CHÚA
NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời
Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30
MỤC
LỤC
1.
Chúa Chiên Lành.
2.
Mục tử.
3.
Đồng cỏ xanh, dòng suối mát – Thiên Phúc
4.
Chiên Ta thì nghe tiếng Ta.
5.
Vị Chủ Chăn Nhân Lành – R. Veritas
6.
Người Mục Tử – Lm. Jos. Hoàng Kim Toan
7.
Để khỏi bị diệt vong – Lm Ignatio Trần Ngà
8.
Người chết vì yêu! – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
9.
Hoà hợp tiền định - Achille Degeest
10.
Con chiên của Chúa Giêsu
11.
Chúa Chiên Lành - McCarthy
12.
Chúng theo Tôi
13.
Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
14.
Người mục tử.
15.
Nghe Ta
16.
Đàn chiên
17.
Theo Chúa
18.
Ơn gọi – Lm. Phạm Thanh Liêm
19.
Chú giải của Noel Quesson
20.
Chú giải của Fiches Dominicales
21.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Chúa Chiên Lành.
Vào
năm 1943, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích
và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý.
Và thế là viên chỉ huy Đức Quốc Xã liền ra lệnh bắt
50 người thế giá nhất của thành phố đem đi xử bắn
để dạy cho dân thành một bài học.
Đức
Cha chánh và Đức Cha phó đã cố gắng can thiệp nhưng
không hiệu quả gì. Tất cả 50 người đều bị trói, bị
bịt mắt và xếp thành hàng dài. Thế rồi giây phút đen
tối nhất đã đến. Tiếng còi hụ vang lên báo hiệu
nhắm súng. Đức Cha chánh xin viên chỉ huy một đặc ân
cuối cùng là được ôm hôn từng người sắp bị hành
quyết. Ngài tìm cơ hội cho các nạn nhân được xưng tội
để giao hoà với Chúa. May mắn thay, lời thỉnh cầu này
được chấp nhận.
Nhưng
cũng thật lạ lùng, bởi vì sau đó hai vị giám mục đã
không trở về chỗ cũ, trái lại các ngài đã đứng vào
hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Cha chánh đã
lên tiếng nói với viên chỉ huy: Không phải chỉ có 50
người, nhưng tất cả là 52 người chúng tôi. Ông còn
quyết định bắn chúng tôi, thì xin hãy ra lệnh. Xin Thiên
Chúa tha thứ cho ông.
Vừa
dứt lời, bỗng từ bầu khí nặng nề của chết chóc
vang lên tiếng reo hò, bởi vì các khẩu súng đang nhắm
bắn đều hạ xuống. Thế là cả chủ chăn lẫn đoàn
chiên đều thoát khỏi những viên đạn của tự thần.
Hôm đó từ pháp trường ra về, mục tử cũng như đoàn
chiên đều sung sướng hát lời thánh vịnh: Khi Chúa dẫn
từ nhân Sion trở về, ta tưởng như giấc mơ...
Hình
ảnh hai vị giám mục đứng giữa những người bị xử
bắn làm cho chúng ta nhớ tới Đức Kitô, vị mục tử
nhân lành của chúng ta. Thực vậy, Ngài là Đấng thánh
thiện và quyền năng, Ngài đã xuống thế làm người để
trở thành một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng
chúng ta. Hơn htế nữa, Ngài còn đồng hoá mình với
chúng ta, là những kẻ tội lỗi. Không những thế, Ngài
còn hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta khỏi
án phạt của tội lỗi, như lời thánh Phaolô viết: Chúa
đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hiến mạng
sống mình vì đoàn chiên. Còn chúng ta thì sao?
Là
những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta cần
phải lắng nghe và bước theo sự dẫn dắt của vị mục
tử như lời Ngài đã phán: Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta
biết chúng và chúng theo Ta.
Hãy
thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó
chúng ta thực sự là những con chiên trong đoàn chiên của
vị mục tử nhân lành là chính Đức Kitô.
2. Mục tử.
Thế
giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta,
những người già, dường như choáng váng, không theo nổi.
Chúng ta thương tiếc cho một dĩ vãng vàng son, ở đó
trật tự và tương lai được bảo đảm.
Thế
nhưng, thương tiếc mà làm chi, vì cái dĩ vãng đâu còn
nữa. Không có gì là bền vững vì cuộc sống không ngừng
đổi thay. Cái hôm nay tồn tại, thì ngay mãi sẽ bị thay
thế, từ những kiểu thời trang cho đến những hiệp
ước, từ những loại xe cộ cho đến những thữ vữ
khí, từ những lập trường cho đến những phương thuốc
trị liệu… Thế giới như quay cuồng, đầy những phân
rẽ và bất đồng trong dư luận, trong đảng phái, cũng
như trong chính tâm hồn mình.
Con
người như chao đảo, ngả bên này, nghiêng bên kia. Nghe
truyền thanh, xem truyền hình, đọc báo chí, chúng ta cảm
thấy như người đang nói với chúng ta là có lý. Nhưng
cái có lý ấy chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì khi
kẻ đối lập với ông ta lên tiếng, chúng ta lại cảm
thấy phần có lý ấy lại chuyển sang phe đối lập. Vì
thế, chúng ta khó có thể tìm thấy chân lý, khó có thể
nhận ra sự thật.
Giữa
những cái trái ngược nhau như vậy, lời Chúa hôm nay
vang lên, như muốn xác định cho chúng ta một lập trường
dứt khoát và chắc chắn: Ta là mục tử nhân lành. Lời
xác quyết này thắp lên trong chúng ta một tia sáng hy
vọng, đồng thời tỏ cho chúng ta thấy một góc cạnh
mới về Thiên Chúa.
Ta biết
các chiên Ta. Phải, Ngài biết chúng ta không như viên kỹ
sư biết một chiếc máy. Ngài biết chúng ta không như
thầy cô giáo biết những người học trò. Trái lại,
Ngài biết chúng ta như một người bạn biết một người
bạn, và sẵn sàng hy sinh cho nhau: Ta hiến mạng sống mình
đàn chiên.
Hình
ảnh người mục tử nhân lành phải là hình ảnh của
một người chủ chăn luôn canh giữ chuồng chiên, để
đoàn chiên được an toàn. Người mục tử ấy luôn sống
giữa bày chiên và luôn chăm sóc đến các con chiên, sẵn
sàng chiến đấu chống lại sói dữ, không quản ngại
vất vả, để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc.
Trái
tim của con người thời nay dường như đã trở nên chai
đá và băng giá. Họ ít lưu tâm đến những người chung
quanh. Trong vũ trụ bao la này, con người chỉ là một số
không. Chẳng ai hỏi han đến chúng ta và khi chúng ta lên
tiêng nói, thì cũng chẳng ai buồn nghe. Chỉ mình Đức Ki
tô, vị mục tử nhân lành, luôn tồn tại giữa những
đổi thay. Ngài biết chúng ta và hằng chăm sóc cho chúng
ta.
Vào
những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã trải qua những năm
tháng dài bị bắt bớ và cấm cách. Các tín hữu luôn bị
đe doạ và gặp phải muôn vàn khó khăn, thế nhưng dưới
những hang toại đạo, hình ảnh được vẽ nhiều nhất
trên những bức tường, đó là hình ảnh người mục tử
nhân lành. Chính hình ảnh này đã đem lại cho họ niềm
ai ủi và khích lệ.
Con
người thời nay đặt niềm tin tưởng của mình vào những
bài diễn văn của các chính khách, nhưng rồi đến một
lúc nào đó, họ nhận ra những trò bịp bợm trong lãnh
vực chính trị và những mánh khoé trong phạm vi tuyên
truyền, để mà bóp méo sự thật. Bấy giờ, họ cay đắng
cảm thấy mình bị lừa gạt.
Còn
chúng ta thì khác. Chúng ta đã đặt trót niềm tin tưởng
vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung thành, không phải chỉ
nói suông, không phải chỉ hứa cuội, mà Ngài còn thực
hiện, còn hành động. Vì thế, trải qua hơn hai ngàn năm,
hình ảnh người mục tử nhân lành vẫn còn là một hình
ảnh sống động và thời sự, bời vì Ngài đã mang lấy
tội lỗi của chúng ta và đã chết thay cho chúng ta trên
thập giá.
Hãy tin
tưởng và yêu mến Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, để
rồi bản thân và cuộc đời chúng ta sẽ được bình an
dưới sự dẫn dắt và chăm sóc của Ngài.
3. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát – Thiên Phúc
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Dương
Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được
nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi
miền nam đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy
ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai
cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế
mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở
thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và
miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và
Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những
người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc
đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ
như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là
Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh
Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn
chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới
trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng
còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”.
Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của
ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một
con người.
“Chiên
của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo
tôi” (Ga 10,27).
Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi
người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng
ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu,
mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô
nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng
ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương
của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông
Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển
chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa
đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng,
chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
- Nghe
Chúa chính là lắng
nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội,
và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính
là để có một mối tương giao thân tình với Người, và
nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức
tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời
Đức Kitô”.
- Biết
Chúa không chỉ là
học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là
hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp
cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho
chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực đến nỗi
đoán biết cả thánh ý Người.
- Theo
Chúa chính là một
thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao
phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng
chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ,
đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Mađalêna
đã bỏ đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ đời trụy
lạc, để đi theo Người.
Nghe
Chúa, biết Chúa và theo Chúa
để được những
gì? Đức Kitô đã
trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không
bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được
chúng khỏi tay tôi”. Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân
lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn
phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính
là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không
những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo
đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không
chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng
ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha Tôi, Đấng
đã ban chúng cho Tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai
cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúa Cha đã trao
ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất,
nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như
Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta
được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay,
của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế
nữa.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để chúng
con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa
một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của
cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa
một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho
chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người
thiết tha.
Giữa
một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho
chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của
cuộc đời chúng con mà thôi. Amen.
4. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta.
Người
ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một
ông nhà nghèo, một ông nhà giàu và người thứ ba là kẻ
bất lương đều chết trong một giờ và sau đó phải ra
tòa Chúa phán xét. Thiên Chúa hỏi ông nhà nghèo:
- Vì lý do gì mà ngươi không lo tìm hiểu và tuân giữ Lời Chúa ghi trong sách Koran.
Anh
nhà nghèo gãi tai và thưa:
- Dạ! Lạy Chúa, vì con nghèo quá, nên phải đầu tắt mặt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn gì cả.
Chúa
trả lời:
- Ông Hellen đã nghèo hơn ngươi rất nhiều thế mà có được chút tiền là ông để dành một nửa để học luật Chúa và khi nào không có tiền trả lệ phí thì ông nhịn đói, đứng ngoài trường học nghe lóm Rabbi Eliaza giảng giải Lời Chúa.
Và
Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu:
- Còn ngươi. Tại sao con lại không tìm học hỏi và tuân giữ luật Chúa?
Ông
nhà giàu thưa:
- Dạ, tại vì con phải lo công việc quản trị của cải, tiền bạc và các dịch vụ làm ăn. Bận bịu tíu tít, còn giờ đâu mà học hỏi sự gì?
Thiên
Chúa phán:
- Ngươi đâu có giàu có bằng thầy Rabbi Eliaza, ông ấy có một trăm chiếc tàu buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa và rất bận rộn với công việc kinh doanh, nhưng Rabbi Eliaza vẫn tìm ra giờ để học hỏi luật Chúa.
Sau
cùng, Chúa hỏi tên bất lương:
- Còn ngươi, kẻ gian ác. Tại sao ngươi đã không học hỏi luật Chúa?
Tên
bất lương tìm cách chữa lỗi:
- Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá, nên không còn nghĩ đến gì khác nữa.
