Các
bài suy niệm CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY – Năm C
Lời
Chúa: Dnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13
* CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY
1. Cám dỗ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Cám dỗ là
chuyện xưa như trái đất. Từ
khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên
chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma
quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập
thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa
mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại
Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám
dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất
cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám
dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức
Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến
đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý.
Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có
bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có
nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được
dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những
nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu
thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì
có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế
cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám
dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết
Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị
tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ
nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp
lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước
rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất
công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ
lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp
tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám
dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các
nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền
lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không
còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng
quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm
nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về
quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn
mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám
dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những
chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên
động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn
cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ.
Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp
diễn.
Xuyên qua những
cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và
hiểm độc.
Với cơn cám
dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô
lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn
những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự
sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của
ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời
sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng
cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám
dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự
sống tâm linh.
Với cơn cám
dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ
cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền,
vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam
tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất
chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của
ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế.
Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó
là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên
Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự
do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám
dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng
vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên
Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của
mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con
thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm
mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người
con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và
luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức
Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ
không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của
ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp
phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho
dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi
giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến
chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên
Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo
léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa,
êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu,
quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những
cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng
ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ
càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm
độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta
phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén,
đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn
sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1. Bạn đã
gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn
cám dỗ như thế nào?
2. Có những
việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới
biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ
không?
3. Bạn có ý
thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong
thế giới ngày nay không?
4. Mùa Chay
này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?
2. Không chỉ nhờ cơm bánh
Suy Niệm
Làm người ở
đời là chấp nhận thân phận cám dỗ.
Con người vừa
mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy
mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người
lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút
lơi lỏng yếu mềm là sa ngã.
Con người cao
cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài.
Lúc buông theo
cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi
tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình.
Tôi chỉ là
tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
Trong mùa Chay,
ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với
Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay,
để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc.
Biết mình bị
cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một
con vật có đuôi lộ liễu.
Những cám dỗ
của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay.
Cám dỗ đầu
tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài.
Sau một thời
gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt,
và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần
đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng
được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần
thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống
nhờ cơm bánh.
Lợi nhuận
trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được quên
các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo... Lắm khi cái
đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu
sai câu: "Có thực mới vực được đạo."
Chúng ta vẫn
bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và không
chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình
thoả mãn cơn đói bằng mọi giá.
Cám dỗ thứ
hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ
để được quyền lực và vinh quang.
Có nhiều
người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế
quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử.
Đức Giêsu
chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới
là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng.
Cơn cám dỗ
thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu
của sự thiếu lòng tin.
Tôi đưa mình
vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.
Nhảy xuống
từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục!
Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời
ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa
con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc,
của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền
lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật:
tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu
tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ
chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ
như kim tự tháp lật ngược.
Ước gì Chúa
giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc
càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Bạn có tin ma
quỷ không? Ma quỷ là ai? Bạn có thấy sức cám dỗ của
ma quỷ không?
Ma quỷ thường
tấn công vào chỗ yếu của ta. Bạn có biết rõ những
chỗ yếu của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng
thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống
hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động
những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm
đoạt và sở hữu.
Cám dỗ thống
trị bằng quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống
buông thả theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào
cũng hứa cho chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật ra
lại làm chúng con nghèo nàn vì tự giam mình trong cái tôi
ích kỷ.
Xin cho chúng
con thắng được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu
nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.
Xin cho chúng
con dám lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con
đường hẹp của Chúa, con đường nghèo khó khiêm nhu,
con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng
con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần
chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả khi yếu đuối ngã
sa, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng
Chúa tín trung tha thứ. Amen.
3. Chỉ thờ phượng một mình Người
Suy Niệm
Bị cám dỗ
là điều chẳng mấy hay ho. Chúng ta ít khi muốn kể ra
những cơn cám dỗ của mình. Dường như chỉ người yếu
đuối mới dễ bị cám dỗ. Ấy thế mà Con Thiên Chúa
lại bị cám dỗ như ta. Ngài muốn đồng hành với chúng
ta trong từng cơn cám dỗ, trên đường về quê trời.
Ngài đã mang lấy trọn vẹn phận người mong manh, Ngài
đã chiến đấu và chiến thắng.
Mùa Chay là
thời gian thuận tiện để chúng ta nhận diện cơn cám dỗ
riêng của bản thân.
Có khi chúng
ta tưởng Satan là chuyện bịa đặt, tưởng thế giới
không bao giờ là thế gian, hay tưởng thân xác mình chẳng
còn bằng xương thịt.
Phải nhận ra
cơn cám dỗ dưới trăm ngàn bộ mặt, tuỳ người, tuỳ
tuổi tác, tuỳ hoàn cảnh riêng tư.
Nhưng mọi cơn
cám dỗ đều khép kín con người, khiến ta không còn mở
ra trước Thiên Chúa và tha nhân.
Cần nhìn sâu
vào những cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn
là những cám dỗ muôn thuở.
Biến đá
thành bánh để làm dịu cơn đói, chuyện đó đâu có gì
xấu. Nhưng Đức Giêsu đã không muốn dùng quyền năng
Cha ban để tự lo cho bao tử của mình.
Ngài cũng
không phục lạy ma quỷ để được làm chủ cả thế
gian với bao quyến rũ.
Ngài cũng
chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm
chứng tình yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân loại
bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người
đứng dưới.
Ngài muốn cứu
con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những
tiếng nhục mạ cười chê.
Đức Giêsu
thật là Con Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha đến
cùng.
Cuộc sống
văn minh cho chúng ta nhiều cám dỗ hơn, ngọt ngào hơn,
hấp dẫn hơn, tinh vi hơn.
Cơn cám dỗ
nào cũng đặt chúng ta trước sự chọn lựa, và chọn
lựa nào cũng đòi từ bỏ, hy sinh. Bởi vậy cơn cám dỗ
lại có thể làm tôi lớn lên và cứng cáp hơn sau mỗi
lần chiến thắng.
Ước gì tôi
không bị mắc bẫy Satan nhờ noi gương Đức Giêsu trong
ăn chay, cầu nguyện.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Đối với
bạn, loại cám dỗ nào đáng sợ hơn cả? Bạn đã làm
gì để thắng được loại cám dỗ đó?
Qua báo chí,
truyền hình... bạn thấy con người ở cuối thế kỷ 20
bị cám dỗ về những điều gì?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời
Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng
đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không
ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết
hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc
biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
4. Tiến tới một tình yêu chân thật hơn, tinh tuyền hơn.
Thử thách là
mối nguy cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh
hơn, vì trong cơn thử thách sự tự do của con người
luôn luôn hướng đến tích cực. Thử thách giống một
nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót
trầm hùng và sứ truyền cảm của bản hoà tấu. Đức
Giêsu đã muốn chịu thử thách của cám dỗ. Suốt cuộc
đời trần thế của Người, Chúa gặp thử thách, nó là
đối vị với ý định bên trong của Người. Tất cả
con người Chúa hướng tới mục đích hoàn tất ý muốn
của Cha. Chúa đã muốn đối đầu với thử thách trong
tư thế lãnh đạo Giáo Hội. Chúa đã chịu thử thách,
tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu thành phần
Giáo Hội cũng phải qua cầu thử thách và phải phản ứng
như Chúa. Giống Thày, tín hữu phải dùng thử thách làm
dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn,
nghĩa là thực hiện một sự gia nhập vững bền hơn vào
thánh ý của Cha qua trung gian Đức Kitô.
Thử thách có
những hình thức chính yếu nào?
1)
Trước hết, là từ chối thân phận làm người với tất
cả thực chất của nó.
Ma quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần
linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của
Người là đói thì cần có của ăn. Biết bao phen chúng
ta chẳng nghe thấy người ta nói: Thiên Chúa đáng lẽ
phải làm thế này thế nọ để thiết lập sự bình
đẳng, để mọi người có cơm ăn áo mặc, để khỏi
lao động vất vả, v.v… Thiên Chúa trả lời rằng nhân
loại được ban cho một trí tuệ, một ý chí, một thân
thể để tuỳ tiện sử dụng. Thảm trạng con người là
ở chỗ khác. Hoạt động làm cho người ta quên mất rằng
con người không chỉ sống bằng lương thực vật chất.
Đức Giêsu không muốn bỏ thân phận làm người của
Chúa cho nên Chúa từ khước biến đá thành bánh ăn. Tuy
nhiên Chúa nói thêm rằng con người cũng sống bởi bác
ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và thứ
bánh này do Thiên Chúa ban cho, thiếu của ăn thiêng liêng
thì của ăn nuôi xác cũng sẽ thiếu, hoặc sẽ hư đi.
2)
Hình thái khác của thử thách là muốn liên hiệp Thiên
Chúa với những tính toán mờ ám.
Ma quỷ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu
Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá
chủ thế giới”. Đây là chước cám dỗ thường xảy
ra.
Những luận
điệu nào bàn kế cho Giáo Hội: “Nếu chịu liên minh
với thế gian, Giáo Hội sẽ thu phục được thế gian?”.
Giọng lưỡi nào xui chúng ta: “Nếu bạn khôn khéo điều
đình thu xếp với Sự Thật, với bổn phận, v.v… bạn
sẽ làm được điều này điều nọ?” –Nhưng mệnh
lệnh của Đức Giêsu là: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục
Thiên Chúa mà thôi”
3) Một xu
hướng nữa là muốn thay thế những phương tiện của
Thiên Chúa bằng những phương tiện khác thường. Chủ
trương cứu độ của Đức Kitô, tức là Tin Mừng về
một thế giới tốt hơn, lan truyền bằng nhưng phương
tiện người ta mệnh danh là “nghèo nàn”, trong đó có
nhục nhã, đau khổ và chết. Con người nhất là con người
có nhiều kiến thức, luôn luôn có khuynh hướng lựa chọn
những phương tiện có nhiều uy thế. Chẳng hạn, uy thế
của một triết lý nào đó mà trùm lấp Phúc Âm thì kéo
theo một rủi ro lớn, có thể thay đổi ý nghĩa và tinh
thần Phúc Âm, cho dẫu những người chất phác thán phục
hết sức trước “thắng lợi” của nó. Một mệnh lệnh
khác của Chúa Giêsu là: “Ngươi chớ cám dỗ Thiên Chúa
là Chúa ngươi”, nghĩa là chớ lợi dụng quyền năng
Thiên Chúa vào những việc gì ở ngoài công cuộc của
Người.
5. Sống là chiến đấu
Trong chuyến
viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một
ngọn đồi nổi tiếng của nước nầy, thường được
mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá”.
Ngọn đồi
này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch
sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong
làng ngã gục ngoài mặt trận thì toàn dân trong làng tập
trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập
giá.
Dưới thời
Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết
bao nhiêu người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc
lập của xứ sở. Binh lính và công an đã làm mọi cách
để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế
kỷ liền, ngọn đồi thập gái đã không ngừng bị san
bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến,
người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây
thập giá khác. Cuộc chiến của thập giá cứ tiếp diễn
như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi.
Ngày nay khách
hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận
ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng
tự do, và cuối cùng, của chiến thắng.
Anh chị em
thân mến,
Có niềm tin
hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng có
ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến.
Giáo Hội không ngừng mời gọi các Kitô hữu chúng ta
sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc.
Mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của
Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng cuộc
sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.
Các sách Tin
Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong
bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa mạc đương đầu
với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu
ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn thánh
Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan,
nhưng theo thứ tự hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những
chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong
mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của
Chúa Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu
đi trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh
đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa của
đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp
xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước
cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của
con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu
sứ vụ Cứu Thế.
Do đó, Thánh
Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Chúa
Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con
Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!” Ý
đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng
Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước
đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa
không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm
công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục
vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa
Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ
có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng
trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Dân Israel khi
ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết
lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải
phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở
thành người tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn
sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn
no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa
đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý
trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không
sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa”
(Đnl 8,3). Chúa Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng:
mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài
đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư
khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho
mọi người được sống.
Cám dỗ thứ
hai là Satan hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực và
vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu
Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là
ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần
gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Chúa
Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có
quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần
gian này là đáng quý. Chúa Giêsu muốn được hưởng thì
cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu
phán: “Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và
mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl
6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai nhìn nhận rằng:
Chúa Giêsu chẳng hề có dụng ý tranh cướp quyền lực
và vinh quang của Đế quốc Rôma.
Dân Israel khi
xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên
Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên
Chúa. Chúa Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải
là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên trần gian
không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ
lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang
thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ
ba là Satan xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên
Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con
đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy
từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn
thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Chúa Giêsu không
theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng
phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập
giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời
gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá
của mình mà đi theo Ngài.
Dân Israel
trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử
thách Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã
không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin tưởng và
phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường
tuyệt vọng nhất – con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã
chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong
suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục
thua dài hết keo này đến keo khác. Nó không còn chước
nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào
Giuđa Iscariôt (một trong mười hai môn đệ) để nộp
Ngài. Trong cuộc giao chiến này, Satan sẽ cướp được
mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì
khác ngoài cuộc sống trần gian thì Satan đã thắng rồi.
Nhưng chính lúc cướp được mạng sống của Chúa Giêsu,
Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu
từ trong cõi chết sống lại và đặt Ngài làm Chúa,
khiến cho mọi loài trên trời dưới đất khi nghe Danh
Giêsu thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là
Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Đây là cuộc chiến
thắng dứt khoát và vĩnh viễn.
Anh chị em
thân mến,
Đọc lại
đoạn Phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo
Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô
hữu như một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã
chiến thắng Satan, làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn
phải thể hiện bản chất con Thiên Chúa ấy trong cuộc
sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong
cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu đã chiến thắng để
cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban
cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu.
Mùa Chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu
với Satan.
Những cám dỗ
mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám
dỗ muôn đời của con người.
Cơm ăn, áo
mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những
người, để làm giàu cho bản thân mình đã tán tận
lương tâm, chà đạp mọi quy luật của đạo đức… Có
những người, vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng
sinh sát anh em đồng bào mình… Những cám dỗ ấy liên
tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không
cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức
mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc này không hay!
Càng có điều
kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh
vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ.
Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng
mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà, nắm giữ uy quyền mà vẫn
là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách
lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ
đến với Chúa Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự
vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi
với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không
muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối
thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà
lòng tham quyền bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều
người mong bước vào.
Muốn chống
trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ
và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần
Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi
cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên
Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao
cho chúng ta. Lời Chúa mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời
nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám
dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa, nếu không muốn
nói là còn lộ liễu hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm
sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương
Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với
những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.
6. Chống lại cám dỗ - McCarthy
Suy Niệm 1.
CHƯỚC CÁM DỖ CỦA ĐỨC GIÊSU
Một số người
cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị
cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người
cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân
chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma
quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta
không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ
của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc
dù quỷ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng
của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của
Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ
đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ
rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ
vật chất nói chung. Ma quỷ đang nói với Đức Giêsu là
hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người,
để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất
mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự
thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả
mãn được con người. Công việc chính của Người là
nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời
của Thiên Chúa.
Đây là chước
cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn,
hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là
thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả
mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết
điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có
những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn
con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó
không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm
khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng
trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng
Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói
“Các ngươi đừng lạm việc vì của ăn không thể tồn
tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương
thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một
vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị
trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi
đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có
nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ
không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ
sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là
chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng
ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ
thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là
việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực
tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn
mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn
làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng
thống trị người khác, hơn là trở thành người phục
vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để
phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần
thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và
trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất
cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế
tình yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ
thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ
lạ (tự gieo mình xuống khỏi Đền Thờ) nhằm khơi gợi
lòng tin –giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi
được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang
tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật
hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi
người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối
gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình,
hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ
việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ
ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người,
nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của
Người.
