LÀNG TÂN YÊN – XỨ PHÚ YÊN
KỶ YẾU
HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN
Trong phần mở đầu cuốn sách Giáo xứ Phú Yên, làng Tân Yên, Lm. F.X. Nguyễn Hùng Oánh đã viết: “Mến yêu quê hương, hãnh diện về ngôi Thánh Đường đứng nhất nhì Giáo phận Vinh đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Tân Yên khắp năm châu”. Vì thế bà con quê hương Tân Yên ở trong và ngoài nước đã đóng góp những khoản tiền và ngày công đáng kể để bảo tồn ngôi thánh đường, xây dựng nhà xứ mới, phòng học, giúp đỡ người nghèo, nâng đỡ học sinh bằng tiền khuyến học, đóng bàn ghế mới cho học sinh, đóng góp phần lớn ngân sách vào nguồn điện thắp sáng cho dân làng, đào giếng, xây giếng nước và tất cả mọi thành quả chúng ta đã làm được là một việc đáng trân trọng cần ghi nhớ để tạ ơn Thiên Chúa và biết ơn ông bà tổ tiên đã khai sinh ra Làng Tân Yên, giáo xứ Phú Yên hôm nay.
Các thế hệ Tân Yên chúng ta đang cố gắng để không hổ thẹn với tổ tiên, làng nước. Hy vọng con cháu Tân Yên luôn biết phát huy lòng yêu mến quê hương, kính nhớ ông bà tổ tiên, ra sức học hành, tu dưỡng đạo đức để bồi đắp, giữ gìn những gì Ông Cha ta xây dựng và để lại cho hậu thế.
Chúng ta cùng điểm lại những chặng đường lịch sử, những sự kiện mà Làng Tân Yên – Giáo xứ Phú Yên đã trải qua trong suốt quá trình hình thành và phát triển.

I. THỜI KỲ KHAI NGUYÊN
Đất Tân Yên (Xóm Mới) trước chỉ là một gò đất nổi lên giữa hai dòng Mai Giang uốn quanh, bởi sự hình thành do hai nguồn đất: một nguồn từ dãy núi Rồng trôi xuống, một nguồn nữa là do sự bồi đắp từ biển cả (theo giả thuyết giải thích căn cứ vào kết quả hai mũi khoan khai thác nguồn nước ngầm ở độ sâu 80m). Vì là gò đất nổi, nên thuận lợi cho các thuyền te tới đậu, nhất là thuận lợi cho việc đi lại của khách từ Phú Nghĩa hạ (Kẻ Hàu) và Phú Nghĩa thượng (Kẻ Mơ) tới Huyện lỵ và vùng khác, nên đã dùng đò ngang tới cồn đất nầy. Từ đó cồn đất này có tên “Bến Lở”: “Bến” là nơi đến và đi, “Lở” là do sự bồi đắp đất cát và xói mòn của dòng nước, cũng là một thứ đến và đi của đất cát.
Như vậy đất Tân Yên được hình thành qua sự kiến tạo của thiên nhiên và thuộc địa danh Huyện Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An, phía Bắc Miền Trung, Việt Nam.
II. THỜI KỲ HÌNH THÀNH
(Từ năm 1830 đến 1870)
Là một gò đất nổi, nên dần dần qua thời gian năm tháng, các nhóm họ tộc từ các nơi đã lần lượt đến Bến Lỡ( Xóm Mới )Tân Yên lập cư và tuần tự gồm tất cả các nhóm chính:
1. Nhóm Phú Nghĩa hạ (Kẻ Hàu): Xét về mặt địa lý, làng Kẻ Hàu trải dọc theo sông đông tây, nhưng phía sau (đông và bắc) thì lại chênh vênh trên “cao nguyên” đất đá do triền Núi Rồng đổ xuống. Ở trung tâm làng, trên một gò đất và đá có một số gia đình Công giáo với ngôi nhà nguyện nhỏ bé trong một làng lương đông đúc thuộc giáo họ Mành Sơn. Theo sử sách để lại thì Ông Cố Mưòi cùng với gia đình lên Bến Lở (Xóm Mới) để giữ đạo vì thời gian vào khoảng năm 1830 thời Tự Đức thập niên ra sắc chỉ cấm đạo nên ngôi nhà nguyện đã bị đốt phá bình địa.
Sau khi Cố Mười lên Bến Lở, có gia đình Bà Trần Thị Thử (thân mẫu của Ông Nguyễn Văn Tự hay còn gọi là cố Trùm Hân) cũng lên Bến Lỡ lập cư. Rồi theo thời gian năm tháng và thời cuộc, cũng như do sinh kế, các nhóm tiếp theo đã lần lượt tới Bến Lở sinh sống và lập nghiệp. Vì thế dân quanh vùng tặng cho Bến Lở danh từ “Xóm Mới”. Xóm Mới trở thành nơi đất lành chim đậu. Số người đến sinh sống mỗi ngày một tăng thêm. Tôn giáo là mối dây linh thiêng liên kết dân Xóm Mới thành một xóm đạo dưới sự hướng dẫn của Cố Mười trực thuộc giáo họ Mành Sơn (Mành Sơn lúc đó đang là một Họ của xứ Cẩm Trường).
2. Nhóm Phú Nghĩa thượng (Kẻ Mơ): Thuộc dòng tộc họ Trương danh tiếng, đổi sang họ Nguyễn (họ nhà vua lúc đó) và sang Xóm Mới sinh sống vì lý do tôn giáo hơn là vì kế sinh nhai. Trong nhóm nầy, nổi tiếng là Bà Cục Làng, chồng họ Chu cùng với mấy người cháu có học thức là: Ông Chu, Ông Trạch, Ông Hanh, Ông Khương.
3. Nhóm Thanh Dạ: Nguồn gốc phát xuất từ Ông Bà Cố Mến, cuối thế kỷ 18, Cố Mến, người lương, ở Thạch Động (Quỳnh Thạch ngày nay) về Thanh Dạ sinh sống, lập gia đình, sinh được bảy người con, trong đó có năm người xuống Xóm Mới (Tân Yên) lập nghiệp là: Ông Yến, Ông Phảng (Phàng), Ông Phùng, Ông Hiêng, Bà Hợu.
Cùng đi với Ông Hiêng có mấy người anh chị em họ là: Bà Tri (Bà Bối), Ông Diện, Ông Ký Thuân, Ông Trinh.
4. Nhóm Kẻ Sò: Xuất phát từ Ông Bùi Nhật Nghĩa (hay Ngãi) sinh khoảng năm 1865, từ Làng Sò ra Tân Yên lập nghiệp, kết hôn với Bà Nguyễn Thị Hoan con gái Bà Cố Yến, Ông là thân phụ Linh mục Bùi Nhật Nghiệm.
5. Nhóm Kẻ Ngò: Xuất phát từ Ông Bà Câu Lương họ Trần, sinh quán ở thôn Ngọc Thanh vùng Kẻ Ngò (Song Ngọc). Bà Câu là người họ Nguyễn, Ông Bà sang Tân Yên lập nghiệp, làm ăn giàu có. Cùng với Ông Bà Câu Lương có Bà Miện (Thân mẫu của Ông Viện) ở Làng Trúc Vọng (Kẻ Ngò); Ông Trần Ngọc Liêu (thân phụ của Linh mục Trần Ngọc Thủy); Ông Trớc (thân phụ của Ông Ký Toản); Ông Trùm Cam.
6. Nhóm Kẻ Lò: Bắt đầu từ Ông Trần Quang Tuế (gọi là Ông Ký Đuyến) ra Tân Yên lập nghiệp, xây dựng gia đình với con gái Ông Bà Cố Yến (Bà Ký Đuyến).
7. Nhóm Đồng Bạch: Xuất phát từ Ông Học Thởng ( hay Thởn) ở Đồng Bạch (Quỳnh Bá hiện nay), xuống Xóm Mới dạy học và lập nghiệp. Linh mục Nguyễn Hữu Nhường là hậu duệ đời thứ 4 của ông.
8. Nhóm Kim Đôi (Trung Nghĩa, Hà Tĩnh): Xuất phát từ Ông Bà Cố Thìn có năm người con ra Xóm Mới lập nghiệp: Bà Gián, Bà Thiên, Ông Quyết (Ông Trùm Phương); Bà Thể, Bà Điểng. Ông Quyết là Ông Nội của thầy Nguyễn Trung Hiếu, Lm. Nguyễn Xuân Thảo, Lm. Nguyễn Công Minh.
Ngoài 8 nhóm chính còn có các nhóm lẽ nơi khác đến Tân Yên sinh sống và lập nghiệp từ sau năm 1900 (xin xem Bản Phả Đồ Làng Tân Yên).
