Lời
Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
MỤC
LỤC
1.
Chúa Thánh Thần.
2.
Ngọn gió
3.
Nói được các thứ tiếng
4.
Đấng đổi mới - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5.
Đấng ban sự sống - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6.
Người thổi hơi vào các ông
7.
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – R. Veritas
8.
Bình an cho các con – R. Veritas
9.
Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
10.
Chân lý đòi hỏi rất nhiều - Achille Degeest
11.
Thần Khí đổi mới
12.
Vai trò của Thần Khí - McCarthy
13.
Tác động của Chúa Thánh Thần
14.
Lãng quên
15.
Đổi mới
16.
Thánh Thần tình yêu – Lm Phạm Thanh Liêm
17.
Suy niệm của JKN
18.
Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
19.
Chú giải của Noel Quesson
20.
Chú giải của Fiches Dominicales
1. Chúa Thánh Thần.
Có
một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên
Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta
sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian.
Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng
dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim
ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay
không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi
vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do
ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực
vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa,
nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm
thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối
cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ
mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức
tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và
phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ
Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông
đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước
hết Chúa Thánh Thần
đổi mới các tông đồ.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu
phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán:
Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này,
Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa
được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét
thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở
thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ,
Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban
Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con
người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo
Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ
Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các
tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của
lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các
ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát
thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa.
Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được
can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức
tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh
Đức Kitô.
Tiếp
đến Chúa Thánh Thần
đổi mới Giáo Hội.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không
ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu
thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô,
Ignatio, Têrêsa... nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được
những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần
đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ
Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp
nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm
do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội
về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng
mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến
động và tiến bộ hơn.
Sau cùng
Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta.
Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục
tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém
phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc
thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu
khí thinh lặng nội tâm,
tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường
như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước
còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ
hai là phải chăm chỉ
lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức
bẻ bánh, như hai môn
đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng
tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện
cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa
Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc
đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.
2. Ngọn gió
Bấy
giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có
tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các
đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra,
đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được
tràn đầy Thánh Linh.
Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng
nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn
gió.
Hậu
quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét
sạch bụi bặm và rác rưởi.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông
Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe
tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến
và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng
thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác.
Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những
luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực
sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao
cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông
đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài,
những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của
bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một
ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật
đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và
dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô
nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một
con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và
những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu
đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào
chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức
tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được
sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo
hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai
tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động
trong các ông, thôi
thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh
phục thế giới về cho Đức Kitô.
Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm
thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số
phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ
có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong
cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào,
không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng
nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần
sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong
thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện
nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một
ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi
bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy
còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh,
đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải
đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới
học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống
và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng.
Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên
Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa
Thánh Thần vẫn hoạt động.
Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh
Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết
bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng
thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần
chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường
và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh
Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ
không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ
nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ:
Đừng làm buồn lòng
Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài.
Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế
nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm
buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những
hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của
Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta
chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe
những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ,
còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho
Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc
nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của
người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con
đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua
bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời
của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một
khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót.
Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự
trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn
chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn
gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất
kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu:
trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh
nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần
sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi
biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh
Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi
an.
3. Nói được các thứ tiếng
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Lễ Ngũ
Tuần là một lễ lớn của người Do Thái. Nhiều người
Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.
Còn
Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria,
thì cầu nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.
Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện mà
Thánh Thần, Đấng Cha hứa ban, đến với họ.
Thánh
Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn nhưng ta
vẫn nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác: một
tiếng từ trời như tiếng gió thổi dữ dội, những lưỡi
lửa tản ra và đậu xuống từng người.
Bổng
chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.
Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng. Có
ngọn gió ùa đầy nhà làm căng buồng phổi. Có ngọn lửa
ấm lan tỏa trong trái tim.
Có cái
gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.
Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ, về
những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.
Trước
mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học, người từ
khắp nơi trên thế giới đổ về.
Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài,
nên họ đã kinh ngạc, sửng sốt, thán phục, khi họ nghe
các ông nói được tiếng của vùng đất họ sống. Ơn
nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần, nhằm
giúp cho việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc. Tin Mừng
bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.
Rồi
Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi
người, thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá
khác biệt. Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau,
gần nhau, và giúp Hội Thánh trở thành Hội Thánh của
mọi dân tộc.
Thánh
Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.
Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng mà vẫn
không hiểu nhau.
Lễ
Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.
Đức
Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2.000 năm. Làm sao để
người Châu Á hiểu được Tin Mừng: đó là vấn đề mà
tất cả chúng ta hết sức quan tâm.
Hiểu
được là bước đầu để đón nhận và tin theo.
"Chúng
ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo
những kỳ công của Thiên Chúa" (c.11). Làm sao chúng
ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu để trình
bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa? Phong tục,
văn hoá, tín ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ
cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân trọng tìm
hiểu. Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt
Nam hôm nay, để nói cho người Việt hiểu và hiểu được
điều họ nói.
Xin cho
Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm học lại ngôn ngữ
của những người mà Chúa sai ta đến.
Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ. Chúng ta còn
cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là
ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?
- Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một
thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì
tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy
con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý và biết
ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy
con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết vì
những điều mình ghét.
Xin cho
con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút
sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu
thương.
Xin cho
con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây
phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối
cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống
là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa
Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
4. Đấng đổi mới - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐỨC
CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv
2,1-11)
Qua bài
trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh
Thần là Đấng đổi mới.
Ngài
đã đổi mới trí khôn các Tông đồ.
Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít
học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã
được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không
hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí
khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài
hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà
còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa
Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người
thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí
u mê thành sáng suốt.
Ngài
đã đổi mới ý chí các Tông đồ.
Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ
sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã
chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa.
Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các
ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao
giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn
không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường.
Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng
cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã
chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho
Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến
những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã
biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài
đã đổi mới trái tim các Tông đồ.
Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần
tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao.
Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ
cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa
vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến
Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn
Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay
đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu
mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn
sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã
biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim
bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành
trái tim yêu thương.
Đời
sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không
hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta
bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không
dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích
kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy
tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người
xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu
thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm
làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta
được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng
con. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
- Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
- Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
5. Đấng ban sự sống - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐỨC
CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga
20,19-21)
Hơi thở
tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết
thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa
Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức
Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự
sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi
tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức
Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống.
Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo
thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng,
chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang.
Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1).
Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ
được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một
diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho
muôn loài.
Đức
Chúa Thánh Thần ban sự sống lại.
Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến
như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng
Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng
đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa
chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng
và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu
các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa:
“Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết
điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy
tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các
xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là
Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập
vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi
hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần
Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho
chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những
người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng
lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa
Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm
cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức
Chúa Thánh Thần ban sự sống mới.
Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ
Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng
từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh
ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ
thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa
tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều
được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các
thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho”
(Cv 2,1-4).
Từ khi
nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên
khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các
ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là
những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các
ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc
đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài
còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ
thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng
hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh
Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận
được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì
Chúa và sống cho Chúa.
Ngày
chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của
Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự
sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi
nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham
vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào
linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh
hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm
nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những
thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin
Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy
bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh
thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống
nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn
thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong
ngoài chúng con. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
6. Người thổi hơi vào các ông
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
- Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
- Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức
Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: "Gió muốn thổi
đâu thì thổi... Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ
đi đâu" (Ga 3,8).
Chúng
ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần,
nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được
đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin
Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của
Chúa Phục Sinh.
Hơi
thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên
Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu
Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận
một sự sống mới hoàn toàn.
Đời
sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã
được đầy tràn Thánh Thần.
Khi lãnh
nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự
xuống và lưu lại. Cũng
chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện,
ăn chay và định hướng cuộc đời.
Tại
Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền
năng của Thánh Thần (Lc 4,14).Ngài đã nhờ Thánh Thần mà
đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân hoan trong Thánh
Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả
thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần,
Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga
3,34).
Đôi
khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự
Ngài là người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần
như hơi thở.
Tôi gọi
Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
- Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.
- Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho
tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi
sợ hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho
tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái
tim bừng cháy.
Xin cho
tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng
nàn.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
- Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho
cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn
điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin
canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi
chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá
ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa
thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy
Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm
nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến
tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự
sống khắp nơi.
Ước
gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để
con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong
yêu thương.
7. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – R. Veritas
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Các bài
đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống xoay quanh hai
chủ đề chính tường thuật biến cố lịch sử Chúa
Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như lời Chúa
Giêsu đã hứa, biến đổi con người yếu đuối của các
ngài thành những kẻ hiểu biết và phân biệt mầu nhiệm
Thiên Chúa. Và ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi
liền biến cố lịch sử của biến cố Chúa Thánh Thần
hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống
Kitô của mỗi tín hữu trong nhiệm thể duy nhất của
Chúa. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ
Ngũ tuần của người Do Thái năm mươi ngày sau lễ vượt
qua. Người Do Thái mừng lễ Giao Ước, nhắc nhở Giao Ước
của Thiên Chúa đã ký kết với dân của Thiên Chúa đã
chọn. Và mỗi thành phần của dân Chúa chọn cam kết
sống trung thành với Giao Ước này, Chúa Giêsu đến để
thiết lập Giao Ước mới bằng chính máu của Ngài trên
cây thập giá, và qua việc chọn ngày lễ Ngũ tuần để
thực hiện biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên
các tông đồ. Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng từ
nay, đây là ngày lễ của Giao Ước mới, từ Giao Ước
mới này, Giáo Hội được khai sinh, và từ Giao Ước mới
này, mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới,
một cuộc sống làm chứng cho Chúa Kitô.
Mừng
lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mỗi người chúng ta được
mời gọi nhớ lại
và dấn thân thực hành Giao Ước mới
đã được Chúa Giêsu Kitô thực hiện cho mỗi người
chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng
dẫn Giáo Hội và qua các thời đại, vẫn phát triển,
vẫn trung thành, mặc dù, đôi khi có những sa ngã, những
sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa
Giao Ước mới. Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện
xuống trên các tông đồ không những chỉ có chiều kích
thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn có chiều
kích Giáo Hội nữa,
liên kết mọi kẻ tin Chúa và lãnh nhận Thánh Thần trong
cùng một cộng đoàn, một thân thể sống liên đới với
nhau, như bài đọc thứ hai nhắc lại cho chúng ta. Nhưng
đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có một
lãnh đạo chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận
từ Chúa, như được nhấn mạnh nơi bài Phúc Âm, Chúa
Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi trao
quyền cho họ: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần.
Các con tha tội cho ai thì người đó được tha. Các con
cầm buộc ai thì người đó bị cầm buộc”. Các tông
đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần vừa đồng thời chia sẻ
quyền thần linh tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa
nhiều năm trước đã nhìn thấy Chúa thực hiện những
phép lạ, để chứng minh quyền tha tội của các ngài,
nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ hơn ai
hết. Những lời này có nghĩa gì. Các ngài được biến
đổi để trở thành người tiếp tục sứ mạng của
Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì
Thầy đã truyền cho các con, dạy họ tuân giữ những gì
Thầy đã truyền và rửa tội cho họ”.
Mỗi
thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh
Thần nhưng trong những cấp bậc khác nhau, qua bí tích rửa
tội và thêm sức qua bí tích chức thánh, trở thành tác
viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta đều đã được
canh tân, được biến đổi để chu toàn những tác vụ
khác nhau, nhưng cùng một Thánh Thần.
Ước
cho ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mời gọi mỗi
người chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của
mình, trở về với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần,
canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự
hiệp nhất và hiệp thông của cùng một nhiệm thể Chúa
Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn
cuộc đời chúng ta thực hiện thánh ý Chúa.
8. Bình an cho các con – R. Veritas
(Trích
trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Hôm nay
chúng ta tưởng niệm và sống lại biến cố đã xảy ra
cách đây hơn 2.000 năm. Nhân ngày lễ Ngũ Tuần của người
Do Thái, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông
đồ, từ những con người nhát đảm, dốt nát, quê mùa,
Thánh Thần đã biến đổi các ngài trở thành những con
người can đảm và hiểu biết để loan báo Tin Mừng của
Chúa cho mọi người và Thánh Thần đó đã thành linh hồn
của Giáo Hội.
Anh chị
em thân mến!
