Lời Chúa: Is 60,1-6;
Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
1. Ra đi
2. Ngôi sao dừng lại
3. Thiên Chúa tỏ mình
4. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Con đường đức tin
7. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
8. Gặp Chúa – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
9. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
10. Cuộc hành trình đức tin
11. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Vũ Duy Thống
12. Niềm tin: một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
14. Những con mắt hiển linh
15. Tìm Đức Kitô
16. Ba vua
17. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra – R. Veritas
18. Tìm gặp Chúa
19. Từ bỏ
20. Tỏ mình
21. Suy niệm của JKN
22. Lễ Hiển Linh
23. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
24. Ánh sao lạ
25. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
26. Chú giải của Noel Quesson
1.
Ra đi
(Trích từ
‘Manna’)
Suy Niệm
Thiên
Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác,
vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các
nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại. Đối với họ, bầu trời là
một cuốn sách, các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa
đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên
Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp
Đấng Cứu Độ. Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn
vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được. Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn
ánh sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
·
Ánh
sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do,
ấm no, hạnh phúc?
·
Ánh
sao đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong
suốt cuộc hành trình. Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra
khỏi những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
·
Họ
chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao
sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị
lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình
thường.
-
Hêrôđê
bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
-
Các
thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường
tìm kiếm.
Các
nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực
tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn
có đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong
mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng..., đang gắng công tu
tập trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có
ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để
nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các
nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm. Hôm nay, còn bao người vẫn
trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần
Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ
Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh
chị em ngoài Kitô giáo. Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn
với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt
Ngài.
Ước
gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi
những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bạn
có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo
không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
·
Thiên
Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng
đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng
quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên
đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và
đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự
hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm
nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu
thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu
khổ đau. Amen.
2.
Ngôi sao dừng lại
(Trích từ
‘Manna’)
Suy Niệm
Người
Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ
nhà Giacóp (x.Ds 24,17). Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một
vì sao xuất hiện.
Hình
ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ
cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng
không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử gia đáng tin cậy ở
thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ
xứ Giuđê. Phải chăng đó là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập
xa xôi đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu
trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy
nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân
Do Thái.
-
Hêrôđê
thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh
của vị Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ.
-
Các
thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ
Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới
Bêlem.
-
Còn
các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc
phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương. Dù Đấng ấy
chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với
cả lòng thành.
Lễ
Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các
nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào
mà gặp được Chúa?
Mỗi
môi trường cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh
sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.
-
Ánh
sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
-
Ánh
sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một
nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì
sao. "Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên
vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng
ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr
1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước
gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao: ánh sao nói được điều gì đó với người
đang chờ đợi, ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường, ánh sao ngừng
lại trước nhà của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp
nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Những
người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở
sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ
nào, điều kiện nào?
·
Ở
môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ
ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng
mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là
ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui
bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng
con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết
vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền
rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn
ánh sáng Chúa.
3. Thiên Chúa tỏ mình
Ngày
hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là
những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính
vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy
nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ
như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không
tiếp nhận Ngài.
Thực
vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày
Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và
mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu
thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia
loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở
ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong
u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại
chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một
ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc
hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người
nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài.
Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong
xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng
một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta
thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy
nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của
Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình
mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối.
Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải
hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải
là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những
lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng
đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng
lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một
lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh,
nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay
chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài.
Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi
của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu
biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển
chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?
4. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm
nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những
người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao
lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh
Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã
chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh
Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính
Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói
ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày
nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa.
Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao
soi đường dẫn lối.
Tìm
đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao
xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn
mọi người đến với Chúa.
Là
ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản
thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ
mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của
Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới
cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh
phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là
ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người.
Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà
giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là
làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân
thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người
Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin
yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua
sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha
nhân.
Tất
cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật
chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ
con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ
phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức
mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế
giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế
giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một
ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người
sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng
là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn
nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2.
Bạn
nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn
đưa mọi người đến với Chúa không?
3.
Đâu
là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm
mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THÀNH TÂM THIỆN CHÍ SẼ GẶP CHÚA.
Lễ
Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người
biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế
kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện… Tuy nhiên không
phải ai cũng gặp được Chúa.
Có
những
người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó
là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu
biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn
sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ
hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường.
Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm
trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó
là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm
Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không
gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm
Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn
vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý
Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay
của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những
người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp
được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa
xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ
mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ
đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên
tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi
sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn
tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói
lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều
mơ ước.
Họ
lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm
đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời
bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên
khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao
đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng,
quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ
đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ
không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để
thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi
lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng
qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn
thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn
của chuồng bò hôi hám.