Thiên
Chúa bảo hắn:
- Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như Giuse khi sống bên Ai Cập xưa kia. Ngày đêm bị vợ quan tổng quản Putipha níu kéo, rủ rê cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng.
Thế
là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên
Chúa và chôn vùi trong nơi khổ ải của âm ty, âm phủ.
Là
người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận
học hỏi, lắng nghe và tuần giữ Lời Chúa. Đây là một
bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng. Vì nó làm cho
phần rỗi chúng ta được bảo đảm.
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
không đề nghị với con người điều gì khác ngoài bổn
phận lắng nghe Lời
Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày.
Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp của
bài Tin Mừng hôm nay. Đây là chìa khóa thần học giúp
chúng ta hiểu ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu Kitô,
Người Mục Tử nhân lành như thánh Gioan ghi lại trong bài
Tin Mừng hôm nay.
Trong
ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội
lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn
gọi làm người và làm con cái Thiên Chúa của mình, phải
chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là thụ
tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên
Chúa, con người được đặt định trở về với bàn tay
yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương
trình ấy của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên
Chúa và tự tôn mình lên địa vị của Thiên Chúa. Vì
thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho
Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa
Giêsu chương trình cứu độ cần phải hiện thực qua
cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến
trần gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất.
Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi bàn tay của Thiên
Chúa. Chương tình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin
Mừng cứu độ. Nước Trời cũng chính là chương trình
của Thiên Chúa.
Hình
ảnh người mục tử nhân lành diễn tả sứ mệnh ấy
của Chúa Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể
giật mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn tay của Ngài.
Trình thuật Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành gồm một
số động từ diễn tả các bổn phận của chủ chăn và
bổn phận của tín hữu. Nếu viết chúng thành hai cột
song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả
bổn phận của chủ chăn. Đó
là nói, hiểu biết, hiến mạng sống và gìn giữ.
Trong khi đó chỉ có hai động từ diễn tả bổn phận
của tín hữu là lắng nghe và đi theo.
Bổn
phận đầu tiên của vị chủ chăn là nói,
nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ,
kêu mời, đề nghị, góp ý kiến. Đây là động từ bao
gồm tất cả mọi sinh hoạt rao giảng của Chúa và giáo
huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức các khóa tĩnh
tâm, huấn luyện, đào tạo mọi thành phần nhân lực mục
vụ của cộng đoàn địa phương cho tới việc dùng các
phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí,
sách vở, tài liệu, phim ảnh, băng hình, truyền hình...
để phổ biến, rao truyền Lời Chúa và phát triển lòng
tin của tín hữu.
"Nói"
chứ không phải là nóng nảy, bẳn gắt, la hét và mắng
chửi tín hữu. Trong nghĩa này, "nói" là cả một
nghệ thuật gồm nhiều tập luyện mỗi ngày, từ giọng
điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ và
hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, đầm
ấm, và truyền cảm, hình ảnh được đơn sơ sáng sủa,
rõ ràng, xúc tích và thích hợp hầu có thể truyền đạt
Tin Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu,
xác tín và sâu xa hơn. Làm thế nào để vị chủ chăn
rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên
trong tâm hồn lòng họ ngọn lửa tinh thần, nung nấu đốt
cháy con tim họ và thúc đẩy họ tiến gần Thiên Chúa.
Bổn
phận thứ hai của vị chủ chăn, tức là các Giám Mục,
nam nữ Tu Sĩ và Giáo Dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu
biết. Trong ngôn ngữ
Kinh Thánh, hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương
quan hiệp thông với tha nhân. Hơn ai hết, vị chủ chăn
phải là người có các liên hệ huynh đệ nhân bản với
tín hữu, biết chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn
tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất máy móc một
chiều, không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc,
không lẫn lộn trật tự với cảnh rộn ràng vô hồn.
Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần
phải tiếp xúc và nhất là biết lắng nghe họ nói, biết
cố gắng nhìn mọi người với con tim của mình, sẵn
sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Các tín hữu có
thể cho các vị chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí
giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ các đức tính
xã hội, nhân bản cho đến các nhân đức Kitô, lòng tin,
cậy, mến và sự thánh thiện.
Bổn
phận thứ ba của chủ chăn là hiến mạng sống mình cho
cộng đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ.
Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo bình thường
thì chủ chăn ít khi phải chết vì tín hữu. Những điều
mà Thiên Chúa và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ
chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng đoàn, dành
trọn khả năng, sức lực, thời giờ, của cải và toàn
cuộc sống của mình cho tha nhân. Biết noi gương Chúa
Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống sát với tín hữu.Chia
sẻ mọi vui buồn âu lo của họ và trở thành anh em đại
đồng của mọi người. Nghĩa là vị chủ chăn không sống
cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.
Bổn
phận thứ tư của chủ chăn là giữ gìn để tín hữu
khỏi bị sói dữ cắn xé để họ không xa Chúa, rời bỏ
Giáo Hội, và mất đức tin.
Trong thế giới ngày nay, nhiều khi rất khó nhận diện ra
sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng đoàn, vị chủ chăn
phải để lợi ích thiêng liêng mà các linh hồn và hạnh
phúc của tín hữu lên trên hết trong mọi sinh hoạt
thường ngày chứ không phải các lợi lộc riêng tư, danh
dự của mình hay thứ gì khác.
Về
phần các tín hữu bổn phận thứ nhất là biết
lắng nghe để cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và
quyết định sống theo những gì Chúa nói, thực hành mọi
giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường
ngày. Thái độ vâng
lời ấy phải thể hiện ra trong việc cộng tác, tham gia,
đóng góp vào các sinh hoạt của cộng đoàn tùy các tài
khéo và bằng khả năng vật chất cũng như tinh thần của
mình làm sao để cải tiến cộng đoàn, để biến nó
thành một môi trường sinh động tươi vui, tràn đầy yêu
thương, bác ái tương trợ lẫn nhau như trong cộng đoàn
Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng đoàn tham
gia và đóng góp chứ không phải đứng ngoài chỉ trích,
phê bình chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe Lời
Chúa mà không hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân,
gia đình cộng đoàn và xã hội tức là khước từ Chúa;
từ chối Lời Ngài là chối bỏ lòng tin của mình.
Bổn
phận thứ hai của tín hữu là đi theo, bước theo Chúa
Kitô Phục Sinh để
tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến về Đất Hứa.
Do đó, hành trình của Kitô hữu phải là hành trình tươi
vui, phấn khởi. Cuộc sống của Kitô hữu phải là cuộc
sống sinh động, nhiều sáng kiến nhiều đóng góp. Khi
đóng góp rõ ràng được mục đích của mình, Kitô hữu
mới sẵn sàng hiến thân hy sinh và kiên trì trong những
lúc gặp chướng ngại, thử thách, khó khăn và cám dỗ.
Với ý thức đó, vâng lời có nghĩa là hiểu biết trách
nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và
các anh em khác trong cộng đoàn, thông cảm những khó
khăn, những yếu đuối và khả năng hạn hẹp của họ
và cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.
5. Vị Chủ Chăn Nhân Lành – R. Veritas
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chúa
Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên
Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, tu sĩ nam
nữ. Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ lại mối tương quan
giữa Chúa Giêsu và mỗi tín hữu. Chúa Giêsu là Đấng
chăn chiên tốt lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, là
nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai
được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên.
Cuốn
phim về cuộc đời ông Bach Adams, trình bày cho chúng ta
thấy một phần nhân cách phi thường, khác thường đến
độ bị kẻ khác xét như một người điên. Đó là nhân
cách của ông Bach Adams: ông khám phá ra chiều kích nhân
bản tương quan giữa người với người trong việc chữa
trị bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ bình phục mau chóng hơn
khi mối tương quan giữa bác sĩ và đương sự được tốt
đẹp. Thái độ của ông Bach Adams rất khác biệt với
thái độ cứng nhắc, vô tâm, vô tình của bác sĩ tâm
thần không màng nghe người bệnh. Thái độ của ông Bach
Adams bị thử thách khi người mang ơn những trợ giúp
nhân đạo của ông không những không biết ơn mà còn
hành động tàn bạo giết chết người yêu của ông.
Adams cảm thấy sự hy sinh của mình bị xúc phạm, bị
lợi dụng và muốn bỏ cuộc. Tác giả cuốn phim cho chúng
ta thấy rằng chỉ khi nào Adams chấp nhận hy sinh, cho đi
tất cả, thực sự cho đi tất cả, thì ông mới trung
thành được với sứ mạng. Đây có thể nói là một
cách sống thí mạng cho kẻ khác, cách sống của vị chủ
chăn chiên hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Lòng
quảng đại suông không bị thử thách, không quảng đại
hy sinh, không phải thí mạng cho kẻ khác thì chưa phải
là lòng quảng đại của vị chăn chiên nhân lành. Ngày
ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng
mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời
mời gọi theo Chúa, đây không phải là thứ lòng quảng
đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện
ra bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó
sẽ không kiên trung kéo dài lâu, gặp khó khăn sẽ dễ
dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng
thành và vững mạnh.
Một
ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Giêrônimô và
hỏi:
- Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?
Thánh
Giêrônimô đáp:
- Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.
Chúa
Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn thỏa
mãn, Ngài hỏi thêm:
- Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?
Thánh
Giêrônimô không chút do dự trả lời:
- Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.
Chúa
Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại
hỏi lần thứ ba:
- Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?
Lần
này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa
cùng Chúa:
- Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu mà con có thể dâng cho Chúa được.
Chúa
Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy
yêu thương và phán:
- Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.
Thánh
Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi
của mình.
Câu
chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy
yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài
biết rõ chúng ta như chủ chăn biết rõ từng con chiên.
Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một
câu hỏi: "Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?",
ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có
thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được
Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả
những tội lỗi của mình. Chúa yêu thương chúng ta, thật
khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ
dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên
nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho
Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có
đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh
tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.
Hình
ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại
tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy
dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng
ta. "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng
theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ
không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được
chúng khỏi tay Ta". Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất
cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp,
kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân
sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được
nên tốt đẹp hơn.
6. Người Mục Tử – Lm. Jos. Hoàng Kim Toan
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Người
chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá
người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình,
người của cõi thiêng mà đến.
Trong
ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã
từng trải bằng những kinh nghiệm của mình, người trực
giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai
gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là
người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn
dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác.
Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn
chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự
đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được
tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của
minh. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không
có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ
thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn
chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn
chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên
trong đàn.
Sứ
vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn
ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm.
Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối,
anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên
vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về... Từ những
hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu
tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt
chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.
Theo
truyền thống Do Thái Cain đại diện cho người theo văn
hoá du mục, Abel đại diện cho nền văn hoá định cư.
Người định cư rất quý mến người du mục, và thường
ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người
định cư, người chăn chiên là người không thuộc về
đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và
cao quý.
Nền
văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên
gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn
chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người
chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi
và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và
rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi
lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người
chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng
mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của
đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện
cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người
chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ
tạo.