Lịch
sử của nhân loại hẳn phải là lịch sử của tìm kiếm
và xây dựng sự thống nhất. Khát vọng thống nhất thể
hiện qua sự phát sinh và bành trướng của không biết
bao nhiêu đế quốc.
Thời
xa xưa, chỉ có đế quốc Trung Hoa, đế quốc Babylon, đế
quốc La Mã, đế quốc Pháp... Nhưng hợp rồi tan. Có
thịnh vượng đến đâu, bành trướng đến đâu thì
những đế quốc đó cũng đi đến sự sụp đổ vì họ
đã cố gắng xây dựng sự thống nhất không phù hợp
với lòng người. Bao
lâu con người còn chối bỏ lẫn nhau, bao lâu con người
còn khước từ Thiên Chúa thì bấy lâu những cố gắng
thực hiện sự thống nhất ấy chỉ mang lại những thảm
họa mà thôi.
Ngay từ
những trang đầu tiên Kinh Thánh đã nói đến những thảm
họa ấy qua câu chuyện xây tháp Babel sau nạn hồng thủy,
con cái loài người muốn đoàn kết với nhau để chống
lại Thiên Chúa bằng cách xây một ngọn tháp cao tận
trời mây, thế nhưng công trình phải bỏ dở bởi vì con
người không còn nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ
chung nữa. Thống nhất, đoàn kết để khước từ Thiên
Chúa ra khỏi cuộc sống thì con người cũng tự chia rẽ
nhau, đó là chân lý mà Kinh Thánh muốn phơi bày qua câu
chuyện xây tháp Babel.
Anh chị
em thân mến!
Qua dòng
lịch sử của nhân loại, đã có không biết bao nhiêu
tháp Babel được dựng lên để rồi cũng tự ngã đổ.
Nhân loại không thể tự mình đạt được sự thống
nhất nếu sự thống nhất đó chỉ xây dựng để khước
từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau. Chỉ có Thiên Chúa
mới mang lại sự thống nhất đích thực cho con người.
Sự
thống nhất đích thực
ấy đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần của người
Do Thái, khi Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ của
Chúa Kitô, Một trong những dấu chỉ của sự thống nhất
ấy là sự kiện con người có thể hiểu nhau vượt lên
trên những cá biệt của mình. Các môn đệ của Chúa
Giêsu có lẽ đã không nói các tiếng lạ. Đúng hơn,
những người ngoại quốc tại Giêrusalem trong ngày hôm đó
hiểu được các ngài ngay trong những tiếng nói bản xứ
của họ.
Quả
thực, Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất
mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới
trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với
nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó
mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau
trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho
con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô,
Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh
Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở
thành con người.
Thánh
Gioan tông đồ đã tóm gọn tất cả chân lý ấy trong một
câu rất ngắn gọn: "Lời đã hóa thành nhục thể".
Lời của Thiên Chúa đã ngỏ cho con người và như thế
không còn là một âm thanh xa lạ nhưng đã trở thành
xương, thành thịt trong con người và đã hy sinh cho nhân
loại bằng một cái chết đau thương nhục nhã nhất. Lời
của Thiên Chúa ngỏ với con người do đó cũng là Tình
Yêu. Từ nay chỉ có
một thứ ngôn ngữ duy nhất để cho con người xích lại
gần nhau, nói chung với nhau, cảm thông với nhau. Ngôn ngữ
ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, là tình yêu của Thiên Chúa
hóa thân làm người. Đó là ngôn ngữ mà Thánh Thần đã
thông ban cho các môn đệ và đám đông dân chúng tại
Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm. Nhờ
Thánh Thần, Lời ấy lại tiếp tục trở thành ngôn ngữ
tình yêu để nhờ đó con người có thể xích lại gần
nhau, đối thoại với nhau, cảm thông với nhau.
Anh chị
em thân mến!
Ngôn
ngữ của tình yêu ấy qua Phép Rửa, Chúa Thánh Thần cũng
thông ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Sự thể đã
diễn ra trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm, cũng
đang tái diễn trong từng giây phút trên khắp thế giới.
Thật thế, cái khát vọng cao cả nhất trong lòng người,
đó là khát vọng hòa bình, ai ai cũng muốn được xích
lại gần nhau, nói chuyện cảm thông với nhau và khát
vọng ấy chỉ có thể được thỏa mãn khi con người
biết nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ duy nhất, đó
là ngôn ngữ của Tình Yêu mà thôi.
Bởi
phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành
nhục thể. Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho
Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời
của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi
họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của
cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp
nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động.
9. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
(Trích
trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Tạ Duy Tuyền)
Nhìn
lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng
gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người
ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế
gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê
lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo
hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử
hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo
hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những
khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền
điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay
chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi
cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi
theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã
đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại
sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức,
nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng
hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay
cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo
hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại
dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc
và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên
Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu
giữa lòng Giáo hội. Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng thế
gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận
thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa
hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ
chở che Giáo hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời.
Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh
Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa
Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo
Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi
sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính
Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những
đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải
thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã
từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với
ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên
Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội
của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương
trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến
thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân
trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó
lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop...
Và còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp
vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương
trình của Thiên Chúa.
Hôm nay
lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi
người chúng ta hãy tin
vào quyền năng Chúa Thánh Thần.
Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng
Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội
không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền
và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giáo hội biến
chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế
gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc
về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa
Giêsu Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với
Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ
đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần
là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng
dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện
của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói
với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con
người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào
tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được
lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên
Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực
vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém
về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể
mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ
rằng Phêrô vụng về năm nào lại có thể mang về cho
Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu
ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ
tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế
gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát
triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những
nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói:
"Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín
hữu"? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng
sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm
trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ
Têrêsa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng
ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến
các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần
có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để
họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần
cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành
Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước
Chúa.
Vì thế,
là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn
Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy
tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những
lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm
khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì
đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con
mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta
vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn
giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao
hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của
Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con người
mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để
dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo
hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội
vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để
nguyền rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm
tay nhau đi chung một con đường có tên Giêsu. Con đường
của Giêsu là con đường âm thầm, mục nát để đem lại
sự sống cho đời. Con đường của Giêsu đến để phục
vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa
muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa
đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế
gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi
kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa
thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị
của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương
trong lòng Giáo hội.
