Nguồn ảnh:http://www.giaophanphucuong.org |
Lời Chúa: Is 49,14-15; 1Cr 4,1-5;
Mt 6, 24-34
1. Thiên Chúa quan phòng
2. Thiên
Chúa quan phòng.
3. Lạc quan
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Chỉ trong
Thiên Chúa mà thôi – Anmai
5. Thiên
Chúa quan phòng
6. Suy niệm
của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
7. Chọn
Thiên Chúa hay tiền của
8. Suy niệm
của Lm Ignatiô Hồ Thông
9. Suy niệm
của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
10. Thiên
Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Tiền và
Nước Trời
12. Suy niệm
của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
13. Con là
con của Chúa
14. “Dân
ngoại đạo!”.
15. Người
biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
16. Thiên
Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
17. Nguồn
sống – Lm Vũ Đình Tường
18. Đơn sơ
như trẻ nhỏ.
19. Thiên
Chúa quan phòng
20. Không
thể thờ hai chủ
21. Chú giải
của Noel Quesson
22. Suy niệm
của Lm Hồ Thông
Hơn bao giờ hết, con người thời nay đang sống trong một sự
khắc khoải lo sợ. Đúng vậy, người ta lo sợ trước bệnh tật, tuổi già và chết
chóc. Người ta lo sợ trước chiến tranh và vũ khí nguyên tử. Người ta lo sợ
trước những điều rủi ro làm mất tiền, mất tình và mất hạnh phúc. Cuộc sống như
trở nên bấp bênh vô định. Khắp nơi đều có những đe doạ, những hiểm nguy. Người
ta dùng tới mọi phương tiện miễn sao tìm thấy được một sự bảo đảm an toàn. Từ
những phương tiện chính đáng như các công ty bảo hiểm đến những phương tiện kỳ
cục và vô lý chẳng hạn như bói toán và kiêng cữ.
Tại thành phố Paris có
tới 15.000 thầy bói, hằng năm thu được những lợi tức đáng kể. Cứ ba người Pháp
thì lại có một người đi nghe bói toán và những chuyện nhảm nhí khác. Tất cả
những tờ báo lớn đều có mục tử vi. Có tờ chỉ bỏ mục này có một ngày thì liền bị
giảm mất 40.000 số trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Tại Đức và nhiều quốc gia văn
minh khác cũng thế. Với chúng ta cũng vậy. Đứa bé mới sinh ra người ta cũng chấm
tử vi trọn đời cho nó. Hằng năm người ta lên chùa vào dịp tết để xin sâm, để
hái lộc đầu xuân. Hằng ngày mỗi khi mất trộm mất cắp người ta vội đi hỏi thầy
bói. Rồi thì kiêng cữ đủ thứ, đủ chuyện để khỏi xui khỏi rủi. Chúng ta muốn
biết trước hậu vận tương lai, nhưng mà tiền cho thầy bói chỉ chuốc thêm lo vào
mình. Sự sợ hãi vẫn còn đó, nó làm cho chúng ta dường như bị tê liệt. Và sự lo
sợ trở thành một tiếng kêu xin cần được cứu vớt và an toàn. Có điều đáng tiếc
là họ đã không biết đi tìm sự cứu vớt và an toàn ấy nơi Thiên Chúa vì họ cho
rằng Thiên Chúa là một cái gì mơ hồ và xa xôi. Bao lâu người ta không còn tin
tưởng vào Thiên Chúa nữa, chắc chắn người ta sẽ bị thất bại.
Đúng thế, với chúng ta Thiên Chúa không phải là một ông chủ
hà khắc nhưng là một người Cha đầy yêu thương và thương xót. Đời sống của chúng
ta sẽ không còn lo âu khắc khoải nếu chúng ta bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài
và nếu chúng ta ra sức thực thi thánh ý Ngài. Bởi vì Ngài đã tính trước và thấy
trước mọi sự. Đồng thời Ngài lại đặc biệt chăm sóc cho chúng ta: Các con hãy
nhìn xem chim trời và cánh hoa đồng nội. Các con còn trọng hơn chúng bội phần.
Nào ai trong các con lo lắng mà có thể làm cho thân mình lớn thêm được một tấc
sao. Và như thế, người tin tưởng vào Chúa thì sự lo sợ chỉ là một cái gì kỳ
cục, bởi vì chúng ta không phải là những kẻ vất vưởng, bị bỏ rơi và tiếng kêu
cứu của chúng ta không phải là những tiếng kêu vô vọng chẳng được đáp trả.
Tuy nhiên, cần phải có một chút can đảm chúng ta mới dám phó
thác mọi sự cho Chúa, chúng ta mới dám nhảy vào vòng tay thương yêu của Ngài.
Tại Nam Hàn, hồi đó có
tin quân Bắc Hàn cùng với quân Liên Xô sẽ mở những cuộc tấn công vượt qua biên
giới. Dân chúng sống gần vùng phi quân sự vội vã đi mua sắm những nhu yếu phẩm
nào gạo, nào sữa, nào đường, nào thuốc lá. Chỉ có những tiệm sách là im lìm
không ai đặt chân tới, vì trong một tình trạng căng thẳng như thế, sách vở
phỏng có ích lợi chi. Thế nhưng, cũng có một thiếu phụ bước vào và hỏi mua một
cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý. Người bán hàng sững sờ ngạc nhiên và tự
hỏi: Một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý ích gì khi mà chiến tranh sắp bùng
nổ. Nhưng người thiếu phụ đã bình tĩnh trả lời: Những cuốn sách này ở mọi nơi
và trong mọi lúc đều đem lại lợi ích.
Sống giữa một hoàn cảnh đầy lo âu sợ hãi, câu trả lời của
người thiếu phụ phải chẳng đã làm cho chúng ta xúc động và cảm thấy hổ thẹn.
2. Thiên Chúa quan phòng.
Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi
qua đồng cỏ. Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió. Khi cơn
gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên. Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ
cũng đổi chiều.
Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là
chúng ta, còn cơn gió là số mệnh. Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ
yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên
phải. Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió. Đừng chống cự, đừng
phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính
Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.
Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người
bạn quen. Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân,
nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ. Nhà hiền triết
càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.
Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ
hãi là chúng ta. Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa.
Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế
nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào
vòng tay uy quyền của Thiên Chúa. Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng
phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa. Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài,
chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó
sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy. Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là
thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn
sàng đón nhận không kêu ca oán trách.
Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng
phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi
quất vào cuộc đời tôi. Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười
mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.
Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ
ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ: Tôi biết, rất
có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không
có quyền chất vấn Thiên Chúa. Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những
bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng
nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.
Con người đau khổ,
đó là điều dĩ nhiên. Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô
ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những
đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng
ta. Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ. Vậy
thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó. Nếu không có Nước Trời,
thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh,
chống lại Thiên Chúa. Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng
ta. Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc
tuyệt vời ấy.
Đừng hỏi tại sao
Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của
Ngài. Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động. Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép
mình vào bàn tay Chúa. Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu
chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ
đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì
trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội
rất nhiều.
3. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói rằng
sống trong cuộc đời luôn phải chiến đấu để vươn lên, chiến đấu để tồn tại. Cuộc
sống luôn có những khó khăn, luôn có những thử thách đòi hỏi con người phải can
đảm vượt qua những khó khăn của dòng đời. Nhất là trong việc tìm kiếm cơm áo
gạo tiền luôn là nỗi lo của hàng triệu người. Có kẻ ăn bữa no bữa đói. Có người
ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Vì người đông của hiếm. Kinh tế thị trường lại cạnh
tranh khiến kẻ mạnh luôn thắng còn người nghèo đói luôn thua thiệt. Những ngày
tết vừa qua tại bệnh viện Truyền Máu và Huyết Học Quận 5 vẫn có những người
nghèo khổ tấp nập tìm đến đây với hy vọng bán được thứ duy nhất bán được để tồn
tại. Đó là Máu hay Tiểu Cầu để có tiền trang trải nợ nần và cho con cái hưởng
chút hương vị mùa xuân. Gọi là "chợ" vì có kẻ bán, người mua. Nhưng
nơi đây chỉ duy nhất một "người mua" là bệnh viện. Theo báo tuổi trẻ
ghi nhận rẵng: "Sài Gòn những ngày tết sạch sẽ và yên tĩnh, mọi người gặp
nhau với những lời chúc tốt đẹp. Ngoài kia tiếng chiêng trống của một đám múa
lân rộn rã. Thế mà trong nầy vẫn có những người nghèo khổ phải nhốn nháo xin
bán từng giọt sức của mình".
Thế nhưng, cho dù là
giầu có hay có công danh sự nghiệp, dường như ai cũng không bao giờ toại nguyện
về cuộc sống mình. Người giầu cũng khóc, kẻ nghèo cũng than. Kẻ có địa vị cũng
khổ, người dân thấp hèn càng bất hạnh hơn. Con người thường hay than phân trách
phận vì Trời chẳng bao giờ làm cho họ toại nguyện về những gì mình đang có.
Có một chàng thanh niên nọ lúc nào cũng than
vãn số mình không tốt, không thể giàu có được. Một ngày kia, một ông lão đi
qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của anh bèn hỏi:
- Chàng trai, sao trông cậu buồn thế, có việc
gì không vui à?
- Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc chăm
chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
- Nghèo ư, cháu là một người giàu đó chứ?
- Chưa ai nói với cháu như vậy cả, cháu rất
nghèo.
- Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, ta
trả cháu 3 đồng tiền vàng cháu có đồng ý không?
- Không ạ.
- Giả như ta chặt một bàn tay của cháu, ta
trả 30 đồng tiền vàng, cháu có chịu không?
- Không bao giờ.
- Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả
cháu 300 đồng tiền vàng, cháu thấy thế nào?
- Cũng không được.
- Vậy ta trả cháu 3,000 đồng tiền vàng để
cháu trở thành ông lão như ta, già cả, lú lẫn được không?
- Đương nhiên là không.
- Cháu muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu
30,000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của cháu, cháu thấy thế nào?
- Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là
một người giàu có.
Trong cuộc sống, rất
nhiều người thường than thân trách phận mà không thực sự hiểu ra mình còn hạnh
phúc hơn rất nhiều người khác. Có kẻ giầu nhưng gia đình lại không hạnh phúc.
Có kẻ tuy nghèo nhưng gia đạo lại trên dưới thuận hoà. Có kẻ có tiền nhưng
không có sức khoẻ. Có người vất vả ngược xuôi nhưng lại chẳng đau yếu bao giờ.
Vì thế, dầu chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng hãy lạc quan với những gì mình
có. Hãy vui với phận số an bài. Đứng đứng đó để nguyền rủa đời mình mà hãy nhìn
về tương lai với tinh thần lạc quan và hy vọng. Người xưa vẫn thường nói:
"không ai giầu ba họ - Không ai khó ba đời". Cuộc sống luôn tặng ban
cho chúng ta biết bao niềm vui và hạnh phúc. Hãy biết tận hưởng những giây phút
hiện tại, đừng đứng đó mà nguyền rủa ngày tháng mình sinh, nhưng hãy đứng dậy
để vượt qua những khó khăn trước mắt. Hãy tin tưởng vào tương lai đang chờ đón
những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai còn
ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn
nhưng "sau đêm dài là ánh bình minh". Hiện tại là bóng đêm nhưng bình
minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: "chim trời chúng con
gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh
tươi rực rỡ". Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải
thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho
con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ước gì mỗi người
chúng ta biết an vui với phận số của mình trong niềm tin tưởng phó thác vào
Chúa. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và giúp chúng ta vượt qua những khó khăn
của dòng đời hôm nay. Amen.
4. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai
Đã là người, khi
bước vào cuộc đời này không tránh khỏi những băn khoăn. Có những băn khoăn về
phận người, có những băn khoăn về đời sống vật chất và cũng có những băn khoăn
về đời sống tinh thần. Từ những băn khoăn đó, con người đi tìm lý giải cho ý
nghĩa của cuộc đời. Vì mang trong phận mình là con người yếu đuối, bất toàn hay
nói đúng hơn là bất lực trước những nghịch cảnh của cuộc đời để rồi sự băn
khoăn đó cứ dồn dập trong cuộc đời.
Thiên Chúa nói với
con người là Thiên Chúa ở bên, ở gần con người và chở che con người ấy nhưng mà
thực tế trong cuộc sống, quá nhiều lần Thiên Chúa làm cho con người hụt hẫng và
không biết là Thiên Chúa có ở cạnh bên mình hay không?
Trong bài ca thứ
hai, bài ca người Tôi Trung trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe đó diễn
tả tâm trạng thổn thức, tâm trạng lo lắng rằng Thiên Chúa có ở bên mình hay
không. Chúng ta vừa nghe: Sion từng nói: "Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng
tôi đã quên tôi rồi! " Nghe tiếng lòng thổn thức như vậy, Đức Chúa đã đáp
lời: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con
mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên
ngươi bao giờ.
Đức Chúa không cần
phải nói nhiều, không cần giải thích nhiều, Đức Chúa chỉ lấy hình ảnh của một
người mẹ để minh họa. Đã là mẹ thì không bao giờ có ai cam tâm bỏ con mình cả
và rồi Đức Chúa nói rằng dẫu cho là người mẹ có quên đứa con mình đi chăng nữa
vì lý do nào đó còn Đức Chúa thì Đức Chúa không hề quên.
Chúa Giêsu, hôm nay,
trong trang tin mừng hết sức quen thuộc như muốn nhắc lại cho chúng ta về thao
thức của con người về tương lai, về cuộc đời.
Với hình ảnh hết sức
bình thường của con chim. Chúa Giêsu nói cho các môn đệ rằng chúng không gieo,
không gặt và cũng chẳng thu vào kho lẫm thế nhưng mà lạ lùng là cha trên trời
vẫn nuôi chúng. Quả thật là như vậy, bao nhiêu con chim trên trời nhưng chúng
ta thấy có con nào phải chết vì đói đâu. Thiên Chúa vẫn nuôi chúng mỗi ngày,
không chỉ có nuôi thôi nhưng còn nuôi một cách hết sức chu đáo nữa là đàng
khác.
