HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN THÁNG MƯỜI MỘT
1 THÁNG MƯỜI MỘT
Các Thánh Của Chiên Con
“Tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn” (Kh
7,14). Những lời này trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ được trích
đọc trong phụng vụ hôm nay. Ngày Lễ Các Thánh, Giáo Hội trên khắp hoàn cầu tôn
vinh tất cả những ai đã được hưởng trọn vẹn ơn cứu độ. Họ là những người – theo
cách nói của Sách Khải Huyền – ’đã tung hô lớn tiếng: “Chính Thiên Chúa chúng
ta… và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,10).
Quả vậy, những người này đã được đóng ấn bằng Máu Con
Chiên. Họ mang trong mình dấu ấn ơn cứu chuộc, là nguồn sự sống và sự thánh
thiện: “Phàm ai đặt hy vọng nơi Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như
Người là Đấng thanh sạch” (1Ga 3,3).
Thiên Chúa là Đấng thánh, Đấng cực thánh, và Ngài mời gọi
con người nên thánh. Hôm nay, Giáo Hội chan hòa niềm hân hoan nơi tất cả những
ai đã đáp trả trọn vẹn tiếng gọi này, những ai đã thông dự vĩnh viễn vào sự
thánh thiện của Thiên Chúa. Vì thế, một lần nữa, lời cầu nguyện vang lên từ đáy
tâm hồn chúng ta, vang lên tới tận thiên đình trong ngày lễ trọng đại này:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm
nay, Chúa cho Hội Thánh được mừng công phúc và vinh quang của toàn thể chư
thánh. Xin ban cho dân Chúa, nhờ lời chuyển cầu của các thánh trên trời, được
hưởng dồi dào lòng Chúa xót thương …”
Với Kinh Truyền Tin, chúng ta đặc biệt nói với Đấng mà
Giáo Hội tôn dương là Nữ Vương Các Thánh: “Bà được chúc phúc giữa các phụ nữ”,
"Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà” (Lc 1, 35).
Lạy Mẹ Maria,
nơi Mẹ, chúng con khát khao tôn thờ Thiên Chúa,
vì món quà thánh thiện được trao ban cho nhân loại
là Đức Giêsu Kitô.
Chúng con xin Mẹ thương
chuyển cầu cho các tín hữu đã qua đời,
nhờ đó Giáo Hội được trọn vẹn niềm vui
trong ngày đại lễ mừng kính Chư Thánh hôm nay.
2 THÁNG MƯỜI MỘT
Từ Bụi Đất Trở Về Bụi Đất
“Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài” (Tv
24,1). Mọi sự đều thuộc về vị Chúa Tể của vũ hoàn. Ngài đã tạo dựng nên tất cả.
Trong vũ trụ này, trái đất là trung tâm. Và trên trái đất này, con người được
Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài, con người được dựng nên có nam có nữ.
Đấng Tạo Hóa đã nói với con người: “Hãy sinh sôi nảy nở
đầy mặt đất và hãy cai quản nó” (St 1, 28). Xuyên qua dòng lịch sử, con người
đã sinh sôi nảy nở đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Tuy nhiên, đồng thời con
người cũng bị mặt đất này chế ngự. Con người bị mặt đất chế ngự nơi cái chết.
Tất cả các nghĩa trang trên thế giới này làm chứng điều đó. Con người trở về
bụi đất – nơi mà từ đó con người được dựng nên (St 3, 19). Hôm nay, Giáo Hội
suy tư về mầu nhiệm sự chết – là định mệnh chung của mọi con người trên cõi đời
này. Tuy nhiên, trái đất này thuộc về Chúa! “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật
muôn loài” (Tv 24, 1).
Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, có thể nào con
người thuộc về trái đất mãi mãi được không? Có thể nào con người chỉ thuộc về
trái đất này mà thôi? Có thể nào trái đất này là định mệnh độc nhất của con
người? Có thể nào khi con người trở về bụi đất thì mọi sự cũng … chấm hết và
không còn gì nữa?