Người
mục tử hôm nay là những nhà lãnh đạo,
những nhà doanh nghiệp, những vị lãnh đạo công ty, xí
nghiệp. Với đôi mắt tinh tường nhìn về phía trước,
dự báo được những gì trong tương lai, chuẩn bị cho
những con người dưới quyền đủ khả năng chống đỡ
vượt qua thử thách. Những nhà lãnh đạo biết lo cho
những người thuộc quyền cũng như cho dân được ấm no
hạnh phúc. Bình an của đàn chiên là niềm vui cho người
mục tử. Nhà lãnh đạo không những chỉ sáng suốt mà
còn là người chăm lo hạnh phúc cho đàn chiên, là người
quy tụ chứ không phải để gây chia rẽ chống đối, là
người vì đàn chiên của mình mà hy sinh hạnh phúc cá
nhân chứ không phải là người chỉ biết xen lông, giết
thịt những con chiên béo, thu lợi nhuận từ đàn chiên
để làm giàu cho cá nhân người mục tử. Người mục tử
có những đức tính cần thiết và cần có cả đời sống
cầu nguyện, vì người mục tử là người nối trời với
đất, người lãnh trách nhiệm tinh thần cho đàn chiên
của mình, vừa thăng hoa đời sống bằng vật chất vừa
làm no thoả đời sống tinh thần cho đoàn chiên, bảo đảm
cho đoàn chiên một tương lai chắc chắn. Người mục tử
nếu là người không tín ngưỡng, không niềm tin tôn giáo
là nhưng nhà lãnh đạo thiếu sót trong bổn phận của
mình và có thể làm thiệt hại cho đoàn chiên.
Người
mục tử cũng là các gia trưởng trong gia đình,
người quy tụ đoàn con của mình chứ không là người
gây chia rẽ. Người đảm bảo cho mọi thành viên trong
gia đình có những nhu cầu thiết yếu để ăn học và
trưởng thành về các đức tính cũng như niềm tin. Nhiệm
vụ người gia trưởng xem ra khá nặng nề, chính vì vậy,
họ cũng cần có đời sống cấu nguyện để được thêm
sức mạnh gánh vác việc đời và gia đình. Các thành
viên trong gia đình là những gì Thiên Chúa trao cho để
thi hành sứ mạng hướng dẫn của người mục tử.
Người
mục tử là những người cai quản các cộng đoàn
cần gắn bó với vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu,
bởi vì sứ vụ lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu. Cộng đoàn
được trao phó để người mục tử hướng cộng đoàn
đó thực thi ý định yêu thương của Thiên Chúa. Người
mục tử này đóng vai trò quan trọng để xây dựng cộng
đoàn mình lãnh nhận được hiệp nhất, nơi chia sẻ tình
thương, sống trong bác ái và làm chứng về Tin Mừng Phục
Sinh.
Xin ban
cho chúng con những người mục tử như Ý Chúa.
7. Để khỏi bị diệt vong – Lm Ignatio Trần Ngà
Trong
các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất
và cũng yếu đuối nhất. Những loài mãnh thú như sư tử,
hổ báo... là những con thú hung tợn, có nanh, có vuốt
lại có sức mạnh và sự lanh lẹ phi thường nên có thể
dễ dàng quật ngã những loài thú yếu đuối hơn và biến
những con thú nầy thành mồi ngon cho chúng.
Có
những loài thú khác tuy không mạnh mẽ, hùng dũng bằng
sư tử, hổ báo... nhưng ít ra cũng có nanh, có vuốt, có
sừng, có quai hàm mạnh mẽ... để săn bắt, vồ xé những
con thú khác, hay ít ra cũng để tự bảo vệ mình, như
con trâu có sừng để báng; con ngựa, con bò có chân để
đá, con dê có đầu cứng như đá để húc, để tự bảo
vệ mình khỏi bị địch thủ tấn công.
Chỉ
riêng có loài cừu, loài chiên là hiền lành yếu đuối,
chẳng có sừng để báng, chẳng có móng vuốt để tấn
công, chẳng có răng nanh để cắn xé, chẳng có sức mạnh
hay sự lanh lẹ để đối lại địch thù. Đã vậy, khi
bị tấn công, nó cũng không có cánh để bay lên ngọn
cây cao thoát thân như loài chim, không thể chui xuống hang
ẩn trú như loài chuột, cũng chẳng có thể cao chạy xa
bay lánh thoát địch thù như loài hươu nai...
Ngoài
ra, nó cũng không thể cậy dựa vào những bạn cừu khác,
vì những con cừu kia cũng yếu đuối, cũng hiền lành,
cũng vô phương tự bảo vệ mình như nó. Cả hàng trăm
con cừu không hơn một con chó sói! Thế là nó dành đứng
chịu trận cho kẻ thù vồ xé, giết hại, tàn sát... Thật
tội nghiệp, thật đáng thương! May ra chỉ có người
chăn chiên mới là người duy nhất có thể bảo vệ và
cứu nguy cho nó, giúp nó sống còn.
Xét về
một số phương diện, con người chúng ta tuy cao cả nhưng
cũng rất yếu đuối, lại phải thường xuyên đương đầu
với thù trong giặc ngoài rất độc hại, chẳng khác gì
con chiên hiền lành đối mặt với cả bầy ác thú.
Kẻ
thù bên trong chúng
ta chính là những xu hướng xấu nằm trong huyết mạch
mỗi người. Đó là óc kiêu căng, là lòng tham vô đáy,
là tính ích kỷ, là những ham muốn xấu xa, những khao
khát tội lỗi... vẫn luôn nằm vùng, luôn ẩn trú trong
ruột gan, trong tim óc con người và có thể chỗi dậy bất
cứ lúc nào để xui khiến, thúc đẩy người ta làm điều
xằng bậy, xô đẩy con người vào con đường gian ác tội
lỗi. Mấy ai dám bảo rằng mình đủ sức chiến thắng
những kẻ nội thù nầy. Napoléon là một vị tướng lừng
danh trong lịch sử nhân loại, đã lập nên nhiều chiến
công oanh liệt vang dội châu Âu... vẫn phải thú nhận
rằng: "chiến thắng cả châu Âu không khó bằng chiến
thắng chính bản thân mình".
Còn
kẻ thù bên ngoài
chúng ta thì không kể xiết. Có vô vàn cạm bẫy rải rác
khắp nơi có thể làm cho con người sa đoạ bất cứ lúc
nào. Vô số phim ảnh khiêu dâm và bạo lực đang xô đẩy
thanh thiếu niên vào con đường sa đoạ. Đếm không xuể
sách báo, văn hoá đồi truỵ dưới đủ mọi hình thức...
đang huỷ diệt tâm hồn cao đẹp của con người. Các tụ
điểm ăn chơi đồi bại mọc lên như nấm khắp mọi
nơi. Rượu bia, ma tuý và rất nhiều hình thức kinh doanh
xác thịt con người rộ lên khắp chốn... Đó là những
chiêu thức rất hiểm độc được tung ra để huỷ diệt
phẩm chất con người, nô dịch con người.
Đối
mặt với thù trong giặc ngoài rất nguy hại như thế,
chúng ta là những con người vốn mang xác thịt hư hèn
yếu đuối, khác nào những chiên non... làm sao chống cự
nổi?
Trong
mặt trận nầy, chúng ta không thể hoàn toàn trông cậy
người khác, vì họ cũng yếu đuối như chúng ta, họ
cũng là chiên hiền như chúng ta. Cả trăm con chiên cũng
không thắng được một con sói. Người duy nhất có thể
bảo vệ chiên là người chăn chiên. Còn Đấng duy nhất
có thể bảo vệ chúng ta chính là Đấng chăn chiên lành,
là Chúa Giêsu.
Hạnh
phúc cho chúng ta vì có Chủ Chiên nhân lành bảo vệ.
Qua Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cam kết bảo vệ chúng ta là
chiên của Ngài: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;
không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được
chúng khỏi tay tôi."
Để
được sống đời đời, để khỏi bị diệt vong, chúng
ta phải tuân theo hai điều kiện do Ngài đưa ra:
- Một là vâng nghe Chúa Giêsu: "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi".
Nghe
tiếng Chúa Giêsu tức là để cho lời của Ngài soi dẫn,
để khỏi sai đường lạc lối.
- Hai là bước theo Chúa Giêsu: "Tôi biết chúng và chúng theo Tôi".
Bước
theo Chúa Giêsu là đi theo con đường mà Ngài đã đi, chủ
yếu là vâng theo thánh ý Chúa Cha như Ngài đã nêu gương.
Nguyện
xin Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức thân phận chiên non
yếu đuối của mình để chúng ta đặt trọn vẹn niềm
cậy trông nơi Ngài, vâng nghe tiếng Ngài và bước theo
vết chân Ngài để khỏi bị diệt vong ở đời nầy và
được hưởng sự sống đời đời do Ngài tặng ban.
8. Người chết vì yêu! – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Trong
thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang
màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của
cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng
những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của
Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc
áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích
từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin
dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái
tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để
Cha thực hiện điều Cha muốn.
Và...
cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu
ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng
đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai
con một trai một gái. Cristina đang đợi đứa con thứ ba.
Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc
phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện",
Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn
thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:
- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị
bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối
trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết
bào thai!
Maria
Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó,
nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng
quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người
mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày
22-10-1995, để lại 3 con thơ.
Đây là
một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để
gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú
bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi
lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết
lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà
người con được bước vào cuộc đời.
Có thể
nói sự kiện người mẹ trẻ Cristina dám chết cho con
được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa
Giêsu, vị mục tử nhân lành. Người mục tử biết từng
con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng
con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã
từng nói: "Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên
của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống
đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong". Thật
là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng
người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của
chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao
ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa,
chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh
phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa
và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình
thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc
chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống
mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng
chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám
chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi
đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên
lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ
nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được
ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa
cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta,
để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ
cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế
giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho
nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ,
mà quảng đại trao ban. Thế giới sẽ cằn cỗi và hoang
tàn nếu không còn những con người dám hy sinh đời mình
để phục vụ anh em. Nhưng rất mừng, vì cuộc đời vẫn
còn đó biết bao tấm lòng luôn quên mình phục vụ một
cách quảng đại và vô vị lợi như mẹ Têrêsa thành
Calcutta. Cuộc đời vẫn còn đó, những con người biết
tôn trọng sự sống của con cái mà quên đi tính mạng
mình như người mẹ trẻ Cristina. Cuộc đời vẫn còn đó,
những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống
vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước
Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Vâng, có lẽ cuộc
đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha,
người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội
nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho
từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao
người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng
làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh
em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm
đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm
tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng
loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy
hy sinh.
Hôm
nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh
mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục
tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những
mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân
lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ
chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho
những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn
con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo
hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện
xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy
những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục
vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
9. Hoà hợp tiền định - Achille Degeest
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đang là
mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức
Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái
vây quanh, và yêu cầu Chúa nói trắng ra về thân thế
Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy,
Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày
chính là Đấng Mêsia. Có những người đơn sơ, không rắc
rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân
thế Chúa và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ
Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm thấy những kẻ
chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa,
hơn là sẵn lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở.
Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến phải bỡ
ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ
cho rằng hệ thống suy diễn của mình không thể sai lầm,
ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích, chính ông
đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền
ném đá ông. Đức Giêsu không do dự. Người đưa ra câu
đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp để dễ dàng
tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không
thể bác bỏ (Lời Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau
đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được đặt ra;
1)
Tại sao người Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu?
Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì thì tin
thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều
làm chứng cho Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ
bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ tâm hồn họ không
phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết
lối xét đoán sự việc của họ là tốt. Thế mới con
mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của mình.
Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn
của mình, người ta cho rằng chính thực tại là sai. Nhận
định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để
thực hiện một hành vi tin, trước hết con người phải
chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị tâm hồn cách bí
nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với
phẩm chất của hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình
tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức Kitô nào? Dưới
khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn
luôn chúng ta có lý để băn khoăn không biết con mắt
chúng ta có đủ trong sáng không để nhìn Đức Giêsu
Kitô?
