Các
bài suy niệm CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH - Năm C
Lời
Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35
MỤC
LỤC
1.
Yêu thương anh em
2.
Yêu thương
3.
Điều răn mới
4.
Yêu người như Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5.
Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
6.
Giới răn yêu thương – R. Veritas.
7.
Giới răn yêu thương
8.
Ai là gương mẫu của chúng ta? - Achille Degeest
9.
Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
10.
Ai yêu thương đều là Kitô hữu
11.
Giới răn yêu thương – Flor McCarthy.
12.
Giới luật yêu thương
13.
Điều răn mới
14.
Yêu thương
15.
Tình thương
16.
Yêu thương
17.
Suy Niệm của JKN
18.
Chú giải của Noel Quesson
19.
Suy niệm của nhóm Nha Trang
20.
Chú giải của Fiches Dominicales
21.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Yêu thương anh em
Thầy
truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu
thương nhau.
Không
phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu
thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải
giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta
thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể
thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở
đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới luật của
Chúa có điều chi mới mẻ?
Dựa
vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có
thể tìm thấy được những nét độc đáo của tình
thương yêu trong Kitô giáo. Nét
độc đáo thứ nhất đó là hãy yêu thương nhau như Chúa
Giêsu đã yêu thương chúng ta.
Thực vậy, cái khuôn mẫu lý tưởng, cái thước được
dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là
mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân
của mình nữa, nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu,
Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để
cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có
tình yêu cao quý hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn
hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt lành.
Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn
chiên. Tình yêu ấy không bị giới hạn, không bị ngăn
cách nhưng được dành cho hết mọi người.
Bên
cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của
mình, kể cả những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm
cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để vươn
lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình.
Người trộm cắp cũng được mời gọi tham dự tiệc
cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân
Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy
lòng nhân từ và thương xót đối với mọi người, không
trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên
mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như
Thầy đã yêu thương các con.
Nét
độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên
dấu chỉ của những người thuộc về Chúa.
Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ
Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa Giêsu
không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái
như các tiến sĩ luật, cũng không bắt họ phải sống gò
bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất Ngài
đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.
Ngay từ
đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu
thương để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải
qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm hồn ở mọi
nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu
xuyên qua những chứng từ sống động của những người
tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động bác ái yêu
thương.
Trong
cuộc sống hằng ngày không phải chúng ta không biết rằng
thương yêu là đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng,
thương yêu là giới luật mới của Chúa Giêsu, thương
yêu là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Thế nhưng,
từ chỗ biết đến chỗ sống, từ chỗ hiểu đến chỗ
làm luôn luôn có một khoảng cách. Chúng ta vẫn thích lấy
lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác.
Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình thương ấy trong một
phạm vi hạn hẹp nào đó. Chúng ta vẫn thích tính toán
cộng trừ để tình thương không làm chúng ta bị thiệt
thòi mà trái lại còn đem đến những lợi ích riêng tư.
Chúng ta vẫn muốn dựa vào màu cờ, sắc áo hay danh xưng
để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chúng ta không dám
chứng tỏ bằng những hành đông yêu thương và hy sinh
mạng sống của mình. Quan hệ của chúng ta còn quá vụ
lợi.
2. Yêu thương
Từ
ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình
yêu vốn là một đề
tài được khai thác nhiều nhất. Nào sách báo và phim
ảnh; nào âm nhạc và tuồng kịch; nào truyền thanh và
truyền hình…tất cả đều nói đến tình yêu. Tuy nhiên,
nhiều khi tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh
lệch lạc và què quặt, khiến cho tình yêu ngày hôm nay
như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ
trong nếp sống, những suy đồi trong luân lý và những đổ
vỡ trong hôn nhân.
Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã đến và Ngài đã xác định cho
chúng ta một lập trường rõ rệt, Ngài đòi hỏi nơi
chúng ta một tình yêu chân thành dành cho Ngài cũng như
dành cho tha nhân: Các
con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh
em như chính mình.
Nhìn
vào xã hội, chúng ta thấy: mặc dù tình yêu đang bị
thui chột và tàn úa đi rất nhiều, nhưng không phải là
không còn những tình yêu chân thành vá tốt đẹp. Tình
yêu không chết, nhưng nó phát triển một cách âm thầm,
không ồn ào, không rùm beng quảng cáo. Đúng thế, ngày
hôm nay vẫn còn có những người vì yêu thương mà hết
năm này qua năm khác, hy sinh cả cuộc đời để chăm sóc
cho những kẻ ốm đau. Ngày hôm nay vẫn còn có những
người dâng hiến bản thân để làm sáng danh Chúa và cứu
rỗi các linh hồn.
Ngày
hôm nay vẫn còn có những ông chồng, mặc dù đời sống
kinh tế gặp nhiều khó khăn, vẫn trung thành với người
vợ bệnh tật và vẫn luôn chịu khó làm lụng để chăm
sóc cho đàn con thơ dại. Ngày hôm nay vẫn còn những
người vợ ân cần lo lắng cho chồng, cho con, mặc dù
người chồng thì độc ác và con cái thì ngang bướng ngỗ
nghịch.
Vậy
đâu là suối nguồn mang lại sức mạnh nâng đỡ cho
những tình yêu yêu cao đẹp ấy? Câu trả lời duy nhất,
đó là sức mạnh và vẻ cao đẹp của tình yêu chỉ có
thể xuất phát từ nơi Thiên Chúa, từ nơi Đức Kitô mà
thôi.
Đúng
thế, tình yêu cũng có cái gia phả, cũng có cái gốc gác
và cội nguồn của nó. Nó xuất từ nơi Thiên Chúa, bởi
vì Ngài là nguồn mạch mọi thương yêu, như lời thánh
Gioan Tông Đồ đã xác quyết: Thiên Chúa là tình yêu. Rồi
từ đó, vũ trụ vạn vật và nhất là con người đều
là những dấu chỉ, những biểu hiện của một tình yêu
bao la mà Ngài đã thực hiện mà thôi.
Hơn thế
nữa, mặc dù biết trước con người sẽ phản bội, quay
lưng chống lại Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương và đi
bước trước đến với chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ
và thập giá, như lời thánh Gioan Tông đồ cũng đã xác
quyết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta
còn là tội nhân. Ngài đã yêu thương nhân loại đến
nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào
danh Con Một Ngài thì sẽ được sống. Chính vì thế,
Ngài có quyền đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu thương
chân thành, bởi vì tình yêu chỉ có thể được đáp trả
bằng tình yêu mà thôi.
Đồng
thời Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một
tình yêu tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến
mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng thế, Ngài đã đổ
máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được
xoá bỏ bản án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị
làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là anh em một nhà
vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì
thế, Ngài đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết
lòng và yêu thương anh em như chính mình. Đồng thời, nhờ
tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở
nên người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ
dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các
con yêu thương nhau.
Như
vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với
tha nhân chỉ là hai phương diện của một giới luật duy
nhất, đó là giới luật yêu thương. Thiên Chúa đang chờ
đợi chúng ta nơi những người anh em. Ngài hẹn gặp
chúng ta nơi những kẻ bất hạnh và khổ đau, như lời
Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một
trong số những kẻ bé mọn nhất, là các con đã làm cho
chính Ta vậy. Thế nhưng, liệu chúng ta có thực sự tìm
gặp Chúa nơi những người anh em của mình hay không?
3. Điều răn mới
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Gandhi
được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say
mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng
Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng cho những xung
đột giữa các giai cấp ở Ấn. Một
ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ. Nhưng người
giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ ở
một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi
và không bao giờ quay trở lại.
Có thể
chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi chỉ vì có
sự phân biệt màu da nơi nhà thờ.
Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi, họ
sống tinh thần Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.
"Thầy
ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em."
Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức
nhối.
Ở đây
Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài, nhưng
Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.
Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Ngài
đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ. Vấn đề
cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Trước
khi công bố điều răn mới này, Đức Giêsu đã rửa chân
cho môn đệ, trong đó có Giuđa. Ngài cúi xuống bên chân
Giuđa để bày tỏ một tình yêu. Sau đó Ngài còn chấm
miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như đưa ra một vẫy
gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)
Nhưng
vô ích, Giuđa không đổi ý. Anh vẫn ra đi để làm điều
mình muốn (x. Ga 13,31). Đức Giêsu biết rõ số phận đang
chờ mình. Ngài sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng
trên thập giá.
Đức
Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.
Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta,
thì ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.
Có
nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu:
đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn...
Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn
đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông,
tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại...
Giữa
các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào. Nếu không
vượt qua được những hàng rào dị biệt này thì coi như
việc truyền giáo bị đổ vỡ.
Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu
khác màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị... Có
bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga,
giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen.
Đến bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy
Cha, mừng chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày, cử
hành chung với nhau một phụng vụ.
Thế
giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Ước gì
thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời
mọi người đặt chân tới.
Gợi
Ý Chia Sẻ
- Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?
- Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?
Cầu
Nguyện
Lạy
Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc
xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho
chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin
tưởng và thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện
diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ
nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn
cỗi.
Ước
gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở
mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan
điểm.
Lạy
Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con
biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong
những dị biệt. Nhờ sống
mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở
không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt
đất. Amen.
4. Yêu người như Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bề
trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên
vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi
đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách
hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng
tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận
thêm người vào tu.
Vậy
mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế.
Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống
buồn tẻ. Cha Bề
trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã
khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay.
Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra
trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích
thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người
trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.
Nhận
được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha
tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng
Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế,
mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu
Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã
cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người
sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Từ
ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với
Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người
quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng
bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm
vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn
phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại
vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui
tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng
đoàn.
Trước
kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực
hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh
đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức
sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến
và phục vụ nhau.
Trước
kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn
trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ
môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ
trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu
được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương
nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập
tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người
môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu
thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ
nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa,
loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có
sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi
mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện
của Thiên Chúa.
Yêu
thương nhau đó là giới răn của Chúa.
Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người
đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho
mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn
các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã
yêu.
Yêu
như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình
phục vụ anh em. Yêu
như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ
nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả
những người ghét mình, những người làm hại mình,
những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là
phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu
như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội.
Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp
ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức
hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy
Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu
thương con. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
- Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
- Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
5. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vào năm 1995, xảy ra một trận
động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả
một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch
vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết
cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm
để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người
chết, người bị thương. Trong các tai hoạ vô cùng khủng
khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết
sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả
sức chấn động của cơn động đất. Người ta kể lại
rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân,
họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con
vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn
còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh..
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử
nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ: Làm thế
nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày
dưới đống gạch vụn ấy Chị đáp: Tuy bị chôn vùi
dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che
chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi
quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn.
Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật
sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ
tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng.
Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào
cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một
đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. sau
đó, tôi không còn biết gì nữa? Thế chị không nghĩ
rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao? Tôi không hề
nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào
cho con tôi được sống.
Tình
yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của
người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây,
là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô
trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu chính
là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu
sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình
yêu. Yêu như Thầy đã yêu chính là hạ mình xuống ngang
hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu
thương như bạn hữu thân tình. Yêu như Thầy đã yêu
chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết
trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu
thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã
trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu như
Thầy đã yêu.
Chúng
ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta cảm
nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho
chúng ta. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi
chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước
anh em. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi
chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức độ như Thầy, hiến
dâng mạng sống cho anh em. Như vậy, yêu như Thầy đã yêu
không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác
nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì
mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn
sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác. Yêu như Thầy đã yêu
chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu
thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh
Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu
thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn
sang những người anh em khác.
Nếu
tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với
Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại
với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ
Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy
Chúa, nếu “đồng phục của người Kitô hữu là yêu
thương” thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc
sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân
hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng
làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến
cùng.
Xin
cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn
chúng con, không đọng lại như nước ao tù, nhưng luôn là
dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế
giới tràn đầy tình yêu. Amen.
6. Giới răn yêu thương – R. Veritas.
Ngày
nay, nếu có ai ghé thăm Tientina Alba, một làng nằm ở
phía bắc Rumani, đều trông thấy bên ngoài làng có một
gò đất lớn, bên trên cắm một cây Thánh Giá thật to.
Đó là nấm mồ tập thể của 5,000 tín hữu Công giáo
thuộc Giáo hội Đông phương nước Rumani đã bị quân
xâm lược sát hại vào buổi sáng ngày lễ Phục Sinh ngày
1/04/1941.
Tientina
Alba trong tiếng Rumani có nghĩa là "Suối trắng".
Nhưng vào một buổi sáng cách đây hơn nửa thế kỷ nó
đã trở thành một con suối máu của 5,000 người Công
giáo chết vì Chúa Kitô. Quân xâm lược đã triệt để
thi hành chính sách tiêu diệt tôn giáo. Người dân Rumani
sống tại vùng này đều thuộc Giáo hội Công giáo Đông
phương, nên đó là một chướng ngại lớn đối với
đường lối xâm lăng diệt chủng này.
Anh chị
em thân mến!
Biến
cố thương đau trên đây trong lịch sử Giáo hội Rumani
giúp chúng ta hiểu được phần nào sứ điệp của Tin
Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay. Đó là điều giúp
chúng ta có thể bước vào cuộc sống Phục Sinh vinh quang
trên thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Người Kitô hữu
cũng phải đi theo con đường của Chúa Giêsu Kitô bước
đi trên con đường tăm tối của bắt bớ, khổ đau và
cái chết.
Thành
thánh Giêrusalem thiên quốc như đã diễn tả trong chương
21 của sách Khải Huyền là một kinh thành kỳ lạ, nó là
điểm thành toàn của lịch sử cứu độ cứu độ sau
khi vượt thắng tất cả mọi lực lượng lịch sử xã
hội tiêu cực và chiến thắng kinh thành thế tục gian ác
tội lỗi của trần gian này. Sau khi chiến thắng kinh
thành Babylon hiện thân của mọi quyền lực chính trị, ý
thức hệ và kinh tế trần gian bắt bớ chống đối Giáo
hội, sau khi đánh tan mọi lực lượng sự dữ do ma quỉ
chỉ huy, cộng đoàn Kitô hữu hân hoan khải hoàn bước
vào kinh thành thiên quốc. Họ bước vào trời mới đất
mới, nơi không còn khóc than, khổ đau, chết chóc, buồn
thương và mệt nhọc nữa.
Bởi
vì, thế giới cũ đã qua rồi và mọi sự đã được đổi
mới. Giờ đây, họ được sự hiện diện rạng ngời
của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng tôi. Nhưng trước
đó, con đường của Giáo Hội lữ hành là con đường
khổ nạn của Chúa Giêsu.
Trong
khung cảnh thân tình của bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói
với các tông đồ lời tâm huyết. Sau khi Giuđa, kẻ phản
bội Ngài rời khỏi nhà Tiệc Ly để đi vào đêm tối
mịt mù. Đêm tối của tâm hồn và cuộc đời Giuđa và
đêm tối của thế giới.
Qua đó,
Chúa Giêsu mới thổ lộ cho các tông đồ biết rõ hơn
con đường dẫn Ngài tới chỗ vinh quang, đó là con đường
của Thập Giá. Chính khi bị treo khổ nhục trên Thập
Giá, cũng là chính lúc Chúa Giêsu được tôn vinh và thành
toàn chương trình cứu độ trần gian của Ngài.
Như
vậy, những khổ hình Thập Giá thay vì dấu chỉ của
hình phạt, thì nó lại trở thành dấu tích yêu thương
cao vời nhất mà Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã dành cho con
người. Do đó, chỉ những ai sống yêu thương mới hiểu
được cái logic ngược đời ấy của Thập Giá. Đồng
thời đây cũng là kiểu cách hành động của Thiên Chúa.
Giới
răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông
đồ và cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó
diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và trọn vẹn
mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính
máu của Ngài. Tình yêu thương ấy là tình yêu thương
hai chiều bình đẳng giữa các tín hữu. Bởi vì trong
cộng đoàn ai cũng cần yêu thương và được yêu thương.
Nhưng từ nay không còn chuyện yêu người như yêu mình
nữa, mà yêu người như chính Thầy đã yêu chúng con,
nghĩa là Kitô hữu phải yêu thương nhau với cùng cường
độ trong cùng tâm tình và kiểu cách của Chúa Giêsu là
tận hiến vô biên và trọn vẹn. Tình yêu thương của
Chúa Giêsu là suối nguồn, mẫu mực và linh hồn tình yêu
thương của Kitô hữu. Và sau cùng, tình yêu ấy là căn
cước, là chứng tích sống động giúp nhận ra ai là
thành viên thực sự thuộc cộng đoàn Giáo Hội của Chúa
Giêsu Kitô.
Trong
chương 14 sách Tông đồ Công vụ, thánh Phaolô cũng chỉ
cho chúng ta con đường chắc chắn giúp tiến về kinh
thành Giêrusalem. Đó là noi gương Chúa Giêsu can đảm tiến
bước trên con đường Thập Giá của lòng tin.
Phần
thứ hai của sách Tông đồ Công vụ, các chương 13-28 nêu
bật sự truyền giáo của thánh Phaolô. Các trình thuật
cho chúng ta thấy ba nhân tố thần học song song quan trọng
sau đây:
1. Gương
mặt của Saolô lòng đầy hận thù, hăng hái tìm cách bắt
hại và bỏ tù tất cả những ai tin vào Tin Mừng của
Chúa Giêsu và gương mặt của một Phaolô không ngừng
thôi thúc Kitô hữu vững vàng trong lòng tin và kiên trì
chịu đựng mọi bắt bớ gian lao thử thách vì Chúa Giêsu
Kitô.
Kinh
nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô Phục
Sinh đã khiến cho Phaolô xác tín rằng con
đường duy nhất giúp hiện thực ơn gọi làm người toàn
vẹn là bước theo Chúa Giêsu Kitô và sống Tin Mừng của
Ngài, cho dù có phải
trả giá đắt đỏ bằng chính sự sống của mình đi
nữa.
2. Nhân
tố thần học song song thứ hai là kinh nghiệm đau khổ mà
thánh Phaolô phải chịu vì Thập Giá Chúa Kitô và kinh
nghiệm bách hại mà cộng đoàn Kitô phải sống. Phaolô
đã lâm cảnh lao đao lận đận, ba chìm bảy nổi chín
cái lênh đênh vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng của Ngài. Và
Kitô hữu trong cộng đoàn tiên khởi thời đó cũng như
trong các thế hệ sau này khắp nơi trên thế giới đều
phải sống kinh nghiệm Thập Giá như thầy mình là Chúa
Giêsu Kitô.
