Các di tích lịch sử và Thủy Tổ khai canh lập làng ở phú đa – Quỳnh bảng | GIÁO XỨ LỘC THỦY
12 Thánh tông đồ Audio suy niệm Audio truyện Công giáo Âm nhạc Bài Giảng mp3 Bạn có biết bạn trẻ xa nhà Bảo vệ sự sống Blog tips Ca kịch công giáo Các bài giáo lý của ĐTC Phanxicô Các hội đoàn Các mục chính Các Thánh Các thánh địa Công giáo Các thánh khác Các Tuần Cửu Nhật Kính Đức Mẹ Các vấn nạn xã hội Cắm hoa nghệ thuật Câu chuyện Giáng Sinh Châm ngôn công giáo Chiêm ngắm Chúa Chuyện phiếm đạo đời Chuyện về Giáo Lý và Giáo Dục Công Giáo đó đây Cửu Nhật Kinh Nguyện Danh Danh bạ website các giáo xứ - giáo họ việt nam Danh bạ website công giáo Di sản thế giới Du Lịch Đẹp + Để sống đạo hôm nay Đôi nét về Giáo xứ Đời sống cầu nguyện Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Đức Mẹ Lama Đức Thánh Cha phanxico Đức Tin và Khoa Học Đường Hy Vọng Gia đình Giải đáp thắc mắc cuộc đời Giao hat Vang Mai Giáo hạt Vàng Mai Giáo Hội Đông Phương Giáo lý - dân ca Giáo lý - kinh thánh Giáo sử Giáo xứ Media góc học tập Góc khám phá Góc nghệ thuật Góc thư giãn Góp nhặt Hạt Giống Lời Chúa Hình ảnh cổ xưa Hình ảnh Giáo xứ Lộc Thủy học tiếng anh Hướng dẫn sử dụng webblog Kết nối websites Kiến thức phổ thông Kính Đức Mẹ Kinh thánh tiếng anh Lẽ sống Lịch sử các Dòng tu Lịch sử Giáo Hội Việt Nam Lịch sử hình thành Giáo xứ Lộc Thủy Lòng Thương xót Chúa Lộc Thủy Lời Chúa qua bài hát Lời chúa theo chủ đề Mùa Vọng - Advent Năm thánh Lòng Thương Xót Nghe và suy gẫm Nghệ thuật Công Giáo Nghệ thuật sống Ơn gọi-tận hiến Phim công giáo Quỳnh lưu Radio Công Giáo Sách Công giáo sách tháng đức bà Sắc màu cuộc sống Sổ tay sinh hoạt suy gẫm Suy gẫm và Cầu nguyện Suy niệm Lời Chúa Suy niệm Lời Chúa mùa Phục Sinh Suy niệm Lời Chúa mùa TN A Suy niệm Lời Chúa năm A Suy niệm mùa chay Sức khỏe - ẩm thực Tài liệu Công Giáo tổng hợp Tài liệu dạy Giáo Lý Tài liệu Tuần Thánh Thánh ca Thánh ca cầu nguyện Thánh Ca Hoàng Diệp Thánh Mẫu học Thánh Mẫu La vang Thế giới Công Giáo Thơ - Truyện Công Giáo Thơ Công Giáo Thơ và cuộc sống Thủ thuật blog Thủ thuật facebook Thủ thuật google + Thư Viện Công Giáo Tiếng anh qua Lời Chúa Tiêu điểm Tìm hiểu phụng vụ Tin Công Giáo Tin Giáo xứ Tin tức Giáo xứ Lộc Thủy Tin Việt Nam và Thế Giới Tổ chức kỳ thi Giáo lý Tông huấn Giáo hội Công giáo Trang Trí Giáng Sinh Trắc nghiệm Giáo lý Trắc nghiệm Kinh Thánh Trắc nghiệm năm đức tin Truyện Công Giáo Truyện về Mẹ Tư liệu Giáo hội Công giáo việt nam Tư liệu Giáo phận Vinh Tư liệu Giáo xứ Lộc Thủy Từ vựng công giáo Anh-việt Tv Công giáo TVs và Radios khắp nơi Vấn đáp đức tin công giáo Videos Đặc Sắc Vietnamese English Prayers Vinh Quang Đức Maria Website Công Giáo bổ ích