Tất cả các nghĩa trang trên thế giới này đều mang trong
lòng chúng những dấu hỏi sừng sững và bất tuyệt ấy. Nếu trái đất là của Chúa
thì lẽ nào con người lại không là của Chúa – con người mà Thiên Chúa đã tạo
dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài?
Sự thật này được trao ban cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và
qua các Tông đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân
danh Ngài: “Như Cha đã sai con vào thế gian, thì con cũng sai họ vào thế gian”
(Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng
hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài
đến để cứu độ nhân loại. (Ga 17, 21.23)
Hiệp nhất là nguồn mạch hoan lạc và bình an. Trái lại,
chia rẽ và bất hoà, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch với hiệp nhất. Đó
là những sự dữ – và đầu mối của chúng là Satan.
3 THÁNG MƯỜI MỘT
Hoa Trái Của Hiệp Nhất
Trong lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức
Giêsu nói: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh
hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên
sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng
Cứu Độ chúng ta.
Sự thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức
Kitô và qua các Tông Đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy
nhân danh Người: “Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào
thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta,
nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai
Con của Ngài để cứu độ chúng ta (Ga 17,21.23).
Hiệp nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta.
Đàng khác, chia rẽ và bất hòa, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại
hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối của chúng là chính Satan.
4 THÁNG MƯỜI MỘT
Lòng Thương Xót Của Chúa Cha
Trong lời nguyện hiến tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa
Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga 17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế
vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự
dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng vượt. Do đó, đây cũng là một lời
nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những cấp độ khác nhau: nơi chính
bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô hữu, giữa người Kitô hữu và
những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và các quốc gia, giữa các khu vực
đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên thế giới.
Hoà giải là một kinh nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm
linh con người. Trong hình thức cao nhất của nó, nó là hình ảnh người Cha nhân
lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị. Anh ta là nạn nhân của cám dỗ
muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức riêng mình, bất cần Cha. Cái trống
rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối ấy, và hậu quả là phẩm giá của
anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết thương cần phải được chữa trị
tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại lòng thương xót của Cha. Vâng,
sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa,
với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự
biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.
Hoà giải còn mang một chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua
những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội và vượt qua sự xung khắc giữa các
quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy bất công. Trên hết, nó ưu tiên
tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích cực bảo vệ các quyền của con
người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.
5 THÁNG MƯỜI MỘT
Giáo Xứ Là Một Gia Đình Aám Tình Huynh Đệ
Con người hiện đại thường mất hướng và đi lạc trong việc
tìm kiếm tình bạn đích thực. Đời sống gia đình và xã hội chúng ta thường hoặc
quá hời hợt hoặc bị nát vụn do những đổ vỡ. Môi trường làm việc thì thường rơi
vào tình trạng phi nhân hóa. Con người hôm nay khát khao cảm nghiệm một cuộc
gặp gỡ đích thực với người khác, khát khao một tình bạn ấm áp thực sự.
Đấy không phải chính là ơn gọi của một giáo xứ đó sao?
Chúng ta không được mời gọi để trở thành một gia đình nồng ấm tình huynh đệ đó
sao? (CT 67). Chúng ta không phải là những anh chị em gắn bó với nhau trong gia
đình của Thiên Chúa qua đời sống cộng đoàn của chúng ta đó sao? (LG 28). Giáo
xứ của bạn không chủ yếu là một cơ cấu, một khu vực địa lý hay một cơ sở nào
đó. Tiên vàn giáo xứ là một cộng đoàn các tín hữu. Giáo Luật mới đã định nghĩa
về giáo xứ như thế (GL 515, 1). Bổn phận của một giáo xứ hôm nay là: trở thành
một cộng đoàn, khám phá lại căn tính của mình trong tư cách là một cộng đoàn.