Vì vậy khi nói đến gia phả nguồn gốc Làng Tân Yên, Ông Nguyễn Ngọc Xoan đã thể hiện tâm trạng của ông đối với quê hương qua mấy vần thơ:
Khéo tay Tạo Hoá nhiệm mầu
Đất Tân Yên đã có hầu bao năm,
Thuở xưa khởi sự cha ông,
Có tên Xóm Mới bên sông tà tà,
Vốn người gốc ở Sò ra,
Cùng người Thanh Dạ hợp hoà tạo nên,
Vào thời Tự Đức thập niên, (1855)
Triều đình cấm đạo ẩn yên qua ngày,
Chuyên nghề chài lưới hăng say,
Nửa cơm nửa cháo qua ngày dung thân,
Mây trời đưa đẩy dần dần,
Tạo nên phồn thịnh dân sinh lan tràn,
Xóm Mới đổi lại Tân An
Biến thành xứ đạo vẹn toàn vẻ vang
Ra công bồi đắp sửa sang,
Cùng nhau xây dựng hiên ngang xóm làng,
Công trình cải tiến mọi đàng,
Lập nên xứ sở muôn vàn bao la,
Trải qua non nước tình nhà
Đất lành chim đậu kể ra từ ngày,
Thợ Trời sao khéo vần xoay,
Khiến nên ra cõi vùng này đẹp xinh
Trường giang uốn khúc bao quanh,
Thuỷ triều lên xuống nước xanh một màu
Ba bề làng xã gần nhau,
Thuyền buồm xuôi ngược chậm mau hữu tình,
Hoàng hôn ban sáng bình minh,
Bóng in mặt nước hữu tình biết bao,
Lưới chài nhộn nhịp ra vào,
Quanh năm phồn thịnh trải bao tháng ngày
Chính nghề chài lưới chuyên tay,
Nhà trên thuyền dưới đêm ngày đủ no,
Trước sau tấp nập mành đò,
Nhà tranh nhà ngói nhỏ to nhiều màu,
Đông tây qua lại đầu cầu,
Ngước trông trước mặt rồng chầu thắm tươi,
Núi rồng cao rộng lưng trời,
Sông Hàu nước chảy ra nơi cửa Quèn,
Ghe thuyền xuôi ngược đua chen,
Kẻ buôn người bán bao phen rộn ràng,
Cảnh ngoài xem vẻ giàu sang,
Phú Yên tên gọi vẻ vang từ ngày
Thánh đường cao ngất quý thay,
Nguy nga tráng lệ xem ngay hùng hồn,
Xưa nay vẫn có tiếng đồn,
Phú Yên thắng cảnh chẳng còn nói không,
Đành rằng gạo chợ nước sông,
Trải bao thế hệ cha ông đêm ngày,
Lưu truyền con cháu thời nay,
Ai người chính gốc đông tây hướng về…
II. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN
(Từ năm 1870 đến 1920)
Sau khi có số người đông đúc và để có điều kiện sinh hoạt tôn giáo cho thuận tiện, bà con Xóm Mới đã xây dựng ngôi Thánh đường và được thành lập Giáo họ vào năm 1870, lấy tên là Giáo họ Tân Yên, trực thuộc Giáo xứ Cẩm Trường. Ngôi nhà thờ Họ được xây dựng bằng gỗ, dài 20m, rộng 10m, đây cũng chính là di tích lâu đời nhất của Giáo xứ Phú Yên. Hiện nay giáo xứ đang chuẩn bị trùng tu, bảo tồn để làm nhà truyền thống của giáo xứ.
Đến năm 1879 giáo dân lại tiếp tục xây dựng nhà xứ khá khang trang đủ cho Cha quản xứ và khách của xứ sinh hoạt.
Sau khi Giáo Họ có số giáo dân đã đông đúc là 1.011 người, thì ngày 14/02/1920 Đức Cha Andre Eloy Bắc đã ký sắc lệnh cho thành lập Giáo Xứ, lấy tên là Giáo Xứ Phú Yên, tách từ xứ Mẹ Cẩm Trường. Cha Phêrô Quỳ là Linh mục quản xứ tiên khởi.
Sau khi thành lập giáo xứ, dân Xóm Mới – Tân Yên thịnh vượng và phát triển về mọi mặt. Vì thế Ông Tú Giáp người Làng Mơ dạy Hán học ở Làng Tân Yên đã ghi lại cảm nhận của ông về CẢNH LÀNG TÂN YÊN qua những vần thơ đầy màu sắc, tả thực mà như mơ, như vẽ:
Tùng Mai non nước nhà ta,
Đất Tân Yên mới dựng ra từ ngày…
Thuở Trời trải khéo vần xoay,
Mở mang ra cõi đất nầy cũng xinh.
Sông vòng hói bọc chung quanh,
Một gò nhà ngói nhà tranh sắp bày
Trông ra núi đỏ hây hây,
Sông xanh leo lẻo buồm chài thinh thinh
Cảnh sao cảnh khéo hữu tình,
Dễ đem ngọn bút vẽ tranh truyền thần
Ngắm đi ngắm lại mấy lần,
Vẽ sao cho đúng cảnh Tân Yên mà
Sông Mai quanh lại vòng ra,
Bồi thêm cánh bãi chìa ra trước làng
Phía sau hói sác mênh mông,
Phía Tây cầu bắc, phía Đông đò chèo.
Thành ra bốn mặt thuỷ triều,
Dầu không tấc ruộng nhưng nhiều bát ăn
Thông thương trải khắp xa gần,
Rõ ràng bể bạc sông ngân dồi dào
Ngư diêm lợi biết là bao,
Lưới về mành trẩy ra vào luôn canh
Đội ơn Thiên Chúa tạo thành,
Chúa ban ơn lắm lại thanh lịch nhiều.
Lầu son gác tía mỹ miều,
Có bề phong vận có chiều thanh tân
Cửa hàng có phố ở gần,
Rượu tây thuốc bắc đủ phần thiếu chi.
Đường tây, sữa hộp, cà phê,
Đồng hồ xe đạp thiếu gì kẻ chơi
Bàn đèn có kẻ mua vui,
Áo quần, bàn máy có nơi sẵn sàng
Nhà quê nhưng cũng phố phường,
Ăn chơi đủ món phô trương đủ màu
Xem ra cũng lắm kẻ giàu,
Người đông của khó dễ đâu sánh tày
Mới xem một cảnh làng đây,
………………………………
Ai ơi muốn học phố phường,
Phải xem cho rõ cảnh Làng Tân Yên.
Địa đồ nầy vẽ như in,
Bút hoa nầy cũng đã quen vẽ vời.
Thư y nhân lúc ngồi rồi,
Phẩm đề xin hoạ vài bài thêm hoa
IV. THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH
(Từ năm 1920 đến 1954)
Khi số giáo dân đã đông đúc và vì nhu cầu mục vụ, Cha già Quỳ đã chuẩn bị một số nguyên vật liệu để xây dưng ngôi Thánh đường mới, nhưng vì ngài chuyển đi quản nhậm xứ khác, nên đầu năm 1934, dưới sự chăn dắt của Linh mục quản xứ Phêrô Cao Hữu Hân, Thánh đường mới đã được khởi công xây dựng. Linh mục Phêrô Bùi Nhật Nghiệm (người Tân Yên) trực tiếp vẽ mẫu và chịu trách nhiệm về mặt kiến trúc. Một Ban kiến thiết được thành lập do cha Hân đứng đầu cùng với các ông: Trần Tuất, Nguyễn Lưu Phương, Bùi Nhật Tân, Bùi Nhật Huân. Các thầy giáo biện cung cấp nhân công hàng ngày. Ông giữ việc Trinh khi nào cũng có mặt. Ông Bà phó Nụ lo cơm nước cho thợ. Cả một bầu khí tinh thần hăng say làm nhà thờ nhờ ba yếu tố: Thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Năm 1934 khởi công và đến năm 1937 thì hoàn thành. Trong ba năm xây dựng thánh đường, lưới được mùa, mành trẩy buôn bán phát đạt đảm bảo cho nguồn tài chính. Về ngân sách, khi khởi công chỉ có 10.000,00đ (tiền Đông Dương) nhưng khi hoàn thành thì tốn phí mất 700.000,00đ, tính theo thời giá trị hiện nay vào khoảng 19.000.000.000,00đ (mười chín tỷ đồng). Thánh đường mới có chiều dài là 46,5m ; rộng 13,5m; tháp cao 37m. Thánh lễ làm phép Nhà Thờ được tổ chức long trọng vào năm 1938 nhân dịp Đức Cha Bắc đi kinh lý. Tước hiệu Nhà Thờ là Chúa Kitô Vua vũ trụ.
Thánh đường giáo xứ là một công trình vĩ đại đã được nhiều kỹ sư trong và ngoài nước ca ngợi thán phục vẻ đẹp hài hòa vừa cổ vừa kim không lỗi thời nhưng kiên cố.
Khi nói về ngôi Thánh đường, Ông Nguyễn Ngọc Xoan đã thả hồn qua mấy vần thơ:
Cha Hân, cha Tạo hai cha,
Hiệp cùng cha Nghiệm một nhà trúc sư,
Một tay mẫu mực nhân từ,
Đốc công chỉ vẻ chẳng từ ngày đêm.
Việc làm ngày tháng liên miên,
Gian lao tất tưởi tiếp liền ba năm.
Ba tư- Ba bảy (1934-1937) mới xong
Đầu năm ba tám (1938) nên công hoàn thành
Biết bao vật dụng ngổn ngang
Xi măng, đá, sắt trăm ngàn bào la
Gạch vôi, cát, sạn kể qua,
Ghe đi mành lại thật là luôn phiên.
Mua từ miền bắc xa miền
Hải Phòng, Hà Nội ghe thuyền ghé qua.