Đời
sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi
noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính
Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới
răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối
của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Tại
sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2.
Có
những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế
chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3.
Muốn
gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4.
Ba
vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa
người khác đến với Chúa?
6. Con đường đức tin
(Suy niệm của
Thanh Thanh - Tinvui.org)
I. Chú giải
-
Địa
lý: Belem, nơi Chúa sinh ra là một thôn làng nhỏ cách Giêrusalem 6 dặm
về phía nam. Itrael thời ấy bị đế quốc Rôma đô hộ. Hêrôđê được Rôma bổ nhiệm
cai trị xứ Paléttin 40 năm trước công nguyên. Ông nổi tiếng là người tàn bạo.
-
Dân
chúng: thời đó họ tin rằng mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà
đạo sĩ đến từ vùng Tiểu Á. Họ là những người thông thái. Sở trường của họ là
nghiên cứu về khoa chiêm tinh và được xem là cố vấn của nhà vua về đời và đạo.
Họ theo ánh sao đi tìm sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế.
-
Lễ
vật:
Ù Vàng: thời xưa, vàng có tính cách quý
báu và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý nói hài đồng Giêsu là Vua.
Ù Nhũ hương: trầm hương chỉ dùng trong
việc tế lễ. Hơn thế nửa, trầm hương ở đây nói lên sự ca ngợi và thờ lạy. Trầm
hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa.
Ù Mộc dược: mộc dược dùng để chữa lành
người bệnh và tẩm liệm thi thể người chết thời đó. Mộc dược nói lên nhân tính
của hài nhi và cái chết sau này của Chúa Giêsu.
II. Con đường đức tin
1.
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình cho mọi người
tin:
-
Đường đức tin đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý, như ánh sao
lạ chẳng hạn, dấu lạ này mời gọi ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm
một cái gì đó cao hơn, tốt đẹp hơn.
-
Kế đến là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình, như ánh sao có lúc sáng
tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất. Nhưng nếu ta kiên trì tiến bước thì
cuối cùng ta sẽ gặp được Chúa.
2.
Tiến bước
Có
người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Nhưng cũng có người đi tìm kiếm như đạo sĩ, lên
đường như Abraham.
Chúa
ở đâu? Ở khắp mọi nơi: trong làng quê heo hút, trong xóm làng, trong gia đình
nghèo khó, trong những người ta gặp gỡ hằng ngày, nhất là những người đói khát,
bệnh tật. Thiên Chúa ở nơi những người biết mở lòng đón nhận Ngài. Muốn biết
Ngài ra sao thì: “Khi Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các người đã cho
Ta uống… Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ
nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40).
Các
luật sĩ, các thầy thượng tế hiểu kinh thánh lắm chứ, nhưng họ chỉ biết trưng
dẫn, còn thực hành thì không. Hay Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết
Hài nhi, còn các các đạo sĩ thì, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được
Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người
3.
Khó khăn và thuận lợi
Nhà
đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện
tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter
và Saturn rằng: Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm đó chúng sáp lại
gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao
kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
"Chúng
tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2).
Người
xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện
của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh thường nghiên cứu những chuyển động của
các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao
lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Thực
sự, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều thế kỷ, Đấng ấy được ví
như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất
hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Israel" (Ds 24, 17). Tiên tri
Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các
thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh
Ítraen " (Mk 5,1).
Thiên
Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất
hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để
gặp Đấng Cứu Tinh. Thế nhưng, thật trớ trêu là: vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao
thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì
dửng dưng thụ động, cho dù họ hiểu Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu
Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay.
Đại
diện cho lương dân, là đạo sĩ hăng hái lên đường tìm kiếm. Nên sau này, Đức
Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự
tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái
Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Lễ
Hiển linh hôm nay giúp ta nhìn lại chính mình:
Nếu
ta đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù, thì hãy trở thành ánh sao của
chân thành, phục vụ và yêu thương. Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của
buồn phiền, thất vọng thì ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy
vọng.
Chúa
gọi ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một
vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Ta đừng nguyền
rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng của tin yêu và hy
vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu
Chúa.
Ta
hãy tin vào Lời Chúa. Tin là dựa vào Chúa để dấn thân và vượt qua gian nan thử
thách.
Các
đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi
sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi
ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành
trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá. Để
trắc nghiệm đức tin, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không
phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió.