Các di tích lịch sử và Thủy Tổ khai canh lập làng ở phú đa – Quỳnh bảng

08:59:00

Các di tích lịch sử và Thủy Tổ khai canh lập làng ở phú đa – Quỳnh bảng


1.    Di tích nhà thờ họ Hoàng Khánh (08/08/2013 05:16 PM)

Nhà thờ họ Hoàng Khánh, tọa lạc tại thôn 4, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tổng diện tích khuôn viên: 2.660 m2, nơi tôn thờ và tưởng niệm cụ Hoàng Khánh và các bậc hậu duệ trong dòng họ đã có công bảo quốc, hộ dân trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ Hoàng Khánh sinh năm 1358 ở Diễn Vạn- huyện Diễn Châu, là cháu nội của Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn - người có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ 2 (1258). Tuổi trưởng thành ông theo cha đi tiểu phạt thổ phỉ ở vùng núi phía tây Thanh Hóa và một số cuộc chinh phạt giặc Chiêm ở Phương Nam; Ông thi đậu Hương cống và lập được nhiều công lao nên dần dần được cân nhắc, ông được nhà Trần ( Trần Duệ Tông 1375 - 1377 ) phong hàm hành Khiển và được giao Quản thủ Lộ Diễn Châu. Trong thời gian đó ông vừa tiếp tục củng cố cơ sở kinh tế, quân sự, vừa tổ chức xây dựng những cơ sở phòng thủ và mở mang kinh tế, văn hóa trong vùng. Người chăm lo kinh tế xã hội của Lộ Diễn Châu, Hoàng Khánh đã tổ chức chiêu dân lập ấp, tạo nên một xã ở huyện Quỳnh lưu trong đó có Thổ Đôi xưa  (nay là xã Quỳnh Đôi ).

2.   Di tích Đền thờ và Mộ Hồ Hữu Nhân, Di tích nhà thờ Nguyễn Bá Lai (09/08/2013 07:42 AM)

 Di tích Đền thờ và Mộ Hồ Hữu Nhân
Đền thờ Đô thống tham đốc giám sự Hoan quận công Hồ Hữu Nhân được xây dựng vào cuối thời Lê. Lúc đầu là một nhà ngói còn nhỏ. Sang đời nhà Nguyễn đền được xây dựng lại với quy mô lớn tam tòa, bố cục kiểu chử Tam tại xóm Đồng Hưng, xã Quỳnh Bảng, khu lăng Mộ thuộc thôn Chí Thành, xã Quỳnh Bảng, nơi tôn thờ Hoan quận công Hồ Hữu Nhân, Cụ là người có công lớn trong việc chiêu dân, mở đất, lập làng, phát triển ngành nghề ở Đa kỳ nội,     ngoại và vùng Minh Cảo. Cũng là người đặt hương ước, phép tắc, lệ làng, giữ gìn phát huy thuần phong mỹ tục. Có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Tham gia đánh và giải phóng Thành Trà Lân tháng 5/1425. Tham gia trận đánh phục binh ở Bồ ải, Khả Lưu góp công tiêu diệt chủ lực địch bắt sống tướng Chu Kiệt, chém tướng Hoàng Thành. Đập tan ý đồ tái chiếm Trà Long của Phương Chính và Trần Trí. Góp sức trong chiến thắng Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng, Xương Giang. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) trong lễ bình công, với công lao lớn trong chiến trận, đặc biệt là thành tích chiến đấu đánh Thành Trà Lân, với lòng trung thành Hồ Hữu Nhân đã được Lê Lợi phong chức Đô thống tham đốc tước Hoan quận công.
Nhà thờ và Mộ Hồ Hữu Nhân đã được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp Quốc gia năm 1999.