Kế đến, Chúa Giêsu
lại dí dỏm về chiều cao của con người. Ai lùn thì sẽ rõ chuyện này. Biết mình
lùn đấy nhưng làm sao mà có thể cao hơn được. Khoa học dù có can thiệp đi chăng
nữa nhưng hình như chẳng được là bao.
Hết sức bình thường
với con người là chuyện cơm ăn áo mặc. Dù cho con người cố gắng mặc đẹp thế nào
đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào sánh bằng bông hoa huệ ngoài đồng. Không
chỉ có hoa huệ mà còn nhiều loài hoa khác nữa áo quần của con người không thể
nào sánh ví với vẻ đẹp mà tạo tác ban tặng cho nó.
Đi đến một bước xa
hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng tất cả những gì lo cho con người thì mọi người và
cả dân ngoại cũng đi tìm cái đó nhưng Cha của anh em trên Trời biết anh em đi
tìm cái gì. Kết thúc những gì Ngài nói, đỉnh điểm của điều Ngài nói đó là chớ
phải lo lắng gì về ngày mai cả. Ngày mai đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa.
Thánh Vịnh 61 mà
chúng ta vừa nghe trong bài đáp ca nói lên tâm tình cuả người tin tưởng vào
Chúa:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh
quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Thánh Vịnh 61 quả
thật là tuyệt vời khi nói đến kẻ thường dân, khi nói đến người quyền quý. Tất
cả chỉ là không không trước mặt Thiên Chúa mà thôi:
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Thế đấy! Phận con
người hết sức mong manh và dù cho có giàu có, dù tiền tài có sinh sôi nảy nở đi
chăng nữa cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Tại sao không giải quyết được?
Là vì khi nhắm mắt xuôi tay có mang theo được gì đâu và sinh mạng của mỗi người
nằm trong tay ai?
Mới đây không lâu, một buổi chiều trung tuần
tháng 1. Một linh mục thân quen vừa từ trên lầu xuống để đi dâng Lễ bỗng dưng
té ngã. Anh em đưa vị linh mục ấy đi cấp cứu và rồi vừa vào nhà thương thì tim
đã ngưng đập. Cố gắng hết sức chạy chữa nhưng không qua khỏi.
Được biết sáng hôm ấy thì địa phận Mỹ Tho
phải ngậm ngùi chia tay với cha sở và cũng là giám đốc Trung Tâm Mục vụ của địa
phận. Nghe đâu Ngài đang chơi thể thao với các thầy bỗng dưng té xuống. 15 giờ
30 Chúa gọi Ngài về.
Đang chuẩn bị cử hành lễ an táng cho Cha kia
vừa té ngã ở chân cầu thang và được Chúa gọi về thì nghe tin nghệ sĩ ưu tú Kim
Ngọc cũng vừa ra đi sau khi té ở nhà riêng. Con cái, bạn bè thân hữu không khỏi
bàng hoàn trước sự ra đi của nghệ sĩ Kim Ngọc.
Đứng trước 3 cuộc ra
đi vội vàng ấy những ai quen biết, những người thân trong gia đình không ai là
không bàng hoàng, không thẩn thờ. 3 cuộc đời ấy, ba sinh mạng ấy chắc chắn
không ai có thể ngờ được rằng đến ngày đó Thiên Chúa gọi về. Nhiều người vẫn
tưởng là những người ấy không thể nào đi sớm như vậy. Trong Thánh Lễ an táng,
vị giảng lễ hôm ấy ngậm ngùi thân thưa với cộng đoàn, với người quá cố rằng
ngài không nghĩ rằng ngài giảng lễ an táng cho người quá cố. Lẽ ra người quá cố
giảng lễ an táng cho ngài vì ngài lớn tuổi hơn người quá cố!
Lớn tuổi hơn, nhỏ
tuổi hơn hay thậm chí tài giỏi hơn không quan trọng. Chuyện quan trọng là tất
cả đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa tất cả.
Chúa đã khẳng định
rằng tất cả những gì mà chúng ta chưa kịp xin thì Ngài thấu hiểu. Cuộc đời của
chúng ta, chúng ta chưa biết ngày nào, giờ nào nhưng Thiên Chúa biết.
Thiên Chúa vẫn mời
gọi chúng ta tin tưởng, quan phòng vào lòng bàn tay từ ái của Chúa. Thái độ tin
tưởng hay ngờ vực vẫn là thái độ tự do và lời đáp trả của mỗi người chúng ta.
5. Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì?
mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của
Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên
Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên
Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo
dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá
máu Ngài.
Đọc kỹ bản văn của
Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến
nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm
bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước
đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được
gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm
được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có
nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy
ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ
chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con
người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa
dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc:
việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công
chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn
lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng
ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật
tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm
nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay
chọn tiền bạc? Đã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa
quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh
thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta
cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
6. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Nghe qua bài Tin mừng này với những từ ngữ Chúa dùng như:
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”, hoặc “Anh
em đừng lo lắng lấy gì mà ăn… lấy gì mà mặc”, có lẽ chúng ta những doanh nhân
đang theo đuổi mục đích làm ra của cải, cảm thấy lúng túng. Tin mừng muốn nói
gì đây. Vì thế ta phải tìm hiểu cẩn thận để hiểu Lời Chúa hôm nay thực sự là
một Tin mừng, là sự bằng an cho cuộc sống.
Trước hết bài Tin mừng này có liên quan đến bài diễn từ đầu
tiên của Chúa Giêsu, cũng gọi là bài giảng về hiến chương nước Thiên Chúa, cho
thấy đâu là hạnh phúc thật cho nhân loại, hay còn gọi là tám mối phúc thật với
ba nội dung chính:
- Thiên Chúa Toàn Năng, đầy tình yêu thương nhân loại, chính
Ngài là hạnh phúc thật của chúng ta, ngoài Người ra con người không tìm đâu
được hạnh phúc, cho nên phải đặt hết tin tưởng, gắn bó yêu mến Ngài trên hết
mọi sự.
- Hai là con người là anh em với nhau, vì cùng mang dấu ấn
Thiên Chúa nới mình. Cần theo đuổi cuộc sống đầy tình người, sống tinh thần hòa
bình, khoan dung tha thứ, chân thành trong sáng và đặc biệt phải biết thương
yêu những người yếu kém trông cộng đoàn.
- Ba là trước mọi gian nan thử thách, kể cả sự bắt bớ ngược
đãi vì Tin mừng, hãy coi đây là cơ hội để làm chứng lòng trung tín và hy vọng
nơi Thiên Chúa của mình.
Sau bài diễn từ quan trọng đó thì Chúa đem ra nhiều trường
hợp cụ thể để thực hành cho đạt tới Hạnh phúc thật đó. Và coi chừng những trở
ngại có thể làm ta sai lạc mục tiêu hạnh phúc thật. Một trong các trở ngại đó
là vấn đề của cải, của cải có thể trở thành tà thần đầy nguy hiểm.
Trước vấn đề của cải, Chúa cẩn thận dạy các tông đồ: “Người
ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi của cải được” hoặc “anh em
đừng lo lắng lấy gì mà ăn…lấy gì mà mặc” thế là gì? Nhu cầu sự sống như cơm áo,
phương tiện giao dịch của thời văn minh như tiền bạc, trương mục ngân hàng ta
phải lo cho có để dùng mới được. Thực ra ở đây Chúa không kết án tiền bạc mà
Chúa đề cập đến cách làm ra và sử dụng tiền bạc. Chúa nói “đừng lo lắng”, không
có nghĩa là đề cao những người biếng nhác, những người vô trách nhiệm, siêng ăn
nhác làm, không quan tâm đến gia đình con cái. Chúa cũng không phê phán những
người lập ra những kế hoạch, lên chương trình trong công việc làm ăn. Kinh tế
thị trường kinh tế tự do, không biết lo là thất bại. “Đừng lo lắng” ý Chúa muốn
nói, phải kết hợp sao cho hài hòa giữa công việc làm ăn, với niềm tin vào Thiên
Chúa Tình yêu, Ngài đang tham dự vào đời sống chúng ta. Trong đời sống đó có
phần cố gắng của chúng ta, mà có cả quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Cái
thất bại của con người tại vườn địa đàng là họ đã bỏ Thiên Chúa tin vào satan
và kế hoạch riêng tư đầy kiêu căng của mình.
Sự tham dự của Thiên Chúa vào đời ta là kế hoạch kỳ diệu ta
không tưởng tượng được. Tại tiệc cưới Cana, trông khi người ta cần mười lít
rượu là cùng, nhờ lời Đức mẹ, Chúa tham dự giải quyết cuộc khủng hoảng với 600
lít rượu tặng đôi tân hôn. Tại bãi biển hoang vu, các tông đồ chỉ kiếm được năm
chiếc bánh và mấy con cá, Chúa biến thành cả núi cá và bánh cho 4.000 người ăn
no mà còn dư. Cho nên trong việc làm ăn, hãy biết trông cậy vào Chúa để Ngài
yêu thương giúp đỡ. Bông hoa sớm nở chiều tàn, hay con chim bé nhỏ Chúa còn
thương phương chi con người là con của Chúa.
Khi nói người ta không thể làm tôi hai chủ: vừa Thiên Chúa
vừa tiền bạc. Ý Chúa muốn giải thoát, muốn tránh cho ta thói tham lam, lấy thế
lực vạn năng mạnh mẽ của tiền của để bảo đảm tương lai, người ta coi tiền tài
như thần thánh và tìm kiếm bằng bất cứ giá nào. Người ta quên thời gian hiện
tại và hạt giống của tương lai, chỉ đi tìm của cải mà đánh mất tương lai đời
đời thì đó là người ngu dại. Để làm sáng tỏ vấn đề Chúa lấy chuyện người phú hộ
làm thí dụ, ông làm kinh tế giỏi, ông lập kế hoạch lớn, làm nhiều kho lẫm, và
cho thế là an toàn, thủ hưởng lâu dài suốt đời. Nhưng Chúa bảo hắn: “Đồ ngu,
nội đêm nay người ta cất linh hồn ngươi về thì những của cải đó ngươi để cho
ai?”
Nhớ lại câu chuyện ông Giakêu, suốt một quá khứ dài ông mãi
mê tìm tiền của, làm giàu bất chính. Vậy mà hạnh phúc chưa thấy vì lòng vẫn còn
đói tiền của, trong khi những tiếng phê phán chê bai chỉ làm cho ông chán ngấy
cuộc đời. Vậy mà sau một đêm, Lời Chúa soi sáng cho ông thấy rõ chân lý giá trị
của hiện tại, ông đã có một quyết định thật lớn lao: “Ông sẵn sàng lấy một nữa
gia tài cho người nghèo, đền lại gấp bốn sự thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ
khác.”, lúc đó Chúa nói ngay với ông: “Hôm nay ơn cứu độ đến với nhà này”
(Lc19,9). Hai tiếng “hôm nay” ở đây rất quan trọng vì nó cho ta thấy Chúa hiện
diện ngay lúc chúng ta làm việc bác ái để ghi công đời đời cho chúng ta. Cuộc
sống này là thời kỳ gieo tỉa, mùa gặt sẽ đến mai sau. Nhưng kết quả việc bác ái
là của cải cho đi đã trở thành hồng phúc vinh quang Chúa cất sẵn trên trời cho
chúng ta.
Dụ ngôn Cuộc phán xét chung cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ở
đây không thấy nói đến đạo nào, chức vị nào mà chỉ nói đến Tình Yêu. Lúc đó
Chúa cho người ta thấy việc bác ái thực hành là tiêu chuẩn duy nhất làm cho
chúng ta được thưởng công đời đời, vì mỗi lần giúp đỡ người nghèo là giúp cho
chính Chúa. Chúa nói với họ: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng
vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo Thiên lập địa.Vì xưa Ta đói các
ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp
rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng;
Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han”. Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi Chúa: Có bao giờ
chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Chúa đáp: “Ta bảo thật
các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của ta là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Đó là những người được tuyển
chọn. Còn những người bị loại, bị xua đuổi vào lửa đời đời dành cho ác quỉ, thì
lý do cũng là không biết thương những người đói khát, bơ vơ…v.v. Anh
em thấy rõ Thiên đàng chúng ta ở đâu? Đó chính là “Tình Yêu”, là trân trọng và
yêu thương con người vì có Chúa ở nơi họ. Như vậy các việc lành khác thì sao?
Có cần không? Tất cả đều hướng về Tình yêu là điều răn trọng nhất.
Nói tóm lại, hiện tại ta hướng về Tình yêu thì Thiên Chúa
Tình yêu sẽ đón nhận ta. Ta chỉ biết hướng về mình để dùng của cải phục vụ cho
mình và gia đình thì chúng ta mất sự sống đời đời. Chúng ta chọn đường nào? Bài
Tin mừng kết luận: “Trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Người…”. Nước Thiên Chúa là Tình Yêu. Sự công chính của Ngài cũng là Tình
Yêu, vì Ngài là Tình Yêu.
Cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông
điệp Tình Yêu và chân lý, Ngài đã khẳng định rằng: “Mọi sự bắt nguồn từ Tình
Yêu, mọi sự được định hướng trong Tình Yêu và mọi sự sẽ kết thúc trong Tình
Yêu”.
Người doanh nhân có công làm cho tiền của luân chuyển để cho
dân giàu nước mạnh thật là quý trông thời kỳ kinh tế thị trường này. Nhưng khi
thành công ta phải biết chia sẻ cho người nghèo thì mới đúng nghĩa doanh nhân
công giáo. Vì chỉ chờ cho đến lúc giàu có nhiều của mới chia sẻ thì đã bỏ mất
cái ngày Hôm Nay. Chúa còn nói thêm: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai
có cái khổ của ngày mai.