Trong suốt sứ
vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho
dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép
buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này
không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt
đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá trị của
lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện
không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải
làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc
chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước
cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố
cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người
đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải
là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã
khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng
phương tiện trần thế.
Cả ba chước
cám dỗ cuối cùng đều quy hướng về cùng một điều:
đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên
trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng
và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ
chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người
chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải
luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những
hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền
Thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm
này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của
Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó.
Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì
Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ
không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi,
không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại một
lần khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức
Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma
quỷ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của
Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị
treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng
của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng
Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta
sẽ tin ông ấy”.
Tất cả những
ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp,
đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống
trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với
Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng
nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng
biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với
cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên,
khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân
theo lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ
thờ phượng một mình Người mà thôi.
Suy Niệm 2.
KHÔNG CHỈ BẰNG CƠM BÁNH
Con người
không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một
trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống –cuộc
sống thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không
giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần
có lương thực. Những linh hồn của chúng ta cũng vậy.
Linh hồn của chúng ta đang khao khát lương thực nuôi
dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho
chân lý này.
Elvis trở nên
rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơn, 6 xe máy, 2 máy bay,
16 T.V., một toà lâu đài rộng lớn, và nhiều tài khoản
ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta
còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên,
anh không hề có hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và
thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng
bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô
đơn, buồn chán.
Anh giãi bày
tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều
chuyện nhức đầu”.
Mẹ của anh
rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những
chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà,
mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và
có con.
Càng ngày, anh
càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh
nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục
nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội.
Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người
không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống
bằng những thứ vật chất mà thôi.
Thông điệp
này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm
nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích
hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có
thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp
này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện.
Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh –ít nhất là
không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và
hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người
và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến
điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.
Bạn hãy thử
tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ,
mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề
hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ
họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón
nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của
con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và
linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái
của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.
Nếu chỉ có
cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được
sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina
Ratushinkaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản
ở Ngài (với tư cách là tù nhân chính trị). bà nói
“Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy
nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn
sống được. Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của
bà.
Không phải
chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và
tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ
không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta
thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.
Đức Giêsu
thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu
xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm
hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn
khát khao lương thực không thể hư nát –Lời Chúa. Lời
Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi
dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý
nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên
tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.
CÂU CHUYỆN
KHÁC.
Đức Giêsu đã
trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu
nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng
đó lại là một chỗ lý tưởng để suy niệm và cầu
nguyện.
Kinh nghiệm sa
mạc đến vào giây phút quan trọng trong cuộc đời của
Đức Giêsu, thời gian của sự thức tỉnh lớn lao. Không
thể nào gọi là cường điệu, khi nói về tầm quan trọng
của sa mạc đối với Đức Giêsu. Thật vậy, càng ngày,
Người càng yêu thích sự cô tịch, và có thói quen tìm
đến với sa mạc, vào những lúc khó khăn trong cuộc đời
của Người. Khi dân chúng và các sự kiện tìm cách vây
bọc lấy Người, thì Người sẽ lẻn vào nơi hoang vắng,
để tự phục hồi và lại hiến thân cho Chúa Cha. Hiện
tại, Người đang đào sâu cảm nhiệm sa mạc đầu tiên
này.
Chúng ta cũng
cần có một nơi yên tĩnh để suy niệm và cầu nguyện.
Thông thường, chúng ta hay sống một cách điên rồ và
thiếu mất đời sống thiêng liêng, cứ để mặc cho
những ước muốn ngu xuẩn đưa dẫn, và những thói quen
ích kỷ đầu độc. Chúng ta bị những tiếng ồn ào và
những sinh hoạt liên tục vây hãm. Chúng ta đặt sai những
thứ tự ưu tiên. Chúng ta không thể hoặc không muốn sự
cô tịch, không muốn được yên tĩnh, không muốn cảnh
tĩnh mịch. Và chúng ta lại thắc mắc tại sao mình không
có hạnh phúc tại sao mình cảm thấy không dễ dàng gì
trong việc tiếp cận với người khác, và tại sao mình
không thể nào cầu nguyện được.
Chúng ta cần
đến sự cố tích. Khi ở một mình, chúng ta bắt đầu
đứng trên đôi chân của mình, trước mặt Thiên Chúa và
thế giới, và hoàn toàn chấp nhận chịu trách nhiệm đối
với cuộc sống của bản thân. Các ẩn sĩ đi vào sa mạc,
không phải để tự để tự đánh mất, nhưng là để
tìm được chính mình. Trong sự cổ tích, chúng ta gặp gỡ
những trò quỷ quái của chúng ta, những đam mê, thú
tính, cơn tức giận, nhu cầu được nhìn nhận và được
tán thành của chúng ta.
Và chúng ta
không đi vào nơi hoang vắng để tránh khỏi người khác,
mà để tìm thấy họ trong Thiên Chúa. “Chỉ khi ở nơi
cô tịch và thinh lặng, tôi mới có thể tìm thấy sự tử
tế mà nhờ đó, tôi có được khả năng để yêu mến
các anh chị em tôi” (Thomas Merton).
7. Chiến đấu với cám dỗ
Chúng ta đã
từng thấy có một số cột mốc lớn trong cuộc đời
Chúa Giêsu, và đây là cột mốc lớn hơn hết. Trong Đền
Thờ, khi được mười hai tuổi, Ngài đã nhận thức rằng
Thiên Chúa là Cha Người theo một ý nghĩa đặc biệt. Khi
Gioan xuất hiện, Ngài cảm kích giờ của Ngài đã điểm,
trong lễ rửa Thiên Chúa đã tỏ ra việc chuẩn y. Bây giờ
Chúa Giêsu sắp bắt đầu chiến dịch của Ngài. Muốn
bắt đầu một chiến dịch, người ta phải chọn nhưng
phương sách sẽ dùng. Câu chuyện cám dỗ cho chúng ta thấy
Chúa Giêsu đã dứt khoát chọn lựa phương cách Ngài sẽ
sử dụng để đem con người trở về cùng Thiên Chúa. Nó
cho ta thấy Chúa Giêsu từ bỏ con đường vinh quang quyền
thế, chấp nhận con đường thập giá khổ đau. Trước
khi đi vào chi tiết câu chuyện, có hai điểm cần lưu ý:
1. Đây là một
câu chuyện thánh, vì nó không thể phát xuất từ bất cứ
một nguồn nào khác ngoài chính Chúa Giêsu. Vào một lúc
nào đó, có lẽ chính Chúa Giêsu đã thuật lại cho các
môn đệ về kinh nghiệm sâu thẳm đó của linh hồn Ngài.
2. Cũng vào
dịp này hẳn Ngài đã ý thức được những quyền năng
đặc biệt của Ngài. Những cám dỗ đó chỉ có thể xảy
đến cho một người có đủ quyền năng làm những sự
lạ lùng. Chúng ta không bị cám dỗ khiến đá thành bánh
hoặc nhảy từ nóc Đền Thờ, vì lẽ rất đơn giản là
chúng ta không thể nào thực hiện được những việc như
vậy. Các cám dỗ đó chỉ có thể xảy đến cho ai có
sẵn quyền năng độc nhất và phải quyết định cách
thức sử dụng quyền năng đó.
Trước hết
chúng ta thử hình dung khung cảnh đó, khung cảnh của sa
mạc hoang vu. Phần đất có người ở của xứ Giuđê là
vùng cao nguyên trung tâm cái xương sống cho miền Nam đất
Paléttin. Từ đó ra Biển Chết có một vùng sa mạc ghê
rợn, chiều dài 56 cây số và rộng 24 cây số, có tên là
sa mạc Jehsimmon, nghĩa là “sự tàn phá”. Các núi đồi
như những đống cát bụi, những đá vôi trông như phồng
lên và tróc ra, những tảng đá lớn trơ trọi gồ ghề,
mặt đất kêu rền dưới vó ngựa. Nắng ở đó nóng như
một lò lửa mênh mông, và có một sườn núi dốc dựng
đứng cao khoảng 400 mét, đổ xuống tận Biển Chết.
Chính tại đó, nơi hoang tàn ghê gớm đó, Chúa Giêsu chịu
cám dỗ.
Không nên nghĩ
rằng ba đợt cám dỗ đó đã diễn ra theo trình tự và
lớp lang như một tấn tuồng. Chúng ta phải nhớ rằng
Chúa Giêsu tự ý lui vào nơi vắng vẻ đó và suốt bốn
mươi ngày Ngài vật lộn với vấn đề làm thế nào để
chinh phục nhân loại về với Thiên Chúa. Đó là một
trận chiến lâu dài và là một cuộc chiến không ngưng
nghỉ cho tới cây thập giá, và câu chuyện này chấm dứt
với lời tuyên bố của ma quỷ “tạm” lìa bỏ Ngài.
1. Cám dỗ
thứ nhất khiến đá thành bánh.
Vùng này không
phải là một sa mạc cát, khắp đó đây rải rác những
hòn đá vôi rất giống những ổ bánh mì nhỏ. Ma quỷ
nói với Chúa Giêsu rằng: “Nếu ông muốn dân chúng theo
ông thì ông hãy dùng quyền năng lạ lùng để ban cho họ
những nhu cầu vật chất đi”. Ma quỷ xui Chúa Giêsu nên
đút lót dân chúng để họ theo Ngài, Ngài trả lời bằng
một câu trích ở Đệ nhị luật 8,3, Ngài nói: “Người
ta không bao giờ tìm được sự sống trong của cải vật
chất”. Nhiệm vụ của Kitô giáo không phải là tạo ra
những tình trạng mới, mặc dầu uy tín và tiếng nói của
Hội Thánh phải hỗ trợ cho mọi cố gắng cải thiện
đời sống con người. Nhiệm vụ của Hội Thánh là kiến
tạo con người mới. Và khi đã có con người mới hẳn
sẽ phát sinh các tình trạng mới.
2. Trong
chước cám dỗ thứ nhì, Chúa Giêsu thấy mình đứng trên
một đỉnh núi cao, từ đó mắt Ngài có thể thấy được
tất cả các nước văn minh.
Ma quỷ nói:
“Hãy thờ lạy ta thì tất cả sẽ là của ngươi”. Đó
là một chước cám dỗ để thoả hiệp, để hoà đồng.
Ma quỷ nói: “Ta đã nắm được dân chúng trong tay ta
rồi, ngươi chớ nên đặt tiêu chuẩn của ngươi quá
cao. Hãy ký kết một thoả hiệp với ta, chỉ cần hoà
đồng thích nghi một chút với điều ác thôi thì loài
người sẽ theo ngươi” Chúa Giêsu trả lời: “Thiên
Chúa là Thiên Chúa, phải là phải, trái là trái. Trong
cuộc tranh chiến với tội ác không thể có thoả hiệp”.
Một lần nữa Chúa Giêsu lại trích dẫn Đệ nhị luật
6,13.10,20. Một sự cám dỗ thường dễ vướng phải là
việc tìm cách chinh phục lòng người bằng cách thoả
hiệp với các tiêu chuẩn của đời này. Có người phát
biểu rất đúng rằng khuynh hướng của thế gian là nhìn
mọi sự trong màu sắc mơ hồ không rõ rệt, nhưng Kitô
hữu phải nhìn mọi sự cách trắng ra trắng, đen ra đen.
Carlyle nói: “Kitô hữu phải nóng cháy trong niềm tin vào
sự vô cùng xinh đẹp của sự thánh khiết và vô cùng
xấu xa của tội lội”.
3. Trong
cơn cám dỗ thứ ba, Chúa Giêsu thấy mình đứng ở nóc
Đền Thờ là chỗ cổng Salômôn và cổng vua giáp nhau.
Chỗ này cao
1.500 mét, dốc thẳng xuống thung lũng Kêdron bên dưới.
Đây là chước cám dỗ muốn khích động dân chúng. Chúa
Giêsu phán: “Không, ngươi không được quyền thử nghiệm
quyền năng Thiên Chúa” (Đnl 6,16) Chúa Giêsu hiểu rằng
nếu Ngài làm theo ma quỷ thì dân chúng sẽ phải sửng
sốt thán phục Ngài, và chắc chắn ảnh hưởng đó không
lâu bền được. Con đường phục vụ và chịu khó dẫn
đến thập giá là con đường rất khó đi, nhưng sau thập
giá sẽ có vinh quang của mão triều thiên.
“Chúa trở
nên giống như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện,
để làm Thầy Thượng Tế nhân từ, trung thực trước
mặt Thiên Chúa, chuộc tội cho mọi người. Vì Chúa từng
chịu khổ khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài
có thể giải cứu những người đang bị màng lưới cám
dỗ vây bọc” (Dt 3,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh
Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc
thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu!
Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra
trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê
ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm
đó, Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để
coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi
tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên
Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương, chết giữa
những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng
ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có
một Chúa chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng
ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu
Thế đáng yêu cũng bị ma quỷ cám dỗ, hai lần bị các
thần dữ mang đi này, và trong tất cả các khổ đau,
quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn
có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn
thắng miễn là chúng ta muốn thật” (Curé d’Ars).
Như thế Chúa
dạy không ai tránh khỏi cám dỗ, Chúa chỉ cách thắng
vượt, khuyến khích ta tin cậy vào lòng thương xót, vì
chính Ngài cũng bị cám dỗ như ta.
8. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
CHÚA GIÊSU
CHỊU CÁM DỖ
Trong khi đem
bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên
kết nền tảng mà truyền thống đã thiết lập giữa
phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh
này khi nói tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan
và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa bản gia phả và
sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách
là Con Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa
Giêsu sắp chịu thử thách. Người được dẫn vào sa
mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con
người có thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần
hay đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.
Luca mượn từ
tài liệu “Nguồn các lời” một sắc thái Kitô giáo về
Chúa Kitô được cấu trúc bằng ba lời trích dẫn mà ông
chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh
hoạ một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường
hợp duy nhất trong văn chương Tin Mừng: ở đây Chúa
Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con
Thiên Chúa phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã
chịu trong cuộc xuất hành và họ đã sa ngã; khi lợi
dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta
canh chừng khỏi tái phạm những lầm lỗi tương tự.
Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như truyền
thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy
trong Matthêu: bánh (chỉ tìm của cải vật chất), chóp
đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những
dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian
(thoả hiệp với cái ác để bảo đảm quyền lực
Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để
cám dỗ sau cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên
Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.
Đối thủ của
Thiên Chúa –được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản
văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ trời.
Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở
vai trò của Người trong lịch sử cứu độ, khi bằng
cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện một Công
vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ
mạng đích thực của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất
lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có lợi
cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng
như dùng quyền năng Con Thiên Chúa của mình để tự bảo
vệ… và quyến rũ người Do Thái bằng những phép lạ
có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở
câu 12). Thấy tên quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả
cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái chống lại
niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn
Kinh Thánh nói về Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối
Đấng bị đóng đinh đã sống lại.
Như vậy cả
ba lần, sự trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên
Chúa và đối với chương trình cứu độ đã bị thử
thách. Thử thách chót chính là … thử Chúa bắt Chúa
phải ra tay. Đó là lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ
đòi một phép lạ bằng những lời này; “Chúa có ở
với chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài từ
chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép
lạ để cứu mạng mình. Ngài cũng sẽ không xin điều đó
khi Ngài ở trên thập giá (23,35).
Bởi vì Luca
đã thấy rõ cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu
của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu được các sứ
thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú
ý về ma quỷ. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm
của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của Ngài, quỷ đã
thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc
chiến và nói rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ
nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật chính và
giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ
đó là thử thách đầu tiên của một cuộc chiến sẽ
kết thúc trên thập giá… và ở ngoài ngôi mộ Phục
Sinh!
Sự chống đối
giữa ma quỷ và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ
đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại giáo huấn này
về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình
ảnh. Chẳng hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn
núi rất cao từ đó người ta có thấy tất cả các nước
trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do
Thái giáo, nhưng có thể người h luật pháp lại không
hiểu nổi? Ông viết “trong giây lát” (c.5): bản âm
không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời
gian!