2)
Ý nghĩa câu: không ai giật chúng khỏi tay Ta được là
gì? Câu đó có
nghĩa: không một quyền năng ngoại giới nào có thể giật
người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ giúp
của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó
khăn ngoại giới. Tuy nhiên tại sao có những vụ bất
trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa
nữa? Sở dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa
tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của con người.
Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ
ấy, mà chính vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp
đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương yêu của Chúa.
Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng
ta đối diện với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai.
Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với hành
vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau
khi đã dâng hiến. Chúng ta không được choáng váng trước
bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác trong niềm
trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng,
đáp ứng thiện chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm
vững chúng ta trong tình yêu của Người.
10. Con chiên của Chúa Giêsu
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh
chị em thân mến, chúng ta vẫn quen gọi các giám mục,
các linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em
giáo dân cũng vẫn quen nhận mình là “con chiên”. Kiểu
nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu
Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và
chủ chiên để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến
chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên,
thay thế hết các người lãnh đạo dân từ trước đến
nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình là mục tử
và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ
chăn thuê, những mục tử giả.
Tin Mừng
hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về “con chiên” nhiều
hơn là chủ chiên, tức là nói về “người giáo dân”
hơn là hàng giáo sĩ. Người giáo dân là con chiên của
Chúa Giêsu, là người biết “nghe tiếng Chúa”, dám
“bước theo Chúa” để không bao giờ phải hư mất,
nhưng “được sống đời đời”.
Trước
đây, anh chị em có nghe nói mình là “con
chiên của các cha”
thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng
ngày nay, hình ảnh con chiên dễ làm cho người ta hiểu
lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo dân
- người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân
còn ấu trĩ và thụ động trong Giáo Hội.
Cách
đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn
sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau:
Một người sắp theo đạo hỏi linh mục về vai trò của
giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời:
“Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn
thờ, hai là ngồi quay mặt về tòa giảng”. Và Đức
Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất
một vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra”.
Câu
chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa
vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược
vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng và góp tiền vào nhà
thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội
trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa”. Giáo Hội trước
hết là giáo dân chứ không phải Giáo hoàng, Giám mục
hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu
trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân
điều khiển tất cả, nhưng có nghĩa là giáo dân phải
lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình,
như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.
Sống
đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ
nhiên giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của
Chúa, hiền lành yêu thương, đừng hung bạo ác ôn, nhưng
cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và
thụ động. Chúng ta muốn làm những con người tín hữu
đứng hàng đầu, những con người có tinh thần trách
nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của
mình cách chủ động. Với điều kiện đó, chúng ta mới
“nghe tiếng Chúa” và “bước theo Chúa” cách đúng
đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày
nay. “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban
cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi
tay Ta được”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của
Chúa và bước theo Chúa là dấn thân sống Lời Chúa một
cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn
bó thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô
tức là bước vào cuộc sống bất diệt ngay từ đời
nầy.
Tiếng
Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người
nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay
là tiếng kêu của đồng bào, của cả đất nước, của
cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có
cơm ăn áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc
chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày, từng giờ mời
gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo
Chúa trên mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy
sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không còn tìm kiếm
gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến
chỗ dám liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên
dám liều mạng sống vì đàn chiên.
Làm con
chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế. Làm
người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế.
Nghe tiếng Chúa và dám bước theo Chúa trong xã hội chúng
ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định chúng
ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào
có thể cướp giựt chúng ta khỏi tay Thiên Chúa.
Anh chị
em thân mến,
Chúa
nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được
Giáo Hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi
Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang thiếu các mục tử và
nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy
đang vang đến tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất
nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể Giáo Hội hoàn cầu,
chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng
gọi của Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước
theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến trọn vẹn
cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người
nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu…
Sự hy
sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều
yếu tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện
quyết định hy sinh quảng đại của mình: cha mẹ, gia
đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi
thì ơn gọi mới nẩy nở và mới được bảo đảm. Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế giới
cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: “Tôi nói với
bậc cha mẹ, dựa vào lòng tin, rằng họ có thể nếm
hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một
con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ
Ngài… Đặc biệt, tôi hướng về giới trẻ của thời
nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu
quyến rũ các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ
Giêrêmia (20,7): “Ngài đã làm cho tôi say mê, lạy Chúa…
Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi”…
“Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài
lôi cuốn các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu
mến các bạn… Hãy say mê Đức Kitô để sống cuộc đời
của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin
Mừng…”. Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh: “Thời đại
chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện
của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên
khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu
không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những
niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn
đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ
thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng
hiến cuộc đời vì Nước Trời”.
Cuối
cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ
Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi
bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết rõ tất cả những khó
khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải
qua. Xin Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: “Xin
Vâng” đáp trả tiếng gọi của Chúa, như Mẹ đã thưa
khi được Sứ thần truyền tin.
11. Chúa Chiên Lành - McCarthy
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy
Niệm 1. CHÚA
CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI
Khoảng
giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc
cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố
Turin ở Ý. Chẳng bao lâu, các thanh niên nhận ra rằng nơi
ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng, họ
đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số
người còn muốn được thay thế vào chỗ của ngài, bằng
cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Sau sự
kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối
tương quan này không thể tồn tại được, trừ phi có sự
gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và
được nhận biết.
Đức
Giêsu, Chúa Chiên Lành nói “Tôi biết các chiên của
tôi”. Người biết các chiên của Người một cách chính
xác, bởi vì Người là Chúa Chiên Lành. Có nhiều mức độ
nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người
chỉ qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những
người khác, chúng ta chỉ mới quen biết sơ giao mà thôi.
Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn bè.
Có
một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con
người. Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn
bó với cha của ông, người đã bị chết tại Aushwitz
vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:
“Tôi
chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau
lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con
người mà tôi yêu thương nhất trên đời, một con người
mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn
tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác
có cùng một vấn đề giống như tôi không. Liệu họ có
nhận biết cha họ như là một con người nào khác với
một khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều
rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi tối, để nuôi
sống cả gia đình chăng?”.
Tôi e
rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết
gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con
cái. Để nhận biết về nhau, cần phải dành ra thì giờ
và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ
đại. Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để
lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc sống trôi
qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách
nghèo nàn. Bạn không thể yêu thương một người nào đó
mà bạn không hề quen biết.
Sự
nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người
làm công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần
phải nhận biết những người làm công việc săn sóc
người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những
người mà họ săn sóc. Biết tên của những người đó
là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự biết
về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của
họ. Những người được săn sóc sẽ không hơn gì những
chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn
sóc biết được một số điều về thế giới mà từ đó
người được săn sóc xuất phát.
Lối
nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có
thì giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết
này được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao. Bất
chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào,
nhưng một khi đã biết về lịch sử cuộc đời của
người đó, thì thái độ của chúng ta đối với họ sẽ
mềm mỏng hơn.
Tuy
nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai
đường lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những
con chiên của Người một cách thiết thân. Nhưng họ cũng
biết Người: “Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi”.
Đức Giêsu không ngại ngùng trong việc để cho mình được
nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại có cảm giác đó.
Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời
của mình. Sẽ không có ai biết được những cảm giác,
nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực sự của chúng
ta là gì.
Có lẽ
nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút
mình lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết
được con người bất toàn của mình, thì họ sẽ khước
từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về
chúng ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về
mình, hơn là đúng với con người của chúng ta. Sẽ thật
là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi,
mà chưa bao giờ được người khác biết đến một cách
sâu xa, chưa bao giờ được kể ra câu chuyện cuộc đời
mình.
Làm sao
chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người
khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối
với họ, do đó, chúng ta đã ngăn cản không để cho họ
nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối
với chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là
họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng ta, thì liệu
chúng ta có trách cứ họ không?
Đức
Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người
mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có
sự sống đời đời sau này. Nhưng đây phải là một
công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của
Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe
tiếng nói của chủ chiên và đi theo họ. Chúng ta phải
nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.
Suy
Niệm 2. TẬN
HIẾN CHO ĐÀN CHIÊN.
Đức
Giêsu nói “Sẽ không
ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi được”.
Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với
Người, đàn chiên quý giá đến thế nào. Nếu có Người
giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu xa nào có
thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.
Khi kẻ
làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp
rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ
làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần,
thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến
một điều duy nhất là cứu thoát người thân của mình
mà thôi. Người chủ tốt lành của đàn chiên thì không
như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn
công của lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất
mạng sống của mình nữa.
Thật
không may, chúng ta đang sống trong một thế giới mà đàn
chiên, đặc biệt là những con cừu, thường bị vồ chụp
và vật cho chết. Nhưng đây chính là một thế giới mà
trong đó, hơn bao giờ hết, người ta càng cần đến
người chủ chiên tốt lành. Ngày nay, tất cả mọi sự
đều có khuynh hướng to lớn ra và được tập trung hoá,
làm cho việc nhận biết và săn sóc trở nên không dễ
dàng gì, bởi vì tất cả
mọi sự đều mất đi tính chất con người. Trong hệ
thống này, con người được thuê mướn và củng cố vì
hiệu quả công việc, chứ không vì tình yêu và sự quan
tâm săn sóc, mà họ có khả năng bày tỏ ra.
Ngày
nay, người chủ chiên tốt lành không chắc hẳn phải
đương đầu với một đàn chó sói. Nhưng họ có thể
phải đương đầu với một điều gì đó còn tệ hại
hơn – một bè lũ tội phạm. Philip
Lawrence là một hiệu trưởng tại trường Công Giáo Thánh
George ở Luân Đôn. Vào một ngày trong tháng 12 năm 1995,
ông đã bị đâm nay bên ngoài trường học của ông,
trong khi đang cố gắng bảo vệ một trong số các học
sinh đang bị một tên côn đồ tấn công, và ông đã chết
vì những vết thương quá nặng. Ông đã được các thính
giả cảu chương trình Thời Đại Ngày Nay ở đài phát
thanh BBC bình bầu là Nhân Vật Ấn Tượng nhất trong Năm.
Ông nhận được 23.130 phiếu bầu, trên cả ông John
Major, người sau này làm Thủ tướng (18.260 phiếu).
Vợ
ông đã nói rằng chồng bà “chắc chắn sẽ cực kỳ
bối rối về tất cả điều này. Ông ấy rất khiêm tốn
tới mức độ không tán thành chính bản thân mình”.
Thật là một điều hay, khi biết rằng người ta vẫn còn
nhận ra sự vĩ đại nơi một hành động giống như vậy.
Và thật là một điều hay, khi biết rằng có người nào
đó có thể làm được một hành động như vậy, và nhìn
vào hành động này như là một điều gì đó bình thường
và tự nhiên.
Philip
Lawrence là một người chủ chiên nhân hậu đối với các
học sinh của ông. Ông đã cố gắng tạo ra được một
môi trường an toàn trong đó các học sinh có thể được
học hỏi và phát triển, để có thể tự hào về bản
thân mình. Đối với ông, ông không thể chấp nhận nổi
sự việc cứ để mặc cho một trong số các học sinh của
ông bị một tên côn đồ đánh, mà không ra tay ngăn cản.
Philip
Lawrence nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng tình yêu đích
thực có nghĩa là gì, và tình yêu đó có thể mang giá
trị gì. Nếu chỉ yêu thương giới trẻ mà thôi thì chưa
đủ, mà chúng con phải được biết rằng chúng được
yêu thương. Điều này không chỉ áp dụng nơi học đường
mà còn trong gia đình nữa.
Lawrence
đã lấy được sức mạnh và tinh thần nơi đức tin Kitô
hữu của ông. Ông đang mô phỏng theo tình yêu của Đức
Giêsu, Chúa chiên lành, Đấng đã hiến mạng sống cho đàn
chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng
không phải theo lệnh của Chúa Cha. Chính Người đã tự
ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến
cho đàn chiên, để mang chúng về đồng cỏ của sự sống
đời đời.