Chỉ một mình bạn thôi, chưa đủ để bạn làm Kitôhữu. Làm một Kitô hữu có nghĩa là
tin và sống đức tin của mình cùng với những người khác. Vì tất cả chúng ta đều
là những chi thể của Thân Mình Chúa Kitô.
Nhưng bằng cách nào một cộng đoàn được sinh ra? Cần phải
ghi nhận rằng không phải dễ dàng tạo lập một cộng đoàn. Tự bản chất, cộng đoàn
có nghĩa là hiệp thông. Dù rằng trong tư cách là đại diện của giám mục, linh
mục đóng một vai trò thiết yếu, nhưng chỉ với vai trò của linh mục mà thôi thì
không đủ để cho mối hiệp thông lớn lên. Cần phải có sự dấn thân của mọi thành
viên trong giáo xứ. Mỗi sự đóng góp của các thành viên đều hết sức quan trọng.
Công Đồng Vatican II đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của cộng đoàn và vai trò
nòng cốt của người giáo dân. (LG 32-33; AA 2-3)
6 THÁNG MƯỜI MỘT
Thánh Thể, Trung Tâm Của Cộng Đoàn
Bằng cách nào một cộng đoàn được khai sinh? Vấn nạn ấy
tìm thấy câu trả lời tuyệt vời của nó nơi Đức Kitô: cộng đoàn không được khai
sinh chủ yếu từ sức lực và sáng kiến của chính chúng ta. Chính Đức Kitô xây
dựng cộng đoàn Kitô hữu. Và chính công việc loan báo Tin Mừng là nhân tố quy tụ
các tín hữu lại với nhau (GH 26; PO 4). Nguyên lý hướng dẫn một cộng đoàn giáo
xứ là: Lời Chúa được công bố. Dân Thiên Chúa lắng nghe Lời Ngài, suy gẫm Lời
Ngài và áp dụng Lời Ngài vào cuộc sống thường ngày. Họ tìm cách “hội nhập chân
lý vĩnh cửu của Đức Kitô vào những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống” (PO 4). Thật
vậy, chỉ lắng nghe Lời Chúa mà thôi thì không đủ. Chỉ công bố Lời Chúa mà thôi
cũng không đủ. Cần phải sống Lời Chúa nữa.
Cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh từ Lời Chúa, nhưng
trung tâm và chóp đỉnh của đời sống cộng đoàn là việc cử hành Thánh Thể (CD
30). Qua Thánh Thể, cộng đoàn cắm rễ vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Nhờ
Đức Kitô, Dân Thiên Chúa được đi vào trong mối hiệp thông với Chúa Ba Ngôi. Đời
sống của một cộng đoàn có chiều sâu thẳm như thế! Và đó là ý nghĩa của các cử
hành phụng vụ – những cử hành được cắm rễ nơi cung lòng Thiên Chúa. Qua các cử
hành ấy, chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, Đấng đã chết, đã sống lại, và đang sống giữa
chúng ta.
Thánh Thể mạc khải cho chúng ta ý nghĩa của lao động, ý
nghĩa của những khó khăn gian khổ mà chúng ta đương đầu trong cuộc sống đời
thường. Ý nghĩa của mọi nỗi đau buồn được soi chiếu rõ. Vì khi được kết hợp với
hy tế của Đức Kitô, tất cả sẽ trở thành một lễ phẩm dâng lên Thiên Chúa và trở
thành nguồn sống cho chúng ta. Không gì có thể chặn đứng được sự tăng triển của
một cộng đoàn nếu cộng đoàn ấy luôn biết sống như một cộng đoàn Phục Sinh – một
cộng đoàn cùng chết và sống lại với Chúa Kitô (Rm 6, 4-8)
7 THÁNG MƯỜI MỘT
Một Cộng Đoàn Yêu Thương
Cộng đoàn Kitôhữu được sinh ra từ Lời Chúa và cắm rễ sâu
trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Nhưng có một yếu tố thứ ba nữa làm nên
đời sống cộng đoàn, đó là tình yêu được Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng
chúng ta (Rm 5,5). Thật vậy, cộng đoàn sẽ ra sao nếu thiếu vắng tình yêu? Đời
sống cộng đoàn chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta không thi hành điều mà Công Đồng
gọi là “luật” của Dân mới của Thiên Chúa: yêu thương như Chúa Kitô yêu chúng ta
(LG. 9)? Đời sống cộng đoàn chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta không có mối hiệp
thông trọn vẹn với giám mục của mình và với Giáo hội trên toàn cầu?
