga 20,28).
Tại
sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn
liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn
Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục
sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản
giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma
không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần
số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở
chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy
bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt
tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ
Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho
Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính
tình yêu đã làm cho ông trở nên “người
môn đệ Đức Giêsu thương mến”
(Ga 21,7).
Tại
sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà
Phêrô thì “rất đỗi
ngạc nhiên” còn Gioan
thì “Ông đã thấy và
ông đã tin”? (Ga
20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu
chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải
vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy
của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc
thay những người đã không thấy mà tin!”
(Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ
Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như
dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời
Kinh Thánh: “ngày thứ
ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy”
(Hs 6,2) và phép lạ “ông
Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm”
(Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn
chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi
biến cố hằng ngày.
Niềm
tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không
phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín
vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh
Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần,
Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng
tuyên bố rằng: “chính
Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về
điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”
(Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã
bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết:
“Nếu Đức Kitô đã
không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền,
và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình”
(1Cr 15,17).
Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để
chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin
dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để
Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng
chỉ đường chúng con đi. Amen.
9. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.
Đối
với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi
về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển
hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại
nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước
những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von
“cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc
nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã
vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng
oan.
Thật
ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn
đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối
phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết
thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà
tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô
hữu.
1.
LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm
tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường
trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng
tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của
cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới
đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào
ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của
Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma,
cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh
đức tin nơi một người.
Nhưng
yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản
tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi
không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng
khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu
cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là
người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới
thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở
ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm
tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người
khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám
ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông
đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà
bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín
Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm
tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố
quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao
trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của
Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu
thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng
là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn
toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải
tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con
người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt
cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm
tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2.
ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện
lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn
lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu
hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn
thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực
con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ
dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ
coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu
tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn
tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất
cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa
vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ
muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn
của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những
gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối
từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa,
mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào
cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa
là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng
thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt.
Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng
khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu
bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ
ai?
Thành
ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và
cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh
điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống.
Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những
thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được
khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời
ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường
gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3.
PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY
MÀ TIN
Cũng từ
nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui
trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được
thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại
là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh
phúc.
Trong
hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa
những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử
hành niềm tin của mình một cách sống động, không những
qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn
biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc,
cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng
với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.
Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin
của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn
không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan
hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu
bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy
niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm
loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy
nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn
lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội
cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể
có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình
không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính
đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở
ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính
lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như
một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức
Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại
sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò:
muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin
điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước
hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều
mình tin.
Ngày
nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai
tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một
mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu
rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp
được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế,
liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan
hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu
được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên
xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng
còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang
yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
10. Đức tin là một sự tăng trưởng.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ký sự
thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng
Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản
tính cứng tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về hai điểm
được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể
trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý
thuyết phỏng đoán về cơ thể hiển vinh của Chúa. Tiếp
đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.
Trước
khi nhấn mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ qua rằng
rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến
phản kháng:
- Chúa Phục Sinh không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại hữu thể của Người: đó là những thương tích của một người đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những vết thương đó.
- Truyền thuyết mà người Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất, là một chuyện dựng đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng thịt.
Giả
thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực
tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc
kiểm chứng một sự kiện.
Đối
với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan đến đức
tin:
1)
Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa,
vậy hãy tin vào Ta
(Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày, vang lên tiếng hô
của Tôma: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng
giữa Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một
quá trình dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng
một trong những mạch văn chứa đựng tính chất bi kịch
trong toàn bộ Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước
tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức tin. Người
Do Thái sau này sẽ đứng tại chỗ với lòng cứng tin.
Đức tin chỉ được vươn tới sau khi vượt thắng bao
khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản
kháng, khó thuyết phục. Ta nhớ lại, ông đã từng xem
việc Chúa đi thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh
(Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông không biết
cuộc phiêu lưu của Người rồi đây sẽ kết thúc ở
đâu (Ga 14,5). Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin
bằng một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước. Đây
là một kết quả cho thấy cùng một lúc lòng rộng rãi
Chúa khi Người ban ơn đức tin, và lời đáp đơn sơ của
một tâm hồn khó tính nhưng ngay thẳng.
Người
ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may mắn
được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định
rằng các môn đệ khác cũng may mắn như Tôma. Tuy nhiên
đã có một khoảnh khắc các ông nhận ra Chúa Giêsu là
Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông
nằm trong quá trình các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên
Chúa.
Chúng
ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta vượt lên trên
những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để
vươn tới niềm tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.
2)
Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một sự
tiến tới không ngừng.
Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo trong đức
tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng
ta. Một trong những bản dịch có thẩm quyền nhất về
câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin, mà là người
thành tín. Cứng tin hay thành tín không phải là trạng
thái bất động của nội tâm. Từ chối không tin, là
khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp nhận
tin và làm cho đức tin càng dễ được chấp nhận và
sống động. Người ta tiến hóa trong đức tin. Người ta
trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự
kiện này có một hệ quả. Đức tin sống động thiết
lập trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng.
Sau một thời kỳ tăng trưởng, cơ thể bị hao mòn dần
rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng liêng lớn
lên và tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống
trong đức tin. Đức tin không hao mòn, nhưng phát triển và
nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối chúng
ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của
sự sống. Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi ngày một
thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước muốn,
thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta
nghênh tiếp đức tin.
11. Dấu chứng Phục Sinh
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Ngài, tôi chẳng có tin”.
Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi
hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải
thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới
tin.
Ngày
23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng
Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt
50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay,
hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa
Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho
ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người
trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục
thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha
Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ
ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích
mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm
cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ
ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ.
Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu
nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác
thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài
như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với
một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện
đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra
đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của
chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín
ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến
thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y
khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng
không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết
thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa
trị được.
Chúa
chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ
thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển
nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện
những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử
đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu
thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để
họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ
nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa
Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng
không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo
Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống
không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những
lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng
tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa
hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin.
Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp
cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có
thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ
bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một
phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá
đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những
thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông
Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa
của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của
cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những
lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và
hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như
thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không
phải là vinh quang chói lọi hay cái gì
khác, mà là chính dấu
đinh. Nếu chính
Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang
và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế
gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn
dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm
những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng
không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương
của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và
sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này
mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách
sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới
thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là
dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm
dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô
thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình
mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập
sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh
trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện
giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong
những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ
nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng,
bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình
yêu nhân loại.
Nhưng
thưa anh chị em,
Giáo
hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng
có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn
sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác
đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà
giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau,
bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn
sàng đổ ra hay không?
Con
người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông
Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm,
phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có
nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của
Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của
Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương,
những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân,
nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm
sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng
tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những
khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ,
của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm
sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng
của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo
sách Công vụ mô tả: “Những
kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng
dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho
người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng
tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”.
Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không
tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm
đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của
tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm
những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu
chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói
nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu
của anh đi!
Ước
gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình
yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác,
trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết
thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế
giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng
cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
12. Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
“Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt
tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một
hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai
lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh
nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô
chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông
vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô
lại hỏi:
- Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
- Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô
nói:
- Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua
quỷ liền biến mất.
Đức
Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của
cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa
thường cho các môn đệ xem những thương tích này để
họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết
với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với
họ.
Qua Tin
Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn
đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu,
bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển
từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại.
Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu
ước sang Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi
Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó
là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu
Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta
còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp
nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng
hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người
sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc
biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và
thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu
lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện
ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương
của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”.
Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa
cho ta biết dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi
lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng
ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của
Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”
cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng
ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa,
vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn
bản cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng
lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy
mà tin”.
Lạy
Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm
nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa.
Chúng con xin tạ ơn Ngài.
13. Niềm tin.
Qua đoạn
Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của
Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ
muốn tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế,
khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa
Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi
và khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ
khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu
triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù
chưa một lần nhìn thấy.
Chúng
ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa
một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần
được nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến
phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu
mến và thờ lạy Ngài.
Thế
nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin
trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực
vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện
lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử.
Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã loan báo và
trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định
một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài
đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta
thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng
ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù
hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư của chúng
ta.
Thế
nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ
nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người
trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng.
Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác
định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những
chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận,
cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi
vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn
đục thường là những chướng ngại vật cản ngăn con
đường đức tin.
Tôi xin
lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn
ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế
nhưng, những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế
nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày
nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng
có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò
của tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người
thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở
nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến
tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành
hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng
vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài.
Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có
những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về
giới tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày
xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
14. Lòng thương xót.
Trong
cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên
Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của
Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người
Phi Luật Tân như sau:
Vị
linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng
ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm
nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng
vẫn không cảm thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự
tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một
người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa
và tuyên bố là được ơn biết những điều Chúa Giêsu
muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều
này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói
chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của
tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là
tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài
ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp
Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”,
“Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng
viện không?” ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài
nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một
điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi
tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú
nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật
vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các
việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông
đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã
tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy
nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho
nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì
Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu
anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ
không tha lỗi cho anh em”.
Ngày
13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi
Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu,
ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn
tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày
27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và
ôm anh.