Mỗi
Kitô hữu được gọi là người mang tình yêu thương và
sự chăm sóc. Chúa Nhật hôm nay là lễ của những người
biết quan tâm đến kẻ khác. Lễ này khuyến khích và
nâng đỡ những ai đang cố gắng noi guơng Chúa Chiên
Lành, và khêu gợi lương tâm của kẻ chăn thuê.
Những
người bước theo đường tình yêu thì tự mở ra khả
năng sẽ hạnh phúc hơn những người khác, và cũng đau
khổ hơn. Nhưng, như Carlo Carretto nói: “Không có gì là
khủng khiếp trên trái đất này nếu điều đó dạy cho
chúng ta biết yêu thương”.
12. Chúng theo Tôi
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
"Hỡi
các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa, các
thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau
những bông hồng, bông súng, những bài hát du dương và
những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ tràn nhân
đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của
Chúa"
Đó là
câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp, thấy
nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông
đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất để ca
ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm sóc
ông trong những ngày cuMàu áo dòng trắng, sự tươi tắn
và những lời ca êm dịu đã làm nhẹ nỗi đau của chàng
thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế
giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó chút hương thơm
của Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để thiên
đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc, Thiên
Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội
Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa: cần
bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước
chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng, cần sự trầm mặc
của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn tay nhẹ
nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những
trái tim không san sẻ, dám yêu hết mình, dám sống hết
tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người,
đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả
nước ta có gần 2.000 linh mục và khoảng 7.000 tu sĩ, một
con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân.
Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu, chúng
ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn và hãy giúp cho họ
nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên
trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu, nhưng
cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh
hiến.
- Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ, và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
- Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu, một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng
ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường để theo sát Ngài
hết sức có thể, một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục
và khiết tịnh.
Họ vui
lòng bỏ lại những gì họ quý yêu. Nhờ bỏ lại mà họ
được tự do thanh thoát. Nhờ sống nghèo, họ được
giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt. Nhờ vâng phục,
họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng. Nhờ khiết
tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng. Như thế
ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có
thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi, bởi lẽ
họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước
gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn dâng mình cho Chúa. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời kinh tế thị trường có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?
- Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống đời thánh hiến? Bạn có quen nhiều nhà Dòng không?
Cầu
Nguyện
- Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
- Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
- Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
- Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước
gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương, thấy
được những mất mát của bao người đau khổ, và chạm
đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
- Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, sống như Ngài đã sống và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
- Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con, thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội, để tất cả trở thành những môi trường tốt giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
13. Chúa Chiên Lành - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hình
ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng
chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời.
Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn
không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải
tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn
chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe”
và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết
chúng và chúng theo Ta”.
Nghe.
Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe
Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải
dễ.
- Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
- Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.
Vì thế,
để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật
bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng
suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa
với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo
Chúa.
Theo.
Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình
vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính
mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người
khác. Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức
độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ
thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình
đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng:
Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống
vì người yêu. Như thế, theo tức là yêu thương ở cao
độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ
động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết
với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên
tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ:
“biết” và “cho”.
Biết.
Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông
biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng
như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa
Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ
biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta
buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã
biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta
cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng
đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần
truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không
lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen
tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn
vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi
người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha
cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư?
Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải
chết như kẻ tội đồ nô lệ. Chúa Giêsu là người chăn
chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy
lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người
chúng ta.
Cho.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất
cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời
đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của
chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi,
đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì
Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người
ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ
nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng
sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một
tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng
ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc
sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ
nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng
ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị
lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy
chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở
thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong
một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có
những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn
chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng
ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp
lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh
chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho
các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt
lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta.
Lạy
Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết
lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đã
bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong sâu thẳm
tâm hồn bạn chưa?
2. Có
lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được
sống thân mật với Chúa chưa?
3. Bạn
cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở, sở nơi
bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?
14. Người mục tử.
Hình
ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc
đối với dân Do Thái và đã được Kinh Thánh sử dụng
nhiều lần. Thực vậy, tiên tri Egiêkien đã mô tả Đấng
Thiên Sai với vóc dáng của một người mục tử. Còn
Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông đi theo, Ngài đã thực
sự xúc động và nói:
- Ta thương đám dân này, vì họ bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không người chăn dắt.
Nhất
là qua đoạn tin mừng hôm nay, Ngài đã nhấn mạnh chính
Ngài là người mục tử nhân lành.
Theo
thói quen lúc bấy giờ, thì khi chiều xuống, những người
mục tử lùa đàn chiên của mình tới một nơi chung để
nghỉ qua đêm. Nơi này thường có hàng rào bao bọc và
một cửa ra vào, để người ta có thể kiểm soát một
cách dễ dàng. Ban
đêm, người ta thay phiên nhau canh giữ đàn chiên. Ban
sáng, các mục tử đến tìm đàn chiên của mình. Họ
đứng ở cửa và lên tiếng kêu. Đàn chiên nghe tiếng họ
và bước theo họ. Các mục tử khác cũng lần lượt làm
như vậy và dẫn đàn chiên tới đồng cỏ.
Hình
ảnh so sánh thật rõ ràng và trong sáng. Chúa Giêsu là
người mục tử nhân lành. Ngài vừa đi đầu, vừa chỉ
đường, để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh, cũng
như tới nguồn suối mát.
Là người tín hữu, chúng ta phải bước theo Ngài, cũng
như phải noi gương bắt chước Ngài. Ngài nhận biết mỗi
người chúng ta, nhưng đồng thời mỗi người chúng ta
cũng phải nhận biết Ngài. Đây không phải chỉ là một
sự nhận biết xuất phát từ trí khôn, mà còn phải xuất
phát từ trái tim, từ cõi lòng, hay nói cách khác từ tình
yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì bây giờ đến
lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương Ngài.
Tuy
nhiên, trong sự so sánh này có một vài điểm khác thường,
được Chúa Giêsu sử dụng để làm nổi bật tình thương
của Ngài đối với chúng ta.
Điểm
thứ nhất, đó là người mục tử sẵn sàng chiến đấu
để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói
rừng. Nhưng chết
để bảo vệ đàn chiên thì quả thật là hơi hiếm.
Người mục tử trong phúc âm không phải chỉ bảo vệ sự
sống của đàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì
đàn chiên. Chính nhờ sự hiến mạng sống này, mà chúng
ta có được kho tàng ơn cứu độ.
Điểm
thứ hai đó là người mục tử gọi tên từng con chiên.
Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái và để hoa trái các con tồn tại muôn đời.
Là
người tín hữu, chúng ta phải ý thức về ơn gọi của
mình. Thực vậy, Chúa Giêsu luôn nói với mỗi người
chúng ta:
- Hãy theo Ta. Nhưng đồng thời, Ngài cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người. Nếu ngày xưa, Ngài đã mời gọi người phụ nữ Samaria, cũng như đã mời gọi ông Giakêu ra khỏi quãng đời tăm tối và tội lỗi, thì hôm nay, Ngài cũng vẫn âm thầm mời gọi chúng ta sám hối và hoán cải cuộc đời.
Thế
nhưng, không phải chúng ta chỉ trả lời Ngài một lần
thay cho tất cả. Lời mời gọi của Ngài không ngừng
vang vọng suốt dọc cuộc đời chúng ta. Bởi đó, cuộc
đời chính là một cuộc đối thoại liên tục, chính là
một sự đáp trả không ngừng trước lời mời gọi ân
tình của Chúa.
Điểm
thứ ba, đó là người mục tử đi trước và đàn chiên
theo sau. Người mục
tử không đẩy đàn chiên đi trước, nhưng chính ngài là
người đi trước để chỉ đường dẫn lối cho đàn
chiên.
Với
chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng của người Kitô hữu
là bước theo Chúa. Mặc dù hôm nay chúng ta không nhìn
thấy Chúa nhãn tiền, nhưng tin mừng phúc âm của Ngài
chính là những chỉ dẫn cần thiết và bí tích Thánh thể
chính là lương thực bổ sức cho chúng ta suốt cuộc hành
trình trần gian.
Chúa
Giêsu là người mục tử nhân lành. Còn chúng ta, chúng ta
có thực sự là những con chiên trong đàn chiên đang sống
dưới sự chăn dắt của Ngài hay không?
15. Nghe Ta
Tất cả
các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm
nay, hay còn gọi là Chúa nhật lễ “Chúa Chiên Lành”
giới thiệu với chúng ta ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao
ban cho con người qua Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã
hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Ơn cứu rỗi và Tin
Mừng giải phóng mà Thiên Chúa cống hiến cho con người
qua Chúa Kitô là ơn cứu rỗi toàn vẹn, nó có sức mạnh
cứu rỗi con người cả hồn lẫn xác, nghĩa là chữa
lành mọi bệnh tật hay khổ đau. Các bệnh tật của con
người không chỉ là các sự dữ mà chúng phải xuất
trên bình diện sâu thẳm hơn, đó là sự không thỏa mãn
được những khát vọng sâu thẳm của con người.
Ơn cứu
rỗi Thiên Chúa ban cho con người không phải là thứ giải
phóng giả tạo hời hợt bên ngoài. Qua Chúa Kitô, Thiên
Chúa nhập thể làm người, Thiên Chúa gieo vào trong nhân
loại một mầm sống sự sống mới, một hình ảnh mới
về sự sống con người. Khi nhập thể làm người, Chúa
Giêsu cho thấy ơn gọi về phẩm giá vô cùng cao quí của
con người với những quyền bất khả xâm phạm, như
quyền tự do và quyền được kính trọng.
Khi mặc
lấy hình hài của con người, Chúa Giêsu dạy chúng ta
biết rằng, mỗi một người dù có nhỏ bé yếu đuối,
dù có bệnh hoạn tàn tật, dù có già nua tuổi tác đến
đâu đi nữa cũng đều có giá trị cao trọng trước mặt
Thiên Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên
Chúa, được tạo thành giống hình ảnh của Ngài và mang
trong mình hơi thở sự sống Thần linh của Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã khai sinh một thế giới có giá trị, trong
đó tình yêu thương, sự quí trọng đối với mọi tạo
vật, và tình yêu thương quí trọng đối với mỗi người
là tạo vật cao vời nhất kéo theo những hậu quả vô
cùng quan trọng và cụ thể trong cuộc sống xã hội như
trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hóa. Chính vì
thế nên cảnh con người quen thói bóc lột con người là
một thực tại phản nghịch tinh thần yêu thương của
Chúa Kitô.
Tin vào
Chúa Kitô Phục sinh là con người lãnh nhận được toàn
bộ và trọn vẹn ơn cứu độ qua biến đổi cuộc sống
trong tâm hồn cũng như trên thể xác. Bởi vì cuộc sống
mới mà Chúa Kitô ban cho con người tinh thần toàn vẹn là
cuộc sống làm con cái Thiên Chúa.
Thánh
Gioan khẳng định rõ sự thật này, tin nhận Cháu Kitô và
Tin Mừng yêu thương của Ngài là chúng ta trở thành con
cái Thiên Chúa, được giống Ngài và bước vào cuộc
sống hiệp thông với Ngài. Phẩm giá làm con cái Thiên
Chúa ấy đã được Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta qua Bí
tích Thánh tẩy, mầm sống mới thần thiêng ấy đã được
săn sóc vun xới lớn mãi trong tâm hồn và giữa cuộc
sống thường ngày của chúng ta.