Ngày
28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên
ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão
không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người
nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần
đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một
kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để
canh tân Giáo Hội.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho
dân Người. Chúng ta hãy
hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với
lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh
Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá
chúng con trong chân lý và tình thương". Amen.
10. Chân lý đòi hỏi rất nhiều - Achille Degeest
Chúa
phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng
ta lưu ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất
là cung cách thánh Gioan nói đến Chúa Ngôi Ba.
1)
Người là Thần Khí sự thật.
Ta sẽ
xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa
khác để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần
Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh nhận vì không
thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người
vì Người lưu lại với các ngươi và ở trong các ngươi
(Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi Cha, Ta sẽ sai đến
với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính
Người sẽ làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức
Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật. Tác động Chúa
Thánh Thần là dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với
Đức Kitô. Ngôi Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách
thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng đối với Đức Kitô,
với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người.
Bất cứ học thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ
ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá tâm hồn
đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn.
Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Kitô trong chúng ta.
Chúng ta phải làm chứng về Đức Kitô trong môi trường
sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời
Thần Khí sự thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát
xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng duy nhất của
chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: Tôi
chỉ muốn nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng
ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta bảo tồn ý
nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời
buổi có nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc
sử dụng Phúc Âm.
2)
Người là Thần Khí thánh thiện.
Sự
thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm
được những điều phi thường, mà phải khởi sự từ
đức tin. Trong đức tin, người Kitô hữu cố gắng cách
ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa.
Muốn được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn
bó với sự thật – không chỉ có đức tính tri thức là
thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có,
mà phải đón nhận cách mật thiết tác động của Chúa
Thánh Thần. Như chúng ta biết, bất cứ sự thật nào
cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi
hỏi rất nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy
khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự thật thì nghe sự
thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự
thật đòi hỏi rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe
Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió thổi càng
mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên
quang sáng. Ở đây là một sự vâng lời thực tiễn, là
thái độ không một giây phút chậm trễ sống những điều
trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh
danh là cư xử theo chân lý, là “đi trong sự thật”.
Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi
vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự
thật (thư thứ 2,4). Được như vậy, trong con người Kitô
hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện: Xin Cha
hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).
11. Thần Khí đổi mới
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại
một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý,
có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào
dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng,
cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu
tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu
xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được
tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện
một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng
của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy
là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển
hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
Thưa
anh chị em,
Với
mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng
thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ
hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong,
lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức
nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác
động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn
của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể
trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên
Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.
Bài
sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những
sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi
các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên
trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có
những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn
đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến
bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm
ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn
môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến
dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa!
Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo:
“Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên
tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở
lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao
giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được
tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo
Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo
Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội
cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu
có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa
đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại
diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ
Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt
mới, một luồng gió mới.
Mỗi lễ
Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội,
Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã
giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh
Thần là linh hồn của Giáo Hội.
Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa một
niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống
lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo.
Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho
mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư,
thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi
chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy
động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được
bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi,
cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một
Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong
triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa
Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà
Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để
Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn
minh. Ngày nay, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên
niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng
Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt
tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội
và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần
nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng
đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh
những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn
khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình,
đến những cộng đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các
tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh
và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều
người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm
nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái,
e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng
Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã
hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi
Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy
Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi
Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai
thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa
thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7).
Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn
hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi
tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy
được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị
cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức
mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng
ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho
đến tận cùng trái đất.
Anh chị
em thân mến,
Ngày lễ
Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng
tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong
để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên
ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình
đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi
mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn
của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình
yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta
luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra
bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình
và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu
cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng
trong tình yêu thương xây dựng.
12. Vai trò của Thần Khí - McCarthy
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy
Niệm 1. ƠN
CỦA THẦN KHÍ
Chúng
ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và
phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người
ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ
rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu.
Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho
anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ
sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với anh em”.
Các
Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu
ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ
chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.
Bạn
hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống.
Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo
nó.
Đồng
thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng
mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường
như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.
Rồi
bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt
trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng
trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất
khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn.
Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất
trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc
nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này
không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với
bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và
quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể
thấy sự đóng góp của mặt trăng.
Yêu
thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người
mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do
phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được
yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên
tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người
khác.
Tuy
nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng
ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết
nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng
một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những
người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ.
Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả
là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.
Điều
này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc
điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra
đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí
sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện
thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng
thành nổi.
“Tôi
không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng
người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp
nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).
Không
bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con
người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ.
Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người
chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người
biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do
Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều
mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự
việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh
thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết
đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc
mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày
Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi
mạnh vào sau lưng.
Chúng
ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp
đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có
trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy
và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có
thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy
Niệm 2. PHÉP
LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước
khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống
trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao
phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không
có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc.
Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những
người đã thay đổi.
Vậy
Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay
đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết
một tí gì về điều đó.
Chúng
ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người
bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và
đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả
bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean
Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp
đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã
thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho
những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu
năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra
cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân
thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên,
nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế.
Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống
còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng
khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế
ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào
những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã
nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều
này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các
Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương,
người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ
như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị
tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ
là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ
trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng
ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện
trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc
và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể
chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ
những tập quán và thái độ cũ.
Con
người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy
vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm
vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được
yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những
năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên
trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép
lạ chân thật.
Mọi
người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng
ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể
nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói,
có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng
để có thể yêu thương.
Nhưng
mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm
không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn
đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở
bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và
giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối
với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó
chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các
Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng
có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí
ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi
chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ
Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa
xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí
đang thực hiện.
13. Tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa
Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta
cùng nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn
ngủi này.
Đọc
lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã
bước theo Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời
khôn ngoan Chúa dạy, mặc dù đã được nhìn thấy những
việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng
lĩnh hội được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể
rễ sâu trong cõi lòng các ông.
Sở dĩ
như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang
nặng tinh thần thế gian.
Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái
khác, các ông đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu
thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.