Người ta sẽ
hỏi đâu là nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này
mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố đúng thời
gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật
trong một nơi không rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu
phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám dỗ dĩ
nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ
Mêsia trần tục, những cám dỗ ấy là một chiều kích
thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả
việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có
những dấu vết chính xác về các cám dỗ ấy trong một
tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42…), và đã trở
thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần
và đau khổ. Các môn đệ là chứng nhân và sứ mạng mà
Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải hiểu
rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.
Một lần nữa,
thử thách theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không
phải là tội. Như tất cả mọi người, Con Thiên Chúa đã
kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: “Con ơi!
Nếu con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn
để chịu thử thách” (Ch 2,1).
9. Chú giải của Noel Quesson
Sau khi
chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ
sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong
hoang địa.
Đức Giêsu
vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một
khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người
vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người
vừa nhận phép rửa ở sông Giođan "nhận chức"
tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh
Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy
cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu
nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để
hoàn thành công trình của mình.
Không có một
công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống
thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy
nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt
đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài
khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ,
và thấy rõ hơn không?
Tôi dùng tưởng
tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông
dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người,
không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới.
Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một
thời gian trong "hoang địa"?
Tại đây
Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.
Theo Luca, cơn
"cám dỗ" mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài
trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa.
Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian "thử thách".
Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn
cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem mình có thể
làm được những gì và "đưa ra bằng chứng về
chính mình". Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử
xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử thách",
theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình
được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và
hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững
đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa "đừng để chúng
con xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự
dữ" Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta sẽ không
bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị
nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ
khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích
của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn
lên: Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá
trị lòng "trung tín" của Người đối với Chúa
Cha.
Trong
những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian
đó thì Người thấy đói.
Tôi ngưng một
lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ
vì đói! Bao tử co thắt - chóng mặt, nhức đầu.
Đa số các
tôn giáo lớn, đều có việc thực hành "chay tịnh"
tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng
ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước
từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói,
cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi một
người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống,
họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: "Sự tự
chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật rất
mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ
đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình
ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn chay"
tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này
không?
1. Cơn cám
dỗ thứ nhất.
Bấy giờ
quỷ nói với Người: "Nếu ông là con Thiên Chúa thì
truyền cho hòn đá này hoá bánh đi".
Cơn cám dỗ
vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang
địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của
chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết
rõ những khao khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt
chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ "lệch lạc",
trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta
lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: "Hãy mua món
ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương Tây, nói chung, quá dư
thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều
đó.
Đức
Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta
sống không chỉ nhờ cơn bánh".
“Con người".
Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa.
Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến
trong nhân loại để phát huy giá trị của con người
trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay:
Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ
thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không
có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách... sao?
Trong Mùa Chay
này, chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh
của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận
những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?
2. Cám dỗ
thứ hai.
Quỷ đem
Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy
tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người:
"Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa
lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được
giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái
lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".
Rõ ràng, trình
thuật này không phải là một "phóng sự" của
một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là
một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng
trưng "tất cả những hình thức cám dỗ" (Lu ca
sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông)
mà Đức Giêsu đã gặp “thực sự” suốt cuộc đời
của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai
này, cám dỗ để được "quyền hành thế gian",
đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã
phải đẩy lui cơn cám dỗ "cứu thế nhất thời"
mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước
vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông
"vua của thế gian" này theo kiểu vua Đavít cầm
đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền
hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga
6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới
hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương
quyền để làm người "nghèo hèn" "người
tôi tớ" (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên
giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận "yếu
đuối" (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô
nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối
với dân ngoại". Cơn cám dỗ về "quyền hành"
cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp
đặt, và lợi dụng.
Đức
Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải
bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Người mà thôi". (Đnl 6,13)
Chống lại
những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3
lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính
là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa
trong "40 năm", và giờ đây Đức Giêsu cũng đang
sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về
mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh
32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của
Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể
nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người
không tỏ hiện, để tin những gì khác".
Câu trả lời
của Đức Giêsu là "không có gì hơn Thiên Chúa".
Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy
và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, "những
ý thức hệ chính trị", những tiến bộ hay thời
trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa". Cái tạm
thời không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên "tuyệt
đối", là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là
Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu”
đang gạt gẫm chúng ta.
3. Cơn cám
dỗ thứ ba.
Quỷ đem
Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền
thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa
thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép
rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp
chân vào đá". (Tv 91,11-12)
Đó là cơn
cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước
Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy
làm phép lạ đi - Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên
trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu
lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng
ông là Đấng Cứu 'Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy
bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga
91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn
đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?
Luca đã đặt
cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống
hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ
hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm
tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã
trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là
cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết:
"Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén
này" (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần
"bảo vệ". Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất:
trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã
không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá
đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần
linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của "thân
phận con người phải chết”. Người đã khước từ
những phương tiện "ngoạn mục" để thi hành xứ
vụ của mình, mà chỉ chọn những "phương tiện hạn
hẹp". Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa
Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị "Chúa Cha bỏ rơi"
(Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha.
Người sẽ được ' "'cứu khỏi chết" nhờ sự
phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình
thương "cho đến tận cùng". Do đó, chúng ta chớ
ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám
dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ
rằng “Chúa bỏ rơi ta", cám dỗ của khuynh hướng
vô thần "nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi
đâu có gặp thử thách như vậy! "
Chúa
Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta cũng
thường "thử thách Thiên Chúa". Đôi khi chúng ta
buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: "Nếu Chúa hiện
hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho con
lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay
thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm
như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và
Chúa đâu còn hiện hữu gì với con". Chúng ta biết
rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của
phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến
nhiều trường hợp bỏ Đức tin.
Nhưng chúng ta
cũng tin rằng, Đức Giêsu đang "ở cùng chúng ta".
Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ
này, và dù có bị "đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn
một lòng trung thành với Chúa Cha.
Sau khi đã
xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi
thời cơ.
Như vậy những
cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn
bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại
Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự
khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).
10. Trong sa mạc - R. Gutzwiller
Do Thần trí
Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung
mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với
Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không
còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa,
dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới
khác.
Rồi bốn mươi
ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ
cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy
cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là
những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến
cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc
thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại
càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở
mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ
liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng
cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng
Ngài.
Đây Ngài sắp
bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ
nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng
Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần.
Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành
nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế
nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải
chỉ bằng cơm bánh’.
Tinh thần hay
cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng
đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện
trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước
cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là
những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy
đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó,
mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa,
nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật
chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và
linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh
cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng
đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế
như là động lực mang tính cách quyết định, những cái
còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại,
Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị
tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian
nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của
Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng
hơn đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự dưới
đất là những người vụng về, không biết đâu là
chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá
hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để
chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là
đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa
Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật,
trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở
trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời
Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần,
đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng
hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu
không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác.
Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ
hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết
Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu
chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài
cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết
Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của
Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi
vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những
nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính
đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp
với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Do Thần trí
Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung
mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với
Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không
còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa,
dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới
khác.
Rồi bốn mươi
ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ
cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy
cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là
những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến
cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc
thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại
càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở
mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ
liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng
cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng
Ngài.
Đây Ngài sắp
bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám
dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm
quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế
trần.
Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành
nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế
nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải
chỉ bằng cơm bánh’.
Tinh thần hay
cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng
đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện
trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước
cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là
những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy
đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó,
mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa,
nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật
chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và
linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh
cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng
đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế
như là động lực mang tính cách quyết định, những cái
còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại,
Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị
tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian
nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của
Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng
hơn đất, nên kẻ nào chỉ hoay hoay với những sự dưới
đất là những người vụng về, không biết đâu là
chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá
hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để
chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là
đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa
Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật,
trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở
trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời
Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần,
đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng
hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu
không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác.
Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ
hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết
Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu
chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài
cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết
Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của
Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi
vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những
nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính
đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp
với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Chúa Giêsu
cũng sẽ sử dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời,
theo ý của Thiên Chúa chứ không theo sở thích của lòng
mình, lại càng không theo ý muốn của mình, hay sự thúc
đẩy của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo Nước
Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng vật chất vẫn còn xung
khắc với Kitô giáo.
Cám
dỗ thứ hai liên quan đến sự ham hố quyền hành.
Satan chỉ cho Chúa thấy ‘hết các nước thiên hạ’ và
nói thêm: ‘Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và
vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phú thác
cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi’. Lời gì
mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính Chúa Giêsu đã gọi Satan
là ‘Thủ lĩnh thế gian này’. Quyền lực tự nó đâu
phải là cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế
chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh và mê thống trị. Kẻ
đó không còn lo tìm Đấng toàn năng, cũng chẳng tìm
Thánh ý Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều
phải phụng sự Ngài.
Trái lại, họ
coi quyền hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử
dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu ngạo, dương dương
tự đắc quá lố như vậy tất sẽ đi đến chỗ lầm
đường lạc lối. Sách Khải huyền gọi quyền thế là
‘con mãnh thú vực sâu…’. Nói đúng ra, đối với
những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm hơn
cám dỗ coi vật chất là số một, dù cám dỗ này cũng
đã thật thô bỉ. Cám dỗ về ham quyền được nguỵ
trang bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó
khuyến khích việc mở rộng nước Chúa nhờ những phương
tiện bên ngoài của chính trị, võ khí, tổ chức này tổ
chức nọ, tiền bạc… Thậm chí có những việc khởi
đầu hoàn toàn với ý hướng ngay thẳng, thế rồi dần
dà cũng đi đến chỗ coi trọng quyền thế; tham quyền
thì cố vị, và rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.
‘Vậy nếu
ông bái xuống lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của
ông’. khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng thờ
lạy Satan. Khi ham quyền và những lợi lộc do đó mà ra,
thì người ta đã đang tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền
thế.
Đó là lý do
tại sao Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Ngươi phải bái lạy
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một
mình Người’ Đấng Tối Cao là Đấng độc nhất mà mọi
sự phải quy phục. Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở
hữu và ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ quyền
hành không phụng sự Thiên Chúa là một sự lạm dụng và
phục vụ cho Satan, cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ
mấy chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp chúng ta vào
tay ma quỷ. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập
Nước Thiên Chúa thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương
quốc của kẻ thù.
Trong cái chết
của Chúa Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng;
nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và tỏ ra mình
yếu kém ngay tại đó. Trót cuộc sống Chúa Giêsu là một
sự phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự
Satan. ‘Ngươi phải thờ phượng một mình Thiên Chúa’.
Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái gì khác phải kể là đã
phản bội Thiên Chúa.
Cám dỗ
thứ ba nói đến việc lạm dụng phép lạ với mục đích
thoả mãn tính hiếu kỳ.
Satan đưa Chúa
Giêsu, trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. ‘Nếu
Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống’. Chú quỷ
còn trưng dẫn Kinh Thánh nữa: ‘Vì Người đã truyền
cho các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ giơ
tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân vào đá’.
Chúa Giêsu đã
khởi đầu cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ và
ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám dân chúng, và
những người tội lỗi bên bờ sông Giođan. Giờ đây,
cám dỗ có ý muốn làm cho mọi chuyện xảy ra ngược
lại: Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt
quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi thường. Dân chúng
đang khát khao được nhìn, được thấy. Họ muốn thấy
Ngài xuất hiện trên chín tầng mây chứ không phải như
một người trong họ, như bao nhiêu người khác.
Trong lãnh vực
tôn giáo, phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi kéo mới
mẻ. Người ta từ chối không muốn phụng sự Thiên Chúa
trong những khó khăn của cuộc sống thường nhật và
không muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống bình
thường. Họ muốn có những chuyện lạ lùng bên ngoài,
bên trong cũng được. Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu
nguyện thần bí.
Những chuyện
Đức Mẹ hiện ra. Vị này vị nọ được in năm dấu
Thánh, có sức lôi kéo họ đi hành hương bất chấp xa
xôi vất vả và họ coi là có giá trị hơn là chấp nhận
Lời Chúa và Thánh ý Người bằng niềm tin cùng với tấm
lòng đơn sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày qua những
hy sinh trong chức nghiệp bổn phận trong gia đình, những
thánh giá hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ
vẻ khâm phục.
Chúa Giêsu
không coi rẻ phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện
những phép lạ, nhưng không phải để thoả mãn những
thèm khát của đại chúng hoặc để cho tôn giáo có tính
chất ngoại lệ đặc biệt, một chỉ để vâng phục
Thánh ý Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và do đó
chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ vụ từ nơi Chúa
Cha. Tất cả những gì ngoài mục đích đó đều được
coi là thử thách Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa làm
những phép lạ không cần thiết, cũng không theo lệnh,
chẳng theo ý của Người.
Vì đó, Chúa
Giêsu trả lời: ‘Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên
Chúa của ngươi’.
Đó là cám dỗ
chống lại Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí, ý
muốn và quyền năng của Người. Chúa Giêsu lướt thắng
Satan nhờ Thiên Chúa và phá tan mưu chước bằng cách chạy
đến Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể đứng
vững trước những cơn thử thách nhờ vào sức riêng của
mình được. Đứng giữa Thiên Chúa và ma quỷ, con người
chỉ có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ
lực của Thiên Chúa. Không thể có chuyện trung lập hay
lẩn tránh. Người ta chỉ có thể xa lánh Satan khi quay
hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta cũng xa
tránh được mưu chước cám dỗ của Satan.
Bây giờ đây,
thời gian chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa
Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ phái, nhưng
Ngài lại ở giữa loài người. Sinh bởi Thiên Chúa, tuy
nhiên cũng là con loài người, Ngài được đầy tràn Thần
khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần trí Satan.
Thánh ý Thiên Chúa cũng là lề luật của Ngài, nước
Thiên Chúa là bổn phận của Ngài, tất cả những gì
thuộc về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ xây
dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt vương quốc của
Satan.
Sau phần mở
đầu uy hùng và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa
sức lực trên cao và quyền năng dưới thế sắp bắt đầu
công cuộc hành động của Ngài trên dân chúng.
11. Chú giải của Fiches Dominicales
TUYÊN XƯNG
ĐỨC TIN BÀNG HÀNH ĐỘNG
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Liên
hệ chặt chẽ với phép rửa của Đức Giêsu
Sau trình thuật
về phép rửa, lúc tiếng nói từ trời tuyên bố: "Con
là Con Cha. Hôm nay Cha đã sinh ra Con", Luca đưa vào bản
gia phả của Người, nhắc lại tổ tiên nhân loại của
Đức Giêsu cho tới "Adam, con Thiên Chúa". Cũng
trong mối liên lạc chặt chẽ với quang cảnh phép rửa
là với bản gia phả mà thánh sử định vị cho giai đoạn
cám dỗ: Đức Giêsu "đầy Thánh Thần" rời bỏ
"bờ sông, Giođan"; người "được Thánh Thần
hướng dẫn vào hoang địa" - Đây là nơi mơ hồ, nơi
mà theo Kinh Thánh, con người bị thần dữ thử thách hoặc
đi vào kết hiệp với Thiên Chúa hằng sống "trong 40
ngày"
Người sẽ bị
"ma quỉ thử thách" với tư cách là Con Thiên
Chúa. Ma quỉ hỏi với Người: "Nếu ông là Con Thiên
Chúa hãy truyền cho hòn đá này trở nên bánh. Nếu ông
là con Thiên chúa, hãy nhảy xuống đất".
2. Thử
thách đầu tiên trong cuộc chiến toàn thắng.