Ơn gọi
Kitô như thế là trở thành giống Chúa mỗi ngày một hơn
cho tới khi chúng ta sẽ được biến đổi và hoàn toàn
giống Ngài trong cuộc sống hạnh phúc mai sau bên Chúa,
trong cuộc sống của những người được ơn cứu chuộc.
16. Đàn chiên
Mục tử
và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì
thế Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật
rõ ràng, thật đậm màu những đặc tính chủ yếu của
đề tài đó. Đặc biệt trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu đã nêu rõ đặc tính tốt lành của vị mục tử
và đàn chiên của Ngài thì “biết nghe tiếng Chúa” dám
“bước theo Ngài" để không bao giờ bị diệt vong
nhưng được sống đời đời.
Mỗi
ngày, chúng ta được nghe biết bao tiếng ồn ào được
phát xuất từ gia đình, từ quán xá và từ những người
xung quanh. Những làn sóng này có lúc nghe thật êm dịu,
nhưng không thiếu những lúc chúng ta có thể điên lên
được; một khi hàng xóm mỗi lúc một “tăng volume”
gây náo nhiệt cả hàng xóm. Nếu chúng ta cũng như họ,
nếu chúng ta không bằng lòng với họ, tôi hỏi thử
chuyện gì sẽ xảy ra? Nhưng một khi chúng ta nghe tiếng:
“Hãy yêu thương nhau như Thầy” thì cách giải quyết
của ta sẽ trở nên tốt hơn. Như vậy, giữa những âm
thanh cao độ của thế gian, vẫn còn có tiếng thì thầm
của Đấng tràn đầy tình thương đã và đang lan tỏa
trong suốt cuộc sống của chúng ta.
Tiếng
của Chúa chính là tình yêu.
Ngài yêu thương ta không phải ta đáng được yêu, nhưng
Ngài yêu vì chúng ta cần được yêu. Sống giữa xã hội
còn phân biệt sang hèn, tiếng của Chúa được vang lên
từ những trái tim của những người nghèo khổ, bị áp
bức. Tiếng Chúa hôm nay còn là tiếng kêu của đồng
bào, của xã hội loài người đang cần đến nhau để
sống, để có cơm ăn, áo mặc, để tạo được hạnh
phúc cho nhau. Và tiếng Chúa vẫn còn vang dội từng ngày
từng giờ thúc bách mỗi người chúng ta dấn thân theo
Chúa trên khắp nẻo đường, yêu thương và phục vụ;
yêu thương phục vụ và hy sinh đến chỗ không còn tìm
kiếm gì cho riêng mình. Hơn nữa, dám liều mình vì anh
em, như mục tử dám liều mình vì đàn chiên.
Giờ
đây, nếu chúng ta nghe tiếng Chúa mời gọi, chúng ta sẽ
đáp lại lời mời gọi làm sao?
“Chiên
tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”.
Nghe tiếng Chúa là tin nhận lời của Ngài, bước theo
Ngài là dấn thân sống lời Chúa một cách tự do và chủ
động. Bước theo Ngài không phải là phó thác hoàn toàn
cho Chúa, không phải là trao hết trách nhiệm cho Chúa, và
cũng không phải bám víu vào một mớ giáo lý; nhưng là
phải thực hành những điều ta lĩnh hội, là thực hành
như Ngài đã sống. Sống thực hành là đem lại tình yêu
thương dẫn dắt ta trong mọi quan hệ với tha nhân, là mở
rộng tâm hồn để tiếp nhận sự thật đến từ Thiên
Chúa.
Trước
mọi trào lưu tư tưởng mới, và trước mọi cám dỗ tấn
công, chúng ta hãy đứng vững vì chúng ta đã được nếm
thử cùng nghiệm được rằng Đức Giêsu là đường là
sự thật và là sự sống. Như thế, chúng ta sẽ cảm
thấy thực sự mình là người người tín hữu Kitô dám
bước theo Ngài và có khả năng làm chứng cho Ngài trước
thế gian. Lúc đó, hình ảnh mục tử và đàn chiên đạt
đến mối tương quan sống động và thân thương giữa
Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và những kẻ
theo Ngài. Chiên tốt lại gặp được mục tử lòng lành
tốt bụng thì thật là tuyệt vời và còn tuyệt vời hơn
khi mục tử hứa cho đoàn chiên “được sự sống đời
đời”.
Chiên
tôi…. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ
không bao giờ hư mất.
Với hình ảnh đó, lời dạy đó, chúng ta quen gọi Đức
Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Ngài hướng dẫn đoàn
chiên của Ngài, Ngài để tâm chăm sóc từng con chiên
trong đàn, Ngài không chỉ dẫn dắt đàn chiên đến đồng
cỏ xanh nước mát, mà còn dẫn chúng đến đích điểm
là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Ngay ở
trần gian, Ngài là Đấng chăn chiên lành dám thí mạng vì
đàn chiên, Ngài dám chịu mục nát đi như hạt giống
gieo vào lòng đất. Như thế, sự sống đời đời Ngài
ban cho ta ngay tại thế này chính là cuộc sống yêu thương
vô điều kiện. Và từ biến cố Phục sinh, con người đã
nên mới so với con người cũ, con người sống sót không
còn bị đóng khung sau quyền lợi và giá trị riêng tư
của mình, nhưng là một cuộc sống đầy yêu thương và
luôn mở rộng ra với mọi người.
Nếu
mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương
đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi
người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với
anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của
cuộc sống để cùng đưa nhau về nơi sự sống vĩnh cửu
mà mục tử Giêsu đã dọn sẵn cho chúng ta.
Hôm
nay, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh
mục, tu sĩ, chúng ta cũng được mời gọi sống trọn ơn
gọi (tiên tri – tư tế – vương đế) của mình bằng
cách lắng nghe và bước theo Thầy Chí Thánh để trở nên
những mục tử tốt cho nhau. Nhất là chúng ta cầu xin
Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều mục tử biết sống kết
hiệp mật thiết với Đức Kitô, trung thành với ơn gọi
của mình để diễn tả đúng khuôn mặt của Đức Kitô,
bằng việc nỗ lực thi hành từng ngày từng phút sống
phù hợp với tiếng của Ngài không ngừng vang vọng trong
thâm tâm ta: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết
chúng và chúng theo Tôi”.
17. Theo Chúa
Chúa
Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng
tước vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử
sao cho xứng đáng. Vật không có lý trí còn biết bổn
phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính,
càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa
chiên vô cùng nhân hậu ấy.
Đâu là
bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình?
Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và
chúng ta ghi nhận được hai bổn phận chính yếu, đó là
lắng nghe và bước theo.
Lắng
nghe: mỗi buổi
sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng con chiên
và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.
Ban chiều, chủ chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên
nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con chiên muốn được
nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không
những phải biết nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có
can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.
Chúng
ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của
Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng
nghe tiếng Chúa. Chúa đã nói: “Chiên của Tôi thì nghe
tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. NHư vậy,
dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con
chiên tốt lành của Chúa là nghe tiếng Ngài.
Mặc dù
hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường như
ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ.
Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta. Phải,
Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì lương
tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ
thẳm sâu cõi lòng, thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ.
Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua Tin Mừng, bởi vì
với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn
hướng dẫn cho cuộc sống, cũng như những cách thức
giúp chúng ta giải quyết những tình huống gặp phải.
Bước
theo: lắng nghe tiếng
Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều quan trọng là
phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã
từng được nghe chúa giảng dạy và họ cũng đã từng
cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng bao
giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng
chống lại Chúa. Họ giống như những người ngồi xem
xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên
dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây
thì họ lại không dám. Cũng như chàng thanh niên giàu có,
cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường
trọn lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: “Con hãy về,
bán hết của cải và chia sẻ cho người nghèo, rồi đến
theo Ta”, thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không
có đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc,
chàng không dám liều, không dám dấn thân để bước theo
Chúa.
Như
vậy, “nghe tiếng” Chúa không phải là chỉ nhận ra
tiếng nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân
theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc biệt là giữ
các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức
là điều răn yêu thương: “Cứ dấu này người ta biết
các con là môn đệ Thầy”, là các con thương yêu nhau.
Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là
những con chiên tốt lành của Chúa.
Nói rõ
hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải
cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc
biệt là thực thi giới luật yêu thương, bởi vì giới
luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày
kia, có một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu
gọi mọi người đóng góp cho việc từ thiện. Rất nhiều
người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên,
khoảng 30 tuổi, tiến đến và quì dưới chân vị linh
mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh nói:
“Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin
cha tha tội cho con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý
định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha. Nhưng lời
Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc
động và con đã từ bỏ hành vi ám muội của con”.
Chúng
ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử
hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn
của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức
tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử tốt
lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua
những người lãnh đạo trong Giáo Hội, là Đức Giáo
Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận
nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các
ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để
duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình,
tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên
rộng lớn hơn là Giáo Hội.
Sau hết,
hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện
cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính
Chúa đã dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì
ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Nếu
muốn có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu,
chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chúng ta luôn cầu xin
Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều thợ
gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ
biết nghe tiếng Chúa và các linh hồn kêu gọi họ dấn
thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu. Những
lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan
Chúa, Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta, như Chúa
đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin nơi ấy
được.
Chúng
ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa
cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là
luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và sống theo lời Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan, thánh
thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn
dắt mọi người biết yêu thương nhau để tất cả trở
nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.
18. Ơn gọi – Lm. Phạm Thanh Liêm
Hôm nay
Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu
sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời
kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên
Chúa cho con người thời đại.
Tôi
ban cho chúng sự sống đời đời
“Con
chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng
theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng
sẽ không hư mất”.
Ơn gọi
tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và
để Ngài sai đi”(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe
tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với
Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn
sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng
Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được
cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời
cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu
ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa,
theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là
điều kiện nền tảng để hạnh phúc.
Không
ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
“Không
ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban
chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có
thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.
Ơn gọi
rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ
được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể
huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính
người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành,
Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay
đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi
không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung
thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết
ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng
vô cùng chắc chắn. Ơn gọi không khởi đầu do con người,
nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con
người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi,
để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ
thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con
người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài
kêu gọi.
Dụng
cụ ban ơn cứu độ
Thánh
Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài
đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn
cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận
Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô
vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị
đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong
sứ mạng được trao. Ơn
cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được
Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được
chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.
Mỗi
người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn
cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi
người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở
thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người
hôm nay.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Ơn gọi là gì? Làm sao biết một người có ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
- Ơn gọi linh mục, tu sĩ và ơn gọi hôn nhân, ơn gọi nào cao quý hơn? Tại sao?
- Làm sao để nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục?
19. Chú giải của Noel Quesson
Tôi
là…
Cần
phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu
đã không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng
theo thánh Gioan (Ga 4,26; 7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta
cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu viết "bốn
chữ cái không phát âm được là "Tên mầu nhiệm"
mà chính Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa
mạc Sinai.
YHVH
được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai",
"Đức Chúa”. Hơn
nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng
theo thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ
trên "Tôi là...", kèm theo một phẩm tính:
- "Tôi
là Bánh hằng sống" (Ga 6,35-42,48-51).
- “Tôi
là ánh sáng thế gian" (Ga 8.12-9,5).
- "Tôi
là Sự sống lại và là sự Sống" (Ga 11,25).
-"Tôi
là Cây nho thật" (Ga 15,l-5).
-"Tôi
là Cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7-9).
-“Tôi
là Mục tử nhân lành" (Ga 10,11-14).
Theo các
nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói trên
muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh
Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm"
(Ga l,14).
Tôi
là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).