Chỉ
khi biết phám phá ra cái logic lạ lùng ngược đời ấy,
con người và thế giới mới tìm được thế quân bình
hạnh phúc trọn vẹn thời khai nguyên vũ trụ và mới
thực hiện được chương trình sống mà Thiên Chúa muốn.
Nói
cách khác, con đường dẫn đến cuộc sống giờ đây là
con đường dẫn tới Thập Giá và khổ đau mà Kitô hữu
cần phải chấp nhận mỗi ngày trong tâm tình của Chúa
Giêsu Kitô, để sinh vào cuộc sống và thế giới này, để
mở mắt nhìn thấy cha mẹ, người thân, mặt trời, trăng
sao, thú vật và hoa cỏ xinh tươi. Đứa bé nào cũng phải
xé lòng mẹ và khóc tiếng chào đời. Nó chào đời và
đời chào đón nó bằng tiếng khóc pha trộn nỗi vui mừng
và niềm hy vọng.
3. Mấu
điểm thần học song song thứ ba được nêu bật trong
phần 2 của sách Tông Đồ Công Vụ là cái song song giữa
kiểu cách mà Thiên Chúa hướng dẫn cuộc sống của
thánh Phaolô với kiểu cách Thiên
Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu, Giáo hội và thân
mình mầu nhiệm của Ngài.
Trên
con đường cuộc sống lòng tin, chúng ta tất cả đều
cần đến người hướng đạo có nhiều kinh nghiệm chỉ
bảo, khuyên nhủ và khuyến khích. Thánh Phaolô đã được
Annania chỉ bảo, giảng giải và hướng dẫn trên con
đường cuộc sống mới do Chúa Kitô Phục Sinh chỉ vẽ
cho ông. Giờ đây thánh nhân chọn lựa các linh mục, các
vị hữu trách có nhiệm vụ hướng dẫn cộng đoàn Kitô
hữu. Đó là những vị bô lão. Bô lão ở đây không ám
chỉ sự già dặn của tuổi tác cho bằng sự già dặn
kinh nghiệm trong cuộc sống lòng tin, lòng tin cậy trông
và lòng mến.
Vị
linh mục, người lãnh đạo tinh thần của cộng đoàn già
dặn về tuổi tác là một phần thứ yếu, nhưng phải
già dặn về kinh nghiệm sống thân tình với Thiên Chúa
và thông hiểu giáo huấn Tin Mừng của Chúa cũng như giáo
huấn của Giáo hội, đó là điều thiết yếu mà linh mục
cần phải có. Chúng ta hiểu tại sao trước khi trao cho
Phêrô trọng trách hướng dẫn Giáo Hội, Chúa Giêsu đã
ba lần hỏi xem ông có yêu mến Ngài hơn những người
này không? Chính tình yêu là linh hồn của công tác rao
giảng nước Chúa và là hộ chiếu giúp tín hữu được
bước vào kinh thành hạnh phúc. Nó là một tình yêu trọn
vẹn trong mọi chiều kích thần học cũng như xã hội ở
đời này cũng như trong cuộc đời mai sau. Amen.
7. Giới răn yêu thương
Thánh
Gioan đã mở ra một tương lai tươi đẹp cho toàn thể
nhân loại. Trong bài đọc thứ hai được trích từ chương
áp cuối của sách Khải Huyền, tức chương 21,2-5, sẽ có
một trời mới, đất mới, một thành thánh Giêrusalem
mới, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc,
kêu than và đau khổ nữa, vì họ sẽ là dân của Người,
còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Người
sẽ lau sạch nước mắt của họ, nhưng trong thời lữ
hành tại thế, các tín hữu cũng như toàn thể Hội Thánh
phải chịu nhiều gian lao thử thách. Bài đọc một thuật
lại cuộc viếng thăm của hai tông đồ Phaolô và Barnaba
tại các giáo đoàn Listra, Ticonio và Antiokia. Hai vị tông
đồ khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin mặc dù
những gian lao thử thách: "Chúng ta phải chịu nhiều
gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa".
Tâm
điểm của Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh năm C,
chính là giới luật yêu thương
mà Chúa Giêsu ban bố
và trăn trối cho các môn đệ trước khi Người ra đi
chịu chết: "Thầy ban cho các con một điều răn mới
là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
các con".
Giới
luật yêu thương của Cựu Ước: "Ngươi không được
để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không
được oán hận. Ngươi phải yêu thương đồng loại như
chính mình" (Lêvi 19,17-18). Giới luật đó đã được
Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như luật tối thượng của
giao ước mới, của luật mới: "Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất
và là điều răn thứ nhất, còn điều răn thứ hai cũng
giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận
như chính mình. Tất cả luật Môisen và các sách Ngôn Sứ
đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,37-40).
Luật
yêu thương này là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là
nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên
Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu
người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì
cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình
yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình
yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã
yêu thương chúng ta trước để mỗi người noi theo: Tình
yêu cốt tủy ở điều này: không phải chúng ta đã yêu
mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho
chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga 4,10-11).
Yêu
thương bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống
chứ không phải chỉ yêu thương bằng môi miệng.
Tình
yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành
động. Luật yêu thương còn là điểm nòng cốt để
chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Đây cũng
là dấu chỉ để người khác nhận ra chúng ta là người
Kitô. Và đây cũng là chứng tá của các môn đệ Kitô
cho thế giới đầy bất hoà hôm nay. "Mọi người sẽ
nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này,
là các con có lòng yêu thương nhau".
Lời
Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh mời gọi mỗi tín hữu
Chúa Kitô, những người môn đệ của Chúa hôm nay hãy
xây dựng trời mới, đất mới, bằng
chính lòng tin sắt đá và tình yêu tinh ròng.
Hãy kiểm điểm lại cách ăn nết ở của mình, xem đã
nhập tâm giới luật yêu thương của Chúa đến đâu. Bao
lâu còn bất hoà chưa sẵn lòng tha thứ, còn để bụng
thù oán, bấy lâu mình chưa phải là môn đệ của Chúa
Kitô.
Lạy
Chúa, xin giúp mỗi người chúng con thực thi giới răn yêu
thương. Xin đổ tràn tình yêu của Chúa xuống trên chúng
con để chúng con có thể yêu mến Chúa và yêu thương anh
em thật lòng trong mọi hoàn cảnh.
8. Ai là gương mẫu của chúng ta? - Achille Degeest
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giuđa
đi khỏi, bầu khí phòng tiệc trở lại đầm ấm. Chúa
đối thoại thân thiết với các môn đệ. Người nói ra
những điều Người đang suy nghĩ. Sắp tới giờ Người
được tôn vinh. Lời nói Chúa phát xuất từ thâm tâm và
muốn động tới thâm tâm các môn đệ. Đối với Chúa,
tôn vinh nghĩa là, sau khi hoàn tất sứ mạng, Người sẽ
tỏ rõ phẩm vị của Người là Con Thiên Chúa, là Đấng
Cứu Chuộc nhân loại. Chịu khổ nạn và sống lại, hành
vi tuyệt đỉnh ấy của sứ mạng đang tiến đến gần,
do đó có câu: Thiên
Chúa sắp tôn vinh Con Người.
Mầu nhiệm sự sống qua cõi chết, vinh quang qua ô nhục
và sống lại, sắp hoàn tất. Mầu nhiệm đã kết thúc ở
sự biểu dương đời sống Thiên Chúa trong Con Người,
không những vì được Thiên Chúa thêm sức sống, mà
chính vì Người là Con Thiên Chúa. Từ ngữ các con bé nhỏ
Chúa dùng để nói với các môn đệ biểu lộ niềm
thương mến của một người Cha. Chúa nghĩ đến nỗi
buồn sầu sắp tới của các môn đệ, nỗi hoang mang của
họ trước cuộc Thương Khó. Chúa dạy họ hãy sát cánh
đương đầu với thử thách, và lệnh truyền của Người
là thương yêu nhau bằng một tình yêu phát xuất từ
Thiên Chúa. Chúng ta nêu hai câu hỏi:
1)
Lệnh truyền của Chúa mới lạ ở điểm nào?
Trong
Cựu Ước đã có huấn lệnh thương yêu tha nhân như
chính mình (Lêvi 19,18). Lề Luật tuy không minh thị đặt
người ngoại chủng ra ngoài, nhưng trực tiếp nhắm vào
những thành phần khác trong dân Chúa, coi họ là tha nhân.
Mặt khác, sự giải thích của người đồng thời với
Đức Giêsu về huấn lệnh trên, nói đúng ra, nặng phần
tiêu cực, người ta phải tránh gây thiệt hại cho tha
nhân để khỏi bị tha nhân ăn miếng trả miếng. Đức
Giêsu nhắc lại huấn lệnh, trả lại cho huấn lệnh giá
trị tích cực. Người đi a hơn Lề Luật, dạy người ta
phải thương yêu cả những kẻ thù nghịch. Và điểm
hoàn toàn mới lạ, chính là gương Đức Giêsu sắp nêu
cao về tình yêu của Người bằng cách chịu chết trên
thập giá để cứu chuộc chính những kẻ giết Người.
Gương mẫu ấy phải soi sáng tình yêu của người Kitô
hữu.
2)
Lện truyền của Chúa thực hiện theo cách nào?
Lời
đáp nằm trong chỉ dẫn: như Ta đã thương yêu các con.
Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại phát xuất
từ đâu? Như Cha đã yêu Ta, Ta cũng đã yêu các con
(15,9). Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại bắt
nguồn từ Chúa Cha. Tình yêu của chúng ta đối với tha
nhân bắt nguồn từ Chúa Kitô, và chung cục bắt nguồn
từ Thiên Chúa. Người ta chỉ thật sự thương yêu nếu
tình yêu phát xuất từ nguồn mạch. Giả sử nguồn mạch
bị giới hạn, ví dụ nguồn mạch là trái tim con người
cho dẫu trong sạch chăng nữa, tình yêu tất bị giới
hạn. Nếu nguồn mạch là Thiên Chúa, là trái tim Đức
Kitô, thì tình yêu trở nên bất tận. Hơn nữa, trong Đức
Kitô không một tình yêu nào làm giảm tình yêu khác. Nếu
tình yêu của chúng ta phát xuất từ Thánh Tâm Chúa, tình
yêu ấy có thể biểu hiện như một thực tại thần hoá,
nghĩa là dẫn đưa con người đến đích của niềm khát
vọng.
9. Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Thiên
Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình
và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con
người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp
tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này
đây Ta làm mới tất cả”
“Trăng
bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi
bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”
Một đồ
vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì
“mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một
cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những
hành động tiếp sau.
Con vật
không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và
chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn
những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người
nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để
chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có
thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ
vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do
mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì,
e rằng người đó không còn tự do nữa.
Con
người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người,
có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn.
Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”,
nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là
“quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi
có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”,
nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?”
Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được!
Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ
như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng
lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con
người luôn luôn có thể mới.
Con
người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha
mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ,
thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có
thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được,
nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như
Ngài cũng “bất lực”!
Chỉ có
Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người
vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài
yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến
đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con
người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa
mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức
biến đổi con người mà con người vẫn tự do.
Thiên
Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và
phục sinh.
Yêu
nhau như Thầy yêu anh em
“Thầy
để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu
thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu
thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em
là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
Luật
Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình”
(Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính
Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta
đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống,
và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác
như Ngài yêu họ.
Yêu
thương người khác như chính mình, đã là một điều
khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến
hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là
điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả
những gì là tốt lành cho người mình yêu.
Dấu
chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là
“được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”,
cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương
nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo
Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết
Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết
Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây,
không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng
hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.
Thiên
Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian
Thánh
Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và
Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô
và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các
tín hữu.
Thiên
Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô
hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng,
tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm
mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các
chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích
hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người
với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên
Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho
con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.
Thiên
Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ
này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin
vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con
người mới, tạo vật mới.
Tạ ơn
Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của
Chúa cho tôi.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?
- Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
- Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.
10. Ai yêu thương đều là Kitô hữu
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một
buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần
một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những
người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy
những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết
thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết
thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng
người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ
khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi
lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy
tình thương yêu.
Người
đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ
Têrêsa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại
làm như thế?”
Mẹ
Têrêsa trả lời:
- “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.
Một
tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát
xuất tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của
người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu
xuất hiện.
- Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!
- Tôi rất yêu mến bà, Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
- Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!
Người
đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ
Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn,
nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt
vời nhất trên cõi đời nầy…
Bằng
chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho
tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta –
“Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta” –
Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia
ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang
trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định
đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!
Vì
là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu
thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều
kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ
nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh
hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Nhưng,
thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô
giáo mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm
ngôi: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn biển là anh em.
Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như
thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng
mở của người đối với người trong một xã hội.
Vậy
thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái
gì mới mẻ hơn chăng?
Chỉ
dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn,
chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của
tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa
Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng
thuộc về Chúa Giêsu.
Nét mới
mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước
đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em
máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa.
Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính
tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa
Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu
trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về
tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính
mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai có tình yêu lớn
hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Đó là
bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và
cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói
lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên
Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết
mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó
phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Chúa
Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái
như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ
phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái
Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài
đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi,
là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như
chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng,
đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính
tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ
là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời
Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu
thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các
Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành
chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử
Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận
ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động
của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.
Thưa
anh chị em,
Trong
cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến
đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha
nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được
giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế
nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có
một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm
thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn
giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó
để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn
muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định
chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều
mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của
mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật.
Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là
linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em
trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái,
chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục:
người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại
như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang
nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống
thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về
niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái
lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa,
không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi
vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ
của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như
Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương
nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không
phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo.
Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu
thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên
Chúa, là chối đạo.
Hôm nay
chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô
hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu
thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân
sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới
răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống
chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu
thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy
chúng ta.
11. Giới răn yêu thương – Flor McCarthy.
Suy
Niệm 1. ĐIỀU
MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Viết
về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng
người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết
người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ
nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết.
Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày
lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những
người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót,
trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh
em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được
sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho
đi.
Tính
ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế
chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường
giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng
chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc,
quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn
hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa
nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục
của tính ích kỷ.
Brian
Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Li-băng.
Sau đó, ông đã viết:
“Chỉ khi chúng ta vượt
qua chính mình để cứu mạng, hiểu biết và sau cùng khắc
phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành
chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú
khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến cảm
nhận và cưu mang”.
Tình
yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và
thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu
thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ
lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng
lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở
đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm
linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung
cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên
kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác”
(Elizabeth Kubler-Ross). Khi
bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi
phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi
vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi
sẽ ra sao?”.
Nếu
không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những
người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo
nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời
sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống
là gì nếu không phải là yêu thương? “Chúng ta đã được
đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình
yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ
và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý
nghĩa của đời sống.
Một
bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất
của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện
với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã
thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc
đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối
cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương
ai và ai đã yêu thương bạn.
Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn
mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao
giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó
làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết.
Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho
mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được
dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ
cho lẫn người nhận.
Suy
Niệm 2. SỰ
PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG
Ngày
nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp
của con người, và cả những động lực liên kết đàng
sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu
thương.
Loại
thứ nhất là yêu thương vụ lợi.
Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho
chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là
tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng
tôi không muốn có bạn.
Loại
thứ hai là yêu thương lãng mạn.
Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác
bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng
ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là
tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác,
nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình
yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các
cuộc hôn nhân thất bại.
Loại
thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền
tảng bình đẳng theo luật pháp.
Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những
công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược
lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do
chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm
hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.
Loại
thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó
là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm
của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ
thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng
gì với họ”.
Loại
thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn:
“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh
em”. Ở đây chúng
ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương
cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình
yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách
hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng
là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục
vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này
chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh
Thần.
Người
ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có
một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng
việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm
việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là
một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người
khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra,
việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong
chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng
được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.
Người
ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương
hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế,
mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương,
khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp
mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau
cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được
yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ
có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ
trở thành một con người yêu thương, họ có thể được
yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn
được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì
tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.
Có ba
tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu
thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2)
Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù
đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng
đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây
là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui
hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy
đã yêu mến anh em!”.
Yêu
thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang
yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ
nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng.
Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm
nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết.
Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.
NHỮNG
CÂU CHUYỆN KHÁC:
1. Một
ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một
nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt
lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời
sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức
khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có
thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương
ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời
sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên
nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống. Hôm trước ngày
ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia
đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông
nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học
yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu
thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin
vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.
Đức
Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của
Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho
họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
2. Người
ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên
Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một
em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác,
chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn
đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với
em mình có đôi chân mạnh khoẻ. Một đêm kia, nó nằm mơ
thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến
một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa
cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo
choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần
của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang
động, người ấy sẽ có một lời ước được thực
hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn
điều gì.
Stephen
không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có
một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần
bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý
nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm
ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều
đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của
Mark.
“Ông
định làm gì?” Stephen hỏi.
“Tôi
sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.
“Cuộc
phẫu thuật gì?”.
“Chuyển
đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi
chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng
đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ
rằng mọi việc vẫn như cũ”.
“Tôi
không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.
“Cậu
chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí
ra đó chứ?”.
Nhưng
Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh
loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy
nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân
của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai
của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.
Khi
nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen
vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy
và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười.
Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ
với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.
Stephen
muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là
gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm
thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt
người khác đừng trước mình.
12. Giới luật yêu thương
Trước
khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm
sự cuối cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn trối cho
các ông, cũng như cho chúng ta một sứ điệp quan trọng
mà mỗi người phải đem ra thực hành trong cuộc sống.
Ngài nói: Các con thân mến, Thầy chỉ còn ở với các
con một thời gian ngắn nữa mà thôi, nên Thầy ban cho các
con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu thương
nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Như
chúng ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng kính
mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới răn thứ hai
cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là tình yêu
thương đối với anh em.
Thế
nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc sống, chúng ta thấy
mình đã thực hiện hai giới răn ấy như thế nào? Bởi
vì tất cả đều xuất phát từ lòng mến Chúa và tình
yêu người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và ngăn cấm
cũng chỉ là kết quả đương nhiên của hai giới răn ấy
mà thôi.
Đúng
thế, nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẳn chúng
ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn chúng ta sẽ
sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ
không còn gian tham và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn
cảnh, chúng ta đều cố gắng chia sẻ và giúp đỡ họ.
Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu được lời
nói sâu xa của thánh Augustinô:
- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.
Sở dĩ
như vậy, vì tất cả những hành động xuất phát từ
tình yêu thương đều có giá trị riêng của chúng.
Không phải chỉ trong ngày sau hết chúng ta mới bị xét
xử về tình yêu thương, mà hơn thế nữa, ngay từ bây
giờ tình yêu thương đã trở thành dấu chỉ của người
môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động chỉ
là tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên công
cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải nhấn mạnh:
Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ
Thầy, là các con yêu thương nhau.
Như
vậy, tình yêu thương vừa là một điểm đặc sắc nhất
của người Kitô hữu, vừa là một bảo chứng chắc chắn
nhất cho niềm hạnh phúc đời đời.
Thực
vậy, hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán
xét. Với những người lành, Ngài bảo:
Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh
lấy phần thưởng đời đời đã được sắm sẵn cho
các ngươi từ muôn ngàn thuở trước, vì khi Ta đói, các
ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống, Khi
ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và
bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.
Vậy
lúc này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người nào:
nhóm người lành hay nhóm kẻ dữ? Nhóm chiên hay nhóm dê?
Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên trái? Nhóm được chúc
lành hay nhóm bị chúc dữ? Nhóm được ân thưởng hay
nhóm bị trừng phạt?
Từ đó,
hẳn chúng ta đã nhận ra điều gì cần phải làm ngay? Đó
là tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ dàng, nhưng lại vô
cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ ấn định số phận đời
đời của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng
miệng lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ, điều
quan trọng và cần thiết, đó là phải biểu lộ tình yêu
thương ấy bằng những việc làm cụ thể.
Bác
tài xế của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:
Có một cụ già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta
bèn viết thư xin Đức Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy giờ
ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục. Sau khi biết
được giá mua của một con lừa, ngài liền gửi số tiền
ấy cho cụ già.
Là
một vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn lao,
thế mà ngài vẫn không quên những nhu cầu nhỏ bé cần
phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh. Chính vì những
hành động nhỏ bé này mà người ta xác định được
tình yêu thương chân thành của người Kitô hữu. Một
linh mục ở Milan cũng đã nhận xét: Tôi thường thấy
đức Hồng Y quỳ gối chăm sóc cho những người nghèo
túng và bệnh tật.
Với
chúng ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của
chúng ta đối với những người chung quanh bằng những
việc làm cụ thể, bởi vì chính những việc làm cụ thể
này sẽ là như một tấm vé để chúng ta được đón
nhận vào Nước Trời.
13. Điều răn mới
Bài
Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những
lời từ biệt của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong
bữa tiệc ly, trước khi Chúa chịu tử nạn và sau khi
Giuđa đã bỏ bàn tiệc đi ra thực hiện ý đồ phản bội
Chúa.
“Căn
cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn
đệ của Thầy là các con hãy thương yêu nhau”. Yêu
thương là một lệnh truyền phải thi hành chứ không phải
là một lời khuyên hay một sự kêu mời muốn làm hay
không cũng được: “Đây là lệnh truyền của Thầy là
các con hãy yêu thương nhau”. Nếu chúng ta yêu thương
anh chị em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống.
Trái lại, kẻ không yêu thương anh chị em mình thì ở
trong sự chết. Vì phàm ai ghét anh chị em thì là kẻ sát
nhân mà đã là kẻ sát nhân thì không có sự sống đời
đời.
Yêu
thương nhau là một giới răn mới, bởi vì Đức Kitô đã
biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước: “Ngươi
phải yêu thương anh chị em như chính mình ngươi” bằng
cách gắn liền nó với tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta. Do đó, Ngài đã mặc cho nó một bản tính siêu
việt mới là chính tình yêu của Ngài: “Thầy ban cho các
con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương các con”.
Như
Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức
Kitô thêm vào luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu
thương anh chị em như chính mình con, nơi thánh Gioan 12,34
Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới
là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
các con”.
Như
vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính
chúng ta nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến
phát xuất từ Thiên Chúa như thư I của thánh Gioan 4,7
diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy”.
Tình
thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào
tình thương của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng
chính vì vậy giới răn yêu thương mới này được đồng
hoá bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu
thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không
yêu thương anh chị em thì cũng không mến Chúa. Nếu ai
nói tôi mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình thì là kẻ
nói dối.
Chính
vì thế mà yêu thương là
dấu chỉ chúng ta là những người thuộc về Thiên Chúa,
là môn đệ của Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận
biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương
nhau”. Chỉ khi nào ta hiểu và sống thực sự điều này
thì mới là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đây
là việc khó, chúng ta cần phải cố gắng hằng ngày:
“Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên
trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt
để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt chúng
con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
14. Yêu thương
Tình
yêu là gì? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều
khao khát không? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai
cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế, tình yêu trở nên
một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó
là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên
sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành nghệ thuật những
bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu
hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp
nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự
thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức
mạnh để triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó
để kiến tạo nên hoà bình và yêu thương.
Sức
mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng
chinh phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực
của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu, mà chính là trong
khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt
thắng sự ích kỷ để hiến mình cho tha nhân. Đó là
điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống và nhất
là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức
mạnh vô biên của tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể
để lại cho chúng ta một điều răn mới như một lời
di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Yêu
thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao
mới? Mới ở chỗ nào? Từ ngàn xưa, văn hoá Á Đông
từng nêu câu châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn
bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy: “Thương
người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa
nhận luật tự nhiên đó khi dạy: “phải yêu người
thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối
với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không
phải là tất cả mọi người. Điều răn này đối với
Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ
phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu,
“yêu thương nhau” là điều răn mới, nó mới bởi vì:
Trước
hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi
người, không loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không
phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và tôn giáo. Đó
là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn
mới ở chỗ có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một
tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu thương là
chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy
yêu người thân cận như chính mình” tức là lấy bản
thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy phải yêu
thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải
lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu
cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến nỗi tự ý
nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được
coi là mới, vì nó gắn liền với giao ước mới, giao ước
đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây không
phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được
ghi vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Chúa
Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ
thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương
người như Chúa yêu.
Sự
thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người
như Chúa yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn
còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống. Chúng ta vẫn
thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha
nhân – người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối
xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người đó xinh
đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu
vụ lợi, chiếm đoạt cho riêng mình. Một tình yêu như
thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của
tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu
yêu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa.
Gandhi,
một vị cha già của dân tộc An Độ đã vĩnh viễn nằm
xuống sau nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh
ta không thể chấp nhận sự kiện vị cha già ấy bày tỏ
lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi
giáo. Hàng triệu người An Độ than khóc, để tang vì dân
tộc đã mất đi một con người vĩ đại, trường kỳ
lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc
mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận
thù.
Cũng
thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương
để cho những người không nhà không cửa, những mảnh
đời đang hấp hối nơi đầu đường xó chợ được
sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương,
mẹ Têrêxa đã cảm nhận được cõi thẳm sâu niềm khao
khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể
“Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người
vô gia cư mà các nữ tu của chúng tôi săn sóc tại một
trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà
nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi
rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được
hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương
không phải là thương hại. Điều quan trọng không phải
là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn tay ra ngồi bên cạnh
họ, tiếp xúc diện đối diện.
Những
mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình
yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước,
hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và chịu chết cho
người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích
thực chỉ có một kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu
hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như Chúa yêu
thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các
công việc từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng
say hoạt động rao giảng hoặc đảm nhận việc này, việc
khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa
đích thực và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì
yêu thương mà thôi, chứ không vì những gì có thể nhận
lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện,
bằng một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những
va chạm, bất đồng ý kiến là điều không thể tránh
khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những
thứ cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo
xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng thời làm phân hoá, đổ
vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.
Hãy tha
thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người
là điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống
hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu nhiệm Nhập thể,
sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã
hiến mình cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho
người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa đã yêu ta qua Bí
tích Thánh Thể.
Tóm
lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu
thương nhau như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình
yêu có ranh giới là yêu thương không có ranh giới, nghĩa
là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi
người hết thảy.
Ước
gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều
răn yêu thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một
tình yêu Kitô giáo đích thực.
15. Tình thương
Tất cả
chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn
đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa
tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều
quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn
trối đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất
chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của
Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu
thương họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài
bảo họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều
răn mới? Mới ở chỗ nào và mới như thế nào?
Tình
yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại
gọi đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt đầu có
con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó bắt
đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu
ước cũng dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới
hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị
kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa
ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và đưa tình
yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người
dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn
mới, trước hết, vì là điều răn của giao ước mới,
giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng
tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu
của Ngài đối với con người. Và Chúa còn đưa ra một
lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu
thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại
như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm
tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu
người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa
loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Còn Chúa
Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu
thương chúng ta. Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu
chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính
Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu
thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với
chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động lực thúc
đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương như Chúa
Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống
mình vì ta, thì ta cũng phải hiến mạng sống mình vì anh
em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã không dành cho
mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người
để phục vụ loài người, thì họ cũng phải biết quên
mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn
cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các
ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu
Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục sinh
phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải
sống như Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã
yêu thương. Ngài là qui luật hành động của người môn
đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là
yêu vì đã được Chúa yêu.