7. Chọn Thiên Chúa hay tiền của
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải
có sự lựa chọn cho đời sống của mình về phương diện tinh thần cũng như vật
chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa
chọn:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”(Mt
4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa,
hai là Tiền của. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về
sự lựa chọn đó.
Chúng ta là những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa
Thiên Chúa vì chúng ta là con của Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài.
Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự
quan phòng của Ngài. Chúa khuyên chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc,
hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý:
Chúa khuyên chúng ta đừng “lo lắng” nhưng phải biêt “lo liệu”. Lo lắng là dấu
chỉ chưa đủ tin tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự
trong hiện tại cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác
cho Chúa.
Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ
lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta.
Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi
sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương
ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng
ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng
say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 49,14-15
Dân Israel bị lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè
nén của ngoại bang, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã
quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị giảm sút.
Nhưng tiên tri Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không
bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động
và cụ thể: có người mẹ nào mà bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con
mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên đâu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 4,1-5
Tín hữu Corintô có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu
căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác,
đó là xét đoán.
Thực ra, không ai biết được con tim khối óc của người khác,
chỉ là phỏng đoán, duy một mình Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi
người hãy dành quyến xét xử cho Thiên Chúa “Đấng thấu suốt lòng mọi người”.
+ Bài Tin mừng: Mt 6, 24-34
Hôm nay Đức Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải
biết lựa chọn. Chỉ có hai con đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay
phụng sự Tiền của.
Phụng sự Thiên Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương
Nước Trời và tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi
hành thánh ý Ngài.
Nếu phụng sự Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành
rằng chúng ta phải làm việc để giải quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc…
nhưng chúng ta phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác
Ngài sẽ ban cho.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Bắt cá hai tay
Người Việt nam chúng ta thường dùng câu tục ngữ “Bắt cá hai
tay” để chỉ những người tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ
này như thế nào? Nhân dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay
bắt một con, và kết quả là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà
ca dao Việt nam đã từng khuyên nhủ mọi người:
Thôi đừng bắt cá hai
tay
Cá thì xuống bể, chim
bay về ngàn.
Câu tục ngữ này có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu
nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ
ghét chủ này mà yêu chủ kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia.
Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24).
I. PHẢI BIẾT CHỌN LỰA
1. Lựa chọn là điều cần thiết
Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập
cuộc là thân phận của con người. Sống là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa
chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn. Chính những lựa chọn này sẽ làm cho
người ta thành công hay thất bại, trở thành người tốt hay người xấu, được hạnh
phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ
cũng là một giằng co, nuối tiếc.
Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát,
không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ
cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền
của.
2. Phải chọn lựa thế nào?
a) Thời xa xưa, trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã
bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal. Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về
với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa chon:”Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân
cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal
thì cứ theo nó” (1V 18,21)
b) Thời nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ
tiền của như sau:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của
được” (Mt 6,24)
* Ý nghĩa chữ “Tiền của”
Tiền của ở đây được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON,
có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị
của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên
bàn cân để người ta lựa chọn, thì quyền lực của nó phải là vô song.
* Ý nghĩa chữ “tôi” và “chủ”.
Đối với người xưa “không ai được làm tôi hai chủ” có ý
nghĩa hơn đối với chúng ta. Từ ngữ là “tôi” trong nguyên ngữ Hy lạp là “nô lệ”, làm nô
lệ cho; còn từ “chủ” để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này sẽ rõ hơn
nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.
Để hiểu ý nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ
thời xưa. Nô lệ, trong quan điểm luật pháp, không phải là một con người mà là
một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào
cũng được. Đối với luật pháp, nô lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán,
đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở
hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời xưa không có chút thời giờ nào là của
riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ đều thuộc về chủ…
Đây chính là mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên
Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng
ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?
3. Nguy hại của thần Mammon.
Thần Mammon hay thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó
giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng.
Người Vệt nam chúng ta có câu:
Có tiền mua tiên cũng
được
Hoặc:
Mạnh về gạo, bạo về
tiền
Lắm tiền, nhiều gạo là
tiên trên đời.
Ngay cả việc đạo cũng
phải có tiền mới xong:
Có thực mới vực được
đạo.
Nguyên ngữ Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên
nghĩa của nó không phải là một chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn
dạy:”Hãy quí trọng mammon của người khác như của chính ngươi”, nghĩa là mọi
người phải coi tài sản vật chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.
Tiền của là như vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với
tiền của như thế? Thật ra, Ngài không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những
ai ham mê của cải mà thôi. Hay nói cách khác, Thánh Kinh đã nói:”Lòng ham tiền
của là cội rễ mọi điều ác” (1Tim 6,10).
Và chúng ta phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu
hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau.
Tự bản chất của tiền là tốt, nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông
chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta.
Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích
nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô
nghèo khó.
Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ
Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà
không còn tin cậy vào Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái
lạc không kịp ăn năn.
Vì thế, Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm
tôi tiền của. Ngài cảnh báo như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
Truyện: Nô lệ hay tự do
Hôm ấy, trời vừa rạng
đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ:”Xem chừng anh mơ ước giầu có lắm. Vậy từ
giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả
nhữngg ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.
Anh vui sướng quá! Cha
chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ
trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh
đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước
trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại chạy tiếp.
Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỷ phú
với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.
Nhưng vừa bước chân
vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn
sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá
mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng,
nhưng không quá ba tấc đất.
Đó là kết cục của một
con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt
sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.
Sự nô lệ cho tiền của
là một bệnh “ung thư” thật sự
của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây
phương đang tự phá hủy chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi
theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh
ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Satan” như cách gọi
của tác giả người Ý, Papini.
II. TIN VÀO CHÚA QUAN
PHÒNG
1. “Đừng lo lắng về của ăn áo mặc”
Tiếp theo việc phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của,
Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và
hoa đồng nội, chúng sống thế nào!
Chúng ta cần phân biệt giữa “lo lắng” và “lo liệu”. Chúa bảo
chúng ta đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng
vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai
là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu
cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.
Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín
thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần
linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được
nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi
tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta.
Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.
2. Hãy tin vào Chúa quan phòng
Quan phòng là hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người
và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số
mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định
trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành
hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy
tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự
do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng
vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không
bao giờ được quên là ta tùy thuộc vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo
vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài
trong tay.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là
ngay cả khi họ bị lưu đầy bên Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc
dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên
tri Isaia bảo ta là phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những
ngày đen tối, bởi vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình
ảnh người mẹ với đứa con, không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người
mẹ có quên con đi chằng nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con
Ngài.
Tin mừng cũng nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội
bên tai ta như là lời an ủi vỗ về:”Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng:
chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc… Cha trên trời biết rõ chúng
con cần những sự đó” (Mt 6,31-32).
Truyện: Người mẹ không quên con
Một phụ nữ nghèo nàn ở
trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm tan nát đời
bà.
Anh ta không chịu làm
việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh lấy trộm
hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu xin anh
thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ anh tan
nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.
Có lúc anh ta phải vào
tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta không bỏ
tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh ta trong
một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà đang
trên đường đến nhà tù.
“Đứa con trai này làm
đời bà tan nát” vị linh mục nói. “Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Tại sao bà
không quên nó đi”?
“Làm sao tôi có thể
quên nó được”? bà đáp lại. “Tôi không thích việc nó làm nhưng nó vẫn là con
tôi”.
Bạn có thể nói rằng
người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa một
bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh nào.
Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của bà
mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh
Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa
(McCarthy).
3. Quan phòng và hành động.
Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào
tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng:”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi
há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ
động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải
thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công
trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng
nên mọi sự tốt đẹp.
Nếu Đức Giêsu nói:”Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào
Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa
đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh
truyền:”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.
Thật ra, Đức Giêsu khẳng định:”Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt
10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không
có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên
án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận
(Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên
ngoài”.
Vả lại, Ở Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã
trải qua kinh nghiệm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo
thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài
gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc
sống.
Nhà nho cũng hiểu điều đó khi nói:”Thiên hành kiện, quân tử
dĩ tự cường bất tức”: trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải
tự cường, hết sức làm như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua,
là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh
của trời để làm theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên
Chúa quan phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.
Nhà nho chân chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành
đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn
ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu,
đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con
người yếm thế thành những nam nhi anh hùng:”Chí những toan xẻ núi lấp sông”,
biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao:”Chẳng lợi danh gì
lại hóa hay”. Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu
thành nhân mưu ích cho đời:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành
Đấng Cứu Độ của muôn dân.
III. TÌM CÁI ƯU TIÊN
CHO CUỘC SỐNG
Trong tất cả các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh
vật trên mặt đất, mối quan tâm trước tiên của Chúa là con người, vì con người
là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa
đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng
giống hình ảnh của Chúa.
Nhưng chúng ta phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ
mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh
phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ
sống của ta không phải là Chúa nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất
đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những
hoàn cảnh hay trạng huống của cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta
sống thế nào để có thể cảm nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc
này qua lúc khác, từ ngày nọ qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm
Lời Chúa:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người,
còn mọi sự khác, Người sẽ ban cho”(Mt 6,33).
Truyện: Nguyên tắc sinh tồn
Một giáo sư thực vật
học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ hợp chất
của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể
tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một học sinh đứng lên
hỏi:
- Thưa thầy, nếu đem
hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời:
- Với hạt giống của
tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm
ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng ta
gọi là nguyên tắc sinh tồn.
Hạt giống là một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể
với sự tài giỏi của khoa học, tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những
người máy robot, song không thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ
duy nhất ở trong tay Thiên Chúa thôi.
Nếu Chúa đã nói:”Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai,
cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”(Mt 6,34) thì chúng ta phải
hiểu là: quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay,
phải chu toàn nó; tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an
bình thư thái.
8. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật VIII Thường Niên này nói về ơn quan phòng của
Thiên Chúa, gợi lên tấm lòng trìu mến yêu thương của Thiên Chúa.
Is 49,14-15
Qua vị ngôn sứ của Ngài, Thiên Chúa khẳng định cho dân Ngài
rằng Ngài ân cần chăm sóc họ như tấm lòng của người mẹ đối với con thơ bé bỏng
của bà.
Mt 6,24-34
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu miêu tả Thiên Chúa ân cần chăm
sóc con người như một người cha hằng quan tâm đến những nhu cầu của con cái
mình, và còn quan tâm đặc biệt hơn đối với những ai đặt quyền ưu tiên cho việc
tìm kiếm Nước Trời và cho những đòi hỏi của sự thánh thiện như điều kiện của
Nước Trời.
1Cr 4, 1-5
Bài đọc II không cho thấy những mối liên hệ với hai bài đọc
kia: nó là đoạn trích sau cùng từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các
tín hữu Cô-rin-tô như một lời kết luận. Thánh Phao-lô công bố rằng thánh nhân
thực hiện sứ mạng của mình như một người quản lý trung thành của những mầu
nhiệm Thiên Chúa. Các tín hữu Cô-rin-tô không có quyền tranh cãi về phẩm chất
sứ điệp của thánh nhân. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền phán xét.
BÀI ĐỌC I (Is 49,14-15)
Tin Mừng Chúa Nhật này trình bày Thiên Chúa như một người
cha, quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình. Bản văn Cựu Ước trình bày cho
chúng ta Thiên Chúa như một người mẹ, đầy trìu mến yêu thương đứa con thơ của
mình.
Tác giả ca tụng tình mẫu tử của Thiên Chúa đối với dân Ngài
là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Ông thi hành sứ vụ của mình bên cạnh những kẻ lưu
đày ở Ba-by-lon. Tác phẩm của ông xứng đáng với nhan đề “Sách An Ủi” (40-55):
ông hứa với những người bất hạnh này cuộc giải phóng gần kề và cuộc hồi hương
sắp đến rồi. Trong những chương cuối cùng, từ chương 48 đến chương 55, vị ngôn
sứ nhấn mạnh những viễn cảnh về một Giê-ru-sa-lem được hồi sinh từ hoang tàn đổ
nát, sẽ gặp lại cảnh huy hoàng thịnh vượng như xưa, vì Đức Chúa không quên
Thành Thánh Xi-on, đại diện toàn thể đất nước.
1. Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem:
“Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa Thượng đã
quên tôi rồi’”.
Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem này mở ra phần thứ hai tác
phẩm của vị ngôn sứ. Phần thứ nhất được thống trị bởi lời phàn nàn của những
người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên Chúa không còn bận lòng đến số phận của họ:
“Hỡi Gia-cóp, sao ngươi nói, hỡi Ít-ra-en, sao ngươi bảo: ‘Đường tôi đi, Đức
Chúa không nhìn thấy, quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?’” (40:
27). Đức Chúa đã nhắc nhở cho họ rằng Ngài là Đấng sáng tạo toàn cõi đất và là
Đấng làm chủ mọi biến cố: Ngài có thể lật đổ kẻ áp bức, cho sa mạc nở hoa, vân
vân.
Thành Thánh hoang tàn đổ nát và thưa thớt dân cư: biểu thị
dân Thiên Chúa bất hạnh, than thân trách phận như một người vợ bị Thiên Chúa
dứt tình đoạn nghĩa (hình ảnh đến từ các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ Hô-sê).
Thiên Chúa trả lời khi công bố rằng Ngài yêu thương dân Ngài bằng trọn cả một
tấm lòng, một tình yêu sắc son, không tì vết, như người mẹ hiền tận tình yêu
thương đứa con thơ bé bỏng của mình.