Cũng như bản
văn của Mátthêu - tuy thứ tự có khác – bản văn của
Luca kết cấu chung quanh 3 cuộc cám dỗ. Ba cuộc cám dỗ,
chính Tin Mừng xác định rõ ràng ở phần kết, đã “múc
cạn” mọi hình thức cám dỗ": những cơn cám dỗ
mà Đức Giêsu sẽ phải đương đầu suốt dọc tác vụ
của Người cho đến khi chết, những cơn cám dỗ mà các
môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các
ngài sẽ gặp. Ba cơn cám dỗ, cũng như ba lời trích dẫn
đã ghi chú cặn kẽ, đã được khéo léo lựa chọn từ
sách Thứ Luật (trích trong bài đọc 1 và thánh Phaolô
trích dẫn trong bài đọc 2), chính là những cơn cám dỗ
mà dân Israel đã phải đương đầu, trong suốt 40 năm sa
mạc. Có điều họ đã sa ngã. Nay đến phiên Đức Giêsu
phải đương đầu với những cơn cám dỗ ấy, suốt 40
ngày trong sa mạc: Ba lần, địch thù thử thách lòng trung
tín của người Con đối với Thiên Chúa và với chương
trình cứu độ của Người; trong cả 3 lần, Đức Giêsu
đã chiến thắng.
Hugues Cousin
nhận xét: "Đây là trường hợp độc nhất trong văn
chương Tin Mừng. Đức Giêsu chỉ nói những lời tích từ
Cựu ước, Con Thiên Chúa phải trải qua 3 cuộc thử thách
mà xưa kia dân Israel trong chuyến Xuất Hành đã đương
đầu và đã sa ngã đã sa ngã; rút được kinh nghiệm từ
những bài học trong sạch thứ Luật, cảnh giác để khỏi
tái diễn những lỗi lầm tương tự. Đức Giêsu đã
chiến thắng đối thủ" ("Tin Mừng theo thánh
Luca", Centurion, trg 62).
+ Cơn cám dỗ
đầu tiên, giống như Mátthêu, là cơn cám dỗ về Sở
Hữu, cơn cám dỗ chỉ tìm lợi lộc vật chất, cơn cám
dỗ của một chủ nghĩa Mêsia thiển cận: "Nếu ông
là Con Thiên Chúa, hãy biến hòn đá này thành bánh đi".
Lần đầu
tiên trích dẫn sách Thứ Luật 8,3 - đoạn nói về manna -
Đức Giêsu trả lời ngay tức khắc: "Người ta sống
không nguyên bởi bánh". Người từ chối làm phép lạ
vì lợi lộc riêng tư. Là "Con" thật sự, Người
nhận tất cả từ Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ từ
Chúa Cha mà thôi; nên Người phó thác tất cả cho Thiên
Chúa, Cha của Người và chỉ phó thác cho Chúa Cha mà
thôi. Roland chú giải: "Con là kẻ nhận được sự
hiện hữu, sự sống không từ chính mình, nhưng từ một
kẻ khác, từ Cha của mình. Con là kẻ hiểu biết trong
niềm vui và niềm biết ơn rằng mình sống nhờ Cha. Người
không phải là kẻ ra lệnh để có bánh; chính Chúa, Thiên
Chúa của Người sẽ ban lương thực cùng với Lề Luật.
Con không ra lệnh, Người khẩn cầu: "Xin Cha cho chúng
con hôm nay lương thực hằng ngày" (Tin Mừng theo thánh
Luca. Phân tích tu từ", Cerf, quyển 3, trg 50).
+ Cơn cám dỗ
thứ hai, khác với trình thuật của Mátthêu, là cơn cám
dỗ về QUYỀN LỰC; cơn cám dỗ về một chủ nghĩa Mêsia
theo tham vọng loài người, dù phải trả giá bằng sự
thoả hiệp. "Nếu ông thờ lạy tôi, quỉ đoán chắc,
ông sẽ có tất cả" ("Mọi quyền lực và vinh
quang của các vương quốc ấy”).
Lần thứ hai
trích dẫn sách Thứ luật 6, 1 3 - đoạn nói về con bò
vàng - Đức Giêsu trả lời ngay: "Đã chép rằng:
Người chỉ được thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi
mà thôi". Người từ chối không tôn kính thủ lãnh
trần gian để hành xử vương quyền phổ quát. Là Con
thật sự, Người sẽ nắm giữ vương quyền từ Thiên
Chúa, Cha của Người, và chỉ từ Cha người mà thôi,
theo con đường Cha đã chọn: con đường khiêm nhường,
nghèo hèn, thánh giá. R. Meynet chú giải: "Đức Giêsu
sẽ nhận được các vương quốc trần gian, Người sẽ
là Đức Kitô, Vua, vì Người đã từ chối vương quyền
xấu xa của ma quỉ, vì Người đã tự nguyện trở nên
tôi tớ của Thiên Chúa và của nhân loại" (Sđd).
+ Cơn cám dỗ
thứ ba Luca đã cho diễn ra ở Giêrusalem, báo trước thử
thách quyết liệt sau này, đó là cơn cám dỗ MA THUẬT,
cơn cám dỗ thử thách Thiên Chúa, đi tìm những dấu chỉ
kinh thiên động địa của Đấng Mêsia. Ma quỉ dùng Tv
90, cố cám dỗ một lần cuối: "Nếu ông là Con Thiên
Chúa, hãy gieo mình xuống; Có lời chép rằng: người đã
ra lính cho các thiên thần gìn giữ ông".
Lần cuối
cùng trích dẫn sách Thứ Luật 6,16 - đoạn nói về Massa,
nơi dân Do Thái đã buộc Chúa phải cho họ nước uống -
Đức Giêsu đáp tức khắc: "Đã chép rằng: "Ngươi
đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
Người từ chối sử dụng quyền làm Con Thiên Chúa để
bảo vệ mình; và mê hoặc người Do Thái bằng những
điều kỳ diệu. Người từ chối buộc Thiên Chúa phải
can thiệp. Người không đòi phép lạ để cứu mạng sống
mình; người chẳng đòi hỏi cả khi Người bị treo trên
thánh giá. R. Meynet nói tiếp: "Người tin chắc rằng:
Thiên Chúa sẽ cứu Người, Người không có quyền kiểm
chứng xem Chúa Cha có trung tín không; Thiên Chúa chẳng cần
phải chứng tỏ cho mọi người thấy Thiên Chúa có cứu
Người" (sđd).
3. Sẽ
hoàn tất trên thánh giá
Nếu, như nói
ở trên, Luca hoán đổi vị trí 2 cơn cám dỗ sau, đó là
vì muốn thiết lập một thứ tự tiệm tiến cho tới cơn
cám dỗ thứ ba: Tại Giêrusalem, nơi có cuộc đụng đầu
quyết liệt và nơi hoàn thành quyển sách đầu tiên của
ngài. Đây là khúc nhạc mở đầu loan báo cuộc thử
thách lớn lao trong khổ nạn.
Hôm nay, đối
thủ đành chịu khuất phục, nó rút lui "chờ giờ
phút đã định". Lúc ấy, nó sẽ xuất hiện, ra những
đòn cuối cùng tấn công Đấng Chịu Đóng đinh qua miệng
các sĩ quan, quân lính và cả người trộm dữ nữa.
“Nếu ông là
Đức Kitô, hãy cứu mình và cứu chúng tôi với!, một kẻ
cùng chịu đóng đinh với Người lên tiếng, thách thức.
Trong lúc thất
bại ê chề trước mặt mọi người, Đức Giêsu: vẫn
vững vàng trong thử thách; vẫn gần bó với thánh giá
giữa các người bạn cùng đau khổ. Người phó thác trọn
vẹn cho Chúa Cha cội nguồn sứ mạng của Người. Và
người trộm lành đã sinh ra trong ánh sáng nên đã không
nguyền rủa.
Quân lính chế
nhạo: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình
đi".
Trong lúc công
cuộc của Người tưởng như vĩnh viễn lụi tàn, Đức
Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, vẫn lặng lẽ. Đấng
Mêsia - Vua chịu đóng đinh và bất lực cầu khẩn một
mình với Chúa Cha "Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong
tay Cha" (Tv 30.6). Thái độ của Người trước cái
chết đã khiến viên sĩ quan Rôma phải thốt lên những
lời đầy hứa hẹn: "Quả thật ông này là người
công chính".
Thủ lãnh
trong dân châm chọc: "ông ta đã cứu được người
khác: hãy tự cứu mình đi, nếu ông ta là Đấng Mêsia
của Thiên Chúa, "Đấng được tuyển chọn".
Trong khi tất
cả mọi người quấy rối, Đức Giêsu vẫn kiên vững
trong thử thách, tha thứ cho các đao phủ. Và sự đau khổ
cũng như cái chết của Người, được đảm nhận trong
tình yêu, đã sinh hoa kết quả: Có người đã tách ra
khỏi các thành viên của hội đồng, đó là Giuse người
Arimathia.
Có
người sẽ hỏi, đâu là gốc rễ lịch sử của đoạn
văn mà Mátthêu và Luca thuật lại. H. Cousin trả lời:
"Bên cạnh một biến cố xác thực, cuộc tĩnh tâm
của Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chịu phép rửa, ta
phải xét đến 2 thực tại: những cơn cám dỗ chắc chắn
phải có, đặc biệt là cơn cám dỗ về chủ nghĩa Mêsia
trần tục, vì chúng vẫn tồn tại trong suốt sứ vụ của
Đức Giêsu; và Người vẫn kiên trì chống trả không bao
giờ chịu lùi bước nhượng bộ. Những dấu vết hiển
nhiên tồn tại trong suốt Tin Mừng Luca (10, 25; 11, 6 và kế
tiếp; 22, 42...) càng cho ta thấy rõ rằng: Đức Giêsu là
một Đấng Mêsia nghèo nàn và đau khổ. Các
môn đệ làm chứng Người luôn trung tín với Thiên Chúa,
với sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận. Luca đã làm cho
độc giả hiểu ràng Đức Giêsu đã phải chọn lựa một
hình thức thi hành sứ mệnh, một cách thế hiện hữu và
không phải dễ dàng để đi đến cùng chọn lựa ấy"
(Sđd, trg 63-64).
BÀI ĐỌC
THÊM
1. Cơn
cám dỗ của Đức Giêsu trong hoang địa: một pha gây cấn
(H. Denis trong
"100 từ ngữ diễn tả đức tin", DDA, trg 111-
112).
Mùa Chay khai
mạc - vào Chúa nhật đầu tiên - đưa ta đến trước một
cảnh lạ lùng, thậm chí đáng lo ngại: cơn cám dỗ Đức
Giêsu trong hoang địa.
Ta muốn nói
như Phêrô khi nghe loan báo cuộc khổ nạn: "Không!
Thầy không phải chịu như thế. Đôi khi ta cố xoay xở,
nhưng đó không phải là linh đạo tối ưu khi giải thích
sự vật" như sau: Thực ra, Đức Giêsu không thực sự
bị cám dỗ, Người đã chấp nhận bị cám dỗ "vì
ta", để dạy ta biết phải chống lại các cơn cám
dỗ như thế nào. Nhưng giá phải trả cho lối giải thích
này rất nặng. Làm như Đức Giêsu "giả vờ"
không bằng. Rồi sẽ suy ra người giả vở làm người,
giả vờ học hành, giả vờ đói giả vờ đau khổ, giả
và chết.
Nếu ta muốn
chấp nhận Đức Kitô có nhân tính thực sự, ta phải tìm
hiểu xem bằng cách nào Đức Giêsu đã thực sự bị cám
dỗ ra khỏi con đường thẳng tắp của sứ mệnh của
Người, và Người đã chống trả thế nào.
Cơn cám dỗ
về bánh để nuôi dân no đủ vốn là cơn cám dỗ của
mọi lãnh tụ, có tôn giáo hay không. Đức Giêsu đã chống
cự. Nếu có lần Người chấp nhận hoá bánh ra nhiều,
đó cũng chỉ nhằm giúp người ta có đủ sức nghe lời
phát xuất từ miệng Thiên Chúa và để họ tìm được
một thứ lương thực khác: "Này là Mình Ta, sẽ bị
nộp vì các con". Cơn cám dỗ về phép lạ, về những
điều kỳ diệu cũng đã bị đẩy lui. Phải chăng đó đã
là dấu chỉ của một Đức Giêsu chỉ chữa bệnh vì
Nước Trời? "Phúc cho ai không thấy mà tin".
Cơn cám dỗ
về quyền lực trên trần gian cũng tinh vi không kém. nhưng
Đức Giêsu biết rằng Satan ẩn nấp trong mọi thứ vinh
quang không qui về Chúa Cha. Vinh quang của Đức Kitô là
vinh quang của sự hiến mình. Điều ấy sẽ được thực
hiện trên thánh giá, trong khó nghèo tột độ, khi mọi sự
hoàn tất.
2. Những
cạm bẫy tương tự trải dài suốt lộ trình của ta
(F. Deleclos,
trong ‘hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn’ Centurion -Duculot,
trg 193-194)
Thật tốt nếu
ta vui vẻ để "Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa".
Đó là cơ hội sống động cho ta khám phá hoặc tái khám
phá ra những cạm bẫy thường xuyên giăng dưới bước
chân người Do Thái, những cạm bẫy mà Đức Kitô đã
gặp, cũng là những cạm bẫy trải dài suốt hành trình
và suốt lịch sử đời ta. Ta hãy học cách vạch trần
những cơn cám dỗ để khỏi bị lệch hướng xa đường
giao ước, xa đường sứ mạng của ta.
Những cạm
bẫy của Thần Dữ toả ra hào quang duyên dáng và lôi
cuốn, mời mọc tinh vi và đáng sợ, cộng với trí thông
minh và sự kiên nhẫn của "Địch thủ của triều
đại Thiên Chúa".
Đó là cơn
cám dỗ dùng Lời Chúa phục vụ mọi ham thích của ta về
sở hữu, về hiểu biết, về quyền lực, là những nguồn
không bao giờ cạn “của mọi loài hình cám dỗ"
luôn quấy phá các tín hữu và các Giáo Hội.
Đó là những
ham hố quá đáng đi tìm điều lạ lùng, săn đuổi các
cuộc hiện ra, các phép lạ, làm lệch hướng những đòi
hỏi khẩn cấp của Tin Mừng.
Đó là cầu
nguyện sốt sắng bên ngoài để phiền nhiễu Thiên Chúa,
mong rút tỉa được đặc ân tránh khỏi thử thách, khổ
đau.
Cạm bẫy còn
là những an thân giả tạo, những bảo đảm hão huyền
mà ta mải mê tìm kiếm trong một mớ chồng chất những
lễ nghi trống rỗng vô nghĩa vô hồn.
Cơn cám dỗ
tinh vi cuốn ta vào đủ mọi thứ hy sinh đến từ tinh
thần thống trị, lòng ham thích sức mạnh và say mê quyền
lực Thiên đường các ngẫu tượng.
Làm cách nào
trả lời 3 cuộc cám dỗ tiêu biểu nếu không phải là 3
câu trả lời bằng ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ. Gặp
gỡ Chúa để Lời chân lý và sự sống đổ đầy vào
trái tim ta và vọt ra từ môi miệng ta. Khước từ những
phồn vinh muốn chôn vùi ta và khám phá thấy trong sự
tiết độ những giá trị vững bền. Tình liên đới làm
phát sinh và nuôi dưỡng lòng quảng đại huynh đệ đối
với biết bao kẻ đói khát sự công chính và bình an,
những người bị loại trừ khỏi tình yêu và lòng kính
trọng, những người bị áp bức ở mọi nơi, đám đông
mênh mông những người bị đóng đinh nơi đó Đấng giải
phóng, Đấng Phục sinh hằng sống đang náu ẩn trong vô
danh.
12. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁM DỖ
TRONG SA MẠC
1.