Nhưng tình yêu ấy phải hữu hình. Nó phải là đặc trưng cho
mọi khía cạnh đời sống chúng ta trong tư cách là một cộng đoàn. Mối hiệp thông
thiêng liêng phải trở thành một mối hiệp thông của các quan hệ phong phú giữa
người với người. Chúng ta phải có một cung cách đích thực Kitôhữu trong quan hệ
với nhau. Như tôi đã từng khẳng định, thật vô cùng quan trọng việc một giáo xứ
trở thành tiêu điểm sum họp vừa mang tính nhân bản vừa mang tính Kitô giáo, để
tạo lập một đời sống cộng đoàn trọn vẹn.
Các cộng đoàn chúng ta được mời gọi cảm nếm trước nền văn
minh tình thương. Và, căn cứ vào mẫu thức của các cộng đoàn Kitôhữu đầu tiên,
thì chúng ta phải thể hiện được một đời sống xã hội phong phú đặc trưng bởi
tình huynh đệ đích thực. Mối quan hệ của chúng ta phải được định hình bởi bởi
tinh thần hiếu hòa và dâng hiến. Chúng ta cần một tinh thần cộng tác và hòa
giải – để chữa lành những vết thương. Chúng ta cần một đời sống thiêng liêng
vững mạnh có sức kết hiệp chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa cũng như với
tình yêu của anh chị em chung quanh mình.
8 THÁNG MƯỜI MỘT
Giáo Xứ, Một Môi Trường Ưu Tiên
Thế giới ngày nay có xu hướng lãng xa Thiên Chúa. Thế
giới chỉ muốn các dữ kiện thực tế và không sẵn lòng để lắng nghe. Nhưng Chúa
Giêsu kêu gọi chúng ta mở rộng tấm lòng mình ra: “Mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Giáo xứ là môi trường ưu tiên để trình bày chứng tá ấy. Chúng ta cần thể hiện
lại trong thời đại hôm nay điều kỳ diệu đã xảy ra trong các cộng đoàn Kitôhữu
đầu tiên: điều kỳ diệu của một sự sống mới, không chỉ về mặt thiêng liêng nhưng
cả về mặt xã hội và lịch sử nữa.
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong
Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 21). Công Đồng Vatican II chú giải
rằng qua những lời ấy, Chúa Giêsu đề nghị chúng ta “bắt chước sự kết hợp của Ba
Ngôi thần linh để kết hợp các con cái Thiên Chúa trong tình yêu và chân lý” (MV
24). Thiên Chúa Ba Ngôi chính là kiểu mẫu của mọi mối tương quan con người và
của đời sống chung giữa con người với nhau!
Từ mẫu thức tối thượng ấy, chúng ta có thể rút ra vô số
hàm ý cho giáo xứ. Thực vậy, ơn gọi cao cả của một cộng đoàn giáo xứ là phấn
đấu để một cách nào đó trở thành một minh họa về Thiên Chúa Ba Ngôi, “hòa hợp
mọi sự khác biệt của con người” (AA 10): người già và người trẻ, nam và nữ, trí
thức và lao động, giàu và nghèo …
9 THÁNG MƯỜI MỘT
Chúng Ta Đang đợi Một Khúc Quanh Quyết Định
Mọi thế hệ đều có thể đem lại những thuận tiện hoặc gây
ra các khó khăn cho thế hệ tiếp theo. Tuy nhiên, không có thế hệ nào mang trên
vai mình trách nhiệm lớn lao đối với tương lai như thế hệ chúng ta. Chưa bao
giờ con người có được những khả năng to lớn như chúng ta có hôm nay để ấn định
tương lai mình: hoặc rất tốt hoặc vô cùng tồi tệ. Chúng ta nhận ra mình đang ở
trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng.