2. Tình mẫu tử của Thiên Chúa:
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã thường diễn tả tấm lòng của Thiên
Chúa đối với dân Ngài bằng động từ “thương” mà ngữ căn của nó có cùng một ngữ
căn của từ “réhem” chỉ “dạ mẹ” (Isaiah 49:10,15; 55:7). Ngôn sứ I-sai-a đệ tam lấy lại
động từ này từ thầy mình khi ông viết: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của
mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dẫu nó có quên đi
nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Chắc chắn đây là cách diễn tả tình
yêu Thiên Chúa gây xúc động nhất mà chúng ta gặp thấy trong Kinh Thánh.
Thật ra, hai thế kỷ trước đó, trong vương quốc phương Bắc,
ngôn sứ Hô-sê đã ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài, được sánh ví
với tình yêu rất mực thủy chung của người chồng đối với vợ của mình hay của hôn
phu đối với vị hôn thê của mình. Tuy nhiên, ông không phải là không biết những
khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài: “Khi Ít-ra-en còn là
đứa trẻ, Ta đã yêu nó….Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với
chúng như nguwofi nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút
cho nó ăn” (Hosea 11:1-4). Sau này, vài thập niên trước ngôn sứ I-sai-a đệ nhị,
ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã đặt trên môi miệng Đức Chúa những lời đầy cảm xúc này:
“Ép-ra-im có phải là đứa con Ta yêu dấu, một đứa con Ta rất mực mến yêu? Vì mỗi
lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta
thương nó, thương nó rất nhiều” (Gr 31: 20).
Chúng ta lưu ý rằng để diễn tả tấm lòng của Đức Giêsu, các
thánh ký sẽ lấy lại cùng hình ảnh khi sử dụng một động từ Hy-lạp: “chạnh lòng
thương” có cùng ngữ căn: “lòng dạ”, có nghĩa “mối cảm xúc dâng lên tận tâm can”. Đức Giêsu
chạnh lòng thương trước nỗi đau của người đàn bà góa khóc thương đứa con trai
một của mình, trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng hay nỗi khốn cùng của
những người bệnh hoạn tật nguyền.
Và nếu Đức Giêsu về phương diện thể lý mặc lấy nam tính,
phải chăng Ngài đã không đảm nhận theo một cách nào đó nét đặc trưng của nữ
tính khi sinh hạ một nhân loại mới trong đau đớn sao?: “Khi sinh con, người đàn
bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn
gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế
gian” (Ga 16: 21).
BÀI ĐỌC II (1Cr 4, 1-5)
Với bản văn này, chúng ta hoàn tất phần thứ nhất thư thứ
nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Thánh nhân cố hàn gắn lại
những bất đồng chia rẽ giữa những tín hữu Cô-rin-tô; thánh nhân lại càng nhiệt
tâm hơn vì Giáo Đoàn này là công trình của ngài.
1. Người quản lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa:
Vả lại, những chia rẽ này đụng chạm trực tiếp đến thánh
nhân, bởi vì có “một phe nhóm thuộc về ông Phao-lô”. Tuy nhiên, thánh Phao-lô
rất nhạy bén. Thánh nhân đã bị thương tổn, không ở nơi tình cảm riêng tư của
ngài, nhưng ở nơi lý tưởng tông đồ của ngài. Cảm thấy mình bị bình phẩm hay bị
nghi ngờ theo những tiêu chuẩn phàm nhân (có thể về thể chất của ngài, lập luận
của ngài, ngôn từ của ngài, dáng điệu cử chỉ của ngài, vân vân), thế nên chỉ sứ
điệp phải truyền đạt mới là điều quan trọng. Đây thật sự là một sự thử thách
đối với vị sứ đồ hiến dâng bản thân mình cho sứ mạng của mình. Từ đó, thánh
nhân thốt lên: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức
Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa”.
2. Phải trả lẽ với lương tâm của mình:
Thánh nhân không là một siêu sao, nhưng chỉ là người quản lý
trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó là tiêu chuẩn duy nhất theo đó vị
sứ đồ chịu quyền xét xử.
Thánh nhân phải trả lẽ với ai? Không với những Ki-tô hữu
Cô-rin-tô. Những người này không có thẩm quyền phán xét lòng trung thành của
thánh nhân. Cũng không tòa đời (chắc chắn thánh nhân nghĩ đến việc ngài bị điệu
ra trước quan tổng trấn Rô-ma là Gallion ở Cô-rin-tô).
Phải chăng thánh nhân phải trả lẽ cho lương tâm của mình?
Vâng, tất nhiên. Thánh Phao-lô diễn đạt ngay liền một cách tinh tế: “tôi chẳng
thấy lương tâm áy náy điều gì”. Người duy nhất có thẩm quyền xét xử thánh nhân
là chính Thiên Chúa, chứ không một ai khác.
Chúng ta thấy thánh Phao-lô nâng cao dần dần cuộc tranh luận
như thế nào. Thánh nhân đưa ra một định nghĩa rất đẹp về sứ vụ tông đồ và dẫn
đưa lập luận của mình cho đến khi gợi lên cuộc phán xét chung cuộc, ở đó những
ý định ẩn kín trong thâm tâm con người được phơi bày ra và ở đó những khen
thưởng xứng về những công việc của mình.
TIN MỪNG (Mt 6,24-34)
Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh
Mát-thêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Ki-tô. Cung giọng của đoạn
văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành
ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử
thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao
vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của
Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi
các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời.
Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng
đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những
trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa và tiền của:
Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát
biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế.
Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài
áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã
gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc
chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông
chủ.
Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên
Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ
cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu
đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên
Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của
cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu,
nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6: 25-30), cho thân thể: lấy
gì mà mặc (6: 31-33) và về ngày mai (6: 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh
nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó:
“Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh
em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Cũng như cô Mác-ta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp
Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời
Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết
lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên
phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của
mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh
Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv
104, 27, 145, 15; 136, 25; 147, 9).
Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví
dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin
tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn
hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích
trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay
còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ
nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai
đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi
tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Ga-li-lê thu lượm
lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng
bánh.
Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội,
Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật
cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả
của mình phải cho giúp người Ki-tô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái
độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Ki-tô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan
phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.
4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”.
Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm
kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những
điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng
đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa
với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng
đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà
Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. “Anh em
đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và
một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì
ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.
9. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ
mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của
được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người
kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi
sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả
hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự
do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31.
34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ
thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm
ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay
lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém
lòng tin (c. 30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo
khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối
tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một
mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu
(c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của
mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày
mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của
họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa
Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi
tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình
an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được
ban dư dật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui
tươi.
dù có phải lo âu và
thống khổ,
xin cho con đừng bao
giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến
những người quanh con,
những người - cũng như
con -
đang cần một người
bạn.
Nếu như con nên yếu
đuối,
thì xin cho con biết
yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ
hơn.
Nếu bàn tay con run
rẩy,
thì xin giúp con luôn
biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón
nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết
trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng
cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương
muôn đời. Amen.
10. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Anh em đừng lo lắng về ngày
mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34)
Suy niệm:
Phân tích
Bài Tin Mừng này có
hai ý lớn:
1. Không ai có thể
làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo lắng
về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa
lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự
công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu Chúa
Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó
là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức
phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.
2. Một ông già trúng
số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông.
Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì
nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho nhà thờ một nửa” mục sư té
xỉu.
3. Sở dĩ con người
lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con
người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không
gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ.
Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút
hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng
của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung
đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.
4. “Anh em đừng lo
lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt
6,34).
Cuộc sống hiện tại
với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model
của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh
vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo
nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút
hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán
nản.
Cuộc sống luôn đòi
hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm
thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay
vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng
hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán
cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho
con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân
con.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chọn Chúa là
gia nghiệp đời con. Vì chỉ nơi Chúa mà chúng con mới có sự sống đời đời. Xin
Mình Thánh Chúa nâng đỡ những yếu đuối, nhẹ dạ nơi bản tính loài người chúng
con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cạm bẫy của thế gian để hồn xác chúng
con mãi mãi thuộc trọn về Chúa.
Nhưng Chúa ơi! Ở đời người ta cần công danh.
Ở đời người ta chuộng sự giàu có. Chúng con cũng nhiều lần chạy theo những danh
lợi thú trần gian. Chúng con đã để tâm tìm kiếm của phù hoa mà quên đi hạnh
phúc thiên đàng. Chúng con tin Chúa nhưng lại chưa thờ Chúa trên hết mọi sự.
Chúng con chưa thực sự phó thác đời mình cho Chúa. Chúng con còn lắm bon chen
để tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng con thích tích góp của cải hơn là
tích đức đời sau. Chúng con lao tâm khổ trí vì của ăn mau hư nát hơn là giá trị
vĩnh cửu Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con
biết yêu mến Chúa hơn mọi sự trần gian. Xin loại trừ nơi chúng con những quyến
luyến của đam mê tội lỗi, lầm lạc. Xin cho chúng con luôn được trung thành
phụng sự Chúa hết cuộc đời. Amen
11. Tiền và Nước Trời
(Tổng hợp từ R.
Veritas)
Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:
Tiền có thể:
- Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua
được sự ngon miệng
- Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không
mua được sức khỏe.
- Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua
được giấc ngủ ngon lành.
- Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua
được mái ấm gia đình.
- Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua
được sự bình an thanh thản của tâm hồn.
- Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua
được sự thông minh, kiến thức.
- Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình
nghĩa.
- Mua được trái tim, nhưng không mua được
tình yêu.
- Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm
hồn.
- Mua được đời này, nhưng không mua được đời
sau.
- Mua được con người, nhưng không mua được
Thiên Chúa
- Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới,
nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…
***
Bạn thân mến! Lời
Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể
vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)
Đồng tiền là vật có
máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc
không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa.
Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè...
Tiền bạc không ưa
thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn,
tiền cũ…
người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người
già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.
Chúa Giêsu không bài
bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài
chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu
có trong việc sử dụng đồng tiền.
Tiền của tự nó không
xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người.
Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của
là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để
chiếm hữu thật nhiều tiền.
Tiền của cần thiết
cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo
trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề
cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc
sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.
Tiền của có thể trở
thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ
đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó,
điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước
Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn
tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)
***
Tâm sự của con chim Sẻ:
Bạn thân mến!
Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm
thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc
tôi…
Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo
hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ
đủ dùng và không có được một hạt dư…
Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi,
nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ
điều ấy...
Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng
– dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ
chở che …
Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp,
hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng
không bao giờ tôi lạc lối…
Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn
xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá
hơn các con chim ấy sao?... (Mt.6:26)
Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả
đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!
12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
“Hãy tìm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người”
Trong hai Chúa Nhật
trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những người
thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương quan đối
với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.
1. “Anh em không thể vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24)
Trước hết, bài Tin
Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: “Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được” (c.24).
Làm tôi (douleuein)
là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai khiến và
quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc đời mình.
Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt đối tùng
phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai chủ,
nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những người
rất đòi hỏi.
Nhưng sự “làm tôi”
mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông thường rất nhiều. Khi
đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể, Người muốn cho thấy sự
“làm tôi” ở đây phải là sự dấn thân phục vụ hết mình, trọn vẹn, chân thành, với
tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người ta càng không thể làm tôi hai chủ
được. “Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ
này mà khinh dể chủ nọ”.
Cuối câu 24, Đức
Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng định
một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được”. Hạn từ “Tiền Của” ở đây có thể được hiểu ở nhiều cấp độ
khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa thông thường. Một số
khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người ta kiếm chác được,
nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu (một cách hữu lý) rằng
“Tiền Của” ở đây là tất cả những gì người ta tìm kiếm được và sở hữu được, ngay
cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài năng…, nói tóm lại là tất cả những giá
trị và thực tại trần thế, không loại trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả
những thứ đó đều có thể được người ta sùng bái quá đáng, và đều có thể trở
thành đối thủ cạnh tranh không khoan nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và
cuộc sống của người ta.
Chúa Giêsu không lên
án “Tiền Của”, nhưng Người không chấp nhận những ai để cho thói tôn sùng “Tiền
Của” làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những ai yêu mến và gắn bó với những
thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn đề không phải là không có “Tiền
Của”, mà là không được ưu tiên nó như là thực tại quan trọng nhất và có sức chi
phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa, quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên
Chúa phải chiếm vị trí số một, và các đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ
nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi. Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình
yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài. Chính trong thái độ tâm linh căn bản
đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử đúng đắn đối với những thực tại và giá
trị trần thế, ngay cả những thực tại và giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống
còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.
2. Đừng lo lắng khi phải đối
diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)
Những của cải và giá
trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một
thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác
động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản
của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để
con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng
ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống,
phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối
tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể
tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó
như thế nào.
Chúa Giêsu dạy:
" Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng
lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể
chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt,
không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài
đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không
làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn,
dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng
tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại
vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”
(cc.25-32).
Với một loạt những
quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ
chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã
ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người
lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương
tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn,
cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ,
cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự
cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái
mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và
cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà
kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).
Chúng ta được mời
gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian
của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói rằng
chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay
đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều
đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá
và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên
Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để
chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự
vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời
và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực
đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và
chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực
đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa,
không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về
những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng”
của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc
quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá
bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng
Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành
yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của
Người.
3. Chọn lựa căn bản của cuộc
sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)
Sau khi đã dạy chúng
ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối
ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị
của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói: “Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày
mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (cc.33-34)
Nước Thiên Chúa và
sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và
chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những
thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho
chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn
đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của
chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và
tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý
hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của
Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của
người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ
trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của
chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước
hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những
điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện
chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không
tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn
quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa,
và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp
thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai
đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc
đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất
vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai
thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng
ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó
sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự
công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và
sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi
(5,3-12).