Bà
Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật
báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi
một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà
gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về
sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi
đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình
dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không
nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin
tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh
mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như
thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông
ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn
không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy,
tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi
bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ
đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà
Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích
tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu
tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải
chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai
trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của
chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô
Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông
tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy
một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để
nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh
một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ
cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn
tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng
sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông.
Đơn giản là như vậy!
Khi bạn
làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự
chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn
buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu
chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi
bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ
xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn
nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ,
cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại
và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm
giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi
sợi dây oán thù.
15. Tin.
Trong
thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng
Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống
lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không
tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân
tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng
ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục
sinh hơn.
Trước
hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt
ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại
khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những
gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính
vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như
một phi hành gia sau lần bay quanh trái đất ba vòng cũng
tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma
cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa
thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi
mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này
thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp
đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều.
Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau,
nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày
mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt
làm chi. Chẳng bao giờ con
người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế
giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống
lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống
vĩnh cửu sau khi chết. Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được
nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn
vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng
ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc
đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó
sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp
tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo
Ngài.
Sau
cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại
sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá
hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải
chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh
hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh
mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào
Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau
Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại
giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm
được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn
đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ,
nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không
chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy,
chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới
vật chất…
Hơn
nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người
chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể
chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng
trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu
và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có
cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt
thòi ở đời này. Sống
đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại
là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại
vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người
Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ
nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi
hỏi.
Hãy
vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng
ta luôn mãi.
16. Mọi sự đều có thể.
Có
câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập
trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng
cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một
đống mùn cưa”. Chủ đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật
hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn
ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50
mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ
trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo
mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật
là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả
anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói, “Cám
ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương
lên dần từ 250 tới 500 và 1000 đô la một tuần. Thế
nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi
nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả
lời, “Tôi đau lắm... Tôi không bao giờ dám nữa đâu!”
Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều
khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho
một tương lai tốt.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa
Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ
rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết
họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra
với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan
đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”.
Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người không
có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi đã nhìn
thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn
tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào
những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn
Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20,25). Tám
ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các
tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ
và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ
còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy
Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga
20,28-29).
Tin
luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân.
Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng
mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy
ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó
quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng
ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là
Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được.
Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó
lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết
và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi
sự đều có thể cho những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã
nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến
những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho
những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều
kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có
thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời
sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong
những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn
trở nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con
người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ
rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn
không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”.
Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con
người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người
mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa
Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm
nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho
chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài
thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng
ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng
một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều
kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi
cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa
cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!”
17. Đức tin.
Trong
sinh hoạt bình thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi đến
cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như ngày cưới, ngày
sinh nhật… Thế nhưng, có những quà tặng chẳng mang lại
một ý nghĩa nào cả, hay ít nữa một sự tiện dụng nào
đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho xong bổn phận, cho
xong món nợ. Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui
vẻ lúc bấy giờ, còn sau đó thì xếp quà tặng vào một
xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ chẳng bao giờ ngó
ngàng tới.
Phải
chăng đó cũng chính là hình ảnh đức tin của nhiều
người trong chúng ta. Một thứ quà tặng mà chúng ta không
phải vất vả mua sắm. Một thứ đơn thuốc đã được
ghi sẵn: phải làm cái này và phải tránh cái kia. Một
thứ đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và không còn
dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ mới ngó ngàng tới,
như người ta vốn mỉa mai diễn tả:
Một
năm họ tới nhà thờ ba lần để rửa tội, để kết
hôn và để vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ
ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận đàng xa, tít
ngoài sân cho qua lần chiếu lệ. Trong suốt thời gian còn
lại, đức tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay
một ngăn tủ khóa kín.
Với
chúng ta thì khác, đức tin không phải là một quà tặng
bất đắc dĩ, không phải là những hình thức bề ngoài,
cũng không phải là một cái gì đã chết. Nhưng đức tin
chính là sự sống. Bởi đó thánh Gioan đã viết:
Sự
chiến thắng trên thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh
nghiệm trong những trại giam cho chúng ta thấy: những
người có được một nền giáo dục tôn giáo vững chắc
mới dễ dàng tránh được những hành vi dã man và độc
ác. Đồng thời dựa vào những bản thống kê, thì số
người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ nhoi
khiêm tốn. Nếu đức tin không phải là sức mạnh thì
làm sao người Công giáo có đủ khả năng chịu đựng.
Đức
tin chính là sự sống.