Phần dẫn nhập của trình thuật này
(cc.1-2) có vẻ chi tiết hơn Mt. Lc thêm hai chỉ dẫn quan
trọng: Chúa Giêsu “tràn đầy Thánh Thần” (x.Cv 6,5;
7,55; 11,24 - với động từ “tràn đầy":Lc 1,15.41.67;
Cv 2,4; 4,8; 31,9; 17,13,9.52) và Chúa Giêsu “bỏ bờ sông
Giodan”. Hai chi tiết này chứng tỏ ý hướng muốn nối
kết chặt chẽ cám dỗ với cuộc thần hiện sau phép
rửa. Lc muốn cho ta hiểu rằng gia phả Chúa Giêsu chỉ là
một “cái ngoặc đơn” mà thôi. Bắt đầu kế tiếp
(4,14), Lc lần nữa nhắc lại việc Chúa Giêsu vừa lãnh
nhận Chúa Thánh Thần: việc Ngài giảng dạy cũng được
nối kết với cuộc thần hiện ở sông Giodan. Chính trong
địa vị làm Con Thiên Chúa tràn đầy Thánh Thần mà Chúa
Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng của Ngài.
Lc không nói
như Mc và Mt là Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn “vào
sa mạc": Chúa Giêsu băng qua sa mạc dưới sự thúc
đẩy mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần là Đấng hình như
không cho phép Ngài dừng bước. Lời xác định “trong
suốt 40 ngày” ăn khớp với động từ êgeto (được dẫn
đưa): dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúa
Giêsu đã đi suốt 40 ngày trong sa mạc. Người ta có thể
thấy ở đây ảnh hưởng của câu Đệ Nhị Luật 8,2 mà
Lc đã theo sát trong bản dịch 70 (câu này nằm ngay trước
Đnl 8,3 mà Chúa Giêsu mượn làm câu trả lời đầu tiên):
“Hãy nhớ con đường mà Thiên Chúa ngươi đã dẫn ngươi
đi (êgagen se)(bản Talmud: suốt 40 năm) trong sa mạc để
hạ ngươi xuống và để thử thách ngươi khi đọc Mt,
người ta có cảm tưởng cơn cám dỗ xảy đến cho Chúa
Giêsu sau 40 ngày, còn Lc lại theo Mc, trình bày cơn cám dỗ
kéo dài suốt cả thời gian trong sa mạc. Ba chước cám dỗ
do ma quỉ do Lc kể lại hình như chỉ là những hình thức
tiêu biểu nhất, đặc biệt nhất của các chước cám dỗ
đủ loại Chúa Giêsu phải chịu đựng suốt 40 ngày:
chúng đánh dấu cao điểm tấn công của ma quỉ.
2.
Về cám dỗ thứ nhất,
có một hiệu đính quan trọng, được xem là của Lc, là
việc thay đổi “những viên đá này, những chiếc bánh
từ số nhiều sang số ít. Do mối ưu tư tả thực, Lc đã
chọn kiểu nói số ít, có vẻ tự nhiên hơn. Làm như
vậy, ông khiến ta bớt nghĩ đến Manna là ý tưởng tiềm
ẩn nơi trình thuật của Mt: ông này, để gợi lại hình
ảnh Manna che phủ mặt đất trong sa mạc, đã tự nhiên
nói đến nhiều viên đá biến được thành bánh; còn
hình như Lc không muốn nhấn mạnh đến ảnh Giêsu -
Israel. Viết cho những người không phải là Do thái, ông
dẹp bớt những gì làm họ ngỡ ngàng.
Sau lời đề
nghị “hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh
có thể dễ dàng xác định thêm “để ông có thể ăn”.
Một xác tín kiểu đó, nếu lôi kéo chú ý đến sự thoả
mãn riêng tư của Chúa Giêsu, thì cũng để cho người ta
liên tưởng tới cám dỗ Evà (St 3,6) và tới những cám
dỗ Kitô hữu năng gặp. Nhung Lc, mặc dầu vừa nhắc đến
Adam vài câu trước đó (3,38) và là người thường ưa
quảng diễn dài dòng, đã không muốn gợi những liên
tưởng đó. Vì thật ra, việc thoả mãn cơn đói chỉ là
chuyện thứ yếu; điều tác giả muốn nhắm ở đây là
chính quyền lực lạ lùng của Đấng vừa mới được
tuyên bố là Con Thiên Chúa khi Ngài chịu phép rửa. Chính
trong ý nghĩa này mà ta phải hiểu lời ngoắt ngoéo thâm
hiểm của ma quỉ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Cũng
như trong trình thuật Mt, ở đây chắc chắn ma quỉ không
chút nghi ngờ gì. Sau khi đã chứng kiến tất cả những
dấu chỉ lạ lùng xung quanh ngày Giáng sinh và ngày thơ ấu
của Chúa Giêsu, sau khi đã thấy rõ Ngài không thể phạm
tội cho đến lúc bấy giờ, và có lẽ cũng đã thấy
được biến cố thần hiện ở sông Giodan (nếu biến cố
này được biểu lộ ra bên ngoài) thì chắc chắn ma quỉ
phải biết rõ ràng con người đang đứng trước mặt nó
là Đấng Thiên sai của Israel, là Con Thiên Chúa. Vì thế
chữ “nếu” của câu “nếu ông là Con Thiên Chúa”
không phải là một từ ngữ nói đến điều kiện (như
trong câu: “Nếu ngày mai trời tốt, tôi sẽ đi chơi)
nhung là chữ “nếu” diễn tả lý do. Lời cám dỗ của
ma quỉ có thể viết ra như thế này: vì ông là Đấng
Thiên sai, hãy dùng quyền lực Thiên sai của ông để làm
những điều lạ lùng có lợi cho ông.
Thứ tự các
cám dỗ thứ hai và thứ ba nơi Mt bị Lc đảo ngược. Để
biết thứ tự nguyên thuỷ, phải nghiên cứu các câu trả
lời của Chúa Giêsu. những câu trả lời ấy được rút
ra từ sách Đệ Nhị luật, nhưng Mt đã đảo ngược thứ
tự trình bày, nghĩa là Đnl 8,3 rồi đến 6,16; 6,13. Song
cũng chính Đnl đã đảo lộn thứ tự lịch sử của các
biến cố thời Xuất hành: Đnl 8,3 lấy lại Xac 16 (phép
lạ Manna); Đnl 6,16 thì nhắc lại Xac 17,1-7 (phép lạ nước
uống); cuối cùng Đnl 6,13 tương ứng với Xac 23,32-34
(nhất là giai thoại con bò vàng). Khi đảo lộn thứ tự
của Đnl, Mt lập lại thứ tự lịch sử những cám dỗ
của Israel thời Xuất hành. Sự song đối giữa những cám
dỗ của Chúa Giêsu và của Israel thời xuất hành. Sự
song đối giữa những cám dỗ của Chúa Giêsu và của
Israel phải được coi là hình thức nguyên thuỷ của
trình thuật. Vậy là Lc đã thay đổi cách phối trí, lý
do trước hết là để trình thuật được kết thúc ở
Girusalem, như tất cả phúc âm của ông.
3.
Cám dỗ thứ hai (cc.5-8)
là đoạn mà Lc đã thay đổi nhiều nhất. Ông không muốn
nhắc đến “một ngọn núi cao” (Mt) vì đối với Lc,
ngọn núi là nơi tuyệt đối dành riêng cho việc thông
giao với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện và thần hiện, chứ
không phải là nơi để cám dỗ hoặc ngay cả giảng dạy
(bài giảng trên núi được ông trình bày như là đã xảy
ra trên một khoảng đất bằng phẳng so sánh Lc 6,17 và Mt
5,1). Vậy, thay vì nói đến một đoạn núi cao từ đó
người ta có thể thấy toàn trái đất “trong nháy mắt”.
Lc biết rõ rằng không có một ngọn núi nào mà từ đó
có thể thấy được cả toàn cầu, song vì muốn có vẻ
thực, ông đã thay thế một chỉ dẫn địa dư mơ hồ
bằng một ý niệm thời gian, để cho thấy đây là một
thị kiến hoàn toàn ảo ảnh, một thị kiến rất nhanh
(không đầy nháy mắt), có tính cách siêu nhiên.
Điểm thêm
vào quan trọng nhất phải kể là nơi lời giải thích của
câu 6. Nơi Mt, đó chỉ là một vấn đề sở hữu: “Hết
mọi cái đó, tôi hiến cho ông” (Mt 4,9). Còn Lc trước
tiên chú ý đến quyền lực, quyền bính, esousia (là ý
tưởng ông quen dùng: 12,11; 20,20; 22,53; 23,7; Cv 20,18): ma
quỉ hứa ban một quyền lực chính trị trên mọi dân
nước. Do thái giáo thời gần đó (Is 24,21-23; 27,1) và
nhất là trong văn chương khải huyền (Đnl 7,2) đã xác
tín rằng các quyền lực ma quỉ, thù nghịch với Thiên
Chúa, đang điều khiển các vương quốc trần gian, để
ngược đãi dân Tc chọn. Các vương quốc này thờ ngẫu
tượng và áp bức Israel, vì dân tin Tc thật. Người ta
thấy ma quỉ ẩn núp dưới các bụt thần. Các nước thế
gian bày tỏ lòng trung thành với ma quỉ qua việc thờ
ngẫu tượng. Tư tưởng này cũng được các tác giả
Thiên Chúa chia sẻ (Kh 13,2). Thánh Gioan gọi ma quỉ bằng
một tên đầy ý nghĩa: “Đầu mục thế gian” (Ga 12,
31; 14,30; 16,11). Phaolô còn gán cho nó tước hiệu lạ
lùng: “thần đời này” (2Co 4,4). Cũng như Lc và Ga,
Phaolô nhìn thấy trong hành động của những người đóng
đinh Chúa Giêsu (1Co 2,8) sự xúi giục của “đầu mục
của đời tạm này”.
Thế gian,
nghĩa là thời đại này, âiôn houtos, là lãnh địa của
ma quỉ, nên dĩ nhiên quyền lực thế gian tuỳ thuộc nó.
Nhưng phải nhận rằng quyền ấy “đã được trao cho”
nó: thể thụ động diễn tả hành động hay sự cho phép
của Thiên Chúa, chủ thể tối cao (so sánh Ga 19,10); đến
thời sau hết, Ngài sẽ tiêu diệt các quyền lực, dân
nước đã nổi lên chống lại ngài. Tạm thời, ma quỉ
sử dụng quyền lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở
đây là một cám dỗ về quyền lực, dân nước đã nổi
lên chống lại Ngài. Tạm thời, ma quỉ sử dụng quyền
lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở đây là một cám
dỗ về quyền lực chính trị. Nhưng khác với Mt 4,9, lời
hứa của câu 7 không nhằm sự chiếm hữu các vương
quốc, nhưng là sự thừa hưởng một uy quyền (exousia)
tuyệt đối trên tất cả các vương quốc ấy.
4.
Về cám dỗ thứ ba
(cc. 9-12), Lc thêm hai xác định trong lời của ma quỉ để
đi sát với câu trích dẫn Tv 91 hơn. Cũng như trong cám dỗ
trước, Lc rõ ràng chú trọng đến ma quỉ và những lời
của nó hơn. Trái lại ông làm yếu câu trả lời của
Chúa Giêsu bằng cách mở đề: “Đã có nói rằng” thay
vì như Mt: “Lại có viết là”, kiểu đối đáp ăn
miếng trả miếng với lập luận của ma quỉ.
5.
Phần kết luận
(c.13) chứa đựng nhiều âm điệu đặc biệt của Lc, làm
cho đoạn văn này mang một chiều hướng thần học thật
độc đáo.
Phần đầu
của câu kết luận ("sau khi dùng hết mọi hình thức
cám dỗ") nói đến cám dỗ, peirasmos (ở số ít).
Trong Lc, peirasmos luôn ám chỉ cám dỗ theo nghĩa luân lý:
8,13; 11,4; 22,40; 22,46. Cũng tiếng ấy ở số nhiều,
peirasmoi lại ám chỉ những thử thách với nghĩa tổng
quát hơn nghĩa thuần luân lý: 22,28; Cv 20,19. Lc sẽ còn
nói đến những “thử thách” (peirasmoi nơi 22,28) của
Chúa Giêsu, nhưng không nhắc đến chữ “cám dỗ”
(peirasmos) khi bàn về các môn đệ nữa; đặc biệt ông
không ghi lại sự can thiệp bậy bạ của Phêrô tại
Késaree của Philip (Mc 8,32-33; Mt 16,22-23) nơi Pharô bị gọi
là quỉ cám dỗ Chúa Giêsu. Vậy dưới cái nhìn của Lc,
việc Chúa Giêsu chiến thắng ma quỉ trong sa mạc có tính
cách quyết định. Thực sự ma quỉ đã “dùng hết mọi
phương chước cám dỗ”, và khi nó tái xuất giang hồ,
thì không còn là để “cám dỗ” Chúa Giêsu nữa, song
là tìm cách giết Ngài. Những nhận xét này cho thấy ý
nghĩa của câu 13; trong tư tưởng của Lc, các chước cám
dỗ Chúa Giêsu chịu thực sự đã xong rồi, sẽ không còn
cám dỗ nào khác. Những thử thách Ngài gặp sau đó không
còn đặt lại vấn đề lòng trung tín của Ngài đối với
Thiên Chúa và với sứ mạng Ngài đã được Chúa Cha trao
phó.
Phần thứ hai
của câu kết luận xác quyết cách giải thích này. Lc đã
viết: “Ma quỉ bỏ Ngài một thời gian” (Achri cairou)
(Bj: au temps marqué, Nguyễn thế Thuấn: đợi dịp). Thành
ngữ này chỉ gặp lại một lần trong nơi khác của Tân
Ước, Cv 13,11: Elymas, vì muốn gây trở ngại cho Phaolô,
đã bị mù không thấy ánh sáng mặt trời “một thời
gian”. Như thế, khi loan báo ngày trở lại bất ngờ của
ma quỉ, Lc đã minh nhiên trình bày nó như một vai trong
cuộc khổ nạn. Thật thế, câu chuyện khổ nạn bắt đầu
bằng sự phản bội của Giuda, nhưng ngay từ đầu đoạn
văn này, ở 22,3, Lc ghi chú một câu đầy ý nghĩa: “Satan
đã nhập vào Giuda”. Đó là việc tái xuất hiện của
tên cám dỗ, mở màn cho một thử thách cam go nhất. Và
ta cũng thấy, khi đứng trước những địch thủ tới bắt
mình, Chúa Giêsu đã nói: “Này là giờ các ông, là thời
của quyền lực (exousia) tối tăm (22,53).
6. Việc
thay đổi thứ tự cám dỗ 2 và 3 có ý nghĩa nào?
Câu trả lời
thứ nhất hệ tại chỗ nhấn mạnh sự quan tâm về địa
lý của Lc. Lc muốn kết thúc trình thuật những cám dỗ
tại Giêrusalem, vì trước tiên đối với ông, Giêrusalem
là một địa điểm có tính cách thần học (Conzelmann).
Lời giải thích này đúng nhưng chưa đủ.
Đối với Lc,
Giêrusalem tự bản chất là nơi mà các lời loan báo về
cuộc khổ nạn và vinh quang của Đấng Cứu thế phải
được hoàn tất. Thực vậy sau cuộc cám dỗ, đoạn văn
đầu tiên nói đến Giêrusalem trong tương quan với Chúa
Giêsu nằm trong giai thoại biến hình; suốt cuộc biến
hình này Môisen và Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về
việc “ra đi (oxodos) Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem”
(9,31). “Việc ra đi” đó ám chỉ toàn thể mầu nhiệm
vượt qua: tử nạn và phục sinh. Từ giai thoại biến
hình này trở đi, Lc tăng thêm những lần nhắc đến
Giêrusalem như là nơi mà Chúa Giêsu sẽ lên, nơi mà Ngài
sắp hoàn thành sứ mệnh. Người ta thấy cũng một ý
tưởng ấy trong hai giai thoại của Phúc âm thời thơ ấu
Chúa Giêsu: giai thoại “dâng con trẻ trong đền thờ”
với lời tiên tri đầu tiên của Simeon loan báo cuộc tử
nạn (2,34-35) và giai thoại “lạc mất, tìm lại con trẻ
sau ba ngày” với một lời nói bí nhiệm chỉ hiểu được
về sau (2, 41-50); đây là giai thoại tiên trưng cuộc vượt
qua cuối cùng của Chúa Giêsu khi Ngài “trở về nhà Cha”
và chỉ được các tông đồ tìm gặp lại sau ba ngày.