Bùi Chu Phát Diệm cũng ra
Đồ hàng mua bán điều hoà liên miên,
Cha con khó nhọc ngày đêm,
Nhân tài vật lực bạc tiền quản bao.
Ơn trên đổ xuống dồi dào
Mùa màng mặc kệ phó giao cho Trời.
Đồng bào công tác tơi bời,
Nào cây, nào đá, nào vôi cả ngày.
Đào hào, đào móng đóng cây,
Trộn hồ, gài sắt bao ngày gian lao,
Ghe thuyền tiếp liệu ra vào,
Tha hồ khuân vác, xôn xao đêm ngày
Bốc lên vừa hết thuyền này,
Tiếp sang thuyền khác chất đầy lại vơi,
Sáng trăng nào khác tối trời,
Không trăng đèn thắp sáng ngời thay trăng
Càng làm sức mạnh càng hăng,
Dựng xây nhà Chúa ai rằng tiếc chi…
Thợ xây Phát Diệm Bắc Kỳ,
Toàn tay thợ giỏi phải chi tầm thường
Công lao cả mấy năm trường
Thật là phép nhiệm khôn lường biết bao.
Chúa ban ơn xuống dồi dào,
Nói sao cho hết công lao thực hành,
Cha Hân cố gắng hết mình,
Đồng bào đoàn kết trọn tình giúp nhau
Lừng danh nổi tiếng đâu đâu,
Thánh đường lộng lẫy tựa hồ núi cao,
Tân Yên vui sướng dường bao,
Dựng xây nhà Chúa, Chúa nào phụ ơn.
Nhưng mấy vần thơ trên cũng chưa đủ để ông Nguyễn Ngọc Xoan thoả mãn về kỳ công xây dựng và vẻ đẹp của ngôi thánh đường, ông còn thể hiện thêm qua mấy dòng thơ khi ngôi thánh đường hoàn thành vào năm 1937:
Thánh đường rực rỡ muôn phần
Ngắm xem trên dưới tuyệt trần nguy nga.
Xiên xiên hai mái mặn mà,
Kết ren mình nóc ngang ra mỗi đầu.
Hai mươi bốn mái trước sau,
Phía trên cung Thánh bu cao bát vần
Tháp tiền chót vót chuông ngân,
Dọc ngang trên dưới hiệp phần chung nhau.
Xây cất theo kiểu bắc cầu,
Gọng tôm gọng vó gối đầu liên can
Công trình kiến trúc khang trang,
Nhìn xem tuyệt hảo chu toàn nào hơn,
Vững vàng như núi Mành Sơn,
Cửa gài đúc cuốn hai bên giáp tường.
Chu vi bốn mặt Thánh đường,
Chạy dài năm chục mét tường còn dư,
Chiều ngang hai chục đã trừ,
Bề cao hai chục kể từ nóc thôi,
Tháp cao bốn chục đo rồi,
Mặt tiền, mặt hậu thì thôi tính gì,
Bốn bề trên dưới chung quy,
Thang lồng trôn ốc lên thì tháp chuông,
Kính màu chiếu sáng tứ phương,
Bê tông cốt sắt giằng tường không ngơi.
Công lao kiến trúc tuyệt vời,
Trong lòng bốn dãy ghế ngồi thênh thang
Chứa người được cả trăm, ngàn,
Trình bày đẹp đẽ huy hoàng tốt tươi.
Kính màu xanh thẳm da trời,
Sắc vàng đỏ tím sáng ngời đẹp xinh.
Nhìn vào như ánh bình minh,
Trên trần gọng vó kết hình với nhau.
Thật là một vẻ sang giàu,
Trong, ngoài, trên, dưới hoà nhau mọi đàng
Thánh đường tuyệt sắc khang trang,
Tân Yên nổi tiếng giàu sang đã từng.
Cha Hân quản xứ nhọc lòng,
Ra tay kiến tạo kỳ công khác thường,
Dằng dai cả mấy năm trường,
Nhiều cha xứ trước tính đường thấp cao.
Cha Hân kêu gọi đồng bào,
Toàn dân hưởng ứng đổ vào việc chung.
Sức người sức của tập trung,
Thành phần đoàn thể đều cùng chia ra.
………………………………….
Tứ bề vẻ đẹp hiên ngang,
Thuyền qua, khách lại ngỡ ngàng dừng chân
Thật vậy, công trình ngôi thánh đường là công, của, cả làng Tân Yên hy sinh bớt ăn, bớt mặc để làm sáng danh Chúa. Nhưng ai cũng phải ghi nhận rằng: Người có công lớn nhất là cha Cao Hữu Hân, cha Bùi Nhật Nghiệm.
Song song việc xây dựng nhà Chúa, giáo xứ còn phát triển về các mặt:
A. VĂN HÓA VÀ PHONG TỤC
Đất Tân Yên xưa có tiếng là nơi lắm chữ nghĩa. Các nhà phú hộ chuộng văn chương chữ nghĩa đã nuôi thầy đồ dạy chữ nho cho con cháu mình. Nhờ sự học hành, nên dân trí được nâng cao, thuần phong mỹ tục cũng được duy trì và phát triển. Làng có luật lệ, kỷ cương, ai vi phạm phải chịu phạt tiền cùng với một số hình thức khổ nhục.
1. Về quan chức: Ngoài chức vụ lý trưởng, hương hào chuyên trách công việc hành chính do chế độ đương thời quy định, lệ làng còn đặt ra những chức tước danh dự: Lý, Nhưng, Tri, Nhiêu. Muốn có chức tước nầy phải bỏ tiền ra mua: Lý, Nhưng 100 quan, Tri 60 quan, Nhiêu quan đồng.
2. Về luật xứ: Quy định về nguyên tắc phân kính các thứ ngắm trong Tuần Thánh, quy định nghĩa vụ đóng góp để gây công quỹ chi tiêu cho giáo xứ.
3. Về chức vụ: Ngoài chức vụ Trùm xứ, Thủ dịch, Giáo biện được bầu, xứ còn đặt ra những chức vụ danh dự Ký xứ, Trương xứ, Thông xứ. Những chức vụ nầy cũng phải mua bằng tiền, nhưng được tuyển chọn về mặt đạo đức: Ký xứ 150 quan, Trương xứ 120 quan, Thông xứ 100 quan.
Trùm xứ, Thủ dịch, Giáo biện cùng với Ký, Trương, Thông được gọi chung là “hàng xứ”. Tất cùng nhau họp bàn vào những dịp lễ lớn. Vai trò của Cha Chánh xứ: lãnh đạo, chấp thuận các quyết định của hàng xứ.
4. Về tổ chức hành chính Đạo/Đời: Gồm có hai khối song song với nhau, khi cần thì giúp đỡ nhau. Hai khối đó, người dân thường gọi là Nóc Làng, Nóc Xứ.
5. Nghề nghiệp: Dân chài lưới di cư đến Bến Lở, bước đầu sinh sống bằng nghề đánh te, sau khi có người đông đúc, làm ăn phát đạt thì nghề đánh cá biển xuất hiện. Mỗi năm làm nghề biển được chia thành hai mùa đánh cá: Mùa lưới mùa và mùa lưới chiêm. Chủ thuyền gọi là nhà nghề và phần hưởng thụ được chia theo phần việc: thợ, đầu neo, trai, bạn.
Ngoài làm nghề biển còn có thêm nghề làm mắm (đâm), nghề nấu nước mắm, nghề nuôi lợn, nuôi gà vịt, nghề đánh dây neo, đan chài lưới, nghề thợ vàng thợ bạc, nghề may máy, nghề đi gánh nước ngọt về bán lại và dùng.
B. TRƯỜNG HỌC
Sau khi có ngôi Thánh đường mới (1938) nhà thờ cũ được chuyển sang làm trường học đủ phòng cho 5 lớp học. Thầy Trần Ngọc Bình (Thầy giáo Tháp) được cha già Hân mời ra làm Hiệu trưởng, nhưng lúc đó thầy mới 18 tuổi nên phải nhờ ông Nguyễn Đức Dung đứng tên Hiệu trưỏng. Có thể nói thầy Trần Ngọc Bình đã đào tạo cả một thế hệ ”có học” cho làng Tân Yên. Sau này có thầy Nguyễn Nhàn, Nguyễn Tấn, Lê Quý Nhơn được mời ra dạy. Thời cha Hậu, có thầy Trần Vĩnh Tân được mời ra dạy.
Những thầy giáo vừa kể trên là phái “tân học”, còn đối với Nho học thì học tại tư gia, các gia đình khá giả tổ chức mời các thầy tới dạy như thầy Học Khảo (Cầu Giát) thầy Học Mai (Quý Hoà) thầy Học Bân (Tân Yên), thầy Học Phùng, thầy Học Tài…
C. CÁC HỘI ĐOÀN
1. Hội Kèn Tây: Gọi là hội kèn Tây để khỏi lẫn lộn với hội Bát âm (hội kèn ta) được thành lập từ đời cha già Quỳ quản xứ (1930) do mấy người con của ông Nguyễn Lưu Phương khởi xướng và luyện tập. Ông cố cụ Nguyễn Ngọc Đức là Hội trưởng, Ông Nguyễn Đức Dung luyện tập.