Thân xác của chúng ta, chẳng hạn, là một vật sống
động. Ở đó có máu huyết lưu thông, để không ngừng
phát triển, không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày
rửa tội, đức tin được gieo trồng trong tâm hồn chúng
ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm bông và kết
trái. Điều đó có nghĩa là Đức Kitô sống trong tôi và
tôi sống trong Đức Kitô. Toàn thể con người tôi được
ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong tình yêu của
Ngài. Được trở nên cao cả với địa vị là con cái
Ngài. Được vượt trên trần thế để tiến vào quê
hương nước trời.
Như một
mầm non phải được chăm sóc thì mới có thể phát
triển, bằng không nó sẽ bị thui chột. Đức tin của
chúng ta cũng vậy. Nó
phải được chăm sóc, được nuôi dưỡng bằng việc đọc
và suy gẫm lời Chúa cũng như các sách đạo đức,
nhờ đó tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho hành
động.
Tiếp
đến bằng việc cầu
nguyện. Chúng ta sẽ
không thể nào có được một đức tin trưởng thành mà
không cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải chỉ
là đọc một số kinh dọn sẵn, nhưng là thực sự tâm
tình và kết hiệp với Chúa.
Nếu
chúng ta chỉ sống đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ
một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một năm
một lần, thì chúng ta không hy vọng gì thắng nổi thế
gian. Cứ như thế, đức tin dần dần thui chột để rồi
chỉ còn lại một bộ xương cách trí, một tín đồ hữu
danh vô thực mà thôi.
Và tới
một lúc nào đó, chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một
lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa chỉ vì một
lý do không đâu mà thôi.
18. Lỡ hẹn
Qua đoạn
Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Tôma đã không được
thấy Chúa vì ông đã lỡ hẹn.
Thực
vậy, buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần đối với
các môn đệ là một sự kiện có tầm mức quan trọng
đặc biệt, vì nhờ buổi chiều này, mà niềm xác tín
của các ông vào việc Chúa Phục sinh được củng cố.
Thế nhưng, đối với Tôma, buổi chiều này lại là một
buổi chiều lỡ hẹn, một buổi chiều đã bị lỡ chuyến
tàu. Có thể vì sợ người Do thái, nên Tôma đã không
dám tụ họp chung với các môn đệ, để được cùng đón
nhận ơn sủng và sự bình an của Chúa Phục sinh.
Trong
cuộc sống, chúng ta thấy có những cái lỡ hẹn hay trễ
hẹn, đem lại những hậu quả khác nhau.
Thực vậy, những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn không gây nên
một hậu quả nào vì nó có thể được đền bù bằng
một lần gặp gỡ khác. Chẳng hạn người bạn hẹn tôi
đi chơi, hay đi ăn nhậu, nhưng vì kẹt công việc, tôi
đành phải khất đến một dịp khác.
Có
những cái lỡ hẹn hay trễ hẹn chỉ gây thiệt thòi đôi
chút và sự mất mát được ghi nhận là không đáng kể.
Chẳng hạn tôi ký hợp đồng buôn bán với người ta và
đã giam tiền cọc, thế nhưng tới ngày giao hàng, tôi
không thể thực hiện được như hợp đồng đã ký kết.
Và như vậy tôi mất đi số tiền đã đặt cọc.
Thế
nhưng có những cái trễ hẹn hay lỡ hẹn đem lại những
hậu quả thật nghiêm trọng, mất mát thì thật nhiều,
thậm chí có thể mất mát cả một đời, vì không bao
giờ được hẹn lần thứ hai.
Chẳng hạn đến ngày thi, tôi bị đau nên không thể tham
dự và thế là sau đó cuộc đời tôi xoay chuyển qua một
hướng khác, thay vì tiếp tục đại học, thì tôi phải
lên đường thực thi nghĩa vụ quân sự, làm người lính
trong quân đội. Chẳng hạn chị hẹn gặp anh, nhưng anh
vi ham vui với bè bạn nên không tới. Và thế là chị nổi
giận, cắt đứt mọi liên hệ khiến cho cuộc tình của
họ bị tan vỡ.
Rất
may cho Tôma và cũng để khích lệ con người ở mọi nơi
và trong mọi lúc, Tôma đã được gặp lại Chúa ở một
lần hẹn khác. Chính trong cuộc gặp gỡ này, không chỉ
là niềm vui, niềm xác tín của Tôma, mà còn là niềm
vui, niềm xác tín của mọi người chúng ta hôm nay.
Có thể nói được rằng: chính nhờ cuộc lỡ hẹn của
Tôma mà đức tin của chúng ta được củng cố, đồng
thời cũng nhờ đó mà niềm xác tín của chúng ta vào màu
nhiệm Chúa Phục Sinh càng thêm mạnh mẽ hơn nữa. Và
nhất là chúng ta được vui mừng và phấn khởi đón nhận
“mối phúc thật thứ chín” của Chúa, đó là:
- Phúc cho những ai không thấy mà tin.