Thực
vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên
Chúa đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ
khi làm người cho đến khi chết trên thập giá, là yêu
thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ
sẽ nối bước theo Thầy trên chính con đường Thầy đã
đi và vạch ra cho họ thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên
trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được
ai là môn đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và đi
theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện diện
hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người
không tin có thể nhận ra họ là người môn đệ của
Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất,
đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ,
một tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải
nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu
muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì
phải chứng minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu
thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay
thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những
biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta
thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các
tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy:
họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất
trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ
bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã
ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như
sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về
họ rằng: “Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn
sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”. Những người ở
ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là
anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở
Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar
d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên
ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo
đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng hơn một
ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại
ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới là gì,
nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là “Những
người theo đạo yêu nhau”. Là con cháu của thế hệ
Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi:
những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách sống của
chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo
yêu nhau” không? Thiết tưởng không có gì phản chứng
hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô hữu bất hoà,
chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất
có thể người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng,
siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại không có sự
hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều
đó đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình
chúng ta và cộng đoàn chúng ta chăng? Thiên Chúa là tình
yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay
cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo
Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần đây,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến
một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ
được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ
của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ
khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt
về chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị.
Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là
bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó
cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng
ta: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con
hãy yêu thương nhau”.
16. Yêu thương
(Trích
trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Chắc
hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti.
Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người
vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà
riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh
chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng
làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em.
Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti
và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi
những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối.
Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết
Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở
về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào
phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái
ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đã đi
vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ái ân.
Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý
trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào
mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi
từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề
sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn.
Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt
giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và
tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ
đó Alexander ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả
tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được
vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có
thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng
trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối
với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu
của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao
đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì
tình yêu của Alexander là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu
của Goretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy
yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể
từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã
có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta
thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ
trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa
và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì
Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là
thương yêu nhau kiểu mới. Thế nào là yêu thương kiểu
cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới? Tự nhiên là
con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa
ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu
cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu ước dạy một thứ tình yêu
thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu
thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu
thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa
Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải
chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như
Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Kiểu
yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã
yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết
trong bài Phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của
Chúa:
Chi
tiết thứ nhất là câu
“Khi Giuđa đi rồi”: Giuđa đi để thực hiện âm mưu
bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát
cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa
yêu thương.
Chi
tiết thứ hai là câu
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của
Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ
của Chúa.
Qua
những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như
Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường
không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người
thường không thể yêu, và yêu thương những người mà
người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ
Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng
đáng là môn đệ Chúa. Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ
Maria Goretti. Yêu thương của Alexander là yêu thương kiểu
cũ, bởi vì Alexander chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy
của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được
thoả mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn
yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu
thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn
sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt
Alexander. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó.
Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một
giới răn “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng
ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác
giả kia khi viết bài suy gẫm về bài Phúc âm này, đã đề
nghị một số việc như sau là làm hoà với những kẻ
ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ ghét mình, là làm tươi
hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục
vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết
tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải
cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới
mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm
nay.
17. Suy Niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
- Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giêsu lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?
- Tại sao khi Đức Giêsu được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giêsu không?
Tại
sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn
đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là
dấu chứng không?
Suy
tư gợi ý:
Thiên
Chúa được tôn vinh nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu
a) Hai
mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua
«Giờ
đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được
tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu nói điều này ngay trước
khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài
lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho
thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác
nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và
phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược
lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không
thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy
duy nhất.
Đó là
chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua:
vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể
tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải
trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử
nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải
qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều
ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không
thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu
khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh
phận gì.
Ý thức
được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người
kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà
không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không
phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử
nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép
như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn
vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà
không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả
mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến
tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên
đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó.
Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm,
v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải
khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của
Đức Giêsu: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và
đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều
người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật
thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối
ấy» (Mt 7,13-14).
b) Trong
Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ
đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được
tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu và Thiên Chúa đều được
tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giêsu),
và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều
này cho thấy Đức Giêsu và Thiên Chúa liên quan với nhau
mật thiết đến mức có thể nói Đức Giêsu và Thiên
Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất:
con người Đức Giêsu. Có thể nói Đức Giêsu, một mặt
là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi
mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ,
vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau
nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con
người duy nhất.
Đức
Giêsu chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi
người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giêsu, một
mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối,
dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên
Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ,
thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa»
(2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số
chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn
phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao
để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn
mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của
mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì
tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.
Khi mầm
thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành
động và xử sự như Đức Giêsu, thì ta có thể nói được
như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên
Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ
được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm
thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy
chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giêsu đã từng
nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong
bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy,
giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất
cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn
nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ
trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ
phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ
đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2.
Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh
trong ta
Mầm
thần linh ấy không thể phát triển được trong một con
người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển
hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản
ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với
nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt
nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át
tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt,
nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ
tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình
thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội».
Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được
hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và
sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ
việc coi nhẹ hay tự huỷ cái tôi của mình đi. Đức
Giêsu đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất
nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12,
24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước
Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.
Yêu
thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình
để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là
bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của
Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa
là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên
Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu.
«Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương
thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì
không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga
4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự
thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên
Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người
khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ
có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không
thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi
cái tôi của mình quá lớn.
Chính
vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử
nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu cho các môn đệ
biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ
vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của
Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và
nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh
em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng
yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ…
chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu,
mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo.
Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng
hành động – mới là dấu chứng thật sự của người
kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để
hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội,
thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn
người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình
thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà thôi
(xem Rm 2,12-24).
Cầu
nguyện
Lạy
Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới»,
thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu
thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của
Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.
18. Chú giải của Noel Quesson
Từ đây
cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số
trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức
Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người
"ra đi": đó là di chúc tinh thần của Ngài.
Khi
Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có
cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có
thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự... như thể sự
hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng
Người, khiến không có dịp thốt nên lời.
Khi
chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những
khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn
tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết
những gì' cần phải diễn tả... lúc đó ta hãy nghĩ đến
Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã
thấu cảm những tình huống đau thương như thế.
Khi
chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời,
trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm... chúng
ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu
đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí
trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở
nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài...
để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ
"không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ
một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết
tình kết nghĩa.
Đức
Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi
khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ
đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được
tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi
Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính
mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức
Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch
phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình
an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.
Sự
bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu
nằm giữa hai phó từ: giờ đây... sắp sửa. Những động
từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả
một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là
thời gian của "các vật chưa hoàn tất"), và
những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn
thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc
ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu
tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu
đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể
hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã
giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương
lai! "Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây
giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc
khải nơi chúng ta" (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay
từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã
nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được
thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau
này.
Giờ
đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được
tôn vinh nơi Người.
Chúng
ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến
ta có dịp bước sâu vào "nội tâm của Đức Giêsu.
Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do
thái độ bước ra ngoài của "kẻ trao nộp Đức
Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu,
vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực.
Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá
đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng
dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù
rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui
rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính "Đấng
chịu đóng đinh" đã được tôn vinh và làm vinh quang
Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một
vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực
sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của
Người, chính là vinh quang của Người? "Không có tình
yêu nào lớn hơn" (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương,
theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn
đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ
chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.
Bạn
có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn
hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì
yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa
đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn
rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn
nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một
chút; để cho đời thêm tươi.
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở
với anh em một ít lâu nữa thôi
Đó là
những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ.
Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức
Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của
Thầy…”
Đức
Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã
phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài
đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm
Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi
tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ
Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay
đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của
Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người
đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều
cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không
có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại,
cụ thể... nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng
mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì
về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.
Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau
Đức
Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới
mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời
Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của
Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy"
(Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu
chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng
ta" (1 Ga 4,12).
Vâng,
tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực
sự” của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp
lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ".
Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu
nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn,
cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính
Ta vậy". Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người
đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu
thực là thế! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết",
thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện
tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết". Nhưng
hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện
đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những
làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ
bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu”. Nhưng là thứ
tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân"
hay "tình yêu kẻ khác"? tình yêu là từ hàm hồ
nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: "Tôi thích kẹo
cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ
nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào
đó, bạn có yêu họ theo cách đó... nghĩa là chỉ vì bạn
hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ
khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương
đối nghịch nhau:
- Agapé: Yêu tha nhân... đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.
Anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ
một từ “như” đơn giản... nhưng đã vạch trần mọi
hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp
đi lặp lại.
Yêu như
Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em
mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó
là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là
"hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga
10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày
mai, trên thập giá.
Đức
Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha
yêu con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa
đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn
toàn từ bỏ bản thân mình.
Để
yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong
chính sự "khác biệt" của họ, chúng ta cần từ
bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối
với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu
chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người
đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo
nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã
chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở
nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!
Đối
với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp
đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô
nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế
mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới
mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc
đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người
ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn
tới.
Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có
ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp
khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ
đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến
chúng ta phải yêu thương.
- Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới".
- Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
- Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu...".
Như
thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp
tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian.
Tình yêu huynh hệ là "thể thức" thực sự, giúp
Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời
gian cuối cùng", mở đầu bằng cài chết của Người.
Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như
ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc
rửa chân " và trao ban "giới răn mới quan trọng"
như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự
Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và
hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh
Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không
nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính
thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn".
Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: "Này
là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra".
Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân
cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em". Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện
diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều
gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự
thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức
Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là
anh em có lòng yêu thương nhau".
Nhờ
những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có
thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ
dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa
bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu
đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời
thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà "mọi người"
có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá
của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng
ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới
hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con
người. Bí tích Thánh Thể sẽ "dẫn" chúng ta tới
phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời,
tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới
mọi nơi ta đang phục vụ".
19. Suy niệm của nhóm Nha Trang
“Thầy
ban cho các con điều răn mới, là các con hãy thương yêu
nhau”.
I. Ý
CHÍNH:
Bài Tin
Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ
Biệt của Chúa Giêsu, nói về việc Chúa Giêsu ban cho các
môn đệ giới luật mới, luật yêu thương nhau.
II.
SUY NIỆM:
1.
“Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc”:
Có lẽ
Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau lúc rửa chân và trước lúc
thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chính lúc này Chúa Giêsu
mới có thể nói một cách cởi mở về số phận của
Người và đồng thời trăn trối những điều quan trọng
cho các môn đệ.
2.
“Bây giờ Con Người được vinh hiển”:
“Bây
giờ” diễn tả ý nghĩa vào chính lúc Chúa Giêsu chịu
nạn chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Chính hành
vi Giuđa bước ra khỏi phòng tiệc là cử chỉ nói lên
việc Giuđa quyết định phản nộp Thầy mình, chính lúc
đó Chúa Giêsu coi như là khởi sự cuộc khổ nạn của
Người.
“Con
người được vinh hiển”: Chúa Giêsu coi việc Người
chịu chết trên Thánh Giá như một chiến thắng: chiến
thắng Satan. Và vì vậy Người cho biết Người sẽ bước
lên Thập giá trong tư thế một kẻ chinh phục (Ga 3,14;
8,28; 12,32-34). Và như vậy, cho đến khi ấy, đời Chúa
Giêsu chỉ là một sự chuẩn bị, “Bây giờ” mới là
lúc bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
“Thiên
Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Chúa
Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách “Vâng lời cho đến
chết và chết trên cây Thập giá” (Ga 4,34; 17,4).
3.
“Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Nếu
Chúa Giêsu làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cái chết của
Người trên Thập giá, thì đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho
Người vinh hiển sau khi Người chịu nạn chịu chết,
bằng cách cho bản tính loài người chịu đau khổ của
Người được thông phần vinh quang rực rỡ bản tính của
Thiên Chúa.
4.
“Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con …”:
Vì sắp
phải lìa xa các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã tỏ ra cho
các ông biết cuộc biệt ly tạm thời này bằng những
lời lẽ rất thân thiết.
Kiểu nói “các con yêu quý” diễn tả một tâm tình
thắm thiết đầy tình thương yêu của Chúa Giêsu đối
với các môn đệ của Người.
5.
“Thầy ban cho các con điều răn mới …”:
Đây
là ý muốn của Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ trước
khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu nói những lời này trong
tư thế của một sư phụ nói lời trăn trối trước khi
ra đi (Mt 24, 45-51) và trong tư thế một Người Cha hằng
lo lắng bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp từ
giã. Nếu các môn đệ thực hiện thì luật yêu thương
này sẽ đền bù cho các ông sự mất mát không còn được
thấy Thầy cách khả giác nữa và làm cho các ông xứng
đáng gặp lại Người.
“Điều răn mới”:
Chúa Giêsu muốn so sánh với luật tự nhiên mà Môisen đã
thừa nhận khi dạy phải yêu thương tha nhân như chính
mình (Lv 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân theo luật này có
tính cách tiêu cực vì chỉ nhằm tránh những gì có thể
gây ra thù oán hoặc nếu có hành động tích cực thì lại
mang tính cách vụ lợi: làm cho tha nhân những điều mình
muốn thôi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa lại luật
này cho hoàn hảo hơn: “Xưa … nhưng nay Ta bảo …” (Mt
7,12; 19,9; 22,39-40).
6.
“Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy
yêu thương nhau”:
Với
luật mới này, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong
những đòi hỏi của tình bác ái huynh đệ: yêu tha nhân
như chính mình chưa đủ, người môn đệ cần phải yêu
thương tha nhân như chính Đức Kitô đã thương yêu họ,
mà tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận
tâm, vô vị lợi (Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Người đã
hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến
chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính
điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng
ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta
cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).
7.
“Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các
con là môn đệ của Thầy”:
Bác ái
của người môn đệ Chúa Giêsu theo luật mới này phải
có tính cách cụ thể, rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy
họ là môn đệ của Chúa Giêsu ngay cả đối với những
người chưa biết gì về Ki-tô Giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga
2,7-11; 20,21). Luật yêu tha
nhân theo kiểu Chúa Giêsu đã yêu nhân loại là luật
riêng của Chúa, nên cứ dấu đó mà người ta nhận ra
môn đệ chân chính của Người. Và như vậy, tình yêu
tha nhân được truyền dạy chỉ có thể được thực
hiện giữa những người tin vào Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là
tính cách mới mẻ của luật mới này.
III.
ÁP DỤNG:
A.
Ap dụng theo Tin Mừng:
Giáo
Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng
ta về luật yêu thương nhau và đồng thời và đồng thời
cũng gây cho chúng ta ý thức về bổn phận phải yêu
thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, để
nhờ đó chúng ta xứng đáng với danh nghĩa người Ki-tô
hữu, môn đệ của Chúa Kitô.
B.
Áp dụng thực hành:
Nghe lời
Chúa phán:
- Bây giờ con Người được vinh hiển: Chúa Giêsu được vinh hiển nhờ chiến thắng Satan bằng Thập Giá qua những hy sinh, hãm mình và chết đi cho tội lỗi trong đời sống hằng ngày.
- Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người: Chúa Giêsu làm vinh danh Thiên Chúa Cha bằng sự vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Chúa muốn mời gọi chúng ta noi theo người làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa trong mọi việc mình làm, tức là làm mọi việc và chịu đựng mọi sự vì lòng mến Chúa.
- Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình. Càng làm vinh danh Chúa, càng được công phúc trước mặt Chúa và càng được hy vọng vinh hiển với Chúa trong Nước-Trời.
- “thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”. Mỗi lần chúng ta đọc lời này là mỗi lần Chúa nhắc chúng ta nhớ lại luật yêu thương nhau, nhưng sự yêu thương của chúng ta vẫn còn tính cách ích kỷ vì chỉ yêu theo sở thích và được mối lợi cho riêng mình. vì thế Chúa bảo ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, một tình yêu hướng tha và vô vị lợi.
Cần
chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời Chúa Cứu Thế để
khám phá ra cách thể Chúa yêu thương chúng ta và nhờ đó
chúng ta biết yêu thương nhau cũng theo cách thể như vậy.
- Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau. Muốn nhập đoàn quân nào phải đeo phù hiệu binh chủng đó. gia nhập đoàn quân của Chúa Kitô thì phải đeo phù hiệu của Chúa. phù hiệu của Chúa Kitô là yêu thương nhau.
Đồng
phục của người Ki-tô hữu là bác ái.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
GIỚI
RĂN MỚI: “CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU
THƯƠNG CÁC CON”.
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1.
Tiếng hô thắng trận.
Nằm
ở giữa việc Đức Giêsu rửa chân và diễn từ sau tiệc
ly, trong đó, nhiều ý tưởng lớn được Đức Giêsu đề
cập đến, đoạn Tin Mừng này bắt đầu, ngay khi Giuđa
vừa đi khỏi, bằng tiếng hô thắng trận của Đức
Giêsu: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên
Chúa cũng được tôn vinh nơi Người". X. Léon-dufour
chú giải: "Từ lúc này trở đi, Đức Giêsu thấy cái
chết đã theo ngay sau Người, Người cảm thấy được
Thiên Chúa tôn vinh độc giả cũng phải sống viễn cảnh
và lắng nghe Đức Kitô vinh quang lên tiếng"
Tác giả
đoạn chú giải vừa rồi viết tiếp: Từ “giờ đây"
đánh dấu một thời điểm. Nó diễn tả một xác tín
thuở đầu. Phục sinh xác nhận một giai đoạn mới. Vượt
qua cái chết, “Giờ đây”, Đức Giêsu bước vào một
khúc rẽ nhiệm mầu, bỏ lại sau những điều kiện bình
thường của con người bị lệ thuộc vào thời gian,
nghĩa là hiện tại chỉ phát xuất từ một quá khứ và
hướng tới một tương lai mờ mịt. Từ giờ trở đi,
hiện tại của Đức Giêsu là một hiện diện vĩnh cửu
trong vinh quang Thiên Chúa". ("Lecture de L’Evangile
se lon saint Jean, quyển III, Seuil, trg 50-51)
2.
Từ “như” chỉ một cội nguồn.
Người
ta thường trích lời Đức Giêsu: "Các con hãy thương
yêu nhau", nhưng lại hay bỏ nửa sau "như Thầy đã
yêu thương các con". Và nhiều người coi từ "như"
này như một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu
gọi để bắt chước sự xử thế của Thầy mình.
Nhưng,
liên từ "như" này của bản văn Tin Mừng không
chỉ biểu thị sự so sánh, mà còn biểu thị nguồn gốc
của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ
mình. Có thể diễn dịch: "Các con hãy yêu thương
nhau, theo như Thầy đã yêu thương các con", hoặc...