III. Truyện minh hoạ, ông vua thứ tư
Có
một truyền thuyết cho rằng những người khách từ phương Đông tìm đến thờ lạy
Chúa Hài Đồng là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một truyền
thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là
Artaban. Sau đây là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng
như 3 vị vua kia, Artaban thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một
viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai, ông lên đường đến
điểm hẹn cùng 3 vị kia. Tuy nhiên dọc đường ông gặp một người bị thương nặng
nằm bên vệ đường, ông dừng lại đưa người đó đến một quán trọ và nhờ người chăm
sóc. Khi đến điểm hẹn thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Đến
Bêlem cũng trễ, Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai
cập. Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người
đàn bà bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám
lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp chúng
và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào trong quán. Ông rất buồn vì lễ vật định
dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc trai. Viên bích ngọc cũng đã
đổi lấy lạc đà để đi qua sa mạc.
Ông
tiếp tục lên đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu
đang ở đâu ông đều tìm đến, nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng
30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin người ta sắp đem Đức
Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm đến, hy vọng là với viên
ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha,
ông gặp một cô gái đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều
nên người ta định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai
ra, và quân lính để cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay
trắng.
Chiều
hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa đều rung
rinh. Một viên ngói rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn
đồi Golgotha. Ông đã không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực
tìm kiếm.
Vâng,
tuy không gặp được Chúa theo cách thức mình muốn, nhưng xét về đường đức tin
thì Artaban đã thực sự gặp được Chúa, vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị
trong lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những
việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của ông.
7. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của
Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính
những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng
cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo
ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê
để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải
sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải
thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái
mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương
Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc
nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy
giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại,
rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem,
miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền
đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị
lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)
Thật
bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra
trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như
thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua
cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh
sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho
Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm
nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta
đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp
Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn
soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy
ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà
không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ
!
Ba
nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra
trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế
mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu
ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng
ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa
chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ
Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của
chúng ta.
Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên
Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một
với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia
đình."
Qua
dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu
tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì
Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một
manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế
không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa
trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh.
Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt
25, 31-46)
Khi
chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của
Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa
Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô
hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp:
"Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó,
Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa
Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?"
(I Cr 6, 15).
Chính
những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa,
soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của
chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ
vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo
cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân
cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật
quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng
đại hiến dâng cho Người.
8. Gặp Chúa – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp
bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào
túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp
một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu.
Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu
bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu
dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức
uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được
sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới
rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt.
Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô
cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm
nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
-
Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết
không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với
niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và
hỏi:
-
Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
-
Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh
những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất
nhiều.
Khi
làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn
chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của
mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã
sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá
mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời
cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy . . .
Cậu
bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão
cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu
đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi
người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã
thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu
ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm
lòng nhân ái của cậu.
Năm
xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại
là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng
cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một
gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ
hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm
nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa.
Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo
đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời
gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng
đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh
chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất
chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng
tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha
nhân. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ
Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa
về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự
hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ
để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn
tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô
hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa
trên nhân loại (bài
đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua
cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé
Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ
của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của
bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế
giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi
Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay
đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh
chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới
nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng
của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một
vương quốc mới.
Ngôn
sứ I-sai-a sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn
tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan
niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với
của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ
và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho
sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm
người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận
“vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng
vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy.
Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu
thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa
đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có
cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là
kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh
Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải
cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần
học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi
của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa
chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của
mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu
độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng
đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do
đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng
cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau
và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi
tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con
người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được
gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ
ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh
Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong
Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”
(Ep 3,6).
Vậy
Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm
cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không
trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp
của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định
tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào,
hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ
của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia
sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng
Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm
thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế
hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng
cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như
thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy
“trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho
thiên hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức
Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên
Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh
của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người
chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm
anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm
thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó
là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”,
tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các
thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho
nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói
về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng
họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không
có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không
phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức
Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng,
mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái
lạy Người” (bài Tin
Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng
không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải cay đắng
nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài
khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương
Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành
Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự
thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời
gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận
Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ
ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà
chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân
Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà
chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ
mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin
Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương
đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài
Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế
phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ
Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên
Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua
biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn
làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là
ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là
người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ
cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và
hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy
nghĩ: Các nhà
chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi
theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao
tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao
ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ
đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận
biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về
chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
10. Cuộc hành trình đức tin
(Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có
ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái
độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi
phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem
để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào
thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có
thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi
ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi
sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình
lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi
một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật
tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch
sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có
sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp
phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai
trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã
viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng
mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu”
(Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó,
một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus,
Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi
Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang
trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình
không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã
ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ
những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu
tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).
"Đức
Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất
hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ
bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào
“Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài
Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng
Cứu Thế.