Văn mạch này
cho phép ta phỏng đoán lý do tại sao Lc đã muốn trình
thuật các cám dỗ đạt tới cao điểm ở Giêrusalem. Thưa
vì không có gì thích hợp cho bằng việc chọn thành ấy
làm nơi chấm dứt cám dỗ, nơi ma quỉ từ biệt Chúa
Giêsu, nơi y sẽ tái xuất không phải để “cám dỗ”
Ngài nữa mà là để gây ra cuộc thử thách cuối cùng.
Đó cũng là điều giải thích tại sao Lc đã lưu tâm đến
ma quỉ trong tất cả trình thuật này: ông lợi dụng
trình thuật để trình bày tên đối thủ, đã một lần
thất trận trong sa mạc, tưởng mình sẽ chiến thắng tại
Giêrusalem trong ngày thứ sáu tuần thánh.
KẾT LUẬN
Trong trình
thuật những cám dỗ, Lc nhấn mạnh đến hai điểm: khuôn
mặt của ma quỉ và tương quan của biến cố này với
biến cố tử nạn. Trong lúc các câu trả lời của Chúa
Giêsu ngắn hơn hoặc ít quan trọng hơn so với nơi Mt, thì
ở Lc, những lời cám dỗ của tên ma quỉ có vẻ thực
hơn (cám dỗ 1) dài dòng hơn (cám dỗ 2) và ăn khớp với
lời trích dẫn Thánh kinh hơn (cám dỗ 3). Cuối cùng đoạn
kết luận của trình thuật còn nói đến ma quỉ chứ
không phải Chúa Giêsu (khác với Mt). Lc nối kết các cám
dỗ với cuộc khổ nạn và với Giêrusalem, nơi hoàn thành
những lời tiên tri loan báo về đau khổ và vinh quang của
Đấng Cứu thế. Cuộc khổ nạn và thành Giêrusalem đã
được nhắc đến trong Tin mừng thời thơ ấu (2,34-35.
41-45). Rồi tiếp đến, phần đặc biệt nhất của phúc
âm thứ ba lại trình bày việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(9,51-18,9). Khi lặp đi lặp lại Chúa Giêsu lên Gierusalem
(9,51; 9,53; 13,22-33; 17,11; 18,31; 19,11-28), Lc nhấn mạnh
Giêrusalem sẽ là nơi xảy ra “cuộc ra đi” ()9,31 và
cuộc “siêu thăng” của Ngài (9,51). Vì vậy người ta
có thể nói rằng: trong lúc các trình thuật của Mt chỉ
nhìn về quá khứ của dân Israel để minh chứng sự thể
hiện chương trình của Thiên Chúa, thì các trình thuật
của Lc hình như lại qui hướng hơn về những biến cố
chính yếu làm thành nền tảng thực sự của nhiệm cục
mới: tử nạn, phục sinh, hiện xuống.
Ý HƯỚNG
BÀI GIẢNG
1. Chính nhờ
Thánh Thần hướng dẫn mà Chúa Giêsu vào sa mạc để
chịu cám dỗ. Qua việc đó ta thấy rằng bị cám dỗ
không phải là một điều xấu. Chính Chúa Giêsu cũng đã
biết qua cơn cám dỗ. Điều xấu là ngã gục trước cám
dỗ ấy. Chống lại cám dỗ một cách anh dũng như Chúa
Giêsu trong sa mạc chính là cho mình có dịp biểu lộ tình
con thảo hiếu với Chúa Cha. Dĩ nhiên chúng ta không được
liều mình đứng trước cám dỗ (điều ấy chỉ mình
Chúa Giêsu mới có thể làm được vì Ngài là Con Thiên
Chúa và sự đối đầu với ma quỉ ngay từ đầu sứ
mệnh Cứu thế là một phần trong chương trình của Thiên
Chúa). Liều mình đứng trước cám dỗ khi không cần
thiết là điều làm Chúa Giêsu - đã không muốn làm khi
ma quỉ xúi Ngài gieo mình từ nóc đền thờ xuống. Vì
như vậy là thách thức Thiên Chúa. Nhưng khi hoàn toàn
ngoài ý muốn mà chúng ta bị đặt trong những hoàn cảnh
phải chịu cám dỗ thì không có gì phải hoảng hốt. Hãy
nhớ rằng với tư cách là môn đệ của Đấng đã bị
cám dỗ trong sa mạc, chúng ta đương nhiên phải trải qua
cám dỗ, lúc ấy hãy làm như Chúa Giêsu: lợi dụng những
phương thế siêu nhiên có sẵn: tăng sức mạnh lời Chúa,
năng cầu nguyện (như Chúa Giêsu trong vườn cây dầu)
nuôi dưỡng mình bằng thịt và máu của Đấng đã từng
chiến thắng Satan.
2. Sứ vụ của
Chúa Giêsu khai mào bằng việc chiến thắng ma quỉ: Ngài
vượt lên trên nó. Thời cứu độ Chúa Giêsu khai mở là
thời đánh dấu khởi đầu ngày tàn của ma quỉ: “Ta đã
thấy satan từ trời rơi xuống như một tia chớp” (Lc
10,18). Ở đâu mà Chúa Giêsu ra tay hành động, ở đó ma
quỉ bị bó buộc phải nhường bước, rút lui. Bây giờ
cũng vậy, khi cơn cám dỗ đến độ mạnh chúng ta có cảm
tưởng rằng ma quỉ thật toàn năng; tốt nhất hãy nhớ
lại rằng nó chỉ là một kẻ chiến bại, một tù binh
được tự do tạm thời chờ ngày tận thế, một viên
tướng đã thất trận ngay từ đầu.
3. Xưa cũng
như nay, các cám dỗ của ma quỉ đều giống nhau: chúng
luôn luôn nhắm tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa bằng ý
chí quyền lực, bằng thái độ từ chối tin tưởng vào
sự quan phòng của Cha trên trời, bằng khuynh hướng lợi
dụng sự che chở và lòng tha thứ của Ngài. Những phương
thế chiến thắng các cám dỗ này cũng luôn giống nhau,
đó là những phương thế chính Chúa Giêsu đã dùng: khiêm
nhượng tuân phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận với tình
yêu số phận của Chúa Cha dọn sẵn cho ta (số phận
không phải là không có thánh giá, nhưng chắc chắn sẽ
đưa chúng ta đến vinh quang sau cùng) từ chối khiêu khích
Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt có lợi cho ta.
4. Ma quỉ luôn
hứa ban quyền thống trị thế giới cho Kitô hữu hôm nay
cũng như mọi thời, nhưng với điều kiện là tôn thờ
và phục tùng nó. Một cách cụ thể, nó ban cho những
phương tiện làm giàu mau chóng bằng cách lấy của người
lân cận, những phương thế chiếm đoạt các chức vị
lợi lộc bằng âm mưu loại trừ người xứng đáng hơn,
những dịp hưởng lạc thú bằng cách bất trung trong đời
sống lứa đôi... Ma quỉ không bao giờ cho đi mà không
đòi lại gấp trăm, trái lại với Thiên Chúa là Đấng
ân thưởng gấp trăm cho ai bố thí một ly nước lã vì
danh Ngài. Xét cho cùng, đời sống Kitô hữu là một chọn
lựa giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa việc thờ phượng
ma quỉ với Chúa Cha. Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt
6,24). Thờ phượng ma quỉ thì có thể được lợi trong
chốc lát, nhưng sớm muộn gì cũng đưa tới thất vọng,
cay đắng, cái chết đời đời. Thờ phượng Thiên Chúa
thì phải từ bỏ chính mình, nhưng rồi cũng sẽ được
bình an, thoả mãn nội tâm và được sống vĩnh cửu.
13. Phương cách ma quỉ dùng để cám dỗ ta - JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Khi câu cá,
để câu được nhiều cá, ta phải dùng những thứ mồi
thật ngon, những thứ mà cá ưa thích nhất. Để cám dỗ
ta một cách hữu hiệu, ma quỉ dùng những loại mồi nào?
Có phải là chính những nhu cầu cấp thiết nhất của
ta, những điều ta ham muốn nhất không?
2. Khi bị cám
dỗ ta thường phải lựa chọn giữa điều tốt và điều
xấu, hay giữa điều thật tốt và điều ít tốt hơn?
3. Bạn có
nghĩ rằng bị cám dỗ là một dịp tốt để ta chứng tỏ
và củng cố tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha
nhân không?
Suy tư gợi
ý:
1. Ma quỉ
dùng chính những nhu cầu cấp thiết nhất của ta để
cám dỗ ta
Đức Giêsu là
con người, nên có những nhu cầu tự nhiên về tâm linh,
tâm lý và thể lý y như mọi người. Thoả mãn những nhu
cầu tự nhiên, tự bản chất, là điều chính đáng, vì
chính Thiên Chúa đã dựng nên con người có những nhu cầu
tự nhiên đó. Chẳng hạn, về thể chất, ăn khi đói,
uống khi khát là điều chính đáng. Về tâm lý, mong được
mọi người yêu thương, kính phục cũng là điều chính
đáng. Nhưng có những trường hợp thoả mãn những nhu
cầu tự nhiên ấy lại trở thành tội lỗi, sai trái, hay
ít nhất là làm ta bớt hoàn hảo, kém giá trị. Đó là
khi để thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy, người ta
phải lỗi một bổn phận quan trọng hơn, hoặc phải làm
một điều trái đạo, đi ngược với lương tâm hay những
nguyên tắc đạo đức…
Ma quỷ thường
dùng những nhu cầu chính đáng nhất của con người để
cám dỗ họ, đưa họ vào con đường tội lỗi. Thật
vậy, biết bao người đã vì miếng ăn, vì những nhu cầu
rất chính đáng về vật chất hay tinh thần, mà phải bán
rẻ lương tâm, chấp nhận làm những điều sai trái hay
tội lỗi.
Khi Đức Giêsu
đã nhịn đói nhiều ngày, giả như Ngài có làm phép lạ
để biến đá thành bánh mà ăn thì tự bản thân việc
ấy chẳng có gì là xấu hay sai trái, mà còn là một việc
chính đáng nữa. Vì con người có bổn phận phải lo cho
sức khoẻ hay bảo vệ mạng sống mình. Nhưng nếu Ngài
đã quyết định ăn lại vào một thời điểm nào đó,
nhưng chỉ vì đói mà Ngài lại chiều theo cơn cám dỗ để
ăn sớm hơn, thì Ngài đã lỗi với chính quyết định
của mình. Nếu làm thế, Ngài tỏ ra thiếu tự chủ và
chưa phải là người hoàn hảo. Nhưng trong thực tế, Ngài
đã không chiều theo cơn cám dỗ.
2. Giữa
hai điều tốt, ma quỉ cám dỗ ta chọn điều ít tốt hơn
Nếu phải lựa
chọn giữa một điều tốt và một điều xấu, thì sự
lựa chọn tương đối dễ dàng, vì sự việc quá rõ
ràng. Khi ta mới bắt đầu bước vào đời sống tu thân,
ta thường phải lựa chọn kiểu này. Nhưng khi đã tiến
triển trên con đường tu thân, nhiều khi ma quỷ cám dỗ
ta một cách rất tế nhị. Nó khiến ta phải chọn lựa
một trong hai điều tốt, và ta phải cân nhắc để làm
điều tốt hơn, có giá trị lớn hơn. Chính cách lựa
chọn này chứng tỏ ta yêu mến Thiên Chúa, quí trọng sự
thiện tới mức nào. Nếu ta chiều theo cơn cám dỗ chọn
cái ít giá trị hơn, cái ít tốt hơn, điều đó chứng
tỏ ta thiếu quảng đại và còn nhiều ích kỷ.
Chẳng hạn,
có những trường hợp ta phải chọn lựa giữa sự an
toàn của bản thân ta với sự an toàn của cả gia đình.
Giữa sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội ta với
sự tồn tại và phát triển của cả đất nước. Giữa
hạnh phúc của gia đình ta với hạnh phúc của cả xã
hội. Giữa chất lượng với số lượng. Giữa sự sự
tốt đẹp có thực bên trong và hình thức giả dối bên
ngoài. Giữa ý muốn tốt lành của ta với ý muốn của
Thiên Chúa. Giữa việc của Thiên Chúa với chính Thiên
Chúa… Tất cả những đối tượng phải lựa chọn đều
là điều tốt, nhưng nhiều khi ta không thể chọn cả
hai, mà chỉ có thể chọn một trong hai. Chỉ khi ấy, cách
lựa chọn của ta mới chứng minh được ta quí trọng cái
nào hơn, và ta sẵn sàng hy sinh cái nào cho cái nào. Trước
sự lựa chọn này, ta thường bị cám dỗ đặt nặng cái
riêng hơn cái chung, bản thân ta hơn cả gia đình, gia đình
ta hơn cả xã hội, Giáo Hội ta hơn cả thế giới, cái
bên ngoài hơn cái bên trong, số lượng hơn chất lượng,
ý riêng ta hơn ý Thiên Chúa…
Rất nhiều
khi sự lựa chọn sai lầm của ta trở thành một tội ác.
Chẳng hạn có nhiều người đã trở thành phản quốc
chỉ vì thương gia đình mình hơn thương cả quốc gia,
nên đã hy sinh quyền lợi của cả quốc gia cho quyền lợi
của gia đình mình. Có những chức sắc tôn giáo đặt
nặng sự phát triển của các giáo hữu trong địa hạt
mình hơn cả sự tồn tại và phát triển của cả đất
nước. Có những vị lãnh đạo quốc gia coi sự phát
triển của đất nước mình trọng hơn sự an nguy của cả
thế giới…
3. Ma quỷ
cám dỗ ta chấp nhận điều xấu để thực hiện điều
tốt
Cám dỗ thứ
hai của Đức Giêsu là cám dỗ về quyền lực và vinh hoa
phú quý. Quyền lực tự bản thân nó là một điều tốt,
thậm chí rất cần thiết để phục vụ tha nhân một
cách hữu hiệu và qui mô. Tuy nhiên, quyền lực vẫn là
con dao hai lưỡi, nó cũng có thể khiến ta hại tha nhân
một cách hữu hiệu và trầm trọng hơn. Vinh hoa phú quý
tự bản thân cũng là những điều tốt, đáng ao ước,
vì nó làm cho đời sống con người hạnh phúc hơn, sống
xứng với phẩm giá con người hơn. Thánh Kinh vẫn coi sự
giàu sang phú quý là những ơn lành Chúa ban để ân thưởng
những người tốt lành (x. Đnl 8,18; 1V 3,13; 2Sb 1,12). Nhưng
vinh hoa phú quí có thể làm ta mờ mắt, khiến ta chấp
nhận tội ác để đạt nó cho bằng được.
Nếu người
ta đạt được quyền lực hay vinh hoa phú quý một cách
chính đáng do tài năng và đức độ của mình, thì quyền
lực hay vinh hoa phú quý ấy quả là điều tốt lành rất
đáng mong ước. Nhưng chính vì nhiều người mong ước
nó, nên ma quỷ đã dùng nó làm bẫy để giết linh hồn
những ai quá ham nó.
Khi ma quỷ cám
dỗ Đức Giêsu lần thứ hai, nó hứa sẽ ban cho Ngài
quyền lực và vinh hoa phú quý, với điều kiện là phải
bái lạy, tùng phục nó. Ma quỷ vẫn dùng chiến thuật
này đối với những kẻ giầu tham vọng, muốn nắm giữ
quyền lực và ham sống giàu sang phú quý, ở ngoài đời
cũng như trong Giáo Hội. Nhiều người sẵn sàng bán lương
tâm của mình để có địa vị cao sang ngoài xã hội hay
trong Giáo Hội. Trong những chế độ độc tài, nhiều
chức sắc tôn giáo đã đồng ý thực hiện một yêu cầu
nào đó của nhà cầm quyền, bất chấp điều đó đi
ngược lại lương tâm mình, để được họ ban cho những
điều kiện thăng tiến bản thân, hầu dễ dàng ngoi lên
những địa vị cao trong tôn giáo mình. Có khi điều kiện
ấy chỉ là chấp nhận im lặng, làm ngơ, bỏ qua, không
lên tiếng, không phản ứng gì để kẻ có quyền có thể
tự do thao túng, làm hại công ích hay đi ngược lại
quyền lợi người dân. Như vậy, rất nhiều khi ma quỷ
dùng những khát vọng chính đáng của con người để cám
dỗ con người.