Tuy
nhiên trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng cần phải
kiểm điểm lại xem: Chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay
chưa? Thực vậy, Chúa hẹn
gặp chúng ta ở nhiều nơi và trong nhiều lúc. Những địa
chỉ Ngài thường dùng để gặp gỡ chúng ta đó là lời
Ngài trong Kinh Thánh, đó là Bí tích Thánh Thể nơi nhà
thờ, đó là những người chung quanh chúng ta, nhất là
những kẻ đau khổ, nghèo túng và bất hạnh, đó là
những biến cố xảy đến trong đời sống, là như những
dấu chỉ của thời đại qua đó Chúa tỏ lộ cho chúng
ta biết thánh ý của Ngài. Điều quan trọng đó là chúng
ta đừng để lỡ hẹn hay trễ hẹn, trái lại phải lắng
nghe và nhận ra tiếng gọi cũng như thánh ý của Chúa và
nhất là phải mau mắn tìm gặp Ngài tại những địa chỉ
ấy.
19. Tin.
Ngày
nọ, nhà của một vị tu sĩ bốc cháy. Để được an
toàn, thầy vội leo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập
bên dưới rất lo lắng vì mạng sống thầy chỉ còn
“ngàn cân treo sợi tóc”. Họ liền căng một tấm thảm,
giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
- Nhảy đi, thầy nhảy xuống đi!
Thầy
Nasruddin nói:
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!
- Ôi, thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, thầy nhảy mau đi!
Thầy
Nasruddin vẫn ngoan cố:
- Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
Bài Tin
Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
Điều
thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt
ra: “Nếu tôi không
thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay
vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài
thì tôi không tin”. Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán
thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi
vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín
chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã
hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn
khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những
lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng
tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa
thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật
lại là một chuyện: “động trời” chưa bao giờ xảy
ra: một người chết sống lại! Đòi hỏi phải kiểm
nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.
Nhưng
khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán
thành với Đức Giêsu? Ngài đòi tôi “không thấy mà
tin”. Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp
lý?
Suy nghĩ
thêm, tôi mới hiểu rằng: tương quan giữa những người
yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau
bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ
cha mẹ nói với đứa con rằng “Con đừng thọc tay vào
ổ điện nhé, điện giật chết đấy!” Nếu đứa con
không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ
ra sao? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu
thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi
hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp
tình.
Tôi
cũng suy nghĩ về chữ “phúc”
trong câu Đức Giêsu nói với Tôma: “Phúc cho những ai
không thấy mà tin”. Đọc Tin Mừng theo thánh Matthêu, tôi
đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm mối
phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có
phúc? Tôi nghĩ rằng hạnh phúc thường đi đôi với tình
yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người ấy. Tin
thể hiện yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Đến đây
tôi khám phá một dây liên hệ giữa ba điều: Yêu
– Tin – và Hạnh phúc.
Và kết
luận tôi rút ra được từ bài Tin Mừng này là:
- Trong tương quan với những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.
- Nhưng trong tương quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.
- Nhất là trong tương quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.
20. Chúng tôi đã thấy Chúa.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Sau khi
được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm
Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi
bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ. Việc làm
quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài
đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà
đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ bình an ba lần
(c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức
Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến
thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ
nạn.
Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho
tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có
một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có
óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt
gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở
với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và
cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ
rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng
của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chúa.” Nhưng ông
lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi
không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không
thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ
như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức
Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai.
Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần
sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê
ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng
Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc
Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức
tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những
người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để
nói rằng Ngài sống lại.
Quanh
chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi “thấy
và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên
Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu
“thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì
đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho
Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng
ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm
đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng
ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh
thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên
khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm
được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền
giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và
chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người
chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa”
(Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được
rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
- Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt
qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi
ngày của con,
Vượt
qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt
qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt
qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt
qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt
qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt
qua những thành kiến con có về người khác...
Chính
vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt
qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước
gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi
bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước
gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của
Chúa.
21. Vui mừng vì thấy Chúa.
(Chúa
Nhật Lòng Nhân Hậu Chúa)
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
"Chúng
tôi đã được thấy Chúa"
Đó là
tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ "thấy" được nhắc đến 6 lần trong
bài Tin Mừng này.
Thấy
Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria
Macđala cứ tưởng Thầy là người làm vườn.
Để thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin. Ai tin
mới thấy, và thấy để rồi tin hơn.
"Phúc
cho ai không thấy mà tin"
Chúng
ta vẫn tin bao điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi
vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau, dù chẳng
ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin
không phải là một hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ giá con người. Trái lại, chỉ con
người mới biết tin và dám tin. Nhờ tin, tôi không còn
bị giam trong thế giới chật hẹp của cân đo đong đếm,
của vật chất khả giác, nhưng được đưa vào một thế
giới phong phú hơn nhiều: thế giới của những ngôi vị
tự do, của chính Thiên Chúa. Tin là chấp nhận bấp bênh,
là có thể bị lừa. Nhưng nếu không tin thì không thể
sống được.