“Vàng
là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu
chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa
Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và
sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).
Thái
độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con
vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua
nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe
nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng,
đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính
đầy tham vọng của ông.
Lịch
sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn
sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã
giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con
trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là
Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con
trai ông ta”.
Một
con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua
Tình Thương. Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái
độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà
vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho
biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì
trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa,
ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn
dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các
thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ
xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không
dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn
đề gì đối với họ.
Họ
đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của
họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ.
Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở
quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày
thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa.
Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ
mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu
vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về,
dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở
quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu
vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi
chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi
đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người
giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh
mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu
ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có
một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ
từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người
trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.
Đã
hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con
người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình
yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành
tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành
tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của
Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên
Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng
(dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở
vể quê hương).
Xem
đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu
vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu
không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những
rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với
Thiên Chúa.
Chúng
ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng
tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở
trong chính ta.
Tôi
nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp
của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên
ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê
rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn
thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để
giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang
dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô
gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi
đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình
muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và
trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc
trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương
cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình
không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có
lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp
một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động
bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội
nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót
líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những
sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng
nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô
không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những
nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một
bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô
không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy
nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ
hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn
về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có
vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những
ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi
hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã
nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn
thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô
ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào
khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng
trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe
sáng lên và biến mất.
Nếu
Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá
thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với
Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương
huynh đệ.
Cuộc
hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có
tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao
lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
11. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Vũ Duy Thống
(VỚI CẢ TÂM
TÌNH – Trg. 31)
Trong
dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên
quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ
Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”.
Câu
hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt
tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu.
Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp
phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và
cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong
tình trạng nhạt nhòa.
Niềm
tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục.
Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây
là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông
Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền
quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số
ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng
được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của
Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày
lễ.
Nhưng
điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ
có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống
động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm
Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn
thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến
của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới
cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng
dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả
một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời
hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề
được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua
những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu
có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại
không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến,
không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến
sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu
cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa
ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin;
còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo
chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc
dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ
thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn
hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về
những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm
nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó
là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở
đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu
“Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh
xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là
khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp
gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi
điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên
những đỉnh cao mới.
Và
gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng
vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả
tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo
đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống
thường ngày.
Gặp
ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được
Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa.
Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta
dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng
cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể
và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên
gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ
Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt
cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho
những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua,
mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ
mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm
qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như
các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm
nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay
nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại
là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở
nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời
sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả
lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là
một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm
nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà
trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ
họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát.
Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của
những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân
tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những
chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực
thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu
mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của
tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm
lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin,
đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin,
khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng
để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để
kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và
đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
12. Niềm tin: một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống
(LÀM NỤ HOA
TRẮNG - Trg. 13)
Phúc
Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính
của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động
tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm
đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu
càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên
này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như
í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những
kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng
chỉ biết bàn ra.
Nhưng
giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy,
người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc
tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp
nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những
vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới
sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi
là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những
của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy
ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người
thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp
chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi
điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng
cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng
soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình
thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ
một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn
nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và
lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương
tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết
mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có
thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi.
Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng
lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao,
ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước
lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp
nhận những thử thách
Là
hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của
con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là
những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới
biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là
chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt
và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt
lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những
người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt
ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh
nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập
lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm
Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng
những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như
vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính
nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se
lòng.
Thử
thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng
lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc
sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những
cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách:
niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin
chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu
chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận
đồng hành
Không
phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể
tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục
12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc
đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông
càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là
cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế,
không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu
khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng
mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người
ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người
cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa
chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau,
nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau
lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là
đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết
tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo
ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn,
lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên
cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước. Giống như Kinh
Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng
không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ
một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi
tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin
đón nhận đồng hành.
Tóm
lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm
tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử
thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa
tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu
cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là
chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh
động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình
ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh
danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới
đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
13. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra
rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các
vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn
quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao
này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường
và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã
dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng
tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra
đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao
lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để
đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã
nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái. Quả thật, người Do thái
đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ
Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một
vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo:
“Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta
sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa
về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến
Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh. Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị
Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các
thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và
biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của
mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường,
hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được
rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong
cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng
lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau
này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ
đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.
Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12)
Lễ
Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền
giáo.
Nhờ
ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những
ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
-
Nếu
con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những
ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
-
Nếu
thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy
là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
-
Nếu
Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự
vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng
tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và
hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu
Chúa.
14. Những con mắt hiển linh
Trong
bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy.