2. Hội Ca Vịnh Rôcô: Là Hội hát (Ca đoàn) nhận thánh Rôcô làm quan thầy, được thành lập theo nhu cầu phụng vụ, nghĩa là Hội được thành hình từ lúc có Thánh lễ thường xuyên ở làng. Nhóm đầu tiên lập thành Hội nghĩa là có quy củ, điều lệ, gồm bảy người: Thầy Trần Ngọc Bình, Ông Nguyễn Văn Chất, Ông Nguyễn Văn Thiên, Ông Nguyễn Văn Biểu, Ông Bùi Nhật Hoá, Ông Nguyễn Ngọc Đức, Ông Nguyễn Văn Chước. Sau nầy có thêm: Ông Trần Vĩnh San, Ông Nguyễn Văn Mẫn, Ông Nguyễn Duy Dương, Ông Trần Đăng Khoa, Ông Trần Đình Khuê, Ông Trần Kim Mỹ, Ông Trần Văn Tự….
3. Hội Bát Âm: Gồm những người biết thổi sáo, biết đánh đàn, biết kéo nhị họp lại, dùng tài năng của mình để ca tụng Thiên Chúa, hát mừng Đức Mẹ trong các dịp rước kiệu. Dụng cụ Bát Âm thường dùng là: Sinh tiền, sáo tre, đàn, nhị, trống, phách. Những người đã đóng góp tài năng trong Hội Bát âm: Ông Nguyễn Văn Nguôn, Ông Nguyễn Văn Sương, Ông cố cụ Nguyễn Huy Nhiếp, v.v..
4. Hội Đá Bóng: Tân Yên có truyền thống về đá bóng vào loại giỏi. Đầu thập niên bốn mươi (1940-1944), Hội đá bóng Tân Yên nổi tiếng nhờ những người: Thủ môn: Ông Nguyễn Văn Thắng; Hàng biên: Ông Nguyễn Văn Sương, Ông Nguyễn Văn Lòng, Ông Trần Đăng Khoa, Ông Nguyễn Văn Chước, v.v..
5. Thành ngữ Tân Yên :
- Hay như thuốc Cụ (Thuốc của Cha Tạo ,cha Hân)
- Chữ nghĩa văn chương không bằng cái xương con cá lẹp: Vì không có điều kiện học và khi đi làm thì có thu nhập, nên mấy người đi làm nghề khinh mấy người đi học.
- Nói trầm như Ông Xuân Cam: Ông thuộc lòng các thứ ngắm.
- Chuyện thánh như Ông Trùm Cảnh: Ông nhớ hết các truyện hạnh các Thánh vì ông siêng năng đi tham dự thánh lễ và đọc kinh tối.
- Học trừ bìa: Học sách bổn thuộc lòng đến cả nhớ trang, câu hỏi thưa như Ông Nguyễn Huy Cử (Cở).
- Bụng to như bụng Ông Truy: Ông có cái bụng to như phụ nữ có thai nhưng không phải vì bị bệnh.
- Nói bờ hàn: Từ nầy dùng cho những người ngồi bàn luận với nhau riêng khi ngồi mát vào đêm ở bờ hàn (mép sông), mà qua các cuộc họp không dám đưa ra hoặc đề xuất gì.
- Lý Phó Tao, mép thầy kiện: Ông Phó Tao ăn nói có đầu, có đuôi, có lý sự, ai cũng kính nể. Vì thế trong làng ai ăn nói có lý sự thì được gọi là “lý Phó Tao”.
- Bẩn như Mãn Mèo: Ở làng Mơ có ông tên là Mận, điên điên khùng khùng, thường sang Tân Yên vớt những đồ bẩn để ăn.
6. Ơn Gọi Tu Trì: Các Linh mục, Chủng sinh và Tu sĩ: Trong thời gian 34 năm từ 1920-1954 đã có hai linh mục và hai nữ tu khấn trọn đời:
- Linh mục Phêrô Bùi Nhật Nghiệm sinh năm 1889 tại Tân Yên, nhập chủng viện Xã Đoài năm 1903, thụ phong Linh mục ngày 23/12/1922
- Linh mục G.B. Trần Ngọc Thuỷ sinh năm 1901, tại Tân Yên, thụ phong Linh mục năm 1936.
- Soeur Maria Nguyễn Thị Tuyến sinh năm 1913 tại Tân Yên, khấn trọn đời năm 1933 tại dòng Phaolô Hà Nội.
- Soeur Elisabet Chu Thị Tùng sinh năm 1918 tại Tân Yên, khấn trọn đời năm 1933 tại dòng Phaolô Hà Nội.
7. Về Nhân Danh: Tính đến tháng 12/1954 là 2.300 người.
V. THỜI KỲ TỪ NĂM 1954 ĐẾN 2004
1. Cảnh tượng năm 1954
Đó là một ngày đã đi vào ký ức của người dân làng, bắt đầu vào 15 giờ chiều ngày 21/12/1954, người dân trong làng di tản ồ ạt vào Miền Nam Việt Nam. Với một số dân đông đúc trước đó là 2.300 người, chỉ còn vọn vẹn 297 người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Sự chia ly không báo trước này là một bước ngoặt lớn trong đời sống của xóm thôn: chồng xa vợ, cha xa con, anh xa em… cứ thế đeo đẳng suốt 21 năm ròng. Ở đây, những con người phải chịu bao đau thương và mất mát – 21 năm- một quãng thời gian quá ngắn ngủi để hàn gắn những vết thương của lịch sử.
Những sự chia ly đau thương và đầy mất mát đó là một thử thách lớn đối với những người dân quanh năm ”bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Cảm tác trước những chia ly nầy, Ông Nguyễn Ngọc Đức (thân phụ của Lm. Nguyễn Xuân Thảo; Nguyễn Công Minh) đã thốt lên:
… Ơn Trời sinh được bảy trai,
Bốn con làm Thánh, ba con xa vời,
Mình cha hiu quạnh một nơi,
Mẹ thời Phú Quốc, con thời Nha Trang,
Gia đình cắt đứt tang hoang…
2. Ngày 25/10/1958: Đức Cha G.B. Trần Hữu Đức đi kinh lý và ban bí tích Thêm sức cho các em. Hình thức đón tiếp Đức Giám mục đối với giáo dân bằng đường bộ hoặc đường thuỷ từ xứ nầy sang xứ khác. Ngài đến với giáo xứ Phú Yên, một giáo xứ với số giáo dân chỉ vọn vẹn hơn 300 người và còn không khí buồn thảm của cảnh chia ly.
Tới mỗi xứ, Đức Giám mục quan tâm lo lắng cho việc học hành văn hoá và giáo lý. Ngài an ủi động viên từng con chiên mà Ngài chăm lo, Ngài còn kiểm tra giáo lý Thêm sức theo chỉ định của Ngài trước ngày ban bí tích.
3. Ngày 1/6/1960 – Giáo xứ có Linh mục về nghỉ hưu và quản xứ: Sau năm 1954, giáo xứ chỉ có cha phụ trách coi sóc, nỗi buồn cô đơn vắng lạnh của vụ Di cư 21/12/1954 vẫn chưa nguôi ngoai, nhưng khi giáo xứ được tin cha già Phêrô Bùi Nhật Nghiệm quê hương Tân Yên được Bề trên địa phận trao Bằng sai về nghỉ hưu và quản xứ Phú Yên, lòng mọi người đều phấn khởi vui mừng vì có vị cha già cùng ở và đồng hành với mình, nhất là hàng ngày có Thánh Lễ Misa dâng trên bàn thờ là một điều sung sướng nhất không gì bằng.
Nhưng vì tuổi cao, nhất là mắt bị mờ, nên Toà Giám mục Xã Đoài lại phải cử thêm một thầy giảng ra giúp đỡ cho Ngài trong việc mục vụ. Các Thầy đã lần lượt ra giúp Ngài: Thầy Trần Hướng, Thầy Dương Đình Hòa, v.v..
Thầy Phêrô Dương Đình Hoà khi đặt chân đến đất Tân Yên đã có những cảm nhận về một xóm làng, giáo xứ đìu hiu tiêu điều của những năm “hậu di cư”: “…Vào một buổi sáng mùa thu năm 1961, người thầy giảng khi về tới đầu làng đã thấy khu nghĩa địa cỏ cây dày đặc, hoang vu. Tiến vào nhà xứ cỏ cây mọc um tùm không lối đi, nhà cửa bị rêu phong phủ một lớp dày đặc, nhưng bù vào đó một ngôi Thánh đường đồ sộ có ngọn tháp cao vút. Trong phòng nhà xứ một vị Linh mục già cả lại mù loà và duy nhất chỉ có một bà bõ giúp Ngài và một chú chó cũng đã già… Biến cố ly tán đã 7 năm rồi mà lòng người vẫn đang ngóng chờ ngày ra đi để đoàn tụ. Những tấm thiếp thông tin của nguời thân từ miền Nam gửi về là một nguồn an ủi cho mỗi người và cùng nhau ngồi nghe tin tức. Nhất là vào những buổi đọc kinh chung, hát kính Đức Mẹ với bài ”Mẹ ơi! Con cái Mẹ nơi trần gian…” đã gởi lại cho mọi người đối với người thân ở vĩ tuyến 17 trở vào lòng nghẹn ngào thương nhớ khôn nguôi đến rơi lệ, người thầy giảng bỗng thấy lòng mình thổn thức rồi lắng đọng một niềm thông cảm sâu xa…”
Quê nhà dưới bóng tháp in
Tiếng ai nức nở giờ kinh ban chiều?