Ở đây,
Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân
gian và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu
nói Kinh Thánh vô cùng phong phú. Trong khắp vùng Đông
Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử
chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó
khi giải thoát dân riêng khỏi Ai Cập: "Người lùa
dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng
như đàn cừu ngang qua sa mạc" (Tv 78,52). Đavit, một
trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của
Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35). Ông
Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng
được loan báo như một “Mục tử”: "Ta sẽ chỗi
dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó
là Đavit, tôi tớ của Ta" (Ed 34,23).
Mọi
thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều
hiểu rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là
chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ Êdêkien, diễn tả khá
dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan
tâm chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết
rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế này: Chính Ta sẽ tìm
kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo
chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi
chúng nơi bãi cỏ tốt. Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của
Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm
kiếm" (Ed 34,1-31).
Như
thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về
địa vị đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: "Nhiều
người trong nhóm họ nói: ông ấy điên khùng rồi? 'Kẻ
khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà
lại tự cho mình, là Thiên Chúa" (Ga 10,20-33). Chính vì
thế, họ lấy đá để ném Đức Giêsu.
Có lẽ
chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh "Mục
tử" biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22:
"Chúa là Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu
thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người cho tôi nằm
nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ
sức cho tôi”.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu
nguyện như thế, không phải là một kiểu cầu nguyện
chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ
nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội
dung cầu nguyện phong phú hơn.
Chiên
của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo
tôi.
Ngày
nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một
nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh
thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh của Kinh Thánh mang
ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức
Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù
hợp với con người: nghe, biết, theo.
“Nghe":
đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong tương
quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của
tình yêu đích thực. Biết bao lần, ngay trong một nhóm
người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn tròn, ngay
trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế
mà thực sự ta, chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các
ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel biết lắng nghe. "Hỡi
Israel, hãy nghe đây?" (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv 29,3-9). Lắng
nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới
thiệu Đức Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa
Cha muốn ngỏ cùng thế gian. "Đây là Con yêu dấu của
Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt 17,5).
“Theo":
đó là một hành động không có gì là thụ động cả,
nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân
một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo
nghĩa là gắn bó với... Đức Giêsu mời gọi: "Hãy
theo tôi" (Ga l,42).
“Biết”:
trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý
nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết
người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán
được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn
nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân
xác... là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,l).
Tôi
ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng
phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay
tôi.
Đây
đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và
đoàn chiên, giữa Đức Giêsu và "những kẻ nghe tiếng
Người và theo Người". Đúng là một sự liên kết
vĩnh viễn.
Lạy
Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự
con đang ở trong "bàn tay Chúa". Bàn tay mà Chúa đã
giơ ra cho người bệnh để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa
đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển.
Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm
Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang rộng trên thập giá tại
đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu
qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó,
Chúa đã nắm chặt lấy con và không ai có thể cướp
được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.
Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả,
và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Như
thế, chúng ta được cả "hai bàn tay" giữ gìn.
Như một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng
dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh đó đẹp biết
bao!
Lạy
Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng
Chúa. 'Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những
người con thương mến trong bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là
cảnh sắc màu mè diễn tả những "mục tử hiền
lành" và các chú cừu con lông xoăn". Người mục
tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một
thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình
khỏi thú dữ... gấu hay sư tử đến để cướp đoạt
một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).
Đức
Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc
giao chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu
trong cuộc Thụ khổ để đối phương "không cướp
được" một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ
chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu
sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của
Người (Ga 10,12-15).
Cùng
với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến đấu để cứu
sống anh em tôi không?
Không
ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp
được chúng khỏi tay tôi.
Thế
nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện
tượng bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh
chúng con, hay ngay trong đời sống chúng con?
Đó là
mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần
biết, đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con
người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời
bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. "Người
nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một
con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để
đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc 15,4-7).
Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên
Chúa, để nghĩ rằng Người có thể kết án những tội
nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối
với Thiên Chúa yêu thương!
Tôi
và Chúa Cha là một.
Các
chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa
Cha, Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở
trong bàn tay của Thiên Chúa.
Những
kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực
thẳm choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu
Nadarét: trong con người thực sự đã được sinh ra từ
một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị
giết đi, lại chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói
năng và hành động. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa tự
mạc khải trong tình thân hữu với con người. "Tôi
và Chúa Cha là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực
xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng sẽ không khi
nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu
nhiệm của con người Giêsu. Tất cả những gì đã nói,
trong công thức trên, chỉ có thể phải "lắng nghe"
trong đức tin: "Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một...
Thiên Chúa và tôi, Giêsu, chúng tôi là một"
- Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban sự sống đời đời".
- Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể tuyên bố: "Tôi là...".
- Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa", bằng cách cho Người từ cõi chết sống lại.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
“TA LÀ
ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH”
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành.
Bản
văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch
tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một
người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội
đường, Đức Giêsu tỏ ra là một "Đấng chăn chiên,
hiến tặng đời mình cho đàn chiên" (Ga 10,11)
Giờ
đây, chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng
năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa
Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn
(nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ
họp, Cv 5, 12). Những người Do Thái - từ ngữ chỉ chung
các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gioan - tụ
tập quanh Đức Giêsu (đúng ra là "quanh Người":
10,22). Tin Mừng ghi: "Lúc đó là mùa đông" (Ga
10,22); nói thế, để từ thời tiết, chúng ta dễ nghĩ
tới "sự băng giá" của lòng người theo thánh
Augustinô sẽ viết sau này. "Nếu ông là Đấng cứu
thế, hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi".
Những
người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người
kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một
vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù bấm sinh
mới đậy. A. Marchadour giải thích: "Các phép lạ được
coi như nhũng dấu chỉ, nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu
thế. Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên,
hình ảnh truyền thống của Đấng cứu thế dòng dõi
Đavít; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên
mà Chúa Cha trao phó cho Người.
2.
Làm một với Chúa Cha.
Và bây
giờ, một đề tài mới, cho tới lúc này, chưa đề cập
tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: "Cha tôi và
tôi, chúng tôi là một". Một khẳng định xác lập
cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa
Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến
nỗi không ai có thể cướp được một con nào. "Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và
không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha"
Đối
với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm
thượng? Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn
thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để
ném Người. Họ nói: "Ông chỉ là phàm nhân mà lại
tự cho mình là Thiên Chúa". Tác giả Tin Mừng kết
thúc: “Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Tác giả
như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng
của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ
cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh
của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào;
trên con đường sự sống nào, Người muốn dẫn đưa
những ai nghe tiếng Người và đi theo người; Mối tình
hiệp thông yêu thương nào với Chúa Cha mà Người muốn
dẫn đưa chúng ta tham dự vào?
BÀI
ĐỌC THÊM
1.
Theo Đức Giêsu
(G.
Boucher, trong "Thiên đường tại thế").
Lạy
Chúa, chúng con không muốn mình bị đồng hóa với đàn
súc vật. Con không thích là một chú chiên chỉ biết đi
theo người chăn chiên..Con cũng không muốn kêu be be như
con chiên. Con nói điều con nghĩ, đi nơi con thích. Con
không muốn bị dắt đi.
Ngày
nay, chúng con nhấn mạnh đến sự thức tỉnh của lương
tâm: mỗi người sẽ chọn lấy hướng đì mà mình muốn.
Mong sao có trong tay phương tiện thực hiện sự lựa chọn
của mình. Ngày nay, chúng con thích chịu trách nhiệm về
số phận mình. Chúng con không muốn trao tấm bảng trắng
đời mình cho các nhà lãnh đạo hoặc những người chúng
con bầu ra để họ muốn làm gì thì làm. Ngược lại, họ
phải trả lời cho chúng con về những việc họ đã làm.
Nhưng,
Chúa lại nói với con rằng: giữa con và Chúa là sự hiệp
thông. Mong sao Chúa nói lời soi sáng và hướng dẫn đời
con. Chúa thuộc một bình diện hoàn toàn khác.
Nghe
Chúa và đi theo con đường Chúa đã vạch ra, con sẽ sống
cuộc sống tốt đẹp và trọn vẹn, cho tới nỗi cuộc
sống ấy sẽ không ngừng lại khi sự hiện hữu trần
thế chấm dứt. Cuộc mạo hiểm mà Chúa dắt con đi sẽ
dìm con vào sự sống vĩnh hằng.
Với
Chúa, mọi sự sẽ đổi khác. Chúng con không còn nguy cơ
sẽ bị huỷ diệt nữa. Không ai tiêu diệt được chúng
con. Không gì có thể xâm phạm đến chúng con.
Nghe lời
Chúa và đi theo con đường Chúa thiết lập là chúng con
lên đường với Chúa. Con muốn nói: với Thiên Chúa. Với
Thiên Chúa của sự sống và của sự vĩnh cửu. Với
Thiên Chúa mà Chúa đã gọi là Cha.
2.
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
(Sứ
điệp của Đức Gioan-Phaolô II).
Ngày
nay, vẫn còn nhiều nguyên do cản ngăn thanh thiếu niên và
các bạn trẻ sống sự thực của tuổi đời mình trong
sự gắn bó quảng đại với Đức Kitô. Biết bao bạn
trẻ đang đánh mất năng lực phát triển đích thực.
Vậy
nên mong đợi gì? Trong thâm tâm mỗi thế hệ luôn ẩn
tàng một ước muốn tạo lập một ý nghĩa cho đời
mình. Trên
hành
trình cuộc sống, các bạn trẻ luôn tìm một người biết
thảo luận với họ, những vấn đề làm họ bức xúc và
đồng thời đề ra được những giải pháp, những giá
trị, những viễn cảnh đầu tư được sự dũng cảm
đương đầu với tương lai.
Điều
người ta đòi hỏi hôm nay là: một Giáo Hội biết trả
lời cho sự kỳ vọng của tuổi trẻ. Đức Giêsu mong
muốn thảo luận với họ qua thân thể người là Giáo
Hội. Người muốn đề nghị với họ viễn cảnh của
một chọn lựa có tính quyết định cuộc đời Như Người
đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, Giáo
Hội ngày nay cũng phải lên đường đồng hành với các
bạn trẻ đầy ưu tư, bất mãn và mâu thuẫn, để loan
báo cho họ Tin Mừng kỳ diệu của Đức Kitô phục sinh.
Điều
người ta đang cần là một Giáo Hội cho các bạn trẻ,
một Giáo Hội nói chuyện được với lâm hồn họ, hâm
nóng con tim họ bằng niềm vui của Tin Mừng, bằng sức
mạnh của
Thánh
Thể, một Giáo Hội biết đón tiếp và mời gọi những
ai đang đi tìm mục đích
cuốn hút toàn bộ cuộc sống của họ; một Giáo Hội
không sợ đòi hỏi nhiều sau khi đã cho đi không ít; một
Giáo Hội không sợ đòi hỏi nơi bạn trẻ sự nhọc mệt
của một cuộc mạo hiểm cao thượng và chân chính, cuộc
mạo hiểm bước “theo" Tin Mừng.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA
GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
CHO
CÁC CHIÊN CỦA NGÀI
1.
Khác với các phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song),
Gioan không tường thuật vụ án Chúa Giêsu trước công
nghị Do thái trong cuộc khổ nạn. Vì theo ông, vụ án
thực sự đã diễn ra trước khi Chúa Giêsu bị bắt,
trong những lần tranh luận với người Do thái, đặc biệt
trong cuộc tranh luận hôm nay. Lúc này cũng như trong vụ
án chính thức theo pháp luật về sau. Chúa Giêsu bị ép
buộc trả lời rõ ràng Người có phải là Đấng Messia
không (c.24) và cuối cùng Ngài tự xưng mình là Con TC
(x.Lc 22,70) bằng cách tuyên bố rằng Cha Ngài và Ngài ở
trong Cha, trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và
việc làm.