Vấn đề
là tôi phải biết tôi đã tin vào ai.
Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin: niềm
tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con người. Cả hai niềm
tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc. Ông Tôma không tin
vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào việc
Chúa phục sinh. Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào
Chúa, ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng
ta là những kẻ không thấy mà tin.
Không thấy bằng mắt thường, nhưng vẫn thấy bằng con
mắt đức tin. Tin là một cách thấy nghiêm túc. Người
tin là người thấy bằng trái tim. Họ thấy được Đấng
Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình. Kitô hữu là người
tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa. Thấy Thiên Chúa
hiện diện như người Cha nhân từ. Thấy Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa làm người trên trái đất, sống chết chỉ
vì say mê Cha và say mê con người và đã sống lại để
cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy
mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau.
Dù những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm, nhưng đó
không phải là chuyện mơ hồ, viễn vông. Thế giới hôm
nay chỉ tin vào những người đã thấy. Ước gì chúng ta
dám mạnh dạn tin Chúa hơn, để có thể thấy Chúa tỏ
tường hơn và giúp người khác thấy điều mình đã
thấy.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Nhiều khi chúng ta không thấy Chúa chỉ vì chúng ta không dám liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào bạn gặp được Chúa, vì đã dám quên mình để sống cho tha nhân không?
- Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đức tin chưa (mất lòng tin vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Đâu là cách bạn giải quyết?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh, lúc
chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên
chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc
bên mộ.
Lúc
chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa
đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc
chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến
đem bình an cho các môn đệ.
Lúc
chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã
không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc
chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con
ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh, xin
tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng
con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật
gần bên chúng con. Amen.
22. Củng cố đức tin.
Có một
chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa
nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn
để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền
A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục
sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi
tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú
trong Mùa Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái
tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ
khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc
Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt
Tôma, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông
đồ sự bình an: "Bình an cho các con". Sự bình an
này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các
tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho
các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai
các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể
nói được trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất của
đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào và đã chia sẻ
cho Tôma: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Tôma
không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể
nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ
cứng lòng tin của Tôma đã gây chia rẽ hay làm yếu kém
đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục
Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn
không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng
đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của
những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc
chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là
trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng
đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và
niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho
cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa
Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một
cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô
khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ.
Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và
sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy
Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình
an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của
Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta
đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và
cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ
Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những
trở ngại.
Sự
vắng mặt, sự cứng lòng tin của Tôma, thái độ của
Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh
hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng
mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người
chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu
cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh
hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu
đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông
đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban
sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Tôma để
biến đổi ông, và Tôma đã tin và tuyên xưng: "Lạy
Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời
con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ
của Ngài từ đó không nên thách thức như Tôma nữa:
"Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Cộng
đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng
đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa
Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của
Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm
vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một
cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây
là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng
đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại
cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất
của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn
hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau,
phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội
cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên
trời cũng cầm lại".
Không
có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và
củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa
cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết
lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết
rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự
tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ.
Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để
chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng
lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để
làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa
đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi
người chúng ta cần hành động như Tôma, cần kiểm điểm
lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không
phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để
có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút:
"Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa
là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải
canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta
được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự
bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi
nơi, mọi lúc.
Xin Chúa
giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố
đức tin.
23. Hãy nhìn xem
Suy
Niệm
Thân
xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của
những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo
gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm
ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa
Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ
nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy
chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã
chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng
ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều
đó chẳng đẹp gì. Ngài
không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những cái sẹo sẽ
ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những
kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu
không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh. Chẳng cần
phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và
cái chết nhục nhã.
Chúng
ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương
tích. Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì
mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng
phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có
những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị
thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết
thương đó.
Hẳn
Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó
ông khám phá thật sâu một Tình Yêu. Tình yêu hy sinh mạng
sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi
xuống để chinh phục ông.
Ông đâu
dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn
những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập
niềm cảm mến tri ân. Ông
ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để
bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã
tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông. Tin
bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng
ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng
ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi phải tập nhìn
lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả
thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có
mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ
đau. "Phúc cho những ai không thấy mà tin", và
phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
- Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa, xin cho con luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ
khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những
người quanh con, những người - cũng như con - đang cần
một người bạn.
Nếu
như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và
sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu
bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và
cho đi.