Đấng
ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã
rợp trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến
cho muôn dân nước phải nể phục. Đấng ấy sẽ đến
để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La
Mã, dẫn đưa dân tộc họ bước vào một thời đại
hoàng kim. Và lúc bấy giờ
các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan
trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc
sống nhiều đặc ân và bổng lộc, giàu sang và quyền
thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.
Chính
vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao
trọng nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp
nhận được những khổ đau và cái chết tủi nhục trên
thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.
Thế
nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã
đổi đời, đã thoát
xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông
suốt về giáo lý của Chúa Giêsu,
nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày
lễ Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên
tiếng rao giảng về chính những điều trước đây ông
đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.
Ngoài
ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?
Nhìn
vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ
là những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn
nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi lại như sau: Khi thấy
sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống
cuồng, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:
- Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.
Sự sợ
hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa
trong cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi
đồng bạc, giá bán một tên nô lệ, và chỉ bằng một
phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã
dùng để xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa
ba lần trong sân nhà thầy cả thượng phẩm chỉ vì một
câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa
mà chạy trốn, ngoại trừ Gioan là đã theo Chúa đến
cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá. Ngay cả
sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau
trong phòng, mà cửa thì đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế
nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã
hoàn toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt,
các ông đã trở nên
những con người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.
Hơn thế
nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng
như đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để làm chứng
cho tình yêu của Đức Kitô.
Thực
vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười
một ông hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một
mình Gioan là đã chết già tại cộng đoàn Êphêsô mà
thôi.
Còn
chúng ta thì sao?
Rất có
thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và
dốt nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý
của Chúa.
Rất có
thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và
sợ sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài
bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do
gì.
Chính
vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống
trong tâm hồn, để biến
đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu
và sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa
nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau.
14. Lãng quên
Sách
thánh kể rằng: khi thánh Phaolô đặt chân tới kinh thành
Nhã Điển, thủ đô nước Hy Lạp, ngài đã rảo qua một
vòng phố xá, ngài nhận thấy dân Nhã Điển thật sùng
mộ các thần minh. Đường phố nào cũng có những bàn
thờ, những chùa miếu. Nhưng ngài để ý thấy một bàn
thờ, trên đó khắc ghi hàng chữ “Kính thần vô danh”.
Và ngài bắt đầu bài giảng về Đức Kitô như thế này:
“Vị thần vô danh mà quí vị thờ kính nhưng lại không
biết đến, thì giờ đây tôi xin loan báo để quí vị
được rõ: vị thần vô danh ấy chính là Đức Kitô”.
Điều thánh Phaolô nói về Đức Kitô với người Nhã
Điển, thì bây giờ chúng ta cũng có thể nói như vậy về
Chúa Thánh Thần.
Phải,
là người Kitô hữu, chúng ta biết rất nhiều về Chúa
Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng
ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng
như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có
thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu
Ephêsô thuở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ:
“Các ngươi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần chưa?”. Và
họ đã trả lời: “Chúng tôi chưa hề hay biết có một
Chúa Thánh Thần”. Phải, Chúa Thánh Thần chính là vị
Thiên Chúa vô danh, vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều
nhất trong cuộc sống. Vậy Ngài là ai? Ngài có phải là
vị Thiên Chúa chúng ta tôn thờ hay không?
Sách
giáo lý đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi
Thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng
một bản tính, một quyền năng như hai Ngôi cực trọng
ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có ba ngôi và
ngôi thứ ba lại là Chúa Thánh Thần? Sở dĩ chúng ta biết
được là vì Chúa Giêsu đã tỏ lộ, đã dạy bảo.
Thực
vậy, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, thì
Tin Mừng đã ghi nhận: bấy giờ trời mở ra, Chúa Thánh
Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời
có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi
đàng”.
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền cho các môn đệ:
“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ,
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Nếu không có Chúa
Thánh Thần thì ba ngôi Thiên Chúa sẽ không hoàn toàn và
niềm tin của chúng ta sẽ bị thiếu sót. Thực vậy, Chúa
Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ, nhưng Chúa
Thánh Thần mới là Đấng áp dụng công phúc cứu độ ấy
cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần
cho các môn đệ: “Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ
ban cho các con một Đấng phù trợ mới. Ngài là chính
chân lý sẽ luôn ở với các con. Các con hãy ở trong
thành cho đến khi được mặc lấy sức mạnh từ trời
cao”. Tất cả những điều này đã được thực hiện
trong ngày hôm nay, ngày lễ Hiện xuống, ngày các môn đệ
được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Các tín
hữu sơ khai cũng đã xác tín Chúa Thánh Thần là Thiên
Chúa. Thực vậy, thánh Phaolô đã nhắn nhủ: “Tất cả
những ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn sẽ là
con Thiên Chúa. Ngài đã ban Thánh Thần xuống trong tâm hồn
chúng ta.
Thánh
Luca trong sách Công vụ Tông đồ kể lại câu chuyện hai
vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, đã đồng tình xén
bớt một phần tiền rồi mới đem nộp cho thánh Phêrô.
Và thánh Phêrô đã nói với họ: “Hỡi Anania sao ma quỉ
đã cám dỗ lòng ngươi dối trá Chúa Thánh Thần mà giữ
lại một phần tiền. Làm như thế, ngươi không chỉ lừa
gạt người ta mà còn lừa gạt cả Thiên Chúa nữa”.
Còn thánh Gioan thì xác quyết: “Trên trời có Ba Đấng
làm chứng, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Bấy nhiêu mà thôi cũng đã đủ để chúng ta xác tín và
tuyên xưng: “Chúa Thánh Thần chính là Thiên Chúa Ngôi
thứ Ba, Đấng chúng ta phải tôn thờ.