Di tích nhà thờ Nguyễn Bá Lai
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Quỳnh Giang đã xuất hiện nhiều danh nhân lịch sử, văn học, nhiều tướng lĩnh võ công rực rỡ như thuần quận công Nguyễn Bá Lai cũng như các bậc khoa bảng.
Nhà thờ họ Nguyễn Bá Lai tại xã Quỳnh Giang, với diện tích 1.200m2. Cụ Nguyễn Bá Lai được phong là Bình Ngô Khai Quốc Bảo chính công thần, hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi vây hãm thành Thăng Long, vua Lê truy tặng là Thái Phó Thuần quận công, dân làng Cao Hậu Đông lập đền thờ. Đền có Tiền đường, hậu cung làm kiểu trùng thiềm. Gần đố có hai miếu nghè thờ thần Hùng Lược và thần Minh Trí. Thần Hùng Lược- là một quản tượng, thời Lê Trung Hưng, đi đánh giặc bị thương, voi chở về đến đó thì mất. Ông được nhân dân chôn cất chu đáo và lập miếu thờ. Nhà vua phong sắc và phong là Hùng Lược Anh Nghị quả cảm cương đoán. Thần Minh Trí làm một vị thiên thần. Việc thờ phụng Quận Công Nguyễn Bá Lai và con cháu hậu duệ, kể cả ba bà chúa đều chuyển về nhà thờ Quận Công Nguyễn Bá Lai ở Làng Đông Luyện. Nhà thờ này làm theo kiểu chữ nhị. Hậu cung ba gian, gian giữ thờ Quan Thái phó Thuần quận công và các con cháu Bái Dương hầu. Hai gian bên thờ các bà chúa, con gái của Nguyễn Bá Lai. Tiền đường 3 gian cách  hậu cung 1 sân hẹp. Tiền đường làm nơi tế lễ của dòng họ và dân làng. Phía sau nhà thờ là khu lăng mộ quận công và hậu duệ được xây dựng trang nghiêm. Nhà thờ họ cụ  Nguyễn Bá Lai trước đây đều có câu đối nói lên công tích của Cụ đối với  dân làng trong việc mở mang làng Đăng Cao cũ cả thôn Đồng và thôn Đoài:
                                “Quỳ Câu thác tích nguyên lưu viễn;
                                    Vin lĩnh khai cơ cổ chí kim”
Khu di tích này đã được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1997.

3. Di tích nhà thờ họ Hồ Đình (09/08/2013 07:48 AM)

Nhà thờ họ Hồ Đình ở xã Quỳnh Bảng được xây dựng từ thời Lê, là nơi thờ phụng các bậc tổ tiên của dòng họ Hồ Đình ở Quỳnh Bảng, trong đó có nhiều nhân vật lịch sử đã có nhiều cống hiến cho đất nước.

Vị tổ thứ nhất được thờ tại nhà thờ là ông Hồ Huyền Minh:

Căn cứ tài liệu lưu truyền trong dòng họ, ông Hồ Huyền Minh sinh năm 1580 tại hương Bào Đột cũ (nay thuộc xã Quỳnh Lâm – huyện Quỳnh Lưu). Ông là người có học thức, có hiểu biết sâu về địa lý. Sau khi lập gia đình với bà Ngô Thị Nhiệm, ông cùng một số trai tráng chuyển về sinh cư tại Cồn Tro thuộc thôn Văn Bằng (sau đổi thành Đa Kỳ) - vùng đất mới được Hồ Hữu Nhân và Nguyễn Khánh Duệ khai cơ lập làng từ thế kỷ XV. Nhưng do đây là vùng đất ở gần biển, bị nhiễm mặn nên bấy giờ đất hoang hoá vẫn còn nhiều, đất sản xuất hạn hẹp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, đói kém. Trước thực tế đó, ông Hồ Huyền Minh đã tìm cách cải tạo ruộng đất. Nhờ có tầm nhìn rộng, giàu lòng thương dân và tài sắp xếp, tổ chức nên ông đã có nhiều đóng góp lớn trong việc huy động sức dân, đắp đê ngăn mặn và cải tạo ruộng đất. Vì vậy đất đai sản xuất ngày càng được mở rộng, đời sống nhân dân ngày càng no ấm, phát triển.

Vị tổ có công tiêu biểu nhất được thờ tại nhà thờ Hoài viễn tướng quân Hồ Đình Đê, hậu duệ đời thứ 7 của cụ tổ Hồ Huyền Minh. Ông sinh năm 1740, huý Đình Sỹ, hiệu là Tự Pháp Thăng, là con trai trưởng của ông Hồ  Đình Thức. Sau khi thi Hương đậu ba kỳ - học vị Sinh đồ (khoảng năm 1755), Hồ Đình Đê gia nhập vào đội quân phù trợ nhà Lê Trung hưng. Là người có học, lại sớm thể hiện tài binh đao nên ông nhanh chóng được phong làm đội trưởng đội ưu binh tuỳ tiền dũng đội.

Tình hình đất nước lúc bấy giờ rất rối ren. Trong lúc nhiều trung thần cũ của nhà Lê đang tìm cách lấy lại ngai vàng cho nhà Lê nhiều nơi trên đất nước ta cũng nổi lên các cuộc khởi nghĩa tranh giành, thoán đoạt, dẫn tới nạn cát cứ ở một số địa phương. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở Hưng Hoá (vùng Tây Bắc ngày nay) và khởi nghĩa Lê Duy Mật ở Thanh Hoá đã gây nhiều tổn thất cho triều Lê. Tướng trấn thủ vùng Hưng Hoá lúc bấy giờ là tướng Hoàng Đình Thể không chống cự nổi nên triều đình cử thêm quân đi hỗ trợ. Bấy giờ Đội trưởng đội ưu binh Hồ Đình Đê thuộc đạo quân Nghệ An.