Tất cả chúng ta đều
chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta
rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho
cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta
được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết
nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh
mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những
bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em
trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng
vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người,
làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng
ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với
cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
13. Con là con của Chúa
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin Mừng
hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát: “Không ai
có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được.” (Mt.6,24).
LÀM TÔI THIÊN CHÚA
Năm 1989, 1 trận động đất 8,2 độ Richter gần
như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn
hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến
trường, nơi con trai ông đang học.
Ở đó, ông nhìn thấy 1 đống đổ nát - ngôi
trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn
nói với con mình: "Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!". Và ông bật
khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định
hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường
học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ huynh thấy người đàn ông làm như
vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: "Quá muộn rồi!","Anh
không làm được gì đâu", "Về nhà đi" hoặc "Chúng ta phải chờ
cứu hộ đến thôi"... Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói
đúng 1 câu: "Giúp tôi 1 tay!". Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn
thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường ra ngoài.
Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi
đống đổ nát.
- Chúng tôi sẽ lo việc này, ông về nhà đi!
Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch và
chỉ đáp:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can
người đàn ông:
- Anh đang trong trạng thái không ổn định.
Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà!
Nhưng họ cũng chỉ nghe được 1 câu:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Một người rồi nhiều người vào "giúp 1
tay"
Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng... 12
tiếng... 24 tiếng... 36 tiếng... Và đến tiếng thứ 38, khi kéo 1 tảng bê-tông
ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.
- Armand? - Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn
lại
và ông nghe thấy tiếng trả lời:
- Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo
các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ
luôn bảo vệ con mà...
14 học sinh trong số 38 em ở lớp của Armand
được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn
vào tạo thành cái "hang" nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn
đừng khóc, bởi vì "bố tớ sẽ đến cứu chúng ta!". Các em nhỏ hoảng sợ,
đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1 người cha đã hứa.
Làm tôi Thiên Chúa
là làm con Thiên Chúa:
“Hạnh phúc thật” của
con người.
Vì, làm tôi Thiên
Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.
“Làm tôi Thiên Chúa”
không phải là sống kiếp đời “Tôi mọi”, mà là được Ngài chia sẻ sự sống, và niềm
hạnh phúc.
“Làm tôi Thiên Chúa”
là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là vâng phục Thiên
Chúa và được Ngài che chở.
“Làm tôi Thiên Chúa”
là được “công tác” vào chương trình cứu độ của Ngài, vì được Ngài nâng lên bậc
“làm con Thiên Chúa”. “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
“Làm tôi Thiên Chúa”
là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là “bạn hữu”.
“Làm tôi Thiên Chúa”
là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc viên mãn.
“Làm tôi Thiên Chúa”
chính là “làm con Thiên Chúa”. Và chính vì thế, ta có thể vui sống, vững tin,
vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của Ngài.
“Làm tôi Thiên Chúa”
ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh hằng.
Và như thế, ta có
thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện kể
trên: “Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn bảo vệ
con mà!”.
“Có phụ nữ nào quên
được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa
con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi
nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng
quên ngươi bao giờ.” (Is.49,15).
LÀM TÔI TIỀN CỦA
Làm tôi tiền của là
“đại họa” cho bản thân và cộng đồng nhân loại.
“Làm tôi tiền của”
là sống một kiếp đời đày đọa.
“Làm tôi tiền của”
là sống “tôi mọi” không ngừng.
“Làm tôi tiền của”
là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên không được bảo vệ.
“Làm tôi tiền của”
là sa lầy vào những hành vi đen tối.
“Làm tôi tiền của”
là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.
“Làm tôi tiền của”
là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.
“Làm tôi tiền của”
là mất tất cả.
“Tiền của” là một
đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! “Ông chủ” xấu đó không ai
khác hơn là “ma quỷ”! Tiền của là phương tiện đáng sợ của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma
quỷ!
Thực tế, tiền của đem
lại cho con người “cơm no, áo ấm”, “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhưng tham vọng con
người là “túi tham không đáy”, thường không dừng lại ở mức “lương thực hằng
ngày”, nên đi xa hơn, tiến đến hành vi “tom góp”, cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu
càng nhiều càng tốt, bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và
tìm cách phá đổ tất cả những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm,
chối từ Thiên Chúa.
Đó là sự tiến hóa về
miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người không
“thức tỉnh”, con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành tinh chết,
không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những giá trị tinh
thần.
Hãy xem sự phá hoại
môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự đóng
góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.
Tin Mừng hôm nay
không phải là bài học “nghệ thuật sống” về sự an nhàn thanh thản, mà là giáo
huấn về “Tình Yêu Thiên Chúa”, để con người tìm thấy đâu là nơi nương tựa, đâu
là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự mỏng manh vô nghĩa mà
con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.
Sự lo lắng sẽ đến
khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con người
mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì để sở
hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả “là mây là khói”,
là “là phù hoa”, là “cát bụi”, là vô nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý
Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên Chúa. “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ
đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12,20).
Ngược lại, sự bình
an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra sự
giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!
Sự giàu có ấy là gia
tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà ta đau
khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.
Con người chỉ hiểu
được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái độ thế
nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc biệt khi
Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.
“Người ta sống không
chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).
“Ngươi chớ thử thách
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt.4,7).
“Ngươi phải bái lạy
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
(Mt.4,10).
“Thờ phượng một mình
Người mà thôi”. Đó là con đường của chúng ta. Con đường sống của nhân loại.
Vì thờ phượng, là
tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui,
nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. “Chúa là nguồn vui của con” (Tv.43,4).
Lạy Chúa,
Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con
đừng lo sợ.
Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa
Kitô đưa con đi đâu,
Ngài dành những gì bất ngờ cho con,
chỉ tin Chúa là Cha của con,
chừng ấy đủ rồi. Amen.
(Đường Hy Vọng. Hồng
Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).
Truyện áp dụng:
Chờ sung rụng
Xưa có một anh rất lười, không chịu làm gì,
ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn nữa.
Một hôm, anh ta nằm ngửa dưới gốc cây sung,
há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.
Xui quá, sung chín rơi rụng đầy trên mặt đất,
quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt trúng vào miệng anh ta cả.
Có một người đi qua thấy thế, đem lòng thương
hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng anh ta. Anh chàng lười vừa
nhai vừa lụng bụng:
- Rõ cái đồ lười.
14. “Dân ngoại đạo!”.
Chúa Giêsu không
thích những kẻ hay lo lắng. Họ làm thương tổn điều mà Ngài sống với Chúa Cha.
Làm sao nghĩ rằng có giây phút nào Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng vũ trụ vì hạnh
phúc của con cái loài người, lại có thể để họ sống trong nghèo túng. “Dân ngoại
đạo!”, Chúa Giêsu nói như thế với kẻ nào hay lo lắng. Người Kitô- ngoại đạo
biết Chúa nhưng không biết lòng Chúa. “Những người kém tin!”. Chúng ta kém tin
khi, để ngăn chận những mối lo, chúng ta chọn việc tin vào tài khoản ngân hàng
của chúng ta ở ngân hàng hơn là tin vào Chúa.
- Không sao, tin vào
Chúa rất có thể kèm theo sự cẩn thận theo lương tri đơn sơ! Những câu chuyện
trong Tin Mừng nói về chim chóc và hoa cỏ này rất đẹp, nhưng có những lúc cạn
lương vào cuối tháng, bệnh tật, thất nghiệp, lo âu muốn biết chúng ta có thể
trang trải chuyện học hành cho đứa con nhỏ hay không, vết thương ăn sâu trong
tâm trí khó xoá nhoà bằng một dịp tĩnh tâm ngắn ngủi. Tại Palestin, vào thời
Chúa Giêsu, người ta dễ dàng phó thác vào Chúa hơn hay sao?
- Vấn đề không phải
ở đó, Tin Mừng là lời nói dành cho các hoàn cảnh của chúng ta. Chúa Giêsu nói
với tôi “Dân ngoại đạo!” hoặc”Con thật Cha trên trời” trong thế giới hiện tại.
Chính so với thái độ của tôi trước những khó khăn hiện tại này mà sự kém tin
của tôi làm Ngài nổi giận.
Bởi vì đây chính là
một vấn đề đức tin. Đây không phải là chuyện chơi mà là tìm biết ai là kẻ giải
thoát chúng ta khỏi những lo toan: Chúa hay cuốn sổ chi phiếu của chúng ta?
Chúng ta ghét thế nước đôi này, chúng ta muốn giao phó chúng ta cho cả hai.
Nhưng Chúa Giêsu nói:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Ngài nói điều đó bởi
vì Ngài biết sự hấp dẫn của tiền bạc. Và chúng ta cũng biết sự hấp dẫn ấy!
Trước tiên chúng ta muốn có tiền bạc để sống một cách liêm khiết, một cách đơn
sơ. Chúng ta muốn có tiền bạc để đảm bảo không thiếu thốn. Sau đó chúng ta muốn
có tiền bạc để có tiện nghi hơn. Và cuối cùng chính tiền bạc điều khiển cuộc
sống của chúng ta, bỏ mặc cuộc sống chìm trong ba mối lo toan kiếm tiền, mua
sắm và đảm bảo tương lai. Trong cuộc sống đó, nói với Chúa: “Xin cho chúng con
hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ còn là một lời kinh máy móc mà thôi.
- Thế thì Chúa Giêsu
muốn chúng ta cư xử như những người bất cẩn và vô trách nhiệm hay sao?
- Chúng ta biết rõ
rằng cái được thua không phải ở đó. Chúng ta thấy rõ vấn đề mà Chúa Giêsu đặt
ra cho chúng ta nhưng chúng ta lại muốn gạt đi: “Bạn có tin rằng bạn có một
người Cha trên trời hay không?”
Nếu có, phải dẹp bỏ
các lo lắng vừa quấy rầy nhưng rốt cục vừa trấn an bởi vì đây là điều đã biết.
Chúng ta e sợ dấn mình sâu hơn trong cái không biết của niềm tin!
Cuối cùng có thể
nói: “Lạy Cha, con biết Cha yêu con và con không sợ gì cả”. Đó là chọn sự an
bình ở một mức độ rất sâu xa trong con tim của chúng ta. Đây là một sự an bình
thường là khá dễ dàng, may thay, nhưng lại có thể đòi buộc tính anh hùng: “Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” trở thành một hành vi đức tin
rất ý thức và là một hành vi tình yêu. “Các ngươi đừng lo lắng cho ngày mai” từ
nay là sự khôn ngoan của chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu
nói thêm: “Ngày mai, mai sẽ lo” không nói ngược lại ba lần “Các ngươi đừng lo
lắng” trước đó, mà tô đậm chúng. Cần phải lo lắng đến công việc, lương bổng,
bệnh tật, nhà cửa phải mua, việc hưu dưỡng phải dự kiến. Nhưng sự lo lắng này
chỉ tốt nếu nó diễn ra trong niềm tin tưởng vào Chúa. Và dấu hiệu thì rõ ràng:
vẫn an bình.
Tìm kiếm Nước trời
trước tiên, chính là kiếm tìm Chúa trước tiên, bền bỉ quy hướng về Chúa, chắc
chắn rằng với Ngài chúng ta có thể được giải thoát. Những người nào dám tin
tưởng như thế thì có được kinh nghiệm kỳ diệu này là con tim có tự do.
15. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
(Trích trong ‘Giải
Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đời sống chúng ta
hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng hàng
đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời Chúa
trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể bình
thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết tưởng trước
hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ chính
Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta nghe
bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ thấy
những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
1) Hơn một người mẹ thương con
Chắc chắn những lời
sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân Israel
trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri này
chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của một
ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta phải
nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách Isaia
hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài trích đọc hôm
nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với con
cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người sắp
tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại
Yêrusalem.
Sứ mạng không dễ
đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: “Yavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã
quên tôi”. Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha phương lâu quá
rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của ngoại bang;
Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây dựng cơ nghiệp
như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng bao giờ chịu quên
Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là thành phần khó
nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng “quyền năng
của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người”, tức là Thiên
Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.
Đó chính là trường
hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người, ông phải
công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ họ và quên
họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới như ngày
hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng tốt và
quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho họ, đâu
phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên Người thì
Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy. Và bây
giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
“Mẹ nào lại quên con
đẻ của mình...?”.
Isaia cho chúng ta
một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một người
chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm, lộng
lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn, xấu xí;
Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho yêu
thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá hoại
thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi trung
thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải hóa...
Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể nào
tưởng tượng được.
Isaia cũng nói đến
tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như lòng
mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù “chúng quên được con mình, thì phần Ta, Ta sẽ
không bao giờ quên ngươi”.
Thiết tưởng không
cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó chân
thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì người ta
có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng ai dám
nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia có thể kéo
được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn sơ và
cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà mẹ, nhất
là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của Thiên Chúa
đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về Cha trên
trời.
2) Người biết rõ các ngươi cần đến các điều
ấy
Thật vậy, Thiên Chúa
yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và quên
chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến để
tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.
Nhưng rất ít kẻ đón
nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại vẫn
dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì như
lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ; người
ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng chúng ta muốn
thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc gì?
Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn áo
mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy nhiên chính vì
vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời:
chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự
trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta
phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì
Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta
trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn về áo mặc chúng
ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên Chúa còn
cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng ta, con
của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời Chúa dạy rất đơn
sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải chăng
chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà chưa
đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc “đừng” lo ăn lo
mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm, chúng ta có thể hiểu rằng
Người bảo chúng ta “chớ lo đến ngày mai, mai sẽ lo cho mai; khó ngày nào đủ cho
ngày ấy”. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu
của Người. Điều Người muốn nói với chúng ta là “hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời
trước đã, và các sự ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi”. Vì Cha trên trời biết
rõ chúng ta cần những điều ấy. Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có
lo cũng chẳng có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan
chân thật là lòng kính sợ Thiên Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được
sự bình an của Người, rồi nhờ Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những con người như
thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên
Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ “lo”, bởi vì niềm tin luôn giữ họ trong
sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết hôm nay đã
lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác nữa ngoài
tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể làm tôi vừa
Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức Chúa Trời và
sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác ở đó; và sẽ
thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối tượng của
đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái bình an vì
Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ luôn thấy
Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và Người
không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.