"Các con hãy yêu thương nhau... vì Thầy đã yêu thương
các con để các con yêu thương nhau như Thầy". Hoặc
“Các con hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã
yêu thương các con." X. Léon-dufour chú giải: "Tình
yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh
lòng bác ái nơi các ông. Chính tình yêu của Người lưu
chuyển đến họ làm cho họ yêu thương anh em, và họ
được mến yêu. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi
các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha". (sđd,
trg 82-83).
3.
Tính cách mới mẻ của giới luật yêu thương.
Yêu
đồng loại. Cựu ước đã biết đến đòi hỏi này. Các
triết gia ngoại giao trước Đức Giêsu đã rao giảng tình
yêu tha nhân, cả đến tình yêu đối với thù địch.
Thế
thì, tính cách mới mẻ trong giới răn yêu thương huynh đệ
của Đức Giêsu là gì? điều mới mẻ này chính là nơi
bản chất của tình yêu huynh đệ mà các môn đệ Đức
Giêsu thể hiện: đó là tình yêu của chính đức Giêsu
thể hiện nơi họ. X. Léon-dufour kết luận: "Một kỷ
nguyên mới đã khởi đầu. Qua các môn đệ của Chúa Con
mà tình yêu mạc khải từ nay hiện diện trong nhân
loại... tình yêu nhau giữa các môn đệ sẽ tỏ bày cho
mọi người, nghĩa là cho cả những người lân cận chưa
tin - họ thuộc về Đức Kitô và nhờ Người mà nhân
loại vượt qua cái chết để tới sự sống” (Sđd, trg
84-85).
BÀI
ĐỌC THÊM:
1.
Hãy làm cho giới luật yêu thương sáng lên
Từ nay, qua việc chăm sóc người
bất hạnh, người nghèo, Giáo Hội và các cộng đoàn tỏ
bày tình thương của Thiên Chúa đối với con người và
đồng thời tỏ bày ý hướng cứu rỗi họ. Phải, Giáo
Hội đã nhận lãnh sứ mệnh đem vào hiện hữu và lịch
sử con người một luật có khả năng làm sống động
nhân loại bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Luật ấy
là thế này: Hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương
các con. Thiên Chúa biết thời đại chúng ta đang kêu gào
lớn tiếng một luật sống khác với luật sống của máu
lửa, sắt thép đang huỷ diệt khắp chốn. Hãy biết
khiêm tốn để làm sáng lên trong đời chúng ta, trong
nhiệm vụ của chúng ta, trong gia đình, cơ quan, nơi vui
chơi giải trí, trong lãnh vực kinh tế, chính trị, một
chút gì đó của giới luật yêu thương.
Chỉ
vương quyền bác ái mới có thể thay đổi thế giới,
mới biến hận thù thành yêu thương, chiến tranh thành
hoà bình. Chỉ "hãy yêu thương nhau như Thầy đã
thương yêu các con" mới có thể tạo lập một mẫu
người và xã hội huynh đệ. Bác ái không thể định
nghĩa được bằng ngôn từ cảm tính hay sùng mộ. Olivier
Clément viết: Bác ái "không phải là đường mà là
muối ". Ngôn từ của bác ái "không phải là bạc
nhược, nhưng là tự chủ và dũng cảm". Thế giới
này nghĩ bác ái là điều khó và thậm chí không thể
thực hiện được. Bác ái đích thực không tránh né bạo
lực, mà là chuyển đổi nó thành sự phấn đấu trong
cuộc sống, là tạo lập Công bình và Thẩm Mỹ.
Tình
yêu, bác ái là công trình của lòng tin, là dấu chỉ hữu
hình và cần thiết để chứng tỏ sự thuộc về Đức
Kitô Phục sinh. Nó là lời giảng đầu tiên của việc
Phúc âm hoá, là sự hiện diện trước tiên có thể cảm
nhận được của Đức Kitô.
Nền
văn minh tình yêu là một mầm cây được trồng nơi thửa
đất gọi là Giáo Hội, là đầu cầu dẫn vào vương
quốc, với điều kiện là trước hết, các Kitô hữu
phải tập và có kinh nghiệm yêu thương nhau, rồi mới có
thể yêu thương mọi người.
Tình
yêu, bác ái là năng lực vô song làm cho con người và xã
hội có được sức sống mới. Cuộc viếng thăm một hội
đường Do Thái ở Rôma của Đức Giáo Hoàng đã nhắc
nhở chúng ta điều này. Công cuộc giải phóng của Kitô
giáo phải hoàn toàn được hướng dẫn bởi tính năng
động của giới luật yêu thương vĩ đại này.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“ĐIỀU
RĂN MỚI” (Ga
13,31-33a.34-35)
1.
Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và
trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói:
“Bây giờ con người đã được tôn vinh và Thiên Chúa
đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời
tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản
bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như
một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột
giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37),
vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm
ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc
Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà
vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền
cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1;
Dt 10,3-7; Lc 13,3-33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ
là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm
kịch cứu rỗi.
Nghĩ
đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài
(3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy
hài lòng đến nỗi - coi cuộc khổ nạn như một thoáng
qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần
chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun)
vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh”
(glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá
chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34;
12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái
chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự
vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất:
“Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để
diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ
dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào
hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu
kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.
Có lẽ
đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài
thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc
Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn
phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa
Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua
lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16;
8,38.40-47.55...) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28;
9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ”
bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi
phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn - phục
sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo
nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã
được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như
thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản
bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ
lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn
vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28).
Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã
đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây
là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp
chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).
Chính
Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”.
Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước
hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa
chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó
luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người”
đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập
thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con
người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4
lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh
hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28;
12,23; 13,31).
Nếu
Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “Thiên Chúa
đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người
phụng sự Thiên Chúa sẽ trở lại với con người dưới
dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên
liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “Thiên Chúa cũng
sẽ tôn vinh Ngài (Đức Kitô) trong chính mình Người
(Thiên Chúa)”. Nghĩa là gì? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh
quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính
Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc
quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài
sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha
dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con
làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có
thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình
trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và
tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó
ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “Thiên Chúa”
thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất
vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ
trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được
cho nhân tính mình, Thiên Chúa đã nâng con người lên
chính Ngai của Thiên Chúa. Chính đấy là nơi mà từ nay
các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến
gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử
đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi
thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu
Thiên Chúa” (Cv 7,56).
Khi loan
báo “Thiên Chúa sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ
đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài
phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối
với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển
vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.
2.
Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ
biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các
ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã
yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau”
(c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những
lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư
thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con
cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt,
điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ
có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả
giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới
luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới
luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới
luật của Ngài” (15,12).
Chính
nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên
bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai
điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã
thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu
tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người
Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ
cần phải sống an hoà với, không thì sẽ bất an khi cùng
đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do
thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các
điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực
nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo
phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng
hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui
tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà
luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều
chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là
tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải”
(Chabbath, f.31).
Để
xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật
căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19;
22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã
đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú
giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề
ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn
phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù
mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).
Với
“giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều
trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha
nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu
tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức
Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm
(Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài
người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1;
15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này
mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức
Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạng vì
anh em mình” (1Ga 3,16).
Giao ước
mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước
(1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó
được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây
được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một
vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu
Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không
chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài yêu chúng ta như là
tạo vật và Con Thiên Chúa (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài
mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha
yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói
tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã
yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy
yêu thương nhau như chính Thiên Chúa đã yêu Ta”.
Một
khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh
đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo
gương Thiên Chúa: “Để hết thảy chúng được nên một,
cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ
hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu
nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một”
(10,30).
Ngoài
ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì
khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất
lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng
Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các
ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn
này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người
Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn,
phải yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn
sư đã đặt tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân một
cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô,
hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu
tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10-11.14-16; Rm
13,9-10).
“Chính
nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi
là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau”
(c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện
thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn
đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết
gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình
yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện
hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần
nữa, giới luật là giới luật “mới".
Lịch
sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất
về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm
và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong
chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của
nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều
coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của
Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương
nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”
(Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi
họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv
11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết,
đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt
tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình,
Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).
KẾT
LUẬN
Trước
ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn
đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên
một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết
của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi
tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm
của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi
điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn
đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng
nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp
hành tốt.
Ý
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.
Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc
ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan
trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và Thiên
Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng,
trong thánh kinh, vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của
một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn
ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa:
nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh
kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện
diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh
quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc
về Thiên Chúa, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn.
Trong mức độ thực hiện chương trình Thiên Chúa, mỗi
người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên
trong vinh quang.
2.
Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán
triệt ý nghĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã
được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ
đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc
Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý
Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc
Người nhiệt tâm yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời khi
minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người
bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được
tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.
3.
Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách
mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta
xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và
bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối
tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta ("như thày đã
yêu mến các con") và tiếp nối tình yêu chúng ta đối
với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta
nhận ra các con là môn đệ Thày...). Lòng thương cảm tự
nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải
có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều
kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu
thương họ trong Thiên Chúa và trong Đức Kitô. Và ngược
lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính
trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không
có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được
Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không
phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành... nhưng là
vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân
Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị
cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu
siêu nhiên.
4.
Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc
lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh
lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông
với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch
thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa
bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình
yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn
đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu,
họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình
yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người
hằng mơ ước.
Đăng nhận xét