Có mắt để phát hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ:
“Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền
sấp mình thờ lạy Ngài”.
Họ
thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống
để thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của
họ? Các đạo sĩ đã “thấy”.
Lời
mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì
có nơi Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy
Thiên Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển
linh. Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm
sao không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích
dẫn nguyên vẹn: “Vinh quang của Thiên
Chúa chính là sự sống của con người, và sống đối với con người chính là thấy
Thiên Chúa”.
Thấy
Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: “Không ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha
mới tỏ bày Ngài cho chúng ta”.
Ước
gì chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở
Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải
sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của
tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi”.
Cái
nhìn nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta
trong một tháp ngà nhỏ: “Anh và tôi!” hoặc trong một tháp ngà lớn hơn: “Chúng
ta, những người theo Kitô giáo”. Đây là lời kêu gọi thứ hai của lễ Hiển Linh:
nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta
thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát
hiện bằng con mắt hiển linh: “Hãy nhìn
xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên
ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ
lại”.
Người
ta nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho
những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống
nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng,
những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công
Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với
chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng
ta có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay
không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà
hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay
không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con
lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của
Chúa Giêsu vẫn còn sống động: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19). Ước
chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không tin này,
không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước chi trong số mười linh mục
người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và một vị để
xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm
thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở
giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con cũng là một người
không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài đường, ở trong
các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh
A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về
Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi
thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì
để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây?
Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con
biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im
lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi
chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ,
những con mắt hiển linh.
15. Tìm Đức Kitô
Ba
vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về
một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan
tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra
giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời
gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng
ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu
lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết
phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người
ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ
chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua
Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu,
tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm
ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không?
Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác
cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm
vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng
có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự
hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới
những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn
tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’ và ‘an tọa’ của
mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa
vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v… Bằng
cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong
tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ
lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của
ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích
cực
Bao
lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi
sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác
thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức
ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến
những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông
Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các
đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có
những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ
là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy
Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
16. Ba vua
Lễ
Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba
nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
-
Dân
ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng
thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được
thực hiện cho muôn dân.
Chúng
ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương
tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Ù Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh
sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn
gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng
hiểu.
Có
lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi
của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng,
tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ
dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Ù Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của
Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa
ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm
bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do dự, và
đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười
chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái
độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh
Augustinô diễn tả như sau:
“Các
ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ,
họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài
nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài
rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến,
và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy”.
Có
lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi
ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện
nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi
nhận ra và giúp đỡ.
Ù Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ
lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và
mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn
chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở
chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn
tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội
lỗi.
Sau
cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được
thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê
hương xứ sở của mình.
Qua
đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân
phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn
chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó,
chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng
những phản bội.
Hãy
noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa.
Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
17. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra – R. Veritas
(Trích từ
‘Sống Tin Mừng’)
Các
bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh
sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia:
"Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó
là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem.
Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó
là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện
diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận
được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người,
không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì
Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời
tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm
trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được
thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp
được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng
ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu
cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các
trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người
trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến
với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên
nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật
sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà
họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp
Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem.
Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và
thờ lạy Ngài.
Chúa
ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai
thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành
công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong
ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy
rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người
nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần
tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và
tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là
kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm
ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước
thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình
để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con
về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và
tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
18. Tìm gặp Chúa
Với
lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để
chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy
nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi
bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có
một hạng người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm
thường như những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để
niềm vui của Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho
chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn
đến với cả những người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân
riêng của Chúa, những người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác
tín này đã được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu
Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và
cùng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với
lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng
rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị
tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con người dựng lên để
bảo vệ những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên
Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân
nước dưới ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó
là chúng ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng
điều quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như
lời thánh Augustinô đã nói:
-
Khi
tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng
ta Ngài đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự
thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không
tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không
tiếp nhận Ngài.
Thực
vậy, Ngài đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một
Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông
muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật
sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết
lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và
chuyển biến.
Để
đến với Chúa, chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không
phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng,
thập giá và sự phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ
Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con
người và con người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như
các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến
với hài nhi Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới
phía trước. Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong
cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh
sao là Tin Mừng của Chúa hay không?
19. Từ bỏ
Hôm
nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại
diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu
hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc
âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế,
ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế
họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các
nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác
định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết
nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học,
thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài
ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
Từ Tác-sít và hải đảo xa
xăm,
Hàng vương giả sẽ về
triều cống.
Cả những vua Ả-rập,
Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng
lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục
trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều
phụng sự.
Tertulianô
đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta
thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực
cho lắm.