Nhưng con người
không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta
cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.
3) Đấng xét xử tôi chính là Chúa
Chúng ta ít có khi
nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở
Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy
bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa
mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô
đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác.
Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin
ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người không chủ
quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả
những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư
luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người
nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần
thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính
Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta
không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công.
Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng
đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng
ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là
không.
Tuy nhiên không vì
vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là
những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều
lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với
chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn
chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành
trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao
xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ
có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?
Giờ đây chúng ta hợp
dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên Chúa để
cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có nhiều khó
khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho chúng ta; và
Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên Chúa còn có
thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta mối tình to
lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh nhận chính
Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong đời sống
hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng ta vẫn
không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là các
người quản lý tốt ở trong một xã hội.
Lạy Cha, ước gì tâm hồn chúng con được như em
bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó thác cuộc đời chúng con trong
tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng
con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy. Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào
trong tình yêu của Cha. Amen.
16. Thiên Chúa hay thần
tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
Trong bài Phúc Âm Mt
6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp
Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta
thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn
tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không
gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của
mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, -
điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình
thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không
kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó.
Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và
ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người
hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo
lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày
đó".
Chúng ta đồng ý rằng
lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là
có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực
tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm
ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những
nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo
sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho
con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng
vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm
của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô
trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay
thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len
lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng:
"Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là
điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô
trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới
này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài
người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật.
Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người
đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải
đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo
lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là
chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống,
là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên
vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các
thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên
Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên
Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là
trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước
nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu
đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với
kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên
số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội
và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động
như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự
hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy,
nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy,
người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên
nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu
tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng
trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi
hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang
kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh
nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông
chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp
dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở
cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại
hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng
khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con
người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công
chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn
phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ
không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi
trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá
trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ
được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì
họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới
đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
17. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường
Cơm ăn, áo mặc là nhu yếu cần thiết cho cuộc sống con người.
Vì là nhu yếu không thể thiếu nên nó chi phối cuộc sống đến độ trở thành mối
lo, phiền toái chính cho mọi lứa tuổi. Giầu hay nghèo, Đông hay Tây, nơi nào
cũng có mối lo riêng liên quan tới vấn đề cơm ăn, áo mặc.
Dân chúng nơi các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn,
áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ
rất thấm Lời Chúa nói: Ngày nào có cái lo của ngày ấy.
Quả thực, gạo chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày.
Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến;
trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt
dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê
chân bước về nhà, túi trống, bụng không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn
nhau thông cảm. Lại một tối uống nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi
ngủ chung giường. Có đêm nó xuất hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi
khi may mắn chiêm bao được hưởng bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng
thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là
hạnh phúc hơn người. Tết đến mong có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.
Nơi các quốc gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng
vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp.
Quảng cáo tới tấp dậy người ta đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng
nên cần phải có tiếng. Chúng đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã
hội đang sống. Chúng mặc cho lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao
hơn kẻ thất học, thượng lưu thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta
lao đầu chạy theo quảng cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương
trước người khác. Như thế đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp
hơn người mới đáng hàng thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như
thế mới là có vai vế trong xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang,
theo mùa, vừa trình làng. Như thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ
ăn, đủ mặc là một nhu cầu. Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí
phạm. Phí phạm đáng chê, trách.
Xa xỉ
Gọi là xa xỉ vì đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước
muốn có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là
phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một
đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ.
Đây không phải là so sánh, không chạy theo thiên hạ, không đua đòi mà giải
thích là cho có với người ta. Không hơn người ít ra cũng phải bằng người. Để
thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén
sinh ra từ đó. Rõ khổ.
Nhiều trường hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng,
sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình
rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống
nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình,
sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về
nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan
hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm
tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ
giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét
đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản
ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động
bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm không khao khát tràng pháo tay bề ngoài.
Một người có nguồn vui nội tâm không cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du,
chóng qua, mau tàn.
Thực tế cuộc sống
Thực tế cuộc sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người
nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần
thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả
bất chính. Chi tiêu chính đáng như tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền
mua thực phẩm còn nhiều thứ khác phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì
tiền học phí, tiền xăng xe, tiền thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm,
quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt lội.
Chi tiêu thừa là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả
mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính
làm cho đời thêm ưu phiền. Thực tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất
nhiều chừng nào cuộc sống càng nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu
lo. Ít khao khát, dính bén vinh quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều
này không có nghĩa là phí phạm tài năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ,
mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ
là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời
sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm
nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao
khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế, hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ
nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa,
ân sủng Chúa ban.
Nguồn sống thật không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô
giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ
thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng
Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh thơi muôn đời.
18. Đơn sơ như trẻ nhỏ.
(Trích trong ‘Đối Thoại
với Thiên Chúa’ của Fernandez)
1) Sống giây phút hiện tại cách
trọn vẹn, không lo lắng thái quá. Tư cách con Thiên Chúa. Tin tưởng và phó thác
vào Người
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Chúa khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai,
cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Ngày hôm qua đã qua
đi rồi. Chúng ta không biết mình có thấy được ngày mai hay không, vì không một
ai có khả năng biết trước về tương lai. Tất cả những vất vả nhọc nhằn của ngày
hôm qua còn lại với chúng ta hôm nay đều là lý do cho chúng ta tạ ơn Thiên
Chúa: chúng ta cám ơn Chúa đã đổ xuống muôn vàn ân sủng và phúc lành; chúng ta
cũng mắc nợ lòng biết ơn đối với anh em đồng loại. Chúng ta cũng sẽ đặt thêm hy
vọng, dù chỉ là thêm một chút, vào kho tàng của chúng ta ở trên trời. Từ những
ngày đã qua, chúng ta có thêm động lực để thống hối và đền bù tội lỗi, sai phạm
và thiếu sót của mình. Chúng ta có thể mượn lời Ca nhập lễ trong thánh lễ hôm
nay để nói về ngày hôm qua: "Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh
thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi bởi vì Người thương tôi". Ngày mai
“chưa bắt đầu”. Nếu nó đến, nó sẽ còn tuyệt vời hơn cả những gì chúng ta ước
mong, bởi vì Thiên Chúa chúng ta đã chuẩn bị nó cho chúng ta được thánh hóa:
"Số phận con ở trong tay Ngài " (Tv 31,16). Khách quan mà nói, chúng
ta không thể để cho những băn khoăn lo lắng về ngày mai đè nặng lòng mìh: Chúa
sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết đề vui lòng đón nhận bất cứ điều gì thâu
hoạch được. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng lẫy lừng!
Điều quan trọng là
ngày hôm nay. Hôm nay là ngày mà chúng ta cần có để yêu thương, để phát triển
trong sự thánh thiện, qua vô số những sự kiện nhỏ nhặt, tự như những họa tiết
dệt nên dải lụa cuộc đời. Một số sự việc tự nhiên làm chúng ta cảm thấy dễ chịu,
một số khác có lẽ khiến chúng ta ít hài lòng hơn, nhưng mỗi một sự kiện ấy đều
có thể góp phần làm rạng rỡ viên đá quý mà chúng ta dày công gọt dũa và đánh
bóng bằng sự hoàn hảo nhân loại và ý nghĩa siêu nhiên, vì Chúa và vì sự sống
vĩnh cửu.
Chúng ta không thể
đùa giỡn với ý nghĩ ấy. Đôi khi óc tưởng tượng bay bổng của chúng ta "tô
son trét phấn" cho các thực tại quá khứ và trói buộc chúng ta bằng cách lý
tưởng hóa một tương lai không phải nhọc công nỗ lực; hay trái lại nó bày ra một
chân trời u ám, một viễn cảnh đen tối khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng.
"Kẻ nào mải ngóng theo gió sẽ không đủ tự tin gieo hạt, và kẻ nào cứ dõi
mắt nhìn mây sẽ chẳng dám thu hoạch ". Đó là một lời mời gọi chúng ta bắt
tay thực hiện ngay bổn phận của phút giây hiện tại, tuy vẫn để tâm tìm kiếm cơ
hội tốt hơn có thể xảy đến. Trong hoạt động tông đồ, chúng ta cũng dễ dàng trì
hoãn một dự án để tìm một dịp thuận tiện hơn. Công cuộc rao giảng Tin mừng của
các Tông đồ sẽ ra sao nếu các ngài lần lữa chờ đợi và tìm kiếm những hoàn cảnh
thuận lợi hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ Đức Kitô dậm chân tại chỗ
"chờ thời "? Hic et nunc: Ngay tại đây và lúc này là kẻ khởi điểm mà
chúng ta phải chứng tỏ tình yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng và bằng hành động.
Xét về mặt tự nhiên
cũng như siêu nhiên, sự thánh thiện và hiệu năng hệ tại chủ yếu ở chỗ sống mỗi
ngày như thể đó là ngày duy nhất trong cuộc đời mình: mỗi ngày đều là một ngày
mà chúng ta phải lấy tình yêu dành cho Chúa lấp đầy vào đó; mỗi ngày đều là một
ngày mà chúng ta phải hoàn tất, phải vun đắp "đầy tới miệng" bằng các
việc tốt. Chúng ta không thể để cho bất kỳ cơ hội nào vuột khỏi tầm tay. Ngày
hôm nay không quay lạil ần nữa đâu, mãi mãi, và Chúa mong chờ chúng ta lấp đầy
ngày hôm nay bằng tình yêu và bằng những hành vi phục vụ nhỏ bé cho tha nhân.
Thiên thần hộ thủ sẽ hân hoan vui sướng khi đem một ngày sống như thế dâng lên
Thiên Chúa.
2) Lo lắng luống công vô ích.
Chúng ta sẽ luôn luôn được ban đủ ơn để giữ vững lòng trung thành
“Anh em đừng lo
lắng..." Lo lắng luống công vô ích chẳng không xóa được nỗi bất hạnh, mà
còn làm chúng ta khổ sở hơn. Vì chúng ta phải nai lưng vác lấy gánh nặng mà
chẳng nhận được ơn Chúa nâng đỡ. Sự lo lắng thổi phồng những khó khăn thử
thách, trong khi lại bóp nghẹt khả năng thi hành bổn phận của giây phút hiện
tại. Điều tệ hại nhất là chúng ta không tin tưởng Chúa Quan phòng luôn luôn can
thiệp vào mọi tình huống của đời mình. Trong Bài đọc I hôm nay, Chúa hỏi chúng
ta qua miệng ngôn sứ Isaia: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay
chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì
Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ". Qua mọi việc xảy đến hôm nay, Thiên
Chúa Cha vẫn luôn luôn yêu thương nghĩ đến chúng ta.
Và Đức Giêsu vẫn
thường nhắc nhở chúng ta như thế! Người nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây,
đừng sợ". Chúng ta không thể vừa quán xuyến mọi việc hôm nay vừa lo toan
cho ngày mai. Chúng ta luôn luôn nhận được ơn nâng đỡ hiệu quả để sống trung
thành hôm nay, sống ngày đặc biệt này với niềm vui và bình an. Ngày mai sẽ mang
đến những ân huệ mới, và gánh nặng của ngày mai sẽ không nặng nề hơn ngày hôm
nay đâu. Ngày nào có lao nhọc vất vả, thập giá và niềm vui của ngày ấy. Mỗi một
ngày trong đời sống chúng ta đều được Thiên Chúa Cha canh phòng cẩn mật. Chúng
ta không thể chỉ biết có hiện tại mà thôi. Mọi nỗi lo âu sợ hãi chỉ chực nổi
lên khi chúng ta không dốc hết nỗ lực ở đây và lúc này, khi chúng ta không đặt
hết niềm tin tưông vào Chúa Quan phòng; những nỗi lo lắng sẽ tiêu tan hết khi
chúng ta chân thành lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, vì Chúa
muốn, như Chúa muốn, bao lâu Chúa còn muốn”.Lúc đó niềm vui và bình an sẽ đến.
Đôi khi chúng ta có
thể bị cám dỗ muốn điều khiển cả tương lai, quên mất rằng cuộc đời mình nằm
trong tay chúa. Đừng để mình như đứa trẻ mất kiên nhẫn bỏ qua nhiều trang sách
để khám phá câu chuyện kết thúc thế nào. Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày giờ
đẻ sống, từng ngày nối tiếp nhau, để chúng ta lấp đầy sự thánh thiện vào đó.
Trong Cựu ước, chúng ta đọc thấy câu chuyện người Do thái sống trong sa mạc: họ
thâu nhặt manna Thiên Chúa ban cho mỗi ngày làm thức ăn. Một số người vì muốn
dự trữ cho tương lai nên đã tích trữ nhiều hơn mức cần thiết. Ngày hôm sau họ
thấy số manna ấy bị hư đi không thể ăn được. Họ đã thiếu niềm tin vào Thiên Chúa
Giavê, Đấng canh phòng họ bằng tình phụ tử. Dĩ nhiên chúng ta nên biết khôn
ngoan tiên liệu cho tương lai, nhưng không như những người Do thái hồi còn lang
thang trong sa mạc chỉ dựa vào sức mình.