Những giá trị quan trọng nhất của chúng ta đang bị đe
dọa. Chúng ta đang đứng ở ngã ba đường, giữa hai hướng: hoặc tiến bộ đột phá
hết sức ngoạn mục, hoặc suy thoái cách bất khả kháng đến có thể gọi là đại họa.
Chưa bao giờ con người nắm trong tay mình nhiều quyền lực đến thế, và đồng thời
chưa bao giờ con người yếu nhược đến vậy. Sẽ gần như là một hiểm họa khi cả hai
phương diện nói trên cùng phát triển với nhau. Xem ra thật là một nghịch lý:
Chính quyền lực lại là nguyên nhân làm cho chúng ta yếu nhược!
Chúng ta càng tiến gần đỉnh cao của tiến bộ kỹ thuật, thì
thì chúng ta càng chứng kiến những tai họa ập xuống trên chính những gốc rễ của
sự sống mình. Với những bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật, càng có nhiều mối đe
dọa kèm theo: đe dọa từ khắp nơi, từ mặt đất, từ biển, từ trên bầu trời – bầu
trời mà xưa nay vẫn luôn diễn tả cái đẹp, diễn tả những khát vọng sâu xa nhất
của chúng ta. Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho tương lai của mình được che
chở trong lòng xót thương của Thiên Chúa.
10 THÁNG MƯỜI MỘT
Kỹ Thuật: Tai Họa Hay Là Tiến Bộ?
Những khả năng vô song ấy của tai họa khủng khiếp hay của
sự tiến bộ ngoạn mục mời gọi thế hệ chúng ta khám phá lại những giá trị lớn lao
mà nền văn minh của mình cắm rễ trong đó.
Rất nhiều giấc mơ của con người hàng bao thế kỷ đã trở
thành hiện thực nhờ những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật. Chúng ta có thể chặn
đứng sự bành trướng của sa mạc và biến đổi chính sa mạc. Chúng ta có khả năng
chế ngự được hạn hán và sự đói kém. Chúng ta có khả năng làm giảm bớt gánh nặng
của sự làm việc vất vả lâu giờ. Chúng ta có khả năng giải quyết một số vấn đề
về tình trạng kém phát triển và nhờ đó có thể có được một sự phân phối công
bằng hơn về các nguồn tài nguyên của thế giới.
Nhưng cũng chính kho tàng kỹ thuật ấy hiện đang đe dọa
con người với những tai họa khủng khiếp. Trái đất có thể sẽ không còn cư ngụ
được; biển có thể trở thành vô dụng; bầu không khí có thể trở nên độc hại …
Đứng trước vô số những khả năng tích cực và tiêu cực đó,
kỹ thuật không được phép quên con người! Ngày nay, hơn lúc nào hết, chúng ta
khẩn thiết cần đến những giá trị đạo đức ưu tiên trên những giá trị khoa học,
và chúng ta khẩn thiết cần có sự hiệp nhất giữa mọi người chúng ta. Tất cả
chúng ta cần liên đới với nhau vượt qua cả những ranh giới quốc gia – bởi vì
mọi người trên hành tinh này sẽ cùng chia sẻ với nhau những số phận tốt hoặc
xấu. Tất cả chúng ta đều cùng ở trong một vòng ảnh hưởng.
Tương lai chúng ta cần phải được dẫn dắt bởi những giá
trị lớn của nền văn minh Kitô giáo. Các giá trị ấy phải đóng vai trò như người
bảo vệ chống lại những khả năng tàn phá và hủy diệt. Sự phát triển của các kỹ
thuật mới phải giúp thế hệ chúng ta khám phá lại những chuẩn mực đạo đức nền
tảng của văn minh chúng ta. Chúng ta phải ý thức lại bản tính của con người,
phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị và phải tôn trọng sự sống.