Cụ Hồ Đình Đê là một đội trưởng xuất sắc, có những đóng góp tích cực, góp công lớn vào việc hạ thành Trình Quang nên được vua Lê ban sắc phong thưởng. Sắc hiện còn lưu giữ tại nhà thờ, nội dung sắc:

“Sắc cho ưu binh tuỳ tiền dũng sưu đội trưởng Hồ Đình Đê xã Hoàn Hậu đông, huyện Quỳnh Lưu, bản thân cùng các quan Đốc lệnh quản Hưu trung hầu, Tán lý quản phong xuyên hầu đánh dẹp giặc dã ở vùng núi thuộc đạo Hưng Hoá, bình đình giặc ở sào huỵêt Trấn Ninh, đã lập được công. Cho giữ chức Bá hộ, hiệu lệnh ty, Tráng sĩ bách hộ, bậc hạ trật”.

Lúc này ở xứ Đàng Trong, quân Tây Sơn đang ra sức mở rộng căn cứ. Triều đình cử Bùi Thế Đạt giữ chức Đốc trấn Nghệ An phối hợp cùng Hồ Đình Đê chỉ huy các tướng sĩ và binh lính đi bình ổn và phá được căn cứ ở Phú Xuân. Với chiến thắng này, ngày 11/6 năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), vua Lê đã ban sắc phong thăng cho Hồ Đình Đê chức Phó Thiên hộ hiệu Tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh tư tráng sĩ.

Niềm vui bình ổn được Phú Xuân chưa được bao lâu, nhà Lê lại phải lo đối phó với giặc Ai Lao (đang nhân cơ hội đất nước ta loạn lạc hòng bành trướng lãnh thổ). Việc quân cấp bách, vua Lê ngay lập tức đã cử Phó Thiên hộ Hồ Đình Đê dẫn binh phối hợp với các cánh quân khác lập kế đánh quân Ai Lao ở động Mãnh Thiên. Nhưng giặc nghe tin đã vội bỏ chạy, quân ta lấy đất rồi về. Sách "Lịch triều hiến chương loại chí" chép: "...khi đến nơi quân Lào trốn đi, bèn lấy đất rồi về". Trở về triều, Phó Thiên hộ Hồ Đình Đê được nhà vua ban sắc thưởng. Sắc rằng:

"Hồ Đình Đê tráng tiết tướng quân, hiệu lệnh tư tráng sĩ, Phó thiên hộ thiết kị uý trung liệt, vốn lính tuỳ tiền dụng sưu đội, theo quan đốc lệnh Phan Phái hầu đạo Hưng Hoá và quan tiền tán lí Trần Thản đánh dẹp ba vạn thành, tiễu trừ giặc lùi, rất có công tích đã được bề trên chấp chuẩn thăng chức thiêm tổng tri, xứng đáng là trì uý Tướng quân thần vũ, tư hiệu sĩ thiêm tổng tri phi kị uý trung chế".

Đầu những năm 80 của thế kỷ XVIII, vùng Thuận Quảng lại bị xâu xé bởi nhiều phe phái. Hồ Đình Đê là một tướng giỏi được triều Lê cử đi bình ổn vùng Thuận Quảng cùng các thống tướng. Thuận Quảng được bình ổn xong.

Với những đóng góp về tài trí, mưu lược cũng như sự chiến đấu dũng cảm, tinh thần một lòng một dạ phục vụ quốc triều, cho nên trong cùng một ngày vua Lê đã ban cho ông 02 đạo sắc để ghi nhận công lao. Đạo sắc thứ nhất phong cho ông danh hiệu "Kiệt trung tướng quân", đạo sắc thứ hai gia phong thêm một bậc: Đồng tổng tri, danh hiệu Hoài viễn tướng quân thủ ngự.

Sau nhiều năm tháng xông pha trận mạc, khi vào bình ổn vùng Thuận Quảng được vài năm, ông lâm bệnh rồi qua đời tại Đồng Hới, Quảng Bình. Triều đình đã phong ông làm thần: "Lê triều tráng tiết Thượng tướng quân Hoa quận công Hồ Đình Đê chi thần" và cho lập đền thờ phụng tại quê nhà (nay là xã Quỳnh Bảng – huyện Quỳnh Lưu).