Khi lâm
tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như
một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và
tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về
nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
24. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
NHƯ
CHA ĐÃ SAI THẦY
THẦY
CŨNG SAI ANH EM
Đức
Giêsu đã phục sinh. Nhưng
điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu
cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một
người như bao người khác: họ được nhưng đâu có
nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh
hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua
các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu
Phục Sinh hiện diện
Sau khi
Đức Giêsu phục sinh, với
sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận
biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của
Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao
giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm
nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào
Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở
thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người
thời đó.
Thánh
Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho
con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào
thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không
chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao
hơn cả Đức Giêsu. Chính
Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta
làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những
việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14,
12).
Ngày
xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ
Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các
tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm
nay.
Đức
Giêsu Phục Sinh là
Thiên Chúa
Đức
Giêsu khi còn tại thế,
Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp
nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội
(Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với
Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa
Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những
lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu
Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm
thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng
với Thiên Chúa.
Ngài đã
sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì
nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như
vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có
quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là
Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là
Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người
vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa
nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái
chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là
người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên
Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm
tất cả cho con người.
Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện
ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu nói với các
tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có
cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ
mạng của Đức Giêsu, của
Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết
và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều
này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một
người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người,
đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu
con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ
mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của
mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho
thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng.
Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy
sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên
mình như Đức Giêsu. Thập
giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình
yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa?
- Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?
- Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?
25. Đóng bè để giữ vững đức tin
Kính
Lòng Thương Xót Chúa
Có
ai dám cả gan bơi ngược lại dòng nước chảy mạnh
xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay chỉ
có những người liều lĩnh mới làm như vậy? Những trào
lưu tư tưởng phóng khoáng, những lối sống buông thả,
sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương tiện
truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những
dòng nước chảy mạnh. Bên cạnh dòng nước chảy mạnh,
còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ. Để
khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta
phải dùng một trong hai giải pháp. Một là dùng thuyền
nhỏ, đi mon men sát bờ, đôi khi cần bám vào những gốc
rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung
sức lèo lái: người thì dùng chèo hoặc gậy để chống
cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác dùng
sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng từng nấc
và cứ thế từng nấc một. Sống trong xã hội hiện nay,
người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình
ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay
tại phòng ngủ, người ta ít có cơ hội chọn giải pháp
đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để
giúp nhau giữ vững đức tin.
Người
ta cũng đóng bè với nhau vì hai lý do. Một
là cùng chung một đối tượng, một mục đích
như cùng xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi
hay phản đối điều gì. Hai
là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng...
chẳng hạn dự đám cưới để chung vui, dự đám tang để
chia buồn.. Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các
tông đồ tìm đến với nhau để đóng bè. Vì sợ người
Do Thái tầm nã như Phúc âm hôm nay kể lại mà các tông
đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa
và gài chốt bên trong. Trong cảnh tang thương bi đát trước
cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp nhau lại
cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Chúa
Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức
tin gần như bị tàn lụi của các ông.
Riêng
có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí
hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh
sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc
cho ông là chính Chúa Giêsu lại đích thân hiện ra để
phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy
Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).
Cộng
đồng Kitô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công
giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những
người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một
mục đích. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần
ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với
cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ
phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của họ sẽ
được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh,
họ có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu
đức tin. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, theo sách
Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người
nọ nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự
làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh Gioan thì cho rằng nhờ
đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga
5:4).
Đức
tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc
và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa từ trên,
mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả.
Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa
vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những người cùng
chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển
đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin
mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để hun đúc
lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được
thực hành. Nếu không thì như Thánh Giacôbê quả quyết:
Đức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26).
Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là
tự lừa dối mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức
tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc,
khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối
đạo mà họ tin theo.
Để áp
dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng
việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu
là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài
người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng
những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi
đầu... để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong.
Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo
treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về
sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Nhà thờ
giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm
của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến
nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu
ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà
thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích Hôn phối cũng ở
trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn
được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an
táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là
cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy
đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách
tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh,
bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu
khác. Không tìm đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự
cô lập hoá đức tin của mình.
Hôm nay
cũng là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Năm 1931,
Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu Faustina Kowalska cổ
võ lòng thương xót Chúa. Chúa bảo thánh nữ cho vẽ bức
ảnh mô tả lòng thương xót Chúa như thánh nữ đã thấy
trong thị kiến với lời ghi chú: Lậy Chúa Giêsu, con tín
thác nơi Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh 1937, Chúa yêu cầu
thánh nữ cổ võ làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ
Sáu Tuần thánh bằng cách dùng tràng hạt đọc chuỗi
thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin
thương xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt
mà đọc kinh Kính mừng, để mừng Lễ Kính Lòng Thương
Xót của Chúa.