Hàng dừa lặng lẽ đìu hiu
Tóc chùng buông xõa bóng chiều hơi sương
Cỏ cây rác rưởi ngập đường,
Sớm hôm mờ dấu người thân chưa về
Nước triều lên ngập bờ đê,
Con đò đứng đợi biết về nơi nao?
Thánh Đường tháp hút Trời cao
Đăm đăm mỏi mắt phương nào người thân?
Dáng ai thơ thẩn quanh sân
Thao thức đón đợi ái ân trở về
Người đi biền biệt xa quê
Thấu chăng nỗi nhớ tái tê ngậm ngùi?
Bao giờ cho nắng rợp trời
Cho chuông reo đổ, cho người gặp nhau…
Trên thực tế, biến cố Di Cư 1954 đã làm xáo động và biến dạng cả một xóm làng; người người ồ ạt bỏ quê hương ra đi! Biến cố Di Cư 21/12/1954 đã làm cho Tân Yên từ một nơi có tiếng là giàu có đông đúc thuở nào đã trở thành một nơi tàn người, tàn của. Nhưng hậu quả đau thương hơn cả là để cho người hụt chân sót lại một nỗi buồn nhớ chờ đợi mòn mỏi triền miên.
Hơn một nửa thế kỷ đã trôi qua, những nỗi đau thương đổ vỡ mất mát tưởng như không thể nào hàn gắn được, thì nay tất cả đã đi vào dĩ vãng và cái gì làTân Yên vẫn tồn tại. Đó là con người, làng xóm, xứ đạo, phong tục, nghề nghiệp… Đó là Thánh đường, ngọn tháp, tiếng chuông… Đó là tiếng hát câu ca…. Đó là cuộc rước, buổi lễ tưng bừng như hôm nay… Đó là Niềm tin và Tình yêu.
Quả thật, chính Niềm tin và Tình yêu đã bảo tồn Tân Yên, đem lại một Tân Yên hồi sinh trọn vẹn.
4. Các Linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh: Sau năm 1954, việc học văn hoá bị gián đoạn, nên không có ai hướng dẫn cũng như không có điều kiện để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu trì. Vì vậy tại quê nhà Tân Yên mãi đến năm 1962 mới có người dự thi Tiểu chủng viện dự bị Xuân Phong. Nhưng rồi lại bẵng đi mãi tới năm 1997, sau 44 năm mới có một Chủng sinh Đại Chủng Viện Vinh Thanh, và cũng từ thời điểm này, ơn gọi tu trì nơi quê hương Tân Yên mới bắt đầu được nhen nhóm. Theo con số thống kê chưa thật chính xác thì tại Miền Nam Việt Nam và hải ngoại có 10 Linh mục, 10 tu sĩ nam nữ gốc Tân Yên. Thụ phong Linh mục đầu tiên tại Miền Nam vào ngày 28/4/1972 là Cha F.X. Nguyễn Hùng Oánh. Riêng tại quê nhà: 1 tu sĩ khấn trọn, 4 tu sĩ nam nữ khấn lần đầu.
5. Ngày 17/01/1968: Đức Cha Phêrô Nguyễn Năng đi kinh lý và ban bí tich Thêm sức. Ngài đến với một cộng đoàn nhỏ bé, đang bị dập vùi bởi bom đạn, khói lửa chiến tranh… Ngài ân cần thăm hỏi từng người, quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của đoàn chiên.
6. Ngày 27/5/1972: Vào lúc 16 giờ ngày thứ Bảy, nhà xứ cũ bị máy bay Mỹ ném bom sập tan tành, kèm với nhà thờ bị hư hại. Sau khi tiếng bom kết thúc, bà con giáo dân tập trung về địa điểm nhà xứ, lòng quặn đau và rơi lệ khi thấy một đống đổ nát ngổn ngang hoang tàn. Một trong những người có mặt hôm đó đã phải thốt lên :
Ta về đây ngập trời khói lửa
Xứ đường oằn lưng dưới làn bom,
Rồi tan nát trong một chiều hôm,
Những thân móng in vào chiều nhức nhối….
Đây là những hình ảnh mà chúng ta thấy hôm nay của 38 năm về trước (1972-2010). Những mảng móng loang lổ, những di tích của những trụ nhà lở lói theo tháng năm gợi cho chúng ta một quá khứ bi thương, và đó cũng là những chứng tích của thời gian đã qua.
7. Ngày 20/4/1990: Cha F.X. Nguyễn Hùng Oánh về thăm quê hương, dâng Thánh lễ Tạ ơn Thiên Chúa vì những gì Ngưòi đã ban cho Làng, Xứ. Đó là một cuộc “về
nguồn” đúng nghĩa, về nơi “chôn nhau cắt rốn”, về nơi ngài đã được sinh ra và lớn lên. Ngài gặp lại những người thân, bà con giáo dân trong tình yêu mến, sau 38 năm xa cách. Cái tên Tân Yên đã khắc sâu vào lòng ngài, khi hình Ngài được gắn kề ngôi Thánh đường và bút danh của ngài là Linh mục F.X.Tân Yên.
8. Ngày 20/8/1990: Khởi công xây dựng hồ nuôi tôm, một công trình xoá đói giảm nghèo của giáo xứ do Hội Miserio của Đức quốc tài trợ, với tổng kinh phí là 150 triệu đồng. Công trình này do Cha F.X. Hồ Đức Hoàn phụ trách làm đối tác, Thầy già Giuse Nguyễn Tiến Lợi (sau làm Linh mục) và Đức Giám mục Phêrô Trần Xuân Hạp lập dự án đầu tư.
9. Trùng tu và bảo tồn ngôi Thánh Đường: Sau những thiệt hại của chiến tranh và để gìn giữ những gì mà cha ông đã xây dựng, Cha F.X. Nguyễn Hùng Oánh và Cha Anphongsô Nguyễn Huy Quyền là hai Cha quê hương đã trăn trở nhiều về việc này. Khó khăn về ngân sách và vật liệu cũng như kế hoạch, nhưng được sự giúp đỡ của bà con hải ngoại qua lời kêu gọi của hai Cha, ngân sách ban đầu đã có phần nào an tâm để triển khai. Cha Nguyễn Hùng Oánh đã đích thân về quê hương để trực tiếp chỉ đạo công việc này. Nhưng để công việc được tiến hành tốt đẹp, Cha đã cho thành lập Ban Điều hành công trình và ngày 22/6/1993 đã bắt đầu bắc sàn tháp đầu tiên. Theo số liệu vật tư cho biết mất gần 400 cây bương (mét) và 400 cây tre mới đủ để bắc sàn cho công trình. Tổng kinh phí là 100.265.000 đồng, cùng với công sức của bà con.
10. Ngày 10/3/1995: vào lúc 13 giờ, tại sân bay Vinh, chiếc phi cơ đã hạ cánh. Trong số các hành khách đi chuyến bay đó có Cha Alphonso Nguyễn Huy Quyền, cha Phêrô Nguyễn Hữu Nhường, cha Trần Anh Thi cùng với một số bà con Tân Yên ở hải ngoại về thăm quê. Trong lúc chờ đợi thay chuyến bay ở sân bay Đà Nẵng, người cùng đi với các ngài và quý khách trong chuyến đi đó, đã thấy được tâm trạng hồi hộp nhưng vui mừng chờ mong khi trở về thăm quê hương lần thứ nhất sau 40 năm xa cách. Các ngài hồi hộp, ngỡ ngàng vì chưa hình dung được quê hương Tân Yên ngày nay như thế nào, mặc dầu người cùng đi đã miêu tả. Nhưng khi quý cha và quý khách vừa đặt chân trên mảnh đất thân yêu, trước sự đón tiếp nồng nhiệt của bà con làng xứ Tân Yên, các ngài đã xúc động nghẹn ngào…
11. Ngày 1/4/1994: Công trình điện thắp sáng toàn dân đã được cha Oánh và cha Quyền cùng bà con hải ngoại giúp đỡ 30 triệu đồng, bằng 50% tổng công trình. Đây là công trình điện khí hoá nông thôn mà mỗi người dân đều mong ước từ lâu. Nhưng vì cuộc sống khó khăn về kinh tế, bà con đã cố gắng nhưng không đủ nạp số tiền theo quy định. Đứng trước lòng tha thiết của bà con, quý cha quê hương đã vận động bà con Tân Yên ở hải ngoại giúp đỡ để đủ trả số tiền còn nợ lại với ban điện cấp trên. Bà con làng xứ vui mừng và luôn ghi khắc những công ơn mà quý cha, quý bà con xa quê đã dành cho quê hương.
12. Ngày 5/02/1995: Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đi kinh lý va ban bí tích Thêm sức. Ngài đã căn dặn lớp trẻ phải sống đức tin và chuyên chăm học giáo lý, nhất là chương trình giáo lý phổ thông phải đòi hỏi con người giáo lý viên và học sinh phải có nhiều cố gắng hơn. Thực hiện lời kêu gọi của ngài, thầy trò Phú Yên đã cố gắng dạy và học, nên kết quả kỳ tổng kết công tác giáo lý hạt Thuận Nghĩa năm 1995, giáo xứ Phú Yên -một giáo xứ bé nhỏ về mọi mặt- đã tiến lên nhận Bằng Khen đạt Giải Nhất giáo hạt 1995, năm đầu tiên thực hiện học chương trình giáo lý phổ thông.