4. Ma quỷ
cám dỗ ta tập trung vào «cái tôi» của mình
Lần cám dỗ
thứ nhất và thứ ba, ma quỷ nói với Đức Giêsu: «Nếu
ông là Con Thiên Chúa… thì…». Ma quỉ muốn lợi dụng
nhu cầu thể hiện hay xác định bản thân mình
(affirmation de soi), nhu cầu biểu lộ «cái tôi» của mình
để cám dỗ con người. Đây là nhu cầu rất tự nhiên,
tốt đẹp và cần thiết để con người vui sống và có
hứng thú thăng tiến bản thân, đồng thời làm cho cuộc
đời mình có ý nghĩa. Nhưng khi vượt quá giới hạn hợp
lý, con người trở thành khoe khoang, kiêu căng, tự mãn,
đáng ghét, do muốn đưa «cái tôi» của mình lên và hạ
thấp «cái tôi» của người khác xuống. Con người đã
từng gây bao tội ác, bao phức tạp, bao đau khổ cho mình
và cho người chính vì sa chước cám dỗ về nhu cầu xác
định «cái tôi» này. Như vậy, ma quỷ dùng chính nhu cầu
tâm lý quan trọng nhất của con người để cám dỗ con
người chỉ tập trung vào chính mình hầu xa rời Thiên
Chúa và tha nhân.
Để câu một
con cá, để nhử một con thú vào bẫy, ta phải chọn mồi
đúng với nhu cầu và sở thích của con vật mà ta muốn
bẫy. Cũng vậy, để làm ta sa bẫy, ma quỉ cũng dùng
chính những gì ta cần, ta ham muốn, thường là những gì
rất tốt đẹp, rất có giá trị. Vì thế, chúng ta cần
phải cảnh giác với chính những nhu cầu, sở thích của
mình, nhất là những tham vọng hay những gì mà ta mong
muốn hay ưa thích nhất. Khi ta đặt nặng những nhu cầu,
sở thích hay tham vọng của ta hơn thánh ý của Thiên
Chúa, hơn những chuẩn mực đạo đức, là ma quỉ sẽ
dùng chính những thứ đó để dẫn ta xa rời Thiên Chúa,
và dần dà đưa ta vào con đường tội lỗi. Vậy, hãy
tỉnh thức và đề phòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, khi
ma quỷ cám dỗ, nó cũng dùng chính lời Kinh Thánh để
làm con lầm tưởng điều nó muốn con làm là điều tốt,
là hợp với thánh ý của Cha. Nó luôn luôn dùng điều
tốt để nhử con, và dùng những cách nguỵ biện để
giải thích lời của Cha, hầu đưa con vào bẫy của nó.
Xin giúp con khôn ngoan, tỉnh thức và thêm sức mạnh cho
con khi bị cám dỗ. Nhưng cũng cho con nhìn thấy khía cạnh
tích cực của cám dỗ. Chính Cha cho phép ma quỉ cám dỗ
con trong mức độ con có thể chiến thắng, để con có
dịp chứng tỏ và củng cố tình yêu của con đối với
Cha và đối với tha nhân
14. Satan
Qua báo chí
cũng như qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta thấy
xã hội loài người đầy dẫy những tội ác và bất
công, nào là tham nhũng hối lộ, nào là cướp của giết
người, nào là cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ
bạc, nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá thai…
Nếu hỏi tại
sao lại có tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không
ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội, về kinh tế,
về giáo dục…Tuy nhiên, có người lại bảo đó là kết
quả những việc làm của ma quỷ.
Nghe qua câu
trả lời này chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ
là một cái gì xa lạ đối với não trạng và sự suy tư
của con người thời nay. Vậy thì ma quỉ là như thế
nào?
Nói tới ma
quỉ hay Satan chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ,
những bức tượng thời Trung cổ, vừa có sừng lại vừa
có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại
chúng ta. Nó có thể dùng một chiếc đũa thần làm cho
chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng ta trở thành
một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó,
miễn là chúng ta thờ lạy nó.
Đối với
chúng ta ngày nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp
nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò và sự quan trọng
trong cuộc sống. Phải chăng đó cũng là điều nó mong
muốn? Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành động,
làm đảo lộn trật tự và bậc thang giá trị.
Người xưa
người ta thường khuyên nhủ:
- Ai không để
tâm tới Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma
quỉ.
Thế nhưng,
con người thời nay đã thay đổi câu nói trên:
- Ai không để
tâm tới ma quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên
Chúa.
Trong Phúc âm
thì khác, Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ,
Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế nữa, qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc dù không thể sa ngã, nhưng
Ngài đã để cho ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ
thân phận yếu đưới với con người, và vạch trần
chiến thuật tinh vi của ma quỷ.
Cám dỗ thứ
nhất, đó là nhu cầu vật chất. Ma quỉ lợi dụng cái
đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng đói thì
đầu gối phải bò, có thực mới vực được đạo…Nó
cũng hứa “cơm áo gạo tiền” cùng với những tiện
nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta quên mất lý
tưởng theo đuổi và chối bỏ đức tin của mình.
Cám dỗ thứ
hai, đó là lòng thèm muốn vinh quang. Nhiều người dễ
dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một chút địa vị,
vì một chút quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán
Chúa như Giuđa và chối Chúa như Phêrô,
Cám dỗ thứ,
đó ba là tham vọng thống trị. Đối với nhiều người
thời nay thì tiền bạc và chức quyền vẫn là những cám
dỗ thường xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn
sao được thoả mãn những ước vọng kể trên.
Còn một điều
nữa chúng ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay không
còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa như người ta vốn
thường tưởng tượng vào thời Trung cổ. Nhưng có thể
là một nhân vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang
trọng nhưng lại chủ trương một lập trường, một quan
điểm thật nguy hại, gây chia rẽ và đổ vỡ.
Có thể là
những tác phẩm đồ sộ được in ấn một cách mỹ
thuật và đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều
khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố tâm hồn.
Bổn phận của
chúng ta là phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi
vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp dưới những
chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới
những hình ảnh quảng cáo, dưới những chương trình
truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm hồn.
Vì thế, hãy
tin tưởng vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh những
mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà chúng ta mới có thể
bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.
15. Nhận biết
Lần kia, một
vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn
của con người và trắc nghiệm những nhận định của
họ về chính bản thân mình. Ông mời ba người đi qua
đường vào nhà ông. Quay sang người đầu tiên, ông nói
“Giả thử anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy những
đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?”
Người đàn
ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người
chủ của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là
chủ nhân”.
Vị thầy kêu
lên: “Thật là điên rồ?”. Thế rồi ông đặt cùng
một câu hỏi cho người thứ hai.
Người đó
đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ
của nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu
xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của cải từ trời rơi
xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu “.
Vị thầy kêu
lên: “Đồ vô loại!”. Thế rồi ông đặt cùng một
câu hỏi cho người thứ ba.
Người đó
đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là
tôi sẽ làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất
phục được khuynh hướng xấu xa chăng? Hoặc sự dữ sẽ
nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ
tài sản thuộc về người khác? Tôi không biết nữa.
Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho tôi chống lại
khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại
cho người chủ của nó”. Vị thầy kêu lên: “Những
lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một con
người khôn ngoan”.
Vị thầy cho
rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao?
Bởi vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân
mình. Anh ta dám cho rằng mình có đủ sức mạnh, để
kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không
ai biết chắc chắn rằng mình không thể sa ngã được.
Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối, nhưng lại sa
ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽû.
Vị thầy gọi
người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta
có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về
mình, mà lương tâm không hề day dứt chút nào. Đối với
một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội
để làm cho mình giàu có lên, bằng tài sản của người
khác.
Vị thầy khen
ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt
bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình
yếu đuối giống như tất cả mọi người khác. Anh hy
vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại
số tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều
đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được như vậy,
anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm
kiếm sự giúp đỡ đó.
Tất cả chúng
ta đều yếu đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một
sự thật gây bối rối, nhưng trong khi liều lĩnh, chúng
ta lại không biết đến điều này. Vấn đề lớn trong
thời đại của chúng ta là chúng ta đã thất bại trong
việc nhận biết chính mình, trong việc nhận ra sự dữ
và đối phó với sự dữ ở ngay trong con người mình.
Tuy nhiên, khi nhận biết và chấp nhận sự thật thấp
hèn này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và sự
tự do.
Chúng ta phải
đấu tranh chống lại sự dữ nơi những người khác và
nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go nhất là chống
lại sự dữ phát xuất từ ngay bên trong con người của
chúng ta. Bản chất của chúng ta là có những xung đột
nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho chúng ta luôn luôn
có thể thực hiện được điều tốt lành, nhưng điều
đó không bao giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay go
nhất chính là chiến thắng chính bản thân mình.
Chước cám dỗ
của Đức Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự
thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là những chước
cám dỗ của các Kitô hữu thuộc tất cả mọi thời đại:
sống chỉ vì vật chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân
mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa; và từ bỏ việc thờ
phượng Thiên Chúa, để tôn thờ quyền lực và sự nổi
tiếng theo thế gian.
Chiến thắng
của Đức Giêsu vượt lên trên Satan không phải là chiến
thắng một lần cho tất cả. Người đã chiến thắng một
cuộc chiến đấu, chứ không phải là một cuộc chiến
tranh. Còn có những lần tấn công khác mà chúng ta cần
phải cự tuyệt. Một số người cho rằng mình sẽ đạt
được một cấp độ, khi họ vượt ra ngoài chước cám
dỗ. Đức Giêsu không bao giờ đạt được một cấp độ,
các thánh cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những
cuộc đấu tranh của chúng ta, giúp đỡ chúng ta chế ngự
nó.
Thánh Augustinô
nói: “Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta nhận
biết được bản thân mình. Chúng ta không thể chiến
thắng đạt được triều thiên của mình, trừ phi chúng
ta vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta không
thể vượt qua được, trừ phi chúng ta đi vào cuộc chiến
đấu, và không có cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có
một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù đó
mang lại.
16. Cám dỗ
Một số người
cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị
cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người
cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân
chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma
quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta
không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ
của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc
dù quỉ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng
của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của
Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ
đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ
rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ
vật chất nói chung. Ma quỉ đang nói với Đức Giêsu là
hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người,
để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất
mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự
thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả
mãn được con người. Công việc chính của Người là
nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời
của Thiên Chúa. Đây là chước cám dỗ mang lại cho con
người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu
của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông,
bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn
nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình
thực sự cần đến.
Chúng ta có
những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn
con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó
không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm
khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng
trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng
Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói
“Các ngươi đừng làm việc vì của ăn không thể tồn
tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương
thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một
vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị
trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi
đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có
nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ
không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ
sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là
chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng
ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ
thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là
việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực
tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn
mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn
làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng
thống trị người khác, hơn là trở thành người phục
vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để
phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần
thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và
trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất
cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế
tình yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ
thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ
lạ (tự gieo mình xuống khỏi đền thờ), nhằm khơi gợi
lòng tin – giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi
được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang
tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật
hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi
người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối
gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình,
hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ
việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ
ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người,
nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của
Người.
Trong suốt sứ
vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho
dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép
buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này
không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt
đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thấp giá trị của
lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện
không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải
làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc
chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước
cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố
cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người
đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải
là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã
khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng
phương tiện trần thế. Cả ba chước cám dỗ cuối cùng
đều qui về cùng một điều: đặt những thứ vật chất
và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến
các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là
những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người,
và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo
Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước
từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống
khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm
này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của
Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó.
Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì
Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ
không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi,
không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại mỗi
khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu,
chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỉ
vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người,
mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên
thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của
chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì
ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông
ấy”.
Tất cả những
ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp,
đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống
trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với
Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng
nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng
biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với
cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên,
khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân
theo Lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ
thờ phượng một mình Người mà thôi.
17. Cơm bánh
Con người
không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một
trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống – cuộc
sống của thân thể. Để nuôi dưỡng một con người,
không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng
ta cần có lương thực. Linh hồn của chúng ta cũng vậy.
Linh hồn chúng ta đang khát khao lương thược nuôi dưỡng.
Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý
này.
Elvis trở nên
rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơi, 6 xe máy, 2 máy bay,
16 tivi, một toà lâu đài rộng lớn và nhiều tài khoản
ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta
còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên,
anh không hề hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và
thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng
bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô
đơn, buồn chán.
Anh giãi bày
tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều
chuyện nhức đầu”.
Mẹ của anh
rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những
chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà,
mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và
có con.
Càng ngày, anh
càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh
nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục
nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội.
Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người
không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống
bằng những thứ vật chất mà thôi.
Thông điệp
này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm
nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích
hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có
thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp
này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện.
Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh – ít nhất là
không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và
hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người
và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến
điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.
Bạn hãy thử
tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ,
mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề
hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ
họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón
nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của
con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và
linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái
của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.
Nếu chỉ có
cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được
sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina
Ratushikaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản
ở Nga (với tư cách là tù nhân chính trị). Bà nói “Nhiều
người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ
vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống
được? Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.
Không phải
chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và
tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ
không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta
thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.
Đức Giêsu
thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu
xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm
hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn
khát khao loại lương thực không thể hư nát – Lời
Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời
Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống
có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên
trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.
18. Cám dỗ
Thánh Grêgôriô
Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong năm, lòng
đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng
nhiều hình thức khác nhau, nhưng không hình thức nào quan
trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính từ sự Phục
sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ
khác. Với tất cả nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được
đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên đó,
mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu
nhiệm của Chúa, chúng ta chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay
quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các Giám
mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình
khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi
người vì là đền thờ của Thiên Chúa phải được
tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một.
Hiểu như thế chúng ta mới ý thức được tính cách
nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt thời gian mùa chay mà
chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.
Mùa chay là
thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích
là hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng
đường khổ nạn của Chúa Kitô. Những hy sinh khổ hạnh
trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong
bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi
bộ, cuộc hành trình trong 40 ngày của mùa chay được ví
như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của dân Do thái
trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ
hành hạ mạt sát tàn nhẫn.
Trong thời
gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn lại
số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến
giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn vào một
xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy
dồi dào.
Quan điểm
trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh
động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức
tin cũng là một lời cầu khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài
mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ
tội lỗi.
Quan niệm đức
tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật I Mùa
chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa
Thánh Thần, Chúa Giêsu từ sông Giocđan trở về, sau đó
Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây Chúa
bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ
quấy phá sau khi đã chịu phép rửa của thánh Gioan, tức
là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên
bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Satan biết
rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể
thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám
dỗ Chúa hãy hành động theo uy quyền của một vị cứu
thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần Satan
xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên
Chúa…” Các loại cám dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này
còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa đã
bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân
chúng để thử thách Chúa một lần sau cùng: “Nếu ông
là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn
thì hãy tự cứu mình đi”.
Ma quỉ cám dỗ
Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha đã tiền
định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan
điểm của một người trần gian được người ta hoan
hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà
Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến
lời Kinh Thánh có chép rằng, hãy minh chứng cho thế giới
và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần
gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau
đó Ngài đã chiến thắng ma quỉ là Ngài đã tin vào lời
của Thiên Chúa Cha.
Cơn cám dỗ
của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn
đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian
này. Ma quỉ xúi giục chúng ta chọn nếp sống tiện nghi,
dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của
mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi
thánh ý của Thiên Chúa.