Trong những năm 1930 – 1964 do điều kiện đất nước phải tập trung sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như nhiều đình, đền, chùa khác, ngôi đền thờ ông cũng bị bỏ hoang phế, hư hỏng. Được sự quan tâm, bảo vệ của dòng họ Hồ Đình, các bộ phận kiến trúc và đồ tế tự còn lại của đền thờ ông đã được sát nhập vào nhà thờ của dòng họ để thờ phụng chung cho đến ngày nay.

4. Di tích nhà thờ họ Hồ Đức (09/08/2013 07:50 AM)

Nhà thờ họ Hồ Đức được xây dựng từ thời Hậu Lê, nơi tôn thờ Thỉ tổ Hồ Đức Đỏ cùng các vị tiên tổ trong dòng họ có công với dân, với nước như Hồ Đăng Cẩm, Hồ Đức Khoan...

Thỉ tổ Hồ Đức Đỏ, thuỵ Phúc Chính Phủ Quân, sinh năm Giáp Thìn (1664), cụ là người có công cải tạo đất đai để canh nông, xây dựng làng Phú Đa. Cụ mất vào ngày 23 tháng 2 năm Thìn, mộ cụ được đặt ở lùm Giành, bãi Đông. Nhớ công ơn của cụ, con cháu sau này đã xây dựng nhà thờ trên chính mảnh đất cụ an cư lập nghiệp để tưởng nhớ, tri ân vị tiên tổ đầu tiên của dòng họ Hồ Đức.

  Ngũ Thế tổ Hồ Đăng Cẩm là hậu duệ đời thứ 5 của Thỉ tổ Hồ Đức Đỏ, sinh vào giờ Dần, ngày 13 tháng 8 năm Đinh Sửu (1757). Sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, thủa nhỏ có tiếng là thông minh, lanh lợi, lại thêm chút năng khiếu về võ nghệ nên đã sớm thăng tới chức Thị hầu tả thuyền.

  Khi vừa tròn 25 tuổi, bất bình và căm phẫn trước những việc làm dưới thời Trịnh Sâm, Trịnh   Cán nên đã đồng sức cùng lính Ưu binh treo khẩu hiệu “Tam quân phò chính” phế Trịnh Cán đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa và năm sau 1783, trong một ngày, ông được vua Lê Hiển Tông phong 2 sắc trong, ghi nhận công tôn phù và tôn phù Tự vương. Vua Minh Mệnh, truy phong ông là “Trung đẳng thần”.

   Cụ Hồ Đức Khoan, sinh vào giờ Hợi, ngày mồng 6 tháng 2 năm Thiệu trị thứ 2 (1842), mới lên 9 tuổi, đã mồ côi cha, nhưng thông minh, hoạt bát, ham học và đậu tú tài lần thứ nhất vào kỳ thi năm Mậu Thìn (1868), nên dân làng gọi là ông Tú Kép và là người khai khoa của làng và Đình làng lúc đó được dân làng đặt tên đình là “Đình Mừng Khoa”. Cụ là người có công lớn lập làng Tân Mỹ vào năm 1876, được nhà Vua ban chiếu chỉ ngợi khen, là người có công gieo gieo mầm tri thức, truyền thống hiếu học của quê hương Đồng Xuân (Làng Tân Mỹ trước đây). Cụ mất vào giờ Hợi, ngày 19 tháng 10, năm Quý Sửu (1913), thọ 72 tuổi. Để tưởng nhớ công ơn của cụ, năm 1916, dân làng Đồng Xuân đã tôn cụ là Thành hoàng và rước bài vị của cụ với vị hiệu “Mậu Thìn, Quý Dậu, nhị khoa Tú tài, bản thôn mộ trưởng thọ lão, tự Kính Phu, thụy vân nghị Hồ phủ quân”.

   Tiếp nối truyền thống  hiếu học và cách mạng của cha ông, các thế hệ con cháu trong dòng họ tích cực thi đua học tập thành danh, tham gia nhiều cuộc cách mạng, nhiều người đã trở thành nhà quản lý, lãnh đạo giỏi trên các lĩnh vực của xã hội. Dòng họ Hồ Đức luôn đi đầu trong phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, an ninh - an toàn thôn xóm đã nhiều năm liền được công nhận là dòng họ tiêu biểu của huyện.