Trong
mạch sống Giáo Hội, tác động của Chúa Thánh Thần
thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi
người chúng ta. Không những cần cho các thừa tác viên
của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi
người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của
Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố
bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athênagôrat,
Giáo chủ Contantinốp đã nói: “Nếu
cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ
nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá
khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội
khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành
thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền
láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân
lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Chúa
Thánh Thần vô cùng quan trọng như vậy, thế mà chúng ta
thật vô tâm, vô ý thức đến thờ ơ cũng như không biết
có Chúa Thánh Thần ở trong lòng mình ngày đêm. Thử hỏi
nếu ai có 10 lượng vàng trong túi, có lẽ nào họ thờ ơ
đến nỗi để mất số vàng đó khi nào mà họ không hay
biết không? Trái lại, phải chăng bất kỳ đi đâu hay
làm gì họ cũng sờ tay vô túi coi vàng còn hay không? Và
nếu mất rồi, tâm hồn họ bãi hoải, tâm trí rối loạn,
buồn phiền, chán nản biết bao! Vậy sự hiện diện của
Chúa Thánh Thần trong tâm hồn không có giá trị bằng 10
lượng vàng sao? Thế mà ngày này qua ngày khác chúng ta
hầu như chẳng để ý đến một lần. Ý thức sự vô
tâm và thiếu sót đó, cũng như hiểu biết được sự
quan trọng và cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời
sống, từ nay chúng ta hãy năng nhớ đến Chúa Thánh Thần
hơn, bằng cách cầu xin Ngài hằng ngày, xin Ngài soi sáng,
hướng dẫn và trợ giúp để chúng ta luôn sống tốt đẹp
và làm mọi việc đúng thánh ý Chúa.
Lạy
Chúa, giờ đây một lần nữa con muốn tuyên xưng tự đáy
lòng con: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa
và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và
Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và
tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã
dùng các tiên tri mà phán dạy.
15. Đổi mới
Cách
đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh
và Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay
chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống và cũng là
lễ kết thúc mùa Phục sinh.
Chính
hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu
Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng
ta. Việc Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu
chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu
Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã
được hứa ban, Người tới, Người hiện diện đó và
Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới,
tạo dựng một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay,
chúng ta cùng khám phá lại hoạt động của Chúa Thánh
Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động
của Ngài nơi mỗi người chúng ta để rồi chúng ta biết
sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Thời
Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ
đến và ban cho con người một tâm hồn mới, một trái
tim mới.
Thật
vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời
hứa đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến
trong lòng các tín hữu để soi sáng họ, nhắc nhở họ
những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách
tha thứ các tội lỗi.
Bài
trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ
Ngũ tuần đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì
Thánh Thần đến như một cơn gió, bất ngờ và không thể
cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang
tụ họp nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới
hình lưỡi lửa.
Thánh
Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục
nơi các tông đồ:
từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã
được biến đổi thành những người can đảm, xác tín
và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên
Chúa.
Bài Tin
Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức
Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói:
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hình ảnh “thổi
hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo
dựng đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy
Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Vì
Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.
Sự
sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ
cũng là sự sống bởi
Thánh Thần. Nhưng đây
là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh Thần của Đấng
đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó
chính là sự sống đời đời. Chính Thánh Thần của Đức
Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo dựng mới,
tạo dựng một nhân loại mới.
Sau khi
đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi
và sự chết, nhân loại mới này đã đón nhận được
sự sống mới, sự sống đời đời.
Sự
sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho
các Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.
Chúa
Thánh Thần là hơi thở
của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy Chúa Giêsu Phục
sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính
đời sống của Người, đời sống làm con cái Thiên
Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu nhận lãnh Chúa
Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.
Chúa
Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm
cho trở nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của
Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới vai trò của Chúa
Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho
ai, tội người ấy được tha”. Ơn tha tội phát xuất
từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội
thông ban qua Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai
bí tích ấy mà mỗi người được giao hòa với Thiên
Chúa được trở thành một tạo vật mới để sống một
đời sống mới.
Chúng
ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần
nơi các Kitô hữu là sự
hiệp nhất. Ngày xưa,
tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người làm cho mỗi
người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết
lập lại sự hiệp nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu
lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần đem lại
bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy,
hiệu quả đầu tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm
cho mọi người tuy khác biệt về màu da chủng tộc, ngôn
ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một
cộng đoàn.
Lễ
Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là
một kỷ niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi
mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh
Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh
Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài
cũng thực hiện nơi chúng ta.
Hôm nay
khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban
Thánh Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là
chúng ta cũng đã được lãnh
nhận ơn Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm
sức. Nhờ ơn Thánh
Thần, chúng ta chẳng những có sự sống tự nhiên, mà
nhất là sự sống siêu
nhiên tức là địa vị
làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ
ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng
ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình thường của
con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần,
là khôn ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên
Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố tâm hồn chúng ta.
Rồi
trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp
lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa
Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu,
nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những
điều trực tiếp phản nghịch với Chúa Thánh Thần. Trái
lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân
thành và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở
với ta. Người sẽ soi sáng chúng ta, dẫn dắt chúng ta
dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, là
vương quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái
của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an. Nói
cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh
Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính,
bình an và hoan lạc trong mỗi tâm hồn tín hữu cũng như
trong các tương quan với nhau.
Một
trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự
hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh
thần bác ái và phục vụ cộng đoàn.
Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như
là thân mình của Đức Kitô trong đó các chi thể yêu mến
nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể
hiện ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần
phục vụ, thì chúng ta có thể tin chắc là chúng ta đang
để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu
hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
16. Thánh Thần tình yêu – Lm Phạm Thanh Liêm
Mùa
Phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ
Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ
Mình Máu Thánh Chúa Yêsu.
Các
con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi
chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu Phục Sinh đã
hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và
bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội
cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca
tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người
chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa
rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và
chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí
tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ
hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của
Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh
Thần để tha tội…”
Chúa
Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người
được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con
người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh
Thần - Đấng trợ phù
“Không
ai có thể nói ‘Đức Yêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi
Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức
Yêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể
tin vào Đức Yêsu được.
Có
nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một
Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban
cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh
đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất
cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần
liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần
nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể
trong Đức Yêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh
Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau,
thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh
Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp
lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh
Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh
Thần là Thiên Chúa
Nhờ
Đức Yêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì
Đức Yêsu đã nói với các ngài khi Đức Yêsu còn sống
đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh
Thần” đã nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa, và sau đó
Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh
Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi
Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ
sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga.15, 26), được
Cha và Đức Yêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là
Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó
sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại
mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ
mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ
khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con
người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Yêsu
(Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn
(Ga.16, 13).
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
- Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
- Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
17. Suy niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
- Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng, chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế giới?
- Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên, hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Ki-tô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?
Suy
tư gợi ý:
1.
Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ
So sánh
tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài
đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ
lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một
tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người
Do Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và
phải đóng kín cửa. Thế mà ngay sau khi Thánh Thần hiện
xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai
biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu
Ki-tô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ,
tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với
các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần
nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng
Đức Ki-tô một cách công khai, không lén lút. Chính vì
thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê
thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý
con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ,
ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối
với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi
của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều
Ki-tô hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm
những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc: «Phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29).
2.
Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng
Bài Tin
Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc
lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói:
«Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì
Thầy cũng sai anh em». Nói xong, Người thổi hơi vào các
ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Như vậy,
việc lãnh nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng
mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm hồn bình an,
không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các
tông đồ bình an, và có bình an trong tâm hồn, các ông
mới đủ can đảm để công khai làm chứng cho Đức
Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an,
chúng ta phải có lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho
Đức Giêsu Ki-tô, cho Thiên Chúa, cho chân lý, cho công lý,
cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn
của Ngài cho những người không có lý tưởng, không có
tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì giả như có
được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai,
mà thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý
tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn ấy.
3. Sứ
mạng của người Ki-tô hữu
Ngày
nay, tỷ lệ Ki-tô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm
trọng, và có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều
ấy khiến mọi Ki-tô hữu phải suy nghĩ và đặt lại vấn
đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó
không hợp với nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con
người thời đại này đã thay đổi rất nhiều so với
cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị,
xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người,
v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng, cách nhìn, cách
suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì
thế, nếu chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng
như thời tổ tiên ta, e rằng việc loan báo không còn hợp
thời và hữu hiệu nữa.
Người
thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực
nghiệm rất nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông
như cha ông họ cách đây 50 hay 100 năm. Họ cần thực
chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều.
Ngày nay, người ta không thể tin được một Ki-tô hữu
miệng thì luôn luôn nói về tình thương, mà cách sống
thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay
đã chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ,
rước lễ, xin Chúa xót thương ban cho mình đủ thứ ơn
lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền
lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp
bách của người chung quanh. Não trạng thực tế khiến
người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản
giữa lời rao giảng và cách sống của những người
chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng dù có hay, hùng
hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời
sống thực tế của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn
được ai!
Ngày
nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất
công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày
càng nghèo hơn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày
càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày
càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người
nghèo, giữa nước giầu với nước nghèo ngày càng lớn,
và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người
Ki-tô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác
đó? Biết bao Ki-tô hữu không hề quan tâm, đến nỗi
không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Ki-tô hữu
biết nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống
mình bình an đầy đủ là được rồi! Biết bao Ki-tô hữu
đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy,
cho dù sự lên tiếng của mình có thể cải thiện được
tình trạng không nhiều thì ít! Biết bao Ki-tô hữu chẳng
những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự
ác, chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ
cho sự ác, sự khổ, bất công, nghèo đói hoành hoành,
nhiều Ki-tô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải
phóng, là «Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm
được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp
bức được tự do, v.v…» (Mt 4,18). Làm sao người thời
nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào
lời của những ngôn sứ không hề có những hành động
nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ,
những người bị áp bức, những người bị bất công
đang chờ đợi hay mong mỏi chúng ta làm gì? Họ mong chúng
ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất
công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Ki-tô cho
họ, hoặc cho họ biết rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất?
Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối
với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta
đã làm gì?
Đã từ
lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất
hoặc không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực
tế của dân chúng. Họ cần tình thương, nhưng chúng ta
chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý
thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì
còn hấp dẫn được ai? Vì thế, đừng lấy làm lạ tự
hỏi tại sao Ki-tô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu
và không phát triển được tại châu Á. Người Ki-tô hữu
hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người trước đã, đừng
quan tâm tới việc rao giảng vội! Chính đời sống yêu
thương của người Ki-tô hữu mới là lời giảng hùng
hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học thực
nghiệm hiện nay. Người Ki-tô hữu cứ sống yêu thương
và thực hiện hay làm chứng cho công lý trước đã, toàn
thế giới sẽ tự động trở nên Ki-tô hữu sau. Còn hăng
say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý,
thì mọi lời rao giảng đều «chẳng khác gì thanh la
phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng» (1 Cr 13,1), hoàn toàn
vô ích!
4.
Cần có sự biến đổi
Giáo
Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ
hết. Biến đổi trước hết là não trạng loan báo Tin
Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng lời nói, chứ
không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể.
Cần phải thay đổi não trạng đó nếu muốn Giáo Hội
tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là sống
và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi
không có ý coi nhẹ việc rao giảng chân lý, nhưng phải
coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn, và quan trọng
hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới
làm chúng ta mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám
coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết chóc) để
nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có
tình thương đối với con mình mới có thể thúc đẩy
người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để cứu lấy
con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Ki-tô hữu
rất cần hiện nay là tình yêu thương.
Cầu
nguyện
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng
người chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết
hy sinh vì người khác, để chúng con loan báo Tin Mừng một
cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được
biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức
Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan báo bằng lời nói
xuông. Amen.
18. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA
HIỆN ĐẾN (20,19-20)
Cảnh
tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn
trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các
môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám
chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn
hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu
sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài
này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người
không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều
bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người
với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua
tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác
hơn loài người.
Chúa
đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói
“Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là
một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu
hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình
an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của
Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ
lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không
muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là
ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự
hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm
dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa
Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã
biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm
biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân
hoan vui mừng.
SỨ
VỤ (20,21-23)
Những
lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở
màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự
so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ
được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo
dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên
trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ
cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình
bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên
Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã
ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên
Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở
đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các
môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh
nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa
Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ
hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như
Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ
có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền
năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ
với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha
cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa
qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở
đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần
linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động.
Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh
em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người
nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa
đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào
“ngày của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên
khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc
biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của
Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là
mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi
khắp thế gian.
19. Chú giải của Noel Quesson
Chiều
ngày thứ nhất trong tuần...
Trong
Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các
tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của
cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí
thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với
bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem
ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta
quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần
học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày
thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự
một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới.
Thiên Chúa lại cầm “con người" trong bàn tay, và
nhào nắn nó lại trong một thứ "đất sét" hoàn
toàn mới.