Niềm hạnh phúc của
chúng ta phải là niềm hạnh phúc đầy hy vọng, khi chúng ta thi hành bổn phận
hàng ngày, tập trung trí óc, con tim và mọi năng lực vào đó. Sự tin tưông vào
Chúa - sự phó thác thánh thiện không làm giảm sút trách nhiệm trong khi hành
động, và trong khi tiên liệu những việc phải làm trong mỗi tình huống. Cũng
không có nghĩa là chúng ta không cần vận dụng sự khôn ngoan. Nó hoàn toàn trái
ngược với thái độ thiếu tin tưởng vào Chúa và có cái nhìn mơ hồ về những việc
sắp sẩy đến. Chúa lặp lại với chúng ta: "Vậy anh em đừng lo lắng về ngày
mai". Chúng ta hãy tận dụng tốt ngày hôm nay.
3) Tìm kiếm Chúa trong công
việc. Khổ chế trong trí tưởng tượng để sống giây phút hiện tại: tại đây và lúc
này
Thiên Chúa biết
chúng ta cần gì. Chúng ta hãy lo trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công
chính của Người, và tất cả những cái khác sẽ được ban cho chúng ta..
"Chúng ta hãy vững vàng quyết tâm dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa cách
tận tụy. Chúng ta đừng mải tìm cách biết nhiều hơn về ngày mai, vì đó không
phải là bận tâm chính đáng Mà đúng hơn chúng ta hãy quan tâm đến điều tốt có
thể làm hôm nay. Ngay mai sẽ sớm trở thành hôm nay, và chúng ta sẽ quan tâm đến
nó. Chúng ta cần tích lũy lượng manna cần thiết cho ngày hôm nay, chứ không
nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ rằng không biết Chúa có mưa manna xuống
không vào ngày hôm sau, rồi ngày kế tiếp, và ngày kế tiếp nữa, bao lâu cuộc đời
lữ thứ của chúng ta còn kéo dài”. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta đâu.
Khi chúng ta sống
trong phút hiện tại, chúng ta chú tâm vào những sự việc và những con người
thật. Điều này có nghĩa là chúng ta khổ chế trong trí tưông tượng và không phí
thời gian cho những hồi ức vô bổ và không thích đáng. Óc tưông tượng có thể lôi
kéo chúng ta vào một thế giới khác, xa rời cái thế giới duy nhất được tạo dựng
để làm môi trường cho chúng ta nên thánh. Óc tưởng tượng của chúng ta thường
làm lãng phí thời gian quý báu, và khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội chính đáng
làm việc tốt. Thiếu sự khổ chế nội tâm, trí tưởng tượng và óc tò mò, là một
trong những kẻ thù lớn nhất cản trở việcnên thánh.
Nếu chúng ta sống
giây phút hiện tại, chúng ta sẽ chắc chắn loại bỏ được những nỗi sợ giả tạo về
các hiểm họa tưởng tượng trong tương lai mà óc tưông tượng của chúng ta phóng
đại lên hay bóp méo đi. Cũng có đôi khi những thập giá không có thực mà óc tương
tượng của chúng ta vẽ vời ra đẩy chúng ta xa rời thực tế. Lúc đó chúng ta khổ
sở một cách vô ích, thay vì vui vẻ chấp nhận những thập giá nho nhỏ Chúa gởi
đến cho con cái của Người mỗi ngày để tâm hồn được đầy ắp bình an và mềm vui.
Nếu chúng ta sống
trọn vẹn giây phút hiện tại vì Tình Yêu, chúng ta không thể không nhận ra những
chi tiết khó hiểu mời gọi mình sống trung thành. Tại đây và lúc này chúng ta
cần phải giữ đúng thời khóa biểu đã đặt ra cho bản thân: Tại đây và lúc này
chúng ta cần phải quảng đại với Chúa, kẻo chứng ta rơi vào trạng thái dửng dưng
nguội lạnh. Tại đây và lúc này Thiên Chúa đang mong đợi chúng ta chế ngự bản
thân trong tiểu tiết này hay tiểu tiết khác mà chúng ta thấy khó thực hiện hay
khó bỏ qua. Người muốn chúng ta tiến lên tại những "tọa độ nóng" này,
những điểm quan trọng làm chất liệu cho cuộc hồi tâm đặc biệt.
Chúng ta hãy cầu xin
Ba Ngôi Cực Thánh ban ơn giúp chúng ta sống giây phút hiện tại của từng ngày
với một con tim đầy ắp Tình Yêu, như thể đó là lễ vật cuối cùng của cuộc đời
chúng ta trên trần gian.
19. Thiên Chúa quan phòng
(Suy niệm của Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Sống trên đời, ai
cũng có những lo âu, những suy nghĩ, những tính toán. Hầu hết, ai cũng lo lắng
cho miếng cơm manh áo, ai cũng tìm cách kiếm ra nhiều tiền để đời sống được
sung túc, dư dật, để cuộc sống được hạnh phúc theo như suy nghĩ thường tình của
con người. Tuy nhiên, Chúa dạy con người đừng quá lo lắng cho mạng sống mình
nhưng phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cảnh báo
con người đừng quá nô lệ vào tiền của, vào vật chất mau qua ở đời: “Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24). Chúng
ta thấy, đồng Tiền ở trong đoạn Tin Mừng này được viết chữ hoa, chữ nổi, ma
Tiền theo tiếng Aram là Ma Quỷ, là Mammôn, có nghĩa là thần. Tiền được nâng lên
bậc Thần Tiền, nghĩa là nó có sức mạnh vượt bực. Do đó, con người phải chọn lựa
giữa Tiền và Thiên Chúa, giữa tự do và nô lệ.
Vâng, sống trên gian
trần, trên thế giới, cuộc sống của mỗi người là một cuộc lựa chọn liên lỉ,
không ngừng. Và những chọn lựa mãi mãi này sẽ giúp con người trở nên tốt hay
xấu. Chọn lựa là một sự từ bỏ không tiếc nuối. Đã chọn điều này thì phải bỏ
điều khác. Đã từ bỏ phải đòi nhiều hy sinh. Chúa Giêsu muốn người môn đệ Chúa
phải chọn lựa dứt khoát, không lưng chừng, không tiếc nuối, không thỏa hiệp,
không bắt cá hai tay. Bởi vì, người bắt cá hay tay luôn luôn là kẻ thua thiệt.
Hoặc họ chọn Chúa làm chủ hoặc họ chọn nô lệ cho Mammon, ma quỷ. Ở Việt Nam
trước đây báo chí đã đăng một bài thơ thật dí dỏm về tiền: “Tiền là Tiên, là
Phật. Tiền nổi bật cuộc đời. Tiền là cái đà danh vọng. Tiền là hết ý”. Tục ngữ
ca dao chúng ta cũng có câu để đời: “Có tiền mua tiên cũng được”, ngay trong
việc đạo cũng có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay đã
đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự chăm sóc quan phòng của Thiên Chúa: “Chim
trên trời, hoa huệ ngoài đồng”. Thực tế, chim trên trời hay hoa huệ ngoài đồng
nào chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng hằng chăm sóc, nuôi dưỡng,
lo lắng, để ý đến. Cho nên, con người là đối tượng Chúa để ý chăm sóc đặc biệt
vì con người được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài và đã được chính
Chúa Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài.
Chúa Giêsu trong Tin
Mừng và trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem đời
sống theo Chúa từ trước tới nay chúng ta đã thật lòng sống theo giáo huấn của
Ngài hay chúng ta ơ hờ sống nô lệ tiền bạc, vật chất? Chúng ta có để Chúa làm
chủ cuộc đời chúng ta hay chúng ta chưa đủ tín thác vào sự quan phòng chăm sóc
dưỡng nuôi của Chúa? Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải trần
gian này, mà phải tìm điều căn bản cho cuộc đời trước đã, còn các thứ khác Ngài
sẽ ban cho. Con người có lo lắng mấy đi nữa thì cũng chẳng giải quyết được gì
cả: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình đời mình
thêm được vài gang tấc không?”. Tín thác vào Chúa không có nghĩa là chúng ta để
mặc Ngài, còn chúng ta cứ ăn chơi rồi sung sẽ rụng và chúng ta nhặt lấy! Không,
chúng ta phải: “Tự giúp ta rồi trời sẽ giúp ta” (Aide-toi et Dieu t’aidera).
Thiên Chúa tôn trọng con người vì con người quí hơn chim sẻ, quí hơn bông huệ
rất nhiều. Con người là tạo dựng của Thiên Chúa, do đó, họ phải làm việc để
sống, nuôi dưỡng gia đình và góp tay vào việc làm đẹp công trình sáng tạo của
Thiên Chúa. Chúa dạy con người trước hết hãy tìm nghĩa là hãy đặt đúng vị trí,
đặt đúng công việc: việc nào trước, việc nào sau. Chúa nói: Trước hết hãy lo
tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta chọn
Ngài ưu tiên trong cuộc sống. Đi ngược ý định này là đi ngược thánh ý và chương
trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thiên Chúa mời gọi
con người hãy bền tâm, kiên trì và cầu nguyện. Chúa khuyên chúng ta đừng lo
lắng, chứ không ngăn cản chúng ta lo liệu, cân nhắc, tiên liệu. Đừng quá lo cho
ngày mai vì ngày mai chưa đến. Tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên
Chúa. Tất cả đều là hồng ân. Tất cả đều là ơn Chúa. Anh em đừng lo lắng về ngày
mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6, 34).
Chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa...
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết
làm vinh danh Chúa trong đời sống của chúng con. Amen.
20. Không thể thờ
hai chủ
(Suy niệm của Lm
Giuse Nguyễn Hữu An)
Nói về tiền bạc, bao
giờ Thánh Kinh cũng nói nghiêm túc. Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như nói về
sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng cũng có
thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu biết
dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu chạy
theo tôn thờ nó.
Trang Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền
của được”. Phải lựa chọn một trong hai. Không được bắt cá hai tay.
1. Luận về đồng tiền.
Đồng tiền là đồng
chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng
và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng
nhiều càng tốt.
Đồng tiền là thứ
không ở lâu bền với người ta, nay nằm trên tay người này, mai đã sang túi người
khác. Người có thu nhập thấp, cảm nhận điều này rõ lắm: Tiền lĩnh về, chưa kịp
nóng túi, đã rủ rê nhau sang túi mấy bà bán gạo, bán rau ngoài chợ gần hết!
Đồng tiền cũng còn được gọi là đồng bạc, một phần vì thế chăng? Cái sự chuyền
của đồng tiền nhiều khi cũng bay bướm nghệ thuật lắm. Xin nêu một ví dụ: Chiều 24-4-2009, phía đầu chiếc xe CSGT màu
trắng, người đại úy dí ngón tay trỏ vào tập biên bản, người vi phạm hiểu ý,
“nhằn” ngay trong túi ra một tờ polyme màu xanh. Người đại úy lật mấy trang
biên bản lên, người vi phạm vội vã nhét tờ 100.000 đ vào đó. Bỗng, một cơn gió
vô tình thốc tới làm mấy trang biên bản bay tốc lên, tờ 100.000đ bay vèo theo
gió, chờn vờn đậu xuống vỉa hè cách đó một quãng. Người đại úy vội vã chạy theo,
vội vã cúi xuống nhặt, rồi khoan thai đút vào túi… Tờ 100.000đ màu xanh giờ đã
nằm yên trong túi quần “ông” đại uý (Bài CSGT “làm luật” ngay tại Hà Nội,
báo Khoa học & Đời sống, thứ ba ngày 5-5-2009).
Vì cái sự chuyền tay
nhau như thế, nên nó rất bẩn. Có lẽ trên đời này, đồng tiền là thứ bẩn thỉu
nhất, bởi nó giây đủ các mùi vị, từ mùi thịt cá tanh tưởi, đến mùi hoa quả thum
thủm do bị ế, bị ủng; từ mùi mồ hôi của chị bán bánh cuốn đến mùi dầu mỡ của
ông lão sửa xe…
Nhưng vì nó là đồng
chuyền, cho nên đồng tiền luôn luôn mang trong mình nó sự tổng hợp vĩ đại nhất
của tất thảy các mùi vị, không thiếu một thứ gì… Chính vì đặc điểm này, mà mặc
dù quý đồng tiền đến mấy, người ta cũng chỉ mân mê chứ rất ít khi thấy một ai
đó đưa nó đặt lên mũi, lên môi để ngửi hay để hôn! Không ngửi, không hôn vì nó
rất bẩn; nhưng bẩn đến mấy chúng ta vẫn luôn luôn trân trọng đồng tiền. Ví dụ:
Khi bề dưới muốn biếu tặng ai tiền, người đó phải cho nó vào phong bì, đưa bằng
hai tay (thậm chí còn phải cung kính dâng lên). Ngược lại, khi được bề trên ban
tặng thì bề dưới phải đưa cả hai bàn tay ra đón nhận, đồng thời cất tiếng “xin
cảm ơn” (thêm chữ “ạ” nữa thì càng tốt).
Đồng tiền bẩn, nên
nó chứa rất nhiều vi trùng; chứa nhiều vi trùng nên nó cũng là nguồn lây đủ mọi
thứ bệnh, có loại bệnh không thể nói nên lời…!
Tiền bẩn, muốn sạch
thì rửa. Nhưng có thứ tiền không bẩn, thậm chí còn nguyên đai nguyên kiện, thơm
phức mùi mực in, mà người ta vẫn đem đi… rửa. Sự rửa như thế không được khen mà
lại gọi là một thứ… tệ, vâng tệ rửa tiền! Nhà nước Việt Nam gần đây mới thành lập Ban chỉ
đạo phòng chống nạn này! Quốc tế người ta làm cái công việc chống này từ lâu
lắm rồi. Chắc vì họ quản lý kém, thậm chí rất thiếu kinh nghiệm? Ngay đến bây
giờ Việt Nam mới thành lập ban chỉ đạo chống chứ đã trực tiếp chống đâu? Nghĩa
là vẫn trên tinh thần phòng là chính, chứ không phải chống là chính.