Câu
hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những
bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có
bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới…mười hai vị. Ngày nay,
chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu
hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi
là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các
ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến.
Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ
phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả
Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ
này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau
cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài
học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những
người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi
đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ
tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng
thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang,
nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi
dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải
chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè
bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài…Thế nhưng, các ngài vẫn
cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu
suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ
bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
-
Ai
muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi
xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham.
Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã
hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm
sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một
mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà
dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp
đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề
chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
-
Hãy
theo ta.
Lập
tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo
Chúa.
Với
Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi
của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ
mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông
đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của
Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám
dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ
quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những
điều ấy không?
20. Tỏ mình
Các
bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc
khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho dù người Do thái
hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại,
không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của
mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình
khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người
bằng nhiều cách khác nhau.
Các
bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy
hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ
nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực
hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự
nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt
hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của
các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón
nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem. Kinh Thánh đã
chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ
Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc
vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ
sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để
chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị.
Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng
các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau
đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua
đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai
tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con
Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn
dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng
lễ ba vua hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân
tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng
sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ
Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa
mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và
lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và
cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một
đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn,
trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra
phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái
thời đó.
Thiên
Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như
ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của
Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống
hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với
chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa
hay không? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ
bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay
không?
Trở
về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó
đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như
vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không
ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này
hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh
chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các
ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên
đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều
lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn
về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được
Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên
Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua
những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp
nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với
chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng
trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của
chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những
biến cố lịch sử thế giới.
Thiên
Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng
ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời
mời gọi của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong
suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ
dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta
sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang,
những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.
21. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết
rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở
mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp
được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để
gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân
chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết
định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết
hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh
không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với
bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội
ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ
ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác
nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các
nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại
Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1.
Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các
nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là
người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến
thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế
giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm
kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình
thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp,
đúng như Đức Giêsu nói: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì
sẽ mở ra cho» (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ
không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng
tìm kiếm: «Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng
tìm kiếm Ta» (Gr 29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp
Ta» (Cn 8,17).
2.
Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các
thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh,
thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì
thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh
trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý
của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của
họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu
Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà
biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải
biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở
nên vô ích cho họ.
Cũng
vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng
họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải
để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không
đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà
đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những
lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây
nhà trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời
Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu
anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe
và tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15)
cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực
tế cũng giống như những mảnh đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến
Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống
như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3.
Bài học cho những ai đang theo chính đạo
Câu
chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng
rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương
trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao
giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý,
công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh
lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng
thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên
Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên
đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ
lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy
sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý
và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa
và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy,
những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình
đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của
mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính
mình: «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính
mình» (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính
bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh
Phaolô: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng
cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9,27).
Chuyện
các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại
và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân
chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được
Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực
hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm
kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ
chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình
thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi
đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác
như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào
loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ
mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu,
nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến
được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết
định của con người.
4.
Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm quyền
Nói
tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết:
«Đức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương
quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ
khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có
thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im
lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách
«sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi
trở xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh
sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc
sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng,
chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối
với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ
là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những «chiếc ghế» của họ trong tôn giáo
Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan
hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó
không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng
«bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ
mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy
Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng
bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân
lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính
đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ
với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
22. Lễ Hiển Linh
Khi
ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy
tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc
1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô
phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô,
không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa
của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep
2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang
đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem
theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong
quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan
hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là
ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy
sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất
kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều,
nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung
đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà
vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng
hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao
của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ
cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm
chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ
lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao
như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ
nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ
cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp,
một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao
xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ
nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng
cho mình trong một thế giới u minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi
nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi
đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những
chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt
vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi
trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ
hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng
được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát
khỏi tai hoạ.
Một
điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người
thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của
nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo
hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi
sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa
lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm
tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà
Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là
vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi
sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần
tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ
đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi
thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng
mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống
quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm
báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh
em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga
15,11).
Trong
những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương
đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường
dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng
yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và
nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ
tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý
nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những
ngày cũ.
23. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện
nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo
sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra
ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban
đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi
Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai
xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ
già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ
nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái.
Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái.
Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai
đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra
viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian
ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ
tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của
mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận
quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt
bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ,
những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ
mình ra cho mọi người.