Và từ
hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ
“ngày thứ nhất trong tuần" này đến ngày thứ nhất
trong tuần khác.... từ Chúa nhật này đến Chúa nhật
khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng
như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp
diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp
mọi Kitô hữu dần dần... sống nhịp theo những lần
"hiện đến" của Đức Giêsu. Chúng ta không thích
"nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật" một cách nhạt
nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một
nhu cầu sống! "Cần phải thở hít mà"? Do đó,
không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi
các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ
người Do Thái.
Sợ
hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên
sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó "gây khiếp
sợ".
Trước
khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng
thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi
sợ hãi của tôi là gì? Nơi "xảy ra biến cố Phục
sinh", là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề
phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi"
mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn
tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ
bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối
với tôi tình huống nào làm tôi dễ "đóng cửa then
cài”?
Trường
hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi?
Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một
kiểu chết chóc: "Sự chết hoạt động nơi chúng
tôi... Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con
người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con
người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới...
Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại
sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận,
tuyệt vời" (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức
Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không
phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh
của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin
Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là "Thiên
Chúa, là Đấng ban sự sống". Việc trao ban sự sống
này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi
kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần
Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong
con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh,
nên mang tính hữu hạn, thì "tinh thần" và "thân
xác" liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng
dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một
suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân
xác của mình: “con người" cũng có nghĩa là phải
chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức
Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu
hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận
được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa.
Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với
tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần,
là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá
bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất
hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ
rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại
vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến "đứng
giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã
nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người
trở thành một "thân thể thiêng liêng", một thân
thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1
Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các
bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục
sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng
lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa" (Cv
2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu
trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng,
sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn
muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ
thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó,
hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những
thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống
bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc
anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được
thấy Chúa.
Từ sợ
hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ
đang bị "nhốt kín", giờ lại được "sai
đi". Việc sai đi thi
hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một
tổ chức nào đó: không phải là một thứ "xí
nghiệp" quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ
hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước
vào con đường “thừa sai" Theo Người, chỉ có một
điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc
thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với
Chúa Cha". Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ
của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở
thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói
xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây
Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt
ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: "Thiên Chúa thổi vào mũi
con người một sinh khí" (St 2,7).
Cuộc
sáng tạo cuối cùng: "Hãy thổi vào các bộ xương
chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong quá khứ đó là sự phát
sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ
có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống
lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc
sáng tạo hiện hành: đó là "Hơi thở" của Thiên
Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa,
và là Đấng ban sự sống!
Đó là
hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy
mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của
Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới,
nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt
thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ
vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở
cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung
quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp
hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích
về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta
sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức
Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây:
"Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống
động" (Ga 3,6-8).
Anh
em hãy nhận lấy
Tôi cầu
nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người
thời nay không thích "nhận": người ta từ chối
việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm
nhất: tự phụ mình "như thần thánh". Nhưng điều
đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn
hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ
thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón
nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ
cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi
có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc,
từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
"Hãy
nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy". Cần phải "nhận
"lãnh" "Thân Thể". Nên cũng cần phải
"nhận lãnh" Thần Khí đó!
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý
nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh
Thần
Nhân
loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu
giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một!
Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của
Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người
sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo
hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới
mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Anh
em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò
và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng
phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh
Gioan trên đây thật sống động:
Một
cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với
Chúa Phục sinh.
- Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
- Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ
đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự
Thánh thiện.
Như
thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến
tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu,
có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là:
Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết
độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: "Liệu Thiên Chúa
có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã
trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu
hỏi: Liệu tôi có "lãnh nhận" ơn tha thứ đó
không?
20. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÀY
ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI
HƠI VÀO CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH
THẦN
1/
Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn
đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ
người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong
giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả
muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến
các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị
trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu
là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội
đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức
tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những
kẻ bách hại họ.
Họ tụ
tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên
Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em
(Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác
nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/
Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã
chết.
Đức
Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên
tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú
giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng
của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn
bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc
giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác
chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện
diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng
đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu
họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục
sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng"
("L'evangile de Jean, Centurion". trg 246).
3/
Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng
Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến
ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với
sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha
Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI
ĐỌC THÊM:
1.
Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế
nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở
thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ
nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ
này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng
ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngôn sứ
Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh
đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu
đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước
Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi,
dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang
hoảng sợ một linh hồn khác: "Anh em hãy nhận lấy
Thánh Thần”.
Chính
Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã
vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân
tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí
thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có
chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương
lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu
quả của nó thật là khôn lường và ấm áp. Còn đâu
nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa
lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến.
Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với
người kia như những người được Thiên Chúa sai đi,
giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ
tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình
thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo
mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Người. Vì Thiên
Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là
ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ,
có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi
muôn đời.
Họ sẽ
không quên những thương tích của Đấng Công chính bị
tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ
không quên lời Người nói vì như lời Người, men của
họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các
việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn
thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất
bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm
cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo
đảm của Thiên Chúa. "Các môn đệ lòng đầy hân
hoan”.
Liệu
chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở
nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa
chăng?
2.
Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần
Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là
tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ.
Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện
tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành
phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp
nhất và cả tình hiệp thông.
Là
nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không
ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong
sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp "ồn ào"
của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt,
không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng,
chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà
thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến
và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết
hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người
ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động
của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở
toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi
những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm
được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô
trương.
Thần
Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta
ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ
nhung tìm lại "thiên đường đã đánh mất" để
hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù
sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày
mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ,
khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người
ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ
sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì
những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm,
mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi
của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện,
mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông
thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên
Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà
người đem đến cho kẻ tiếp nhận Người, không phải
là đức ái đó sao?
Cũng
phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất
nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được
canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những
chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ
muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen
tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay
đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là
nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là
tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh
tân bộ mặt trái đất.
3.
Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng
Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức
Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ,
khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như
vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt
với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu
hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với
người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả
như là:
- "Paraclet", Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
- "Thầy chân lý", giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban "để ở với anh em luôn mãi" và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt
động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
- Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
- Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: "Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy".
- Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: "Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu.
Đăng nhận xét