Trong mùa chay
này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình để
xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa
Phục sinh. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành
trình biến đổi này.
19. Cám dỗ
Cách đây vài
năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất
hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống
khắc khổ nghiêm ngặt. Người ta không khỏi ngạc nhiên
tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống rất
lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị
để lập những Đan viện, nhờ đó các Đan sĩ hưởng
được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần
của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng
vắng, nay lại hiện diện giữa chốn đô thị rực rỡ
ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh
tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi
đường hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?
Vị viện phụ
của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:
Dòng vẫn
trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của
mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn
hoa đô hội này, bởi vì tại những địa điểm ồn ào,
náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt
mới của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để
nêu một chứng từ, để cất lên một tiếng kêu thức
tỉnh.
Nếu như ngày
nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu
nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải
nhọc công đi đâu xa, nhưng có thể đến bất kỳ một
trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh
tiến bộ của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền
thống Thánh Kinh, hoang địa là địa điểm của thử
thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải
vượt qua hoang địa trước khi được vào đất hứa.
Phải chăng xã
hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy dẫy
tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ
dội như bất kỳ một hoang địa nào thời xưa. Đây là
nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi bộ
mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi
chiêu bài, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi thiên
thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn
lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can
trường và hèn nhát, ánh sáng và bóng tối, thánh thiện
và tội lỗi, yêu thương và thù hận.
Cũng theo
truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú
dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con
người không thể sinh sống, tồn tại. Phải chăng thế
giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy
những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn
hổ mang, những dòng bọ cạp hiểm độc nguỵ trang dưới
bộ mặt con người xinh đẹp, sang trọng, học thức, đạo
đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện
nghi vật chất của chúng ta hiện nay lại không là một
vùng đất chết khi không còn tình người, không còn trái
tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn
tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng,
trao đổi, mua bán, vụ lợi, thực dụng, lạnh lùng và sơ
cứng?
Phải chăng xã
hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay lại
không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh
thần, mọi truyền thống đạo đức đều bị chôn vùi
dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ
nghĩa thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?
Phải chăng xã
hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học kỹ
thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú
nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng,
hành vi sát nhân được trả lương, tuyên dương, dù nạn
nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp
nhìn thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt,
người già yếu tật nguyền bị bạc đãi lãng quên,
người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế,
chính trị?
Nếu như ngày
nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội
loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và
cầu nguyện, Người có lẽ sẽ không còn gặp những thử
thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính
háo danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có
lẽ phải đối đầu với trăm ngàn tình huống, trường
phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng
cơm manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế
toàn cầu hoá, không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu
chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá mập, hùm beo làm
mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn
làm giàu cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh
chóng nhất, dù có thể là vô luân nhất, dơ bẩn nhất
như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người và rửa tiền.
Có thể trong
bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải
dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp
gấp trăm ngàn lần hơn và cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần
hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn
lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh
xã hội văn minh, kỹ thuật cao, tinh xảo cực kỳ hôm
nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống
lại Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra
ai đó trong cõi hoang mạc rừng rú của xã hội hôm nay để
đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm cho
Người.
Rồi có thể
trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử
hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh
rang để thở, để cầu nguyện, để thân thưa cùng Thiên
Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố
đức tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp
đấu để chờ đợi cuộc tấn công khác như xưa nữa,
mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp
hưu lễ.
Có thể trong
cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ
chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và
sẽ mãi mãi chiến thắng, song còn những kẻ muốn thực
sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh
của thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn
còn là một ẩn số, một thách đố. Vì thế, chúng ta
cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà
giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin
kính.
20. Cám dỗ
Đoạn Tin Mừng
kể việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan.
Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để
mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu
mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với
Satan và những cám dỗ của nó.
Chiến thuật
hay phương thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo, xúi giục,
thúc đẩy người ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không
kiêng nể ai hay không buông tha ai, vì thế không ai thoát
khỏi cám dỗ của chúng. Bản chất của cơn cám dỗ là
sự quyến rũ. Bất cứ cơn cám dỗ nào cũng đều mang
một bộ mặt quyến rũ giả tạo, một sự hứa hẹn hão
huyền, và một vị ngọt ngào lừa phỉnh. Thế nhưng
những tính cách giả tạo, hão huyền và lừa phỉnh đã
được che đậy tài tình bởi bàn tay bậc thầy là ma quỉ
và cơn cám dỗ vẫn thành công như lần đầu nó đã
thành công.
Thực vậy, ma
quỷ đã thành công khi cám dỗ ông bà nguyên tổ bằng
trái cấm. Trái cấm bao gồm nhiều vẻ quyến rũ: cung cấp
cho thị giác một hình ảnh mê hoặc, tuyệt diệu, cung
cấp cho thính giác những lời bảo đảm, thoả mãn, cung
cấp cho khứu giác mùi vị mời mọc, quyến rũ, cung cấp
cho xúc giác sự êm dịu, thích thú, nhất là khi đã biết
và có trái cấm trong tay, rồi khi đưa lên ăn, lại có
thêm sự tham gia và đồng tình của vị giác. Đến lúc
này thì cái bẫy sập xuống, bộ mặt thật của cơn cám
dỗ lộ ra nguyên hình và con người đã mở mắt nhìn ra
sự thật.
Điều đáng
buồn là qua cái nhìn ấy, con người nhận ra chính mình
lại là nạn nhân tự nguyện, mình đã ngã vì chính sự
yếu đuối cũng như sự dại dột của mình. Ông Richard
Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh
như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân
thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời
với cô và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm
để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng
chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ
để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời
nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để
phân biệt thì chắc chắn thảm hoạ sẽ xảy đến.
Đàng khác,
bên cạnh sự lừa đảo tinh vi của cơn cám dỗ và sự
khôn ngoan quỉ quyệt của kẻ đứng sau cơn cám dỗ ấy,
phải kể đến sự áo tưởng và vụng dại của con
người. Chơi dao có ngày đứt tay; đùa với lửa có ngày
gây nên hoả hoạn. Con người biết đó là những bài học
và đã có biết bao nhiêu thí dụ “xương máu” để
chứng minh. Thế nhưng vẫn còn không ít người sa lầy
ngay trên bánh xe của người đi trước. Biết rõ đó là
trái cấm, biết rõ đó là ma tuý, biết rõ đó là cơn
cám dỗ, thế mà vẫn liều lĩnh mon men đến gần, hay
chần chừ vì ảo tưởng: không sao đâu. Vì thế các nhà
đạo đức cho rằng: tránh xa những dịp tội là tốt
nhất, và nếu có phải giáp mặt thì không nên trao đổi
hay thoả hiệp gì cả.
Ma quỉ biết
rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng ta
ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị
sa bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở
thích của mình. Tương tự như khi chúng ta muốn bẫy một
con vật, chúng ta phải tìm hiểu xem con vật cần gì, muốn
gì, thích gì, tìm gì. Sau đó chúng ta đặt thứ mồi đó
vào bẫy, và con vật nào dại dột sẽ sa bẫy. Nếu chúng
ta không biết con vật cần gì, thích gì thì chúng ta sẽ
không thể bẫy được con vật ấy vì đã để vào bẫy
những thứ không thích hợp. Chẳng hạn như khi câu cá,
nếu chúng ta không biết rằng cá thích ăn giun hay trùng
mà cứ để vào lưỡi câu thịt bò hay thức ăn khác thì
rất ít khi câu được cá. Vì vậy, để đề phòng cám
dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham
muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu
của mình tới mức tối đa và tập luyện không ham muốn
ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu
có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.
Chúng ta thấy
ma quỷ đã lợi dụng ngay nhu cầu căn bản nhất của con
người là ăn uống để cám dỗ Chúa Giêsu. Ngài nhịn ăn
đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn
thiết và chính đáng. Nhưng Chúa đã làm chủ được nhu
cầu thể xác và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma
quỉ nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều
ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự giàu sang, quyền
bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng
thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh,
được triển nở, được thăng tiến. Rất nhiều người
đã nhượng bộ ma quỉ để có một đời sống dễ dãi,
giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không
để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy
của chúng. Rồi ma quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích
khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự
thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay
chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một
số bạn trẻ rơi vào xì ke, ma tuý cũng chỉ vì một lời
thách thức hay khiêu khích gì đó. Đối với Chúa Giêsu,
Ngài đã làm chủ tính khoe khoang. Ngài không bị mắc bẫy.
Có thể nói
ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám
dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng
ta đã vượt qua được, và nhiều lần chúng ta đã bị
vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn
và bất toàn. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải
luôn đề cao cảnh giác trước những quyến rũ, hấp dẫn
của cám dỗ. Không nên quá tự tin vào khả năng của
mình mà không cầu nguyện cùng Chúa. Mỗi khi bị cám dỗ
chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều để xin ơn Chúa trợ
giúp. Và nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta phải năn năn
sám hối ngay.
21. Chiến đấu
Thánh lễ hôm
nay các con thấy có gì đặc biệt nào? Phải rồi, cha mặc
lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ
sinh cũng mang khăn tím. Vậy là chúng ta đã vào một mùa
phụng vụ mới, mùa gì nào? Đúng rồi, mùa chay. Hôm nay
là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện
để chúng ta theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu
chống lại ma quỉ. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa
Giêsu ba lần bị ma quỉ cám dỗ và cả ba lần Ngài đã
chiến thắng thật vẻ vang.
Lần thứ
nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì
cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám
dỗ Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn
đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài dùng
quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng
mình, chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản
công làm sao? Người đã dùng một câu trong sách thánh:
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Lần thứ hai,
quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế
gian, mọi thú vui và giàu sang, rồi nó dám lếu láo nói
với Chúa: “Nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn
quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu
chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ
lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Người”.
Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.
Lần thứ ba,
quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ
dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo
mình xuống đi… vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ
gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách
Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi
người thấy phải lác mắt thán phục. Chúa Giêsu mắng
nó: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của
ngươi”. Lại một lần nữa Người chiến thắng ma quỉ
bằng một câu trích trong sách thánh. Cả ba lần ma quỉ
đều thua, thế là chúng phải rút lui.
Các con thấy
đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì
là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ.
Các con bị cám dỗ, thầy cũng bị cám dỗ và chính cha
mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.
Vậy theo các
con cám dỗ là gì? À giỏi lắm, các con có thể hiểu nôm
Ngài như thế: cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm
điều xấu, xúi giục chúng ta phạm tội. Thế thì ma quỉ
cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó hiện ra
thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên
đầu có hai cái sừng để cám dỗ chúng ta? Không đâu!
Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những người
khác. Đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta
làm điều sai trái. Đó cũng có thể là những người xấu
khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta. Thầy
nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng
trường, cho các em học sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ
các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây nghiện để
rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma
tuý, phải mua hàng của chúng. Trong những trường hợp
như thế này, các con phải làm sao? Phải chạy à? Đúng
rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con
không biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy
cô, cha mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không.
Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi cha mẹ thầy cô thì nó
lỉnh đi liền.
Ngoài ra ma quỉ
cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bỏ nhỏ
vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên
chúng con rất khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong,
trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi điện tử, ma
quỉ nói nhỏ vào tai: còn sớm mà, vào đây coi một tí
rồi ra ngay. Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê:
chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và quên mất thời
gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về
trễ. Nghe ma quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi
lễ và học giáo lý mới về.
Các con thấy
đó, ma quỉ rất xảo trá, khi cám dỗ bao giờ ma quỉ
cũng bày ra những hình ảnh hay đưa ra những lời dụ dỗ
thật hấp dẫn, làm cho ta khoái, làm cho ta thích. Hơn thế
nữa, ma quỉ rất lì lợm, cám dỗ một lần không được
nó sẽ trở lại cám dỗ cách khác, cám dỗ nữa, cám dỗ
hoài, cho đến khi ta chiều theo ý nó. Nó cũng lại rất
ranh ma, quỉ quyệt chẳng bao giờ nó cám dỗ các con phạm
tội nặng ngay, nhưng ban đầu nó xúi hãy bỏ qua việc
này việc nọ, hay nó chỉ xúi phạm những tội nhẹ, một
khi phạm tội nhẹ quen rồi, nó sẽ cám dỗ ta phạm tội
nặng mấy hồi. Thế nên, các con đừng bao giờ dại dột
nghe lời dụ dỗ của nó mà phạm tội, dù là phạm tội
nhẹ, đừng giống như chú vịt trời trong câu chuyện sau
đây:
Có một đàn
vịt trời bay về phương nam để trú đông. Vào một buổi
chiều cả đàn đáp xuống một nông trại, thấy vịt nhà
đang ăn bắp, chúng ùa theo vào ăn ké. Hôm sau chúng lại
tiếp tục cuộc hành trình. Thế nhưng có một chú vịt
con, vì được một bữa ăn ngon nên không muốn bay theo
đàn, nó tự nhủ để mai mốt bay theo cũng chưa muộn.
Thế rồi, ngày qua ngày, chú vẫn ở lì với đàn vịt
nhà để được ăn ngon mà chẳng phải vất vả gì. Mùa
xuân về, đàn vịt trời bay qua. Các bạn cũ kêu gọi nó:
“Hãy theo chúng tôi. Được bay lượn trên bầu trời
rộng lớn, được chu du khắp mọi nơi, thích lắm!” Chú
vịt trời ráng sức đập cánh bay lên, thế nhưng, những
bữa ăn no nê làm nó mập ú, và đôi cánh lâu nay không
bay trở nên yếu ớt nên nó chỉ bay là đà đến ngọn
cây rồi té cái bịch xuống đất, nó không bay theo đàn
được nữa. Thế là dần dần quen đi, nó cam lòng sống
lẹt bẹt dưới đất với lũ vịt nhà.
Trở lại
trường hợp bạn Rong trên kia, nếu Rong không chịu sửa
lỗi, cứ nói dối mà trốn học, trốn lễ để chơi điện
tử, rồi sẽ đến một ngày khi không có tiền, ma quỉ
xúi giục ăn cắp của má một ít, của ba một ít, ngày
này qua ngày khác… Thế là ăn cắp quen tay, lớn lên Rong
có thể ăn cắp nhiều hơn, rồi đi ăn trộm, ăn cướp…
Các con thấy
đó, kẻ thù của chúng ta đúng là lũ ranh ma quỉ quyệt,
vậy làm sao chúng ta chống lại được chúng? Tuy ma quỉ
gian tà giảo quyệt, nhưng chúng ta không sợ ma quỉ. Chúng
con biết tại sao không? Tại vì chúng ta có Chúa. Chúa
mạnh hơn ma quỉ, Chúa giỏi hơn ma quỉ. Có Chúa ở phe
ta thì ma quỉ không làm gì chúng ta được. Vậy muốn
thắng được ma quỉ các con phải có Chúa Giêsu và phải
trang bị khí giới của Chúa Giêsu. Khí giới của Chúa
Giêsu là gì? Đó là cầu nguyện, ăn chay hãm mình, đó là
Lời Chúa trong sách thánh. Vậy muốn sắm cho được khí
giới của Chúa Giêsu, trước hết các con hãy siêng năng
sớm tối đọc kinh cầu nguyện; biết hy sinh hãm mình,
nghĩa là biết chăm làm, chăm học, không làm biếng. Thứ
đến là phải chăm chỉ học giáo lý, trong thánh lễ thì
chăm chú nghe giảng để được biết về Chúa biết về
những điều Ngài dạy. Để có Chúa thì phải làm sao?
Phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích giải
tội và Thánh Thể. Mỗi khi tham dự thánh lễ, lãnh nhận
Mình Thánh Chúa là các con được lãnh nhận chính Chúa
Giêsu, chính Ngài chiến đấu trong các con, tiếp thêm sức
mạnh cho các con. Ước chi trong mùa chay này, các con biết
luôn tin tưởng bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ
chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa sẽ luôn trợ
giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh
Phaolô lập lại trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm
tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và “Ai kêu
cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.
Đăng nhận xét