Lễ
Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ
mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong
chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất
hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với
Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng
lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và
biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ
cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội
dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động
qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới
sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này
cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là:
các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà
tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là
những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm
đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất
cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời
cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực,
một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một
lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua
người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã
hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn
mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát
cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra
đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị
liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị
Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa
anh chị em,
Lễ
Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng,
Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai
thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài
đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người
như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức
Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn
đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải
là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức
Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới
hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số
chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp
của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu
chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã
nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức
Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện
tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi
chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi,
Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không
thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người
chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở
nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật
vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm
lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn
với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?.
Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin
đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin
chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động
qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về
hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường
yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh
liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi
người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những
nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh;
khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo
của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang
làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May
mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy
sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ
diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng
các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác
đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ
Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm
tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện
với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn
là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con
người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu
đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ
quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn
rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa,
yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh
vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến
nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa
đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn
nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi
người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên
Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng
năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập
thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái
người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa
tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám
chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May
mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những
mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong
các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công
khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của
Chúa Kitô. Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm
những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh
chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá
nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những
việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy
Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được
như vậy!
24. Ánh sao lạ
Hôm
nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu
chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy
giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là
những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa
của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối
cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là
vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ
vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ
câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường
cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên
một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu
cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực
vậy, như chúng ta thường xác quyết:
-
Gia
đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới
mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con
cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào
luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người
khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta
còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng
trở nên những người con cái Chúa. Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy
cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ
những lời kinh đơn sơ.
Hơn
thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con
cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi
kéo.
Augustinô
là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương
sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và
trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp
đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng
phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi
xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng
của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị
thui chột.
Có
một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày
kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn,
lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang
dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông
bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một
khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc
chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ
nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
25. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
(Suy niệm của
Lm. FX Vũ Phan Long)
Đọc
bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương
quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai
nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm;
nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương
2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù
không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được
ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn
(x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến
của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các
bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một
đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng
ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối
thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu
được khối thứ hai:
- 2,1-12:
Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao
là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít
chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất;
nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse
được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về
phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương
2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức
Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân
chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng
cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân
Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của thời
đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai
chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả
Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện
các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về
việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không
dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm
thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê
không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng
như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những
chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau
khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản
văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can
trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của
những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào
của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và
người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra
ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công
khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục
sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm
vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi
giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản
văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc.
1-2): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà
chiêm tinh.
2) Phần 1
(cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái. Cốt lõi là sấm
ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2
(cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ
Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú giải
-
Bêlem
(Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc
cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách
Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và
nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói
rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một Bêlem thuộc
Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu
bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền Giuđê, và
cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
-
Vua
Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất
thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên
ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng.
Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi
ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời,
nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do
đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
-
Đức
Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như
ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau
cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội
thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm
thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị
ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ
hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi
thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện
nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán
thế kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên
của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên
Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào
đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12
năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem,
miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua
đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được
đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8
và 6 tCN.
-
mấy
nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông
thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp
xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ
sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh
hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là
những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ
v), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii).
Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một người da đen…
-
chúng
tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng
cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới.
Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan
sát chuyển động của các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên
sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức
Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia,
đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
-
xuất
hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng
thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu,
bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch
sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh
Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra
một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
-
Cả
thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước
việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng
kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt,
pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một
hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại,
các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ
hãi và vô tâm (cc. 4-6).
-
Các
thượng tế (archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia
đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm
làm thượng tế.
-
kinh
sư trong dân (4): dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân
chúng”: một kiểu nói phóng đại.
-
Phần
ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2
Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy
Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với
trạng từ oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha,
ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của
ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không
đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời
cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức
truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
-
mừng
rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với
Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám
phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm
vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như
sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm
vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng
của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
-
Họ
vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại
giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp
được Đức Kitô và bái thờ Người.
-
hài
nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và
21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh
(1,18-25).
-
sấp
mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy”
(proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây
là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa
vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả
lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x.
20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con
Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
-
lấy
vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua,
thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ
lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và
nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược).
Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền
(vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Giới
thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh
(1-2)
Chỉ
trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh
chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương
2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua”
gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ
đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là
những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường
Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được
trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được
coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện
tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời
khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng
giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh
tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của
Thiên Chúa. Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa
ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào
thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ
được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ,
các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và
họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh
nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu
trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất
thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7
(bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc.
Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon,
đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn
giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi
kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành
trình của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua
Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà
Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu
chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến
Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một
nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh
sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia
chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là
Thủ Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường
ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình.
Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”, chứ
không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến
chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người
ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai
phần sau đây tương ứng với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong cc.