   Đến với di tích nhà thờ họ Hồ Đức, chúng ta ai cũng cảm nhận được nét cổ kính, linh thiêng. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, nhà thờ họ Hồ Đức vẫn được con cháu bảo tồn, tôn tạo; các hạng mục công trình được giữ khá nguyên vẹn, quy mô lớn, kiến trúc cổ kính, tôn nghiêm và hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học, mỹ thuật, ... phục vụ cho việc nghiên cứu, giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng cho các thế hệ mai sau.

   Hàng năm, vào ngày 19 tháng 10 âm lịch (ngày giỗ cụ Hồ Đức Khoan), con cháu ở khắp mọi miền đất nước đều hội tụ về nhà thờ họ; dâng nén hương tâm thành, tỏ lòng thành kính, tri ân tưởng nhớ các bậc tiên tổ, thể hiện tình cảm, sự ngưỡng vọng, biết ơn sâu sắc công lao của tổ tiên ông bà và các bậc tiền nhân đã có nhiều công sức xây dựng quê hương, đất nước và sự tồn thịnh của dòng họ...

5.Di tích đền Đồng Xuân (08/08/2013 05:21 PM)

Đền Đồng Xuân, là một công trình kiến trúc cổ, đã tồn tại hàng trăm năm, nơi tôn thờ, tưởng nhớ công đức của danh nhân và vị thần Phương Hách Quyết Thanh Đế Quân đã có công bảo quốc hộ dân trong 2 cuộc kháng chiến và trong cuộc sống đời thường, góp phần ổn định và phát triển KT-XH của quê hương, đất nước. Phạm Đình Toái là một vị quan sống hết lòng vì dân, vì nước có nhiều cống hiến to lớn trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Năm 1842, Ông được bổ nhiệm làm quan ở nhiều nơi, giữ nhiều chức vụ khác nhau, từ tri huyện, tri phủ…cho đến Tân Vệ Quyền, nhưng bước đường làm quan của ông gặp nhiều trắc trở. Điều quý nhất ở ông là dù làm quan ở đâu, ở trong hoàn cảnh nào cũng luôn coi trọng đạo nghĩa. Lúc về hưu, được phong tước “Hồng Lô Tự Khanh”, ông có công lớn trong việc khai cơ, lập ấp trên vùng đất hoang hoá cận biển, kề sông, lập nên làng Đồng Xuân (nay thôn Tân Xuân, xã Quỳnh Bảng), cung tiến tiền của cung cấp cho dân khẩn hoang, làm đường, đào giếng, bắc cầu qua sông, qua lạch, lập chợ, làm nhà, xây dựng Đình làng, đình xóm, nhà Thánh, lập Từ đường… Ngoài việc tổ chức khai hoang, chăm lo đời sống cho nhân dân, ông còn để lại cho hậu thế một số tác phẩm văn học, sử học có giá trị nghệ thuật cao, mang ý nghĩa giáo dục và tính nhân văn sâu sắc; tiêu biểu là “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca”, “Đồng Xuân Hương Thư” và bộ sách “Quỳnh Lưu Tiết Phụ Truyện”…Phạm Đình Toái là một vị quan thanh liêm, đức độ, tài cao, lập nhiều chiến công lớn trong việc đem quân đi dẹp phỉ ở Phủ Sơn Tây giúp nước, an dân, được Triều đình Nhà Nguyễn phong sắc “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần” và “Đoan Túc Tôn Thần”. Khi ông mất dân làng lập đền thờ và tổ chức cúng tế vào ngày 12/2 âm lịch hàng năm. Với những cống hiến to lớn đó, ông xứng đáng được tôn vinh danh nhân văn hoá mang tầm cỡ Quốc gia, là vị thành Hoàng làng.



Labels:

Đăng nhận xét

[blogger][facebook][disqus]

Author Name

{picture#https://1.bp.blogspot.com/-E9BgdfTl7Ug/Xpa2B9OupwI/AAAAAAAAA1U/PnbaR3h3-jE-jQ5GwdNpEvZGUfRWCLz6gCLcBGAsYHQ/s1600/Ch%25C6%25B0a%2B%25C4%2591%25E1%25BA%25B7t%2Bt%25C3%25AAn-1.png} {facebook#https://www.facebook.com/giaoxulocthuygpvinh} {twitter#https://twitter.com/giaoxulocthuy} {youtube#https://www.youtube.com/@giaoxulocthuy}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.