13. Ngày 3/5/1995: Một tin vui đến với giáo xứ: Tòa Giám mục bổ nhiệm Cha già Antôn Bùi Đức Duyệt về quản xứ Phú Yên (Ngài sinh năm 1914 tại Song Ngọc, thụ phong linh mục năm 1942, nguyên quản xứ, quản hạt Bột Đà).
14. Ngày 12/3/1996: Một tin buồn vô cùng đau đớn đối với giáo xứ: Cha F.X. Hồ Đức Hoàn nguyên phụ trách giáo xứ 22 năm (1973-1995) đã từ trần. Ngài đã để lại muôn vàn tình thương yêu cho con cái Phú Yên. Suốt 22 năm với trách nhiệm là cha phụ trách, nhưng ngài luôn gần gũi chăm lo cho đoàn chiên về đời sống tinh thần lẫn vật chất. Một người cha giàu lòng bác ái, yêu thương. Cộng đoàn giáo xứ đã thay nhau túc trực bên linh cữu ngài và tiễn đưa ngài về nơi an nghỉ cuối cùng.
15. Ngày 27/5/1996: với sự giúp đỡ của bà con Tân Yên trong và ngoài nước, Cha Alphonso Nguyễn Huy Quyền và Cha F.X. Nguyễn Hùng Oánh đã cho xây lại nhà xứ trên nền móng cũ, sau lần cha Nguyễn Huy Quyền cùng với cha Nguyễn Hữu Nhường và một số bà con về thăm quê lần thứ nhất vào ngày 20/2/1994. Công trình xây dựng kéo dài gần 1 năm, bà con hăng say nhiệt tình, không quản nhọc mệt sớm khuya để hoàn tất xứ đường mới.
16. Ngày 14/4/1999: Một mong ước của cha già Antôn là có nơi tôn kính Đức Mẹ La Vang một cách riêng. Sau những tháng ngày xây dựng, vườn Đức Mẹ La Vang đã được hoàn thành. Trong niềm vui chung Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa mừng ngân khánh linh mục cha Alphonso Nguyễn Huy Quyền, cha quản hạt Phaolô Nguyễn Minh Trí đã chủ sự làm phép tượng Đức Mẹ La Vang trong khuôn viên nhà thờ. Về phần cha Alphonso, sau 25 năm được Thiên Chúa cất nhắc lên chức Linh mục, Ngài đã giành thời gian và địa điểm tại quê nhà Phú Yên để tạ ơn Thiên Chúa cách đặc biệt.
17. Ngày 22/01/2000: Đức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp đi kinh lý, xức dầu thánh hiến bàn thờ bằng đá và ban bí tích Thêm sức cho 66 em.
18. Ngày 01/6/2000: Lễ Chúa Giêsu lên Trời, Giáo Xứ Mừng Kỷ Niệm 130 năm lập Làng Tân Yên (1870) và 80 năm lập Xứ Phú Yên (1920).
Trong tâm tình mừng những sự kiện trọng đại nầy, giáo xứ tổ chức đêm diễn nguyện vào lúc 19h tối 31/5/2000 để dâng lên lời tạ ơn Thiên Chúa, kính nhớ và ghi ơn Ông Bà Tổ Tiên và cùng nhau ôn lại những chặng đường lịch sử mà Làng và Xứ đã trải qua. Trong đêm diễn nguyện, đông đảo con cái Phú Yên được hội ngộ bên nhau, kẻ khóc vì xúc động, người cười vì vui mừng. Đại diện các Linh mục, tu sĩ quê hương, đại diện Hội Đồng mục vụ giáo xứ Vinh Phú (Phan Thiết), Vinh Tân (Bình Tuy), là những nơi mà con cái Phú Yên sinh sống nhiều nhất và đại diện các nhóm họ tộc lần lươt niệm hương để nhớ về cội nguồn, nhớ đến Cố Tổ lập Làng Tân Yên, nhớ đến Ông Bà Tổ Tiên trước bàn thờ linh thiêng, khói hương nghi ngút. Sau nghi thức niệm hương, đại diện các thành phần góp lời để bày tỏ tấm lòng của người con Phú Yên xa cách.
Ngày mồng 1 tháng 6 năm 2000: Đúng 8 giờ, cuộc rước Nhập Lễ được bắt đầu trong tiếng kèn trống và những bài ca hân hoan. Trong lời khai Lễ, cha quản hạt Phaolô Nguyễn Minh Trí đã nói lên ý nghĩa trọng đại trong ngày mừng kỷ niệm nầy. Trong bài giảng Lễ, cha F.X. Nguyễn Hùng Oánh (là Linh mục niên trưởng của con cái Phú Yên) đã nêu bật mục đích của tiền nhân: ”Ông cha ta đến đây cốt để giữ đạo, thì chúng ta phải cố gắng sống đạo; Ông cha ta có công xây dựng thì chúng ta phải có trách nhiệm đắp bồi và giữ gìn”.
18. Ngày 8/8/2000: Giáo xứ khởi công tu sửa và xây dựng mới công trình thùng, giếng nước nhằm phục vụ cho đời sống dân sinh, với những người xa quê giúp đỡ về kinh phí mà khởi đầu là cha F.X.Nguyễn Hùng Oánh, nhưng công việc phải tạm dừng vì những lý do khách quan và nguồn vốn. Nhưng sau dịp cha Alphonso Nguyễn Huy Quyền về mừng ngân khánh Linh mục tại quê nhà, ngài đã chú tâm đến nguồn nước dùng hàng ngày cho bà con, đặt ra nhiều kế hoạch, nhưng cuối cùng đã chọn phương án là sửa chữa và xây dựng lại hệ thống chứa nước, dẫn nước, cải tạo hồ chứa nước để đưa vào sử dụng. Ngài đã kêu gọi bà con Tân Yên ở hải ngoại ủng hộ giúp đỡ và công trình đã hoàn thành, thoả lòng mong ước của bà con Tân Yên tại quê nhà, có nguồn nước ngọt dùng thường xuyên.
19. Ngày 16/12/2000: Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa mừng kỷ niệm 25 Linh mục cha Giuse Nguyễn Xuân Thảo và 25 năm khấn dòng cha Alphonso Nguyễn Công Minh, và cũng là dịp mà Thầy Giuse Nguyễn Trung Hiếu về thăm làng sau khi đã thành đạt trong học hàm học vị Giáo sư, Tiến sĩ. Đây cũng là một dịp hội ngộ hiếm có, để những người bà con Tân Yên gặp gỡ nhau trong một mái nhà, và cũng là một dịp cho người đi xa trở về nhìn lại khung cảnh của Tân Yên sau 46 năm xa cách.
20. Ngày 8/3/2001: Cha F.X. Hồ Đỉnh về thăm và dâng Thánh Lễ Tạ Ơn tại quê mẹ Tân Yên. Ngài đã nhớ lại những gì mà thân mẫu nói về quê ngoại Tân Yên, nơi mà ông bà ngoại ngài đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nhỏ hẹp nầy.
21. Ngày 4/7/2001: Cha Salien Trần Minh Thái, O.Cist. về thăm quê hương và dâng Thánh Lễ Tạ Ơn. Là một Linh mục Đan sĩ, nhưng khi nói đến quê hương, Ngài có rất nhiều trăn trở, trăn trở về ơn gọi sống bậc tu trì, trăn trở về trình độ học vấn tại quê nhà… Vì vậy khi được nghe thông tin về giáo xứ ở các lĩnh vực, Ngài chia sẻ niềm vui chung và đóng góp một phần không nhỏ cho việc đào tạo cho thế hệ hiện tại và tương lai. Qua dịp về thăm quê lần đầu, tâm trạng của ngài gắn liền với ngôi thánh đường, vì ngài sinh vào thời gian trước di cư 4 tháng nên đã được tháp nhập vào Hội Thánh Công giáo tại ngôi thánh đường này.
22. Ngày 9/1/2002: Cha Giuse Nguyễn Văn Thắng dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa sau ngày thụ phong linh mục, tại quê mẹ Tân Yên. Quê hương của mẹ, nơi Ông Bà ngoại nuôi mẹ khôn lớn, vì song thân qua đời sớm, nên cha Giuse cảm nghiệm sâu sắc về điều đó.
23. Ngày 18/6/2002: Cha Phêrô Nguyễn Minh Trương về thăm quê, dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa. Xuất phát từ lòng mong ước của cha là về thăm quê một lần, vì hiện tại sức khoẻ không cho phép Ngài đi xa. Nhưng Thiên Chúa nhiệm mầu đã an bài cho chuyến viếng thăm quê hương của ngài và sự mong ước đó đã thành hiện thực. Khi chiếc xe chở ngài cùng anh em con cháu tiến vào nhà xứ, ngài đã rơi lệ vì nghẹn ngào xúc động khi một người con xa quê trở về quê cha đất tổ sau 48 năm xa cách.