Tuy
nhiên trước khi tuyên bố dứt khoát điều đó, Chúa
Giêsu cảm thấy phải cứ quả quyết không ngừng cho
những kẻ đối thoại với Ngài. Đó là điều làm cho
người Do thái và “chiên của Ngài” khác biệt nhau. Đối
với người Do thái, những lời Ngài nói, phép lạ người
làm không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có
dã tâm và không muốn tin. Chính trong bối cảnh đó mà
Chúa Giêsu nói đến chiên của Ngài, đối nghịch với sự
ngoan ngoãn và ngay thẳng của đàn chiên với tính hiểm
ác của người Do thái. Dĩ nhiên Ngài không cần nhiều
dấu hiệu bên ngoài như vậy, vì chúng nghe và đi theo chủ
chiên. Phần mục tử, Ngài biết chiên mình và đảm bảo
cho chúng sự sống đời đời. Trong tay Ngài, đàn chiên
được an bình không bị ai đánh cướp.
2.
Về câu 29, bản Hy lạp không được chắc chắn lắm. Các
thủ bản ở đây chia làm nhiều nhóm. Ta có thể tóm gọn
thành hai:
Nhóm
thứ nhất chọn
câu: ho pâtêr mou ho dedoken moi pântôn meizon estin, dịch
từng chữ là “Cha Ta, điều Ngài ban cho Ta thì lớn lao
hơn tất cả” (bản Vaticanus, Versions latines, Sinaiticus,
Codex Freer và chung chung các giáo phụ Latinh). Câu này có
thể hiểu được hai cách: điều mà Chúa Cha ban cho Chúa
Con chính là bản tính của Người (Augustin, Thomas,
Lnabenhauer...) hay quyền năng của Người (Schanz, Belser...)
và đó là điều cao trọng hơn tất cả. Nhưng ai mà dám
nghĩ đến việc cất bản tính và quyền năng của Chúa
Con khỏi tay Chúa Cha? Cho nên lối giải thích thứ nhất
này khó chấp nhận xét theo văn mạch. Văn mạch nói đến
việc ban tặng là ban tặng các chiên (ý kiến chung), vì
thế phải hiểu: “Điều mà Chúa Cha ban cho ta (các chiên)
là quà tặng quí giá nhất”, như thế ta hiểu đó là lý
do khiến Chúa Con phải giữ gìn quà tặng đó, và một
khi đã ban cho Con, Chúa Cha cũng luôn lưu tâm đến tặng
vật này.
Nhóm
thủ bản thứ hai
(nhóm K, Codex Coridethi, codex Bezae, và các giáo phụ Hy lạp)
chọn câu: ho pâtêr mou hos dedôken moi pantôn meizôn estin,
có thể dịch: “Cha Ta, đấng đã ban cho chúng ta, thì lớn
hơn tất cả mọi sự”, nghĩa là: Cha Ta, Đấng đã ban
cho Ta các chiên, là Đấng cao trọng hơn mọi loài và vì
thế...Ngài đặt chúng trong tay Ta mà không ngừng giữ
chúng trong tay Ngài. Ở đây, tay có nghĩa là quyền năng,
quyền năng chung của hai Đấng. Câu này xem ra thích hợp
hơn với văn mạch và đã được số đông tác giả theo
(Louis, Bultmann, Barret, BJ, TOB...). Tuy nhiên nó bị chỉ
trích là đã được sửa đổi để thêm phần sáng sủa.
Nói rằng Chúa Cha lớn lao hơn hết mọi sự là điều
hiển nhiên, cần gì nêu lên ở đây. Dầu vậy, câu (b)
này ngày nay đã được hầu hết chấp nhận.
Dù sao,
điều làm chúng ta chú ý chính là tay của Chúa Con, được
đặt ngang hàng với tay Chúa Cha, hay đúng hơn cả hai tay
cùng bảo vệ giữ gìn đàn chiên. Chúa Giêsu xem ra tự
gán cho mình quyền ban sự sống cho các tâm hồn và giữ
gìn chúng trong tay. Nhưng rồi theo thói quen (5,19tt;
6,37;7,16; 8,49; 10,18), Chúa Giêsu vội vàng liên kết Cha
Ngài vào công trình của Ngài, vì Cha là nguồn mạch mọi
ơn huệ: Chúa Cha giao cho Chúa Con một vật và gìn giữ
bằng sức mạnh của mình, cũng như Chúa Con gìn giữ
những gì nhận được từ Cha.
3.
Lời tuyên bố trong câu 30 ("Cha và Ta là một") về
sự hiệp thông mật thiết của Chúa Giêsu với Cha Ngài
là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần tính
của Ngài và mầu nhiệm sâu xa của TC. Chính trên đỉnh
sáng ngời đó mà Chúa Giêsu chấm dứt tranh luận với
người Do thái: Ngài có thể mạc khải thêm cho họ điều
gì nữa? Và đó là nghĩa mà người Do thái hiểu khi nghe
Chúa Giêsu tuyên bố như thế, vì lập tức sau đó họ
ném đá Ngài “bởi lẽ ông là một người phàm mà dám
cho mình là TC”.
Câu 30
này đã nổi tiếng trong lịch sử tranh luận với tà giáo
Ariô. Chúa Giêsu không nói: “Ta và Cha Ta, chúng ta là một
ngôi vị” (heis) nhưng bảo: “chúng ta là một sự (hen,
chose), chúng ta đồng một bản tính và vì thế mà tay Ta
(c.28) cũng quyền năng như tay Cha Ta” (c.29). Tất cả thần
học gia chống Ariô, từ tertullien đến Augustin đã dùng
câu 30 làm công thức thánh kinh nói về việc Chúa Cha và
Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị.
KẾT
LUẬN
Ân sủng
thần linh cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng mọi
khó khăn bên ngoài (Rm 8,31-39) bất cứ từ đâu đến,
nhưng ân sủng không ép buộc ai cả. Con người có thể
từ chối không muốn được cứu rỗi: “TC chỉ từ bỏ
những ai xa tránh Ngài trước” (công đồng Triđentinô,
DS 1537).
Ý
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.
“Người Do thái mới vây quanh Chúa Giêsu”. Họ muốn
chất vấn Ngài lần nữa vì Ngài làm họ khó chịu. Họ
đột nhiên nói với Ngài: “Cho đến bao giờ nữa, ông
còn để lòng trí chúng tôi phân vân lưỡng lự? Nếu quả
ông là Đức Kitô, xin nói trắng ra cho chúng tôi”. Chúa
Giêsu hẳn làm cho họ bối rối nhiều và có lẽ làm cho
họ nghi ngờ. Họ muốn biết thực hư. Ai trong chúng ta
không một lần chất vấn Chúa như thế: Ngài là ai đối
với tôi hôm nay? Tìm Ngài chỗ nào? Trong mọi hỗn loạn
thời đại, trong bao cuộc đặt lại vấn đề, Chúa ở
đâu? Đâu là sự thật? Đúng hơn, khi một vấn đề đặt
ra khiến phải chọn lựa chúng ta đã không từng muốn
một câu trả lời rõ ràng đó sao? Thảm kịch chính là
chúng ta không biết gì nữa; khiến ngập tràn đến độ
làm chúng ta không còn hiểu gì nữa. Đây là một nghịch
lý đáng sợ: kiến thức càng tăng thì càng dẫn đến sự
vô tri về chân lý. Như những người Do thái, chúng ta
muốn biết ai là người kêu gọi chúng ta qua phúc âm, ai
là người đảo lộn cuộc hiện hữu của chúng ta và đặt
lại vấn đề đời sống chúng ta.
Chúa
Giêsu xem ra không trả lời gì cả. Chính công việc Ngài
đã thực hiện làm chứng cho Ngài; và nếu người ta
không tin Ngài, đó là vì họ không thuộc đàn chiên Ngài,
theo Ngài và thuộc về Ngài vì Chúa Cha đã ban họ cho
Ngài. Và Ngài nói: “Cha ta và Ta là một”. Phải nói là
câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hoang mang. Chúng
ta vừa chấp nhận, vừa bất mãn, vừa nghi nan. Câu trả
lời đó của Chúa Giêsu gợi lên những âm hưởng sâu
xa, đánh động tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không
thỏa mãn vì câu ấy đặt ra nhiều vấn đề: làm sao trở
thành chiên của Chúa. Đặt vấn nạn này là vì chúng ta
không biết câu trả lời; thế mà hình như Chúa Giêsu nói
rằng câu hỏi chỉ đặt ra cho những kẻ không thể hiểu
câu trả lời. Những phản ứng của chúng ta vừa biểu
lộ sự thỏa mãn cũng như bất mãn; điều đó chứng tỏ
chúng ta vừa là chiên vừa là người Do thái, và chúng ta
vẫn đặt câu hỏi mặc dầu một cách nào đó đã biết
câu trả lời.
2.
Nên lưu ý nghịch lý này là: những ai đặt câu hỏi thì
không thể nghe được câu trả lời; còn những ai nghe
được câu trả lời thì không cần đặt câu hỏi. Người
Do thái đặt câu hỏi, chúng ta cũng vậy, một phần nào
đó trong con người chúng ta chưa thuộc về Chúa cũng muốn
hạch hỏi Người. Nếu người Do thái đã có khả năng
lắng nghe, thì họ đã gặp được câu trả lời, đã
sống câu ấy và không hỏi gì nữa. Đặt vấn nạn như
họ làm cho họ không nắm được câu đáp, vì họ chỉ
chuẩn bị để phê bình, lượng giá câu trả lời theo
các định kiến và hiểu biết của họ. Họ chỉ chấp
nhận chân lý bao lâu họ thấy hòa hợp với những gì họ
đã biết. Họ không thể chấp nhận Đức Kitô bởi không
chịu được một giải đáp khác với giải đáp họ đã
có sẵn.
3.
Trái lại, các chiên không đặt câu hỏi, không phải vì
đã biết được giải đáp, song vì điều đó không cần
thiết. Chúng có một não trạng khác. Chúa Giêsu diễn tả
chúng bằng hai tiếng: “Chúng nghe và theo”; Ngài nói
tiếp: “Ta biết chúng” và “chúng biết ta”. Đàn
chiên không cần đặt vấn đề danh tánh Chúa Giêsu. Chúng
thuộc về một giống đặc biệt. Cũng như chúng ta vừa
thuộc não trạng người Do thái đang cật vấn Chúa, vừa
thuộc dòng giống này. Chúa Giêsu diễn tả đàn chiên với
vẻ âu yếm: Ngài biết chúng, ban cho chúng sự sống, bảo
vệ chúng khỏi những kẻ ám hại. Đàn chiên không thể
cắt nghĩa vì sao Ngài làm như vậy, nhưng chúng biết Ngài
nên “chúng nghe và đi theo Ngài”. Chúng sẵn sàng lắng
nghe, đón nhận cái bí ẩn, đi đến nơi mà Chúa dẫn tới
và chấp nhận mọi nghịch cảnh có thể xảy tới.
4.
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quá ham chất
vấn, luôn tìm cách phân tích cái mới lạ, giản lược
nó thành tầm thường - đó là một cách tự đóng kín
mình, làm mình mất khả năng tiến bộ, biến đổi. Hãy
biết lắng nghe, biết mình ngu dốt, biết rằng đấng vô
danh luôn luôn kỳ lạ, rằng một cách nào đó Chúa luôn
là một đấng chúng ta không thể biết rõ, vì chúng ta
không thể hiểu được cách tường tận bao lâu còn ở
thế gian này. Nhưng để luôn luôn kết hợp mật thiết
với Chúa, để sống hạnh phúc thật sự ở cõi trần
này, chỉ có một con đường: nghe và theo Chúa.
Đăng nhận xét