13-23) tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và
Giêrusalem; một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là
chiến lược của Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà
cũng đối lập với các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu
bật bởi ngôi sao: ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường
cho các nhà chiêm tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
*
Gặp
gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự
việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu
sấmMk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành Giêrusalem”
được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động
của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua
Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một
vài điểm không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là
dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý –
Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết,
vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê
triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao
chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả
cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng
hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu
và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra
cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng,
“Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự bối rối
của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc
Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã
hiểu “Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu
trả lời về “Đức Vua dân Do Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên
môi các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung
cấp một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và
tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý
hơn, đó là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ
móc laos (“dân chúng”) để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các kinh
sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng mong
đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ
gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế
là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này đưa
chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện
chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả
lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho
độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12
được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông;
nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
*
Gặp
gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các
nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông
phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại
nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ
niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ
đề của bài Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy
Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn
dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề
“vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2;
“vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái
lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn
dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ
hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ. Các nhà chiêm tinh, là những
người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi,
một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách
người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay
hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu
đã được giới thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21;
2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho
các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng
chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng
tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà Maria theo
chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc dược)
các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ
đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và
với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà
chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc
sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu
cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa
các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc
bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương
quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai
nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm;
nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến
đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp
lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận
mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới
thế cho loài người Chúa thương”.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn
coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm
tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành
Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các
nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là
truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết
về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có
màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua
cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với
truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố
đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo
nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích
các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng
Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong
quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của
Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta
đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về
nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại
quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp
cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các
thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3.
Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại
trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do
Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ
hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó,
các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về
lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh,
nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ
chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi
nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính
xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò
dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao”
dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái
lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên
Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc
cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của
Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức
Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước
đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong
tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng
tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng
tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một
vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù
hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu
lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là
Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như
cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi
màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc
đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để
mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho
đến khi tới đích.
Phải
chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm
nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích
thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải
thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên
thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ
chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống
nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là
đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ
“đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của
họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
26. Chú giải của Noel Quesson
Khi
Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì
Đó
chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng
sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác
với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả
của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện
này về các nhà chiêm tinh. Chính câu truyện được triển khai tối đa, và được
trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo
Thánh Matthêu.
Có
mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do
thái mới sinh, hiện ở đâu?
Matthêu
so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu: Vua Hêrôđê, vua dân Do Thái. Câu hỏi
này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở
Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc.
Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch
sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy
chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết
chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy
là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu “Vua dân Do
Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước trời sẽ là một trong những đề tài ông
ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay
trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai
thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu
sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết
như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một
phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại
cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự
tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân
Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái
"lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại
giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi
thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ
khi đưa ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh
của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia, vị vua này sẽ chỉ cưỡi
trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua
đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các
bạn hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy
tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này,
nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch
lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong
lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!. Người trị đến với Chúa
Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng
tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông.
Ngày
nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn
lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mê-si-a đến như một ánh sáng.
"Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của
Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất,
nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên
ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía
luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu
Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: người đi trong bóng tối đã
trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đãsinh ra cho
chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề
về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin
như "sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta" (2 Pr 1,19). Ngôi sao
tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong
tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa
nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong
đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi
theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong
ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Nên
chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái
lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ
sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi
khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về
việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ
ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự
bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất
cả vạn vật.
Nghe
tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền
triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại
Giữa
câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại
trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ
chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra
Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ
đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to
lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các
Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết chết những người Ta sai đến
với ngươi, bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái Ta! Và các ngươi đã
không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng
khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù
không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm
Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng
lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu:
Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực
ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích
cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại
sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa
lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng
Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có
những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất
cả những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan báo trước:
Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn
che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều
mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is
60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên
Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp
lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ
mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin
Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an
phần vào bữa tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách
Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh"
tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi
thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào
cả. Trái lại! trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả
những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc
sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có
một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ
nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ
Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những
người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ,
Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta,
chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và
đây là điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi
đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt
Israel dân Ta sẽ ra đời".
Tại
sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm
tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua
Giêrubalem, qua các "kinh sư và thượng tế” Bởi vì Thiên Chúa trung thành
với những lời người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi
người, thì ơn đó đến qua trung gian những nhời Do Thái (Rm9, 10-11).
Rồi
họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến... Sau đó, họ được
báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Việc
thờ phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng
thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của
đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn
được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin
Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
Đăng nhận xét