24. Ngày 19/10/2002: Giáo xứ tiếp tục trùng tu và bảo tồn ngôi Thánh đường, vì qua các trận bão đã làm ảnh hưởng đến các mái ngói và tường xây của nhà thờ, đồng thời lát gạch nền trong nhà thờ để xứng đáng nơi nhà Chúa mà trước đây giáo xứ chưa làm được, đồng thời đóng thêm bàn quỳ mới cho giáo dân bằng sự đóng góp tài chính của các thuyền câu trong giáo xứ và sự nỗ lực quên mình phục vụ của toàn thể bà con tại quê nhà.
25. Ngày 9/7/2004: Cha Louis Nguyễn Văn Nga dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa sau ngày thụ phong linh mục tại quê hương Tân Yên. Là một Linh mục được hấp thụ tình yêu mến quê hương và tinh thần dấn thân phục vụ từ ông bà cố. Mặc dầu vì nghề nghiệp nên gia đình phải định cư ở Giáo họ Đồng Lăng, giáo xứ Cẩm Trường, nhưng trong lòng thân phụ mẫu của cha Louis luôn luôn nhớ đến quê cha đất mẹ Tân Yên. Vì thế ngài đã giành cho quê hương đầu tiên của ngài bằng những tình cảm sâu đậm và luyến nhớ.
26. Ngày 11/10/2004: Giáo xứ bắt đầu khởi công xây dựng nhà khách (nhà các thầy) Cùng với thời gian năm tháng, nhà giành cho các thầy giảng sinh hoạt làm việc sau một thời gian đã hư hại không còn sử dụng được. Vì vậy giáo xứ đã cố gắng cùng với công sức của bà con, sự đóng góp tích cực của đoàn thuyền làm nghề biển, ngôi nhà đã được hoàn thành.
VI. THỜI KỲ TỪ NĂM 2005 ĐẾN 07/10/2010
1. Ngày 02/01/2005: Thánh Lễ Tạ ơn mừng Hồng ân tuyên khấn trọn đời Đan sĩ Têphanô Trần Xuân Cương, Ocist. (dòng Xitô Phước Lý, Đồng Nai), một Đan sĩ con cái giáo xứ. Ngay từ buổi đầu khi cảm nghiệm ơn gọi tu trì, thầy đã tìm cách để vào nhà dòng, mặc cho sự can ngăn của người mẹ. Thầy Têphanô là một tu sĩ khấn trọn đời đầu tiên tại quê nhà sau năm 1954.
2. Ngày 10/02/2005: Làm thêm nhà ăn của giáo xứ. Cha quản xứ cùng với Ban hành giáo xứ đã cho triển khai xây dựng bằng nguồn ngân sách của các thuyền câu biển và công sức đóng góp của bà con.
3. Ngày 19/06/2005: Cha Gioan Phan Trần Bá An sau ngày thụ phong linh mục tại Hoa Kỳ đã về thăm quê mẹ Tân Yên, dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa. Ngài đã cảm nhận được tình yêu mến quê hương qua những lần chuyện trò với người mẹ. Nên khi từ Hoa Kỳ về Việt Nam tâm trạng của Ngài là nhắc đến quê mẹ, mong ước được nhìn thấy ngôi Thánh đường mà đã được mẹ kể lại.
4. Ngày 29/6/2006: Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đi kinh lý, ban bí tich thêm sức cho 125 em. Khi vị chủ chăn giáo phận về đến giáo xứ, Ngài lại nhắc nhở thanh thiếu niên hãy cố gắng gìn giữ đức tin, đừng vì một chút lợi nhuận chóng qua mà làm lay chuyển hoặc mất đức tin. Trong Thánh Lễ ban bí tích, Ngài còn nhắc nhở mọi người hãy dùng ơn cả của Chúa Thánh Thần ban mà sống bác ái công bằng với mọi người.
5. Ngày 8/8/2006: Một sự kiện lịch sử đặc biệt của giáo xứ là có người con tại quê nhà được Chúa thương cất nhắc lên chức Linh mục sau 70 năm gián đoạn về ơn gọi tu trì: đó là cha Giêrađô Nguyễn Nam Việt. Trong Thánh lễ truyền chức tại Xã Đoài, không ai trong quê hương lại không xúc động trước một hồng ân lớn lao Thiên Chúa đã ban cho giáo xứ cũng như gia tộc, gia đình của tân chức sau những năm tháng đợi chờ. Thánh Lễ Tạ ơn và mừng tân Linh mục đã được tổ chức vào 8h sáng ngày 18/8/2006 tại Thánh đường giáo xứ Phú Yên với sự hiện diện của cha quản xứ Antôn Bùi Đức Duyệt, cha nghĩa phụ của tân chức Phêrô Nguyễn Văn Duyệt, cha Bề trên Đại Chủng viện Phêrô Lê Duy Lượng, quý cha trong và ngoài hạt, quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh, quý bà con trong và ngoài giáo xứ. Trong bài giảng lễ, cha Lê Duy Lượng đã nói lên tinh thần phục vụ của đời Linh mục, mà tân Linh mục đã cảm nhận được điều đó khi còn là một sinh viên Y khoa.
6. Ngày 11/9/2008: Niềm vui lại được nhân lên khi có người con gốc Tân Yên là cha Phêrô Nguyễn Thành Tín được Thiên Chúa cất nhắc lên chức Linh mục. Với tâm tình đó, cha đã cùng với cha linh hướng F.X. Nguyễn Hùng Oánh và song thân về tại nơi quê cha đất tổ để dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa, gặp lại bà con giáo xứ bằng đêm hội ngộ đầy ý nghĩa và sâu đậm tình quê hương. Trong đêm hội ngộ, tân Linh mục đã thấy được sự trìu mến, chăm lo của quê hương giành cho ngài.
7. Ngày 26/9/2008: Ngày giáo xứ mừng đón cha phụ trách G.B. Nguyễn Duy An về coi sóc, khi cha già Antôn Bùi Đức Duyệt được Đức Giám mục giáo phận cho nghỉ quản xứ vì tuổi cao sức yếu. Trong Thánh lễ nhận xứ, cha quản hạt Phêrô Trần Phúc Chính đã nói lên vai trò chăn dắt đoàn chiên của người mục tử, nhưng cũng là tinh thần của người đến để phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ.
8. Ngày 02/02/2009: Lễ động thổ khởi công xây dựng trường giáo lý xứ, cũng là dịp cha Giêrađô quê hương Phú Yên lại về dâng Thánh Lễ đầu năm mới cho giáo xứ và cầu bằng an cho công trình sắp xây dựng. Đây là một công trình trong mong ước của mỗi người giáo dân xứ Phú Yên từ lâu, vì hiện nay số học sinh càng ngày càng đông, nên nhà trường cũ không đủ phòng cho các lớp học.
Trong quang cảnh ngày Lễ động thổ, bà con giáo dân đã tề tựu về từ rất sớm. Cha già Antôn, cha phụ trách xứ, cha quê hương, Hội đồng mục vụ giáo xứ đã có mặt đầy đủ. Đúng 8 giờ nghi thức động thổ bắt đầu. Trong lời dẫn và khai mạc của hai vị đại diện Hội đồng Mục Vụ đã nói lên việc cần thiết xây dựng trường học cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Quý cha cũng có những lời chia sẻ về việc cần thiết xây dựng trường học giáo lý hiện nay. Kết thúc nghi thức lễ động thổ, ca đoàn xướng lên bài “Hoan hô Chúa Cứu Thế hằng sống” thật hoành tráng và xúc động. Tiếp theo là khởi công đào móng trong bầu khí nhộn nhịp tấp nập của máy móc và con người.
9. Ngày 03/03/2009: Khởi công xây dựng trường mẫu giáo xóm. Trước đây nơi đào tạo con người về văn hoá từ lớp Mầm non chỉ tạm thời học nhờ ở Hội trường xóm, không đúng quy cách của một lớp học. Nhưng đến hôm nay xóm có một địa thế đất rộng rãi đủ để xây dựng trường học. Được sự quan tâm đặc biệt của cha phụ trách, sự nỗ lực của Ban xóm cùng Ban thường vụ xứ, công việc xây dựng đã được tiến hành với sự đóng góp toàn bộ kinh phí của các thuyền đánh bắt hải sản xa bờ. Công trình đã được hoàn thành trước ngày khai giảng năm học mới 2009-2010 với tổng kinh phí là 288.000.000đ (Hai trăm tám mươi tám triệu đồng), đủ ba phòng cho 3 lớp mẫu giáo học.
10. Ngày12/4 /2009: Đúng 1giờ 20 phút Chúa nhật Phục Sinh, Cha già Antôn Bùi Đức Duyệt đã vĩnh biệt đoàn chiên ra đi vào cõi vĩnh hằng, sau một cơn bệnh nặng. Cha già Antôn ra đi là một mất mát đau thương cho con cái giáo xứ Phú Yên. Nhìn lại 15 năm quản xứ, ngài đã sống hết mình vì đoàn chiên. Cộng đoàn giáo xứ đã thay phiên nhau túc trực bên linh cữu ngài. Thánh lễ an táng đã được cử hành vào lúc 14 giờ ngày thứ Hai 13/4/2009. Trong bài giảng lễ, cha quản hạt Phêrô Trần Phúc Chính đã nói lên tinh thần phục vụ quên mình của một vị mục tử như cha già Antôn, ngài đã sống đời Linh mục 67 năm luôn tận hiến cho Chúa và trung thành với Giáo Hội. Kết thúc Thánh lễ là nghi thức tiễn biệt đã làm cho tất cả cộng đoàn nghẹn ngào thương nhớ, nhất là nơi phần mộ. Và để tỏ bày công ơn đối với cha già muôn vàn kính yêu, tất cả con cái Phú Yên chịu tang 100 ngày và đọc kinh chung với nhau để cầu nguyện cho ngài sớm về hưởng vinh phúc trên nước Trời.