Đồng tiền cũng có sự
khôn sự dại! Bà con ta vẫn thường nhắc nhau: “Đồng tiền đi trước là đồng tiền
khôn” là gì? Tiền đi đâu mà được gọi là khôn vậy? Thời nào chứ thời buổi này,
có lẽ ngay đến trẻ con nước mình cũng cảm nhận được điều đó. Bây giờ đi đâu,
làm gì mà có sự đưa đường chỉ lối của đồng tiền (nhất là tiền ngoại), thì khó
mấy cũng vượt qua, “kẻ thù nào đánh thắng”. Có tiền, mua gì cũng được. Thời nay
người ta thường nói: “Cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng
nhiều tiền hơn”. Cái vị thế của đồng tiền còn tạo thế lực cho người nắm giữ nó.
Trong phạm vi hẹp là gia đình, ai có khả năng kiếm nhiều tiền, người đó là chủ;
điều đó ai cũng thấy. Trong xã hội, thì dân gian có câu: “Vai mang túi bạc kè
kè. Nói quấy nói quá, người nghe rầm rầm!”.
Sống đã vậy, chết
thì sao? Có người nói, khi hai tay buông xuôi, đồng tiền chả có nghĩa gì nữa
cả. Nói thế là xạo. Chết không kịp mang, nhưng chết rồi thì vẫn cần. Ngay lúc
vừa ngậm hàm, người trong gia đình đã phải nghĩ ngay đến việc bỏ vào cái miệng
vô hồn ấy một chút vẩy vàng. Rồi trên dọc đường tiễn đưa người quá cố, nhất là
khi qua cầu, lại phải rải tiền xuống đường, xuống sông, cả tiền thật lẫn tiền
âm phủ. Đó là tiền làm luật đối với bọn ma quỷ cản đường. “Trần sao âm vậy mà”!
Ngoài ra, nhiều gia đình vào ngày giỗ, ngày Tết mua vàng mã đốt cúng cho người
chết. Vậy người chết không cần tiền là cái gì?
Đồng tiền còn là vật
có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!”. Có thể xuất phát
vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại mà nhận xét như thế? Bây giờ dùng tiền giấy
là chính, người ta vẫn không thay đổi cách nghĩ và cách nói đó. Thực ra cái
“lạnh” của đồng tiền còn mang một ý nghĩa khác, nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa
đen, chỉ những khi ta thiếu nó quá, cần đến nó quá, mới thực sự cảm nhận được
cái chất “lạnh” của nó, đồng tiền!
Tiền là bạc. Bạc
không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa.
Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du
trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”.
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Tiền bạc không cần
con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành
cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ em. Mà lạ
lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm, tai điếc đặc
ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày nào, các cụ
vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói, “Đồng tiền nó liền khúc ruột”. Đụng tới
khúc ruột, ai mà chẳng đau chẳng xót.
Vâng! Thế đó, đồng
tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ
thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá,
kiếm càng nhiều càng tốt. Kiếm đến đâu, cất ngay vào ví, vào két hoặc gửi ra ngân
hàng các nước trung lập. Nếu trót để bẩn quá, hoặc nghi… bẩn, phải rửa ngay.
Rửa kín đáo, chớ để Ban phòng chống rửa tiền phát hiện! Còn khi chết? Yên tâm,
đã có con cháu lo! Tuy nhiên cũng cần nhắc điều này: đồng tiền là rất bạc. Bạc
tình, bạc cả nghĩa nữa. Không kín đáo, không có thế lực, dễ bị nó đưa tay vào
còng có ngày! (Trần Huy Thuận).
Người ta thường nói
rằng, tiền bạc có thể:
* mua được cao lương
mỹ vị, nhưng không thể mua được sự ngon miệng.
* mua được thuốc
thang đắt giá, nhưng không thể mua được sức khỏe.
* mua được giường êm
nệm ấm, nhưng không thể mua được giấc ngủ.
* mua được nhà cao
cửa rộng, nhưng không thể mua lấy mái ấm gia đình.
* mua được trò chơi
giải trí, nhưng không mua được sự bình an tâm hồn.
* mua được sách vở
tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh.
* mua được tôn giáo,
nhưng không mua được ơn cứu độ.
* mua được
Passe-port và Visa để đi khắp thế giới, nhưng không thể mua được hộ chiếu để
vào Nước Trời.
2. Chúa Giêsu đối với tiền của.
Chúa Giêsu không phi
bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài
chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người
giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không
xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người.
Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành
hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả
lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc
tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công,
lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn phê
phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích
kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương
tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ
khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm
tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở
con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu
có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì
anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời
còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của
Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng
về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh
nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu
thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc
cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng
Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp
đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời;
Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy
nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của,
sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31: dụ ngôn
người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ
khác.
3. Ưu tiên tìm kiếm Nước Trời
"Tiên vàn hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi".
Ưu tiên hàng đầu của
người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng
không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa,
rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường
lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải
quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ
bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi
không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn
Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài
và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô
hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi
trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá
trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được
sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ
biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại
cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
4. Kết luận:
Tiền của cần thiết
cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở
trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến
cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá
đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ
trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho
con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ... Giá
trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện
phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc
đích thực.
Nếu tiền của có thể
là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một sức
mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết: “Những người
giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải
phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng
dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở
rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm6,17-18). Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh
với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ,
không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người
vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ
biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ
cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở
thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy
người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng
là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các
môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai
tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối
tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
21. Chú giải của Noel Quesson
Ngày nay, một cách đọc Tin Mừng hời hợi thật ra sẽ có hại.
Đức Giêsu có lên án tiền bạc không? Người có khuyên người ta vô lo và lười
viếng không? Đức Giêsu có thể có lý khi khuyên một người cha trong gia đình
đang thất nghiệp đừng lo lắng cho ngày mai không? Khi cho ví dụ “chim trời
không gieo, không gặt”, Đức Giêsu có bảo các bà mẹ. Trong gia đình đừng chuẩn
bị các bữa ăn, đừng mua lương thực không? Có thật là Người bảo những người
nghèo đôi khi thiếu cá nhưng nhu cần thiết phải chờ một phép lạ của sự quan
phòng để không chết đói. Từ đó, Đức Giêsu chẳng phải là một con người hiền lành
mơ mộng mà ngôn ngữ mang chất thi ca là một thứ trò chơi không có thật, không
thể nào phù hợp với thực tế khắc nghiệt của kinh tế và những vấn đề nghiêm túc
của việc phân chia các tài nguyên hay sao?
Hẳn ở đây phải có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con
hiểu những lời của Chúa.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ
kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được...".
Thật là tai hại khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở
đây một chữ, quả thật là huyền bí mà Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. "Anh
em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon...". Từ ngữ này
bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc
đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram.
Trong ngôn ngữ này; “Mam-mon" có nghĩa cụ thể là "tiền bạc",
"thu hoạch", "lợi nhuận", "sự giàu có". Khi đặt
"Thiên Chúa" đối lập với "Tiền Của”, Đức Giêsu dường nhu muốn
nhân cách hóa tiền bạc... làm nó thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm
tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến "Tiền Của" như đó là đối thủ của Thiên
Chúa, một cách diễn tả cụ thể về Xa-tan, “Ông Hoàng của thế gian này" bắt
con người làm nô lệ và cố gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa…Để hiểu rõ tư tưởng của
Đức Giêsu, chúng ta cũng ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về
"chủ”..
về “làm tôi"... Từ "chữ” dịch từ "kurios" thường có nghĩa là “Đức
Chúa". Từ "làm tôi" dịch từ "douleuô"' có nghĩa là
"làm nô lệ". Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu
không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người
đã có một nghề nghiệp: Người đã trải " qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ
hôi, sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền
quê ấy; "Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức
Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người
không có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc
tiền thuế hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và
chúng ta các dụ ngôn..của Người: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi ".
Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda" (Mt 22,19). Trong dụ
ngôn những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe
Người nói "đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối
với mọi ý thức (Matthêu 25,27).
Không, Đức Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc
sử dụng bình thường của tiền của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên
án "sự nô lệ cho tiền của": Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em
không có quyền làm mình trở thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. "Nhưng
khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!" (Luca 6,24). "Anh em đừng
tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng
anh ở đó" (Matthêu 6,19). "Hãy đi bán tài sản của mình" (Mt
19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ, những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho
tiền của là một bệnh "ung thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại
như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình
dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái "tiện nghi”, cái “xa
hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành
nền văn minh của ‘đồ bỏ đi ấy của Xa-tan’: tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ
mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ
đi ấy của Xa-tan" như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu
nhà doanh nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ
còn sống chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên
Chúa! Còn nói gì về sự “phung phí" các nguồn tài nguyên của hành tinh này
có nguy cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự "cướp
bóc” các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?
Không, tiền của không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của
cái ác đáng sợ khi nó "nô lệ hóa" Một người nào. Giá một chiếc xe
tăng đủ để mua lương thực cho hàng trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta
không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh khu trục và ném bom có giá bằng 40.000
nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay
biết. Tiền của lẽ ra phải là một "đầy tớ" tuyệt vời, hiện đang là một
"ông chủ”
xấu.
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn,
cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và
thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Công thức "đừng lo" sẽ trở lại bốn lần trong một
vài hàng. Quả thật, sự "lo lắng" là một trong những hình thức nô lệ
mà của cải kéo theo nó. Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị
tổn thương bởi chúng nhồi máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của
thế giới. Dường như Đức Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt
đẹp. Anh em hãy sống, nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để
chạy, để lúc nào cũng có được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời
gian để sống! Và Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị.
Lương thực, quần áo dù rất cần thiết... cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo
Hoàng Gioan Phao lô II, trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên
tắc ấy về sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con
người trên thế giới hữu hình…. chủ yếu là sự ưu tiên
Của luân lý (đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con
người trên đồ vật, sự ưu việt của tinh thần trên vật chất… Điều quan trọng là
sự phát triển của con người chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật... Thà
có ít hơn để hiện hữu nhiều hơn".
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào
kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn
chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm
được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm
xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng,
không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh
hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài
đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì
huống hồ là anh em, Ôi những kẻ kém tin?".
Những hình ảnh này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá
ấn tượng nên người ta có thể hiểu sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức
Giêsu không bao giờ nói rằng không nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến
khích người nghèo đi xin xỏ hoặc nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo
hoặc thói lười biếng. Thật là quá đáng. Có một thu "tôi mặc kệ". nào
đó làm cho chính những người khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô
lo, chúng ta chất lên đầu họ. Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu
người khác, những người mà chúng ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận
lấy những lo láng này trên vai chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả
lại, nếu Đức Giêsu nói: "Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi..."
thì tại sao trong toàn bộ Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại.
Chương đầu tiên của sách Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền "hãy thống trị
đất và bắt nó phục tùng". Thật ra Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được
nuôi ăn" (Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm
việc, người đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2
Thê-xa-lô-ni-ca 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người
đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30).
"Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".
Vậy Đức Giêsu muốn nói điều gì? Khi Người nói "lo lắng
mà làm gì?”.
Thế thì người nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi
người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải thư giãn một chút phải chống lại sự
căng thẳng thần kinh thái quá…
Người bảo chúng ta phải làm việc như "chim trời và hoa
cỏ ngoài đồng": Các bạn hãy nhìn kỹ chúng... hãy nhìn hoạt động và các sự
khéo léo mà chúng sử dụng để sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức
Giêsu nói với chúng ta nhiều nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả
những tạo vật khác, vậy mà Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì
đây? Tất cả những thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết
anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Tất cả lập luận của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá
lo lắng dựa trên một sự tin chắc của đức tin: Cha anh em “biết"? Trước đó,
Người đã nói về sự cầu nguyện: "anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha
anh em đã "biết" rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về
Thiên Chúa đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại... và Thiên
Chúa là Cha yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một
người "vô lo"... mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy
đã trở nên say mê Nước Thiên Chúa: "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên
Chúa!".
Làm tôi tớ cho Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính
mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do...
“Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày
nào có cái khổ về ngày ấy”.
Một câu châm ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều
gì. Cả cuộc đời, Người đã sống như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo
lắng của hôm nay những lo lắng của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày
với nỗi sợ hãi những bất hạnh là có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng
mỗi ngày... ngày mai rồi sẽ biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.
22. Suy niệm của Lm Hồ Thông
ƠN QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
Bản văn này còn
thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Matthêu đã quy tụ những lời dạy khác
nhau của Chúa Kitô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết
của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi
vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống
nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha
và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ
Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo
hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia
đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và
con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái
của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa và tiền của:
Trước tiên Chúa Giêsu
nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu
thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành:
“Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập
Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên
nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách
hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ tiền
của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích
trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được
tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở
đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không
phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn
một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Chúa Giêsu không đòi
hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy
gì mà ăn (6, 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6, 31-33) và về ngày mai (6,
34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu
sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không
bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa
không” (Lc 22,35).
Cũng như cô Mácta
tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Maria
ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Maria chọn
phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời
thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào Chúa quan
phòng:
Việc Đấng Tạo Hóa ân
cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng
định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên
Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27. 145,15; 136,25; 147,9).
Giữa những thọ tạo
khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời
gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người.
Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công
gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn
sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời
hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ
không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê
nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu
biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội,
bị héo khô, được các nông dân Galilê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để
nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.
Từ những tạo vật hèn
mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả
của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay
hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Kitô hữu có
một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Kitô
phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên
trời.
4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa:
“Hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo
nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên
thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
“Còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức
ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối
với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ
ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu
cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng
con hôm nay lương thực hằng ngày”.
“Anh em đừng lo lắng
về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ
tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra
con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.
Đăng nhận xét