26. Tôma và con mắt thứ ba – Lm. Trần Ngà
Cách xử
sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của
nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật
những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng
tay, những gì cân, đo, đong, đếm... được. Còn những
gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi
hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin
có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời
thật đơn giản: "Có thấy đâu mà tin!"
Thế
nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta
vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể
nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy
ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí
khôn tuyệt vời của nhà khoa học ( bởi vì tình yêu, ý
chí, trí tuệ... là những thực tại vô hình, không màu
sắc, không trọng lượng, không khối lượng )... nhưng
không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không
có.
Với
đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn
hẹp, như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".
Với
đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự
vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những
điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn
Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết:
"L'essentiel est invisible pour les yeux" ( Thực tại
thiết yếu thì mắt trần không thấy được ). Do đó,
nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt
thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt
nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn
thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý...
Con mắt
thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi.
Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi
trùng và những siêu vi cực nhỏ... Con mắt thứ ba của
các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các
nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt
đất đến mười tỉ năm ánh sáng... Con mắt thứ ba của
các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát...
Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như
các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới
chiến thắng.
Trong
Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là
'huệ nhãn', giúp người ta thấy được những thực tại
tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba
mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức
Tin. Nhờ "Con Mắt Đức Tin", nhân loại có thể
nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu
là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử,
biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả
ngục...
Tông đồ
Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế
giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì
được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay... mới là
điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo
anh: "Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra
với chúng tôi", Tôma cho là chuyện đùa.
Cho dù
Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã
tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện
về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào
lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới
tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài
nói: "Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin.
Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."
Như
thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng
dùng con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức Tin" để nhận
ra Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì
đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực
tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn
khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa
buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách
Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt
thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên
Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng
cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là
Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người
là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.
27. Suy niệm của Achille Degeest
PHÚC
THAY NHỮNG KẺ THÂN THIẾT TRỞ NÊN THÂN THIẾT HƠN
Bài
Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn
giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ nội dung
hơn.
1)
Ngày hôm đó, ngày đầu trong tuần,
là ngày Chúa sống lại, là Chúa nhật của chúng ta ngày
nay. Các môn đệ hội họp, có lẽ là do Phêrô (người
đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng
chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức
trách Do thái ra sao. Chúa đột nhiên ở giữa các ông, cho
các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong
trạng thái phục sinh, Người không trở lại trạng thái
trước đây nữa. Câu nói đầu tiên của Chúa là: “Bình
an cho anh em!”. Đó là câu chào người ta thường dùng,
nhưng ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu đó các môn đệ
bớt được phần nào băn khoăn, vì cung cách cư xử của
họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an
tâm. Đàng khác, câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là
một ân huệ. Chúa ban cho các ông bình an của Người, bao
gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm
vui. Chúa nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em … Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha…”
2)
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”.
Chúa Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về hai tính
chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một
sứ mạng giống sứ mạng của Người, cho các ông một
quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế
giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền
tha tội. Quyền là do Thiên Chúa, do Cha. Cũng như Chúa
Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng cứu chuộc nhân
loại, các môn đệ được Chúa Giêsu đặt làm sứ giả,
làm tông đồ của ơn cứu độ. Cũng như quyền hành sứ
mạng của Chúa Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của
các môn đệ là do Chúa Giêsu. Đối với Phúc âm, tự ý
trao cho bất cứ ai đã chịu phép thánh tẩy sứ mạng rao
giảng Phúc âm cứu độ – là một sự lầm lẫn rất
nặng nề. Các môn đệ là những người được Chúa
Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao quyền. Sự rao giảng
chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa.
Điều này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải
làm việc tông đồ theo phương pháp rất hiệu quả, rất
hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực
tiễn. Nhưng không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ
mạng đặc biệt được quyền rao giảng.
3)
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”.
Truyền thống Kitô giáo
luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích
Giải tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Chúa
Giêsu Kitô, phát hiện bản thân mình tội lỗi, nghĩa là
thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết
rằng niềm tin của mình trong Chúa Giêsu Kitô làm cho mình
hiệp thông với một vận dụng cứu độ, tha tội và tái
sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập
ra một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa
muốn cho kẻ có tội dễ dàng gặp ơn cứu độ. Ở đây
cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban
phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa
kế các ông sau này), Chúa phán: “Anh em tha tội (dẫu cho
người ta giải thích lời Chúa Giêsu theo một nghĩa rộng
hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội
đều có quyền giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với
quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định rõ thể thức
về bí tích Giải tội, nhưng phải xác nhận bí tích này
xuất phát từ chính lời Chúa Giêsu. Phúc thay những bạn
hữu của Chúa Giêsu trở nên thân thiết với Chúa hơn vì
đã được tha thứ và tái sinh.
Đăng nhận xét