11. Ngày 03/05/2009: Thánh Lễ Tạ ơn mừng tiên khấn Soeur Maria Clara Nguyễn Thị Kim Tiến (Dòng Thánh Tâm Giêsu). Khi còn niên thiếu, nữ tu Maria Clara đã luôn bày tỏ ước nguyện được sống đời tận hiến.
12. Ngày 18/8/2009: Giáo xứ lại được đón nhận một niềm vui lớn lao là hai người con của giáo xứ trong cùng một gia đình (Ông Bà Giuse Nguyễn Thiên Phụng) đã tuyên khấn trọn đời. Thánh Lễ Tạ ơn Mừng vĩnh khấn Soeur Maria Nguyễn Thị Tình (dòng Đa Minh Thánh Tâm, Đồng Nai) và Thầy Giuse Nguyễn Chí Ái (Dòng Mẹ Về Trời, Pháp quốc) là một ân huệ mà Thiên Chúa thương ban cho gia đình, họ tộc và giáo xứ. Vì khi còn là tuổi học trò giáo lý, hai chị em đã cố gắng miệt mài đèn sách, dùi mài kinh sử để dự thi học sinh giỏi cấp giáo hạt hàng năm. Thế rồi tinh thần học giáo lý đã giúp cho hai chị em tìm ra ơn gọi của Chúa. Trải qua thời gian năm tháng, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, chị gái độc nhất trong gia đình nầy đã xin nhập dòng, còn cậu em Chí Ái lại thi và học tiếp đại học, với trình độ học vấn vào loại giỏi, Thiên Chúa đã quan phòng, an bài để cho Thầy được vào dòng tu tại nước Pháp.
13. Ngày 3/11/ 2009: Khởi công xây dựng trường giáo lý tầng một sau 9 tháng chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Trong không khí vui mừng của ngày lao động đầu tiên, những người được phân công đã làm với một tinh thần phấn khởi hăng say. Các quan khách xa gần đã thấy được tiến độ thi công mau lẹ nhưng đảm bảo chất lượng nhờ sự điều hành công việc của Ban công trình.
14. Ngày 8/11/2009: Cha G.B. Chu Vinh Quang từ Hoa kỳ về thăm quê hương, dâng Thánh Lễ tạ ơn Thiên Chúa sau 55 năm xa cách. Trong cảm nhận ban đầu khi Ngài đặt chân về quê cha đất tổ là sự ngỡ ngàng vì sự đổi thay và phát triển của xứ làng, nhất là ngài không nghĩ rằng bà con thân bằng quyến thuộc còn đông như thế.
15. Ngày 11/1/2010: Xây dựng xong phần cơ bản tầng 2 trường giáo lý xứ. Sau hai tháng đặt viên đá đầu tiên trên phần móng, công trình xây dựng đã hoàn thành phần thô và tiếp tục phần hoàn thiện để cố gắng vào năm học mới có nơi cho các em học giáo lý.
16. Ngày 10/6/2010: Hoàn thành công trình xây dựng trường giáo lý xứ và hoàn thành xây dựng kios dầu phục vụ cho đoàn thuyền câu trong giáo xứ. Khi tiến độ thi công công trình trường giáo lý nhanh hơn dự định, mỗi người lại thêm phấn khởi hơn. Trường giáo lý xứ nằm trong ước mơ nay đã thành hiện thực. Tọa lạc tại vị trí phù hợp, sắc màu hài hoà và dáng dấp thanh nhã nhưng hấp dẫn bởi mẫu kiểu kiến trúc hiện đại. Tạ ơn Chúa muôn ngàn đời, vì Chúa đã đoái nhìn và hướng dẫn cho mỗi con tim con cái giáo xứ trong và ngoài nước luôn có một sự lôi cuốn mãnh liệt đối với quê hương, vì từ ban đầu khi bắt tay vào xây dựng ngân quỹ xứ chỉ là con số 0 mà dám làm một trường giáo lý hiện đại và tầm cỡ. Một người trong Ban Điều Hành đã tâm sự với một người khách đã phải rơi lệ vì quá xúc động, khi cảm nhận đựoc bao nhiêu điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi giáo xứ Phú Yên nhỏ bé nầy. Ngưòi trong Ban Điều Hành còn nói tiếp với quan khách: “Công trình được hoàn thành là nhờ lời cầu nguyện liên lỉ để Thiên Chúa an bài và sắp đặt hướng dẫn cho mỗi việc làm và tác động trên mỗi con người mà họ cần giúp đỡ. Cảm ơn Ông Bà Tổ tiên đã cầu bầu đắc lực trước toà Chúa. Cảm ơn cha phụ trách xứ, quý cha quê hương, quý bà con Tân Yên trong và ngoài nước, quý bà con tại quê nhà, anh em đoàn thuyền câu, các doanh nghiệp vàng bạc đá quý đã có những tấm lòng vàng để góp vào cho công trình xây dựng trường giáo lý với tổng kinh phí là 1.320.000.000,00đ (một tỷ ba trăm hai mươi triệu đồng) với công đóng góp của bà con là 1.565 công. Song song với việc xây dựng trường giáo lý, giáo xứ lại tiếp tục xây dựng ki-ốt dầu để phục vụ cho các thuyền đánh bắt hải sản, để từ đó có thể góp phần vào sự phát triển các lãnh vực của giáo xứ theo sự mong muốn của những người xa quê có tâm huyết với quê hương.
17. Ngày 7/10/2010 Thánh Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Quan Thầy Giáo Xứ, cũng là ngày Mừng Kỷ Niệm:
- 140 năm thành lập làng và giáo họ Tân Yên( 1870-2010 )
- 90 năm thành lập giáo xứ Phú Yên ( 1920-2010)
- Khánh thành nhà trường giáo lý xứ ( 2/2/2009 đến 10/6/2010 )
- 159 em lãnh nhận bí tích Thêm sức
- Mừng giáo xứ 7 năm liên tục đạt giải nhất toàn diện giáo lý hạt Thuận Nghĩa (2004- 2010).
VII. MỘT THOÁNG KHUNG CẢNH TÂN YÊN NGÀY NAY
Hôm nay là một ngày trọng đại của giáo xứ, nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, chúng ta có thể hình dung những sự kiện, những sự đổi thay từ sau 1975, đi lên từ những hoang tàn đổ nát – những hậu quả chiến tranh. Người dân Tân Yên đã gắng sức xây dựng, khôi phục xứ nhà:
Xóm làng bao nhiêu cảnh đổi thay,
Thiên thời địa lợi khéo vần xoay,
Thánh đường sừng sững mang màu mới
Bến nước dập dìu cảnh vật say,
Biết bao nhiêu những đổi thay, khi mà đời sống bà con giáo dân được nâng cao, dân trí cũng được chú ý. Đã có bao nhiêu lớp học sinh trưởng thành từ mái trường xứ nhà, trong đó đã có những người được chắp cánh bay xa:
Đường rộng thênh thang hoà nhịp bước
Sông dài uốn khúc nhịp cầu ngang
Lung linh nắng mới bừng thôn xóm
Điện sáng tưng bừng lớp học vang.
Được như ngày hôm nay, chúng ta không thể không nhớ đến công lao của các bậc tiền nhân – những người đã khai sinh, xây dựng và tiếp nối các thế hệ xây đắp cho Tân Yên ngày một đẹp tươi:
Tốt đạo lung linh tươi thắm mãi
Đẹp đời cùng xây dựng thêm xinh
Công lao cha ông càng ghi nhớ
Xóm đạo Tân Yên mãi thanh bình
VIII. GHI CÔNG ƠN ĐẶC BIỆT
Làng Tân Yên – Xứ Phú Yên ghi công ơn đặc biệt, mỗi năm xin hai Thánh Lễ:
1. Đức Cha Gauthier Ngô Gia Hậu (Giám mục tiên khởi Giáo phận Vinh)
2. Ông Cố Mười (Cố Tổ lập Làng)
Vì các Ngài đã có công rất lớn trong việc hình thành, xây dựng và phát triển làng Tân Yên.
IX. CÁC LINH MỤC QUẢN XỨ VÀ PHỤ TRÁCH QUA CÁC THỜI KỲ
X. SỐ GIÁO DÂN PHÚ YÊN QUA CÁC THỜI KỲ
XI. CÁC LINH MỤC QUÊ HƯƠNG
XI. CÁC TU SĨ NAM NỮ, CHỦNG SINH
Nguồn : Website Gx Phú Yên
http://www.giaoxugiaohovietnam.com/Vinh/01-Giao-Phan-Vinh-PhuYen.htm
Đăng nhận xét