11 THÁNG MƯỜI MỘT
Nguồn Tài Nguyên Cho Tương Lai
Quả là mối đe dọa khủng khiếp đang tiềm ẩn trong sự thay
đổi kỹ thuật đã đánh thức lương tâm chúng ta, giúp chúng ta thấy cần phải khôn
ngoan và cần phải nhớ lại những giá trị đạo đức của nền văn minh của mình.
Chính sự tiến bộ khoa học đã đặt ra "vấn đề đạo đức" như là "vấn
đề xã hội" mới của tương lai. Và đâu là câu trả lời?
Chúng ta phải bắt đầu bằng việc theo đuổi sự khôn ngoan.
Vì sự khôn ngoan đích thực là tinh túy của lương tâm các dân tộc, nên vai trò
của công chúng trong việc quyết định tương lai thế giới là một cái gì rất hiển
nhiên. Chẳng hạn, hãy xem xét lãnh vực di truyền học đang ngày càng phát triển.
Những nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng con người có thể đạt được những thành
tựu rất lớn. Những cũng có nhiều khả năng hủy hoại tàn khốc đối với loài người
chúng ta. Các nhà khoa học và các chính quyền có trách nhiệm không thể tránh né
việc tự hỏi mình những câu hỏi hệ trọng của triết học và thần học. Con người là
ai? Định mệnh của con người là gì?
Trong khi theo đuổi sự khôn ngoan, nhiều người bắt đầu
khám phá lại câu trả lời của chân lý Kitô giáo. Họ bắt đầu thấy rằng sự bảo đảm
đích thực duy nhất cho nhân tính trong xã hội tương lai chính là sự tôn trọng
đối với con người và đối với sự sống. Chúng ta đang về nguồn. Con người đang
nhận ra rằng các giá trị dường như cũ kỹ trong quá khứ đang tỏ ra là những của
gia bảo cần phải được trân trọng giữ gìn cho tương lai.
Và sự khôn ngoan này trong việc nhận biết con người và
bản tính con người xuất phát từ chính lương tâm của các dân tộc trên trái đất.
Sở dĩ tôi đi khắp nơi trên thế giới và gặp gỡ người ta thuộc mọi nền văn hóa và
tôn giáo, đấy bởi vì tôi tin rằng Chúa Thánh Thần ươm trồng những mầm khôn
ngoan trong lương tâm của mọi dân tộc. Đó là nguồn tài nguyên thực sự cho tương
lai của thế giới chúng ta, một tương lai trong đó con người biết phục vụ cho
con người.
12 THÁNG MƯỜI MỘT
Xin Hãy Quan Tâm Đến Thế Hệ Trẻ
Chúng ta đang càng ngày càng phải khẩn trương hơn trong
việc cổ võ một khát vọng mãnh liệt và thâm sâu muốn bảo vệ con người và bảo vệ
sự sống con người, nhất là giữa những người trẻ. Chúng ta phải giáo dục và giúp
các bạn trẻ trở thành những con người trưởng thành để các bạn ấy có thể biểu
dương tính thánh thiện của sự sống con người trong thế giới chúng ta. Vâng,
chúng ta phải làm thấm nhập trong họ một niềm tôn trọng sâu xa đối với các giá
trị Kitô giáo đích thực dựa trên những xác tín mạnh mẽ của bản thân họ.
Bổn phận của chúng ta là giúp các bạn trẻ và không ngăn
trở họ trên con đường tiến tới trưởng thành hoàn toàn trong Đức Kitô. Các bạn
trẻ có quyền hưởng một nền giáo dục thích đáng để họ có thể lèo lái thế giới
này trong tương lai. Tôi tha thiết mời gọi các bậc phụ huynh, các nhà giáo, nhà
văn, ký giả, các nhà khoa học, các nghệ sĩ, và mọi người … vâng, tôi mời gọi
tất cả những ai tin vào phẩm giá con người hãy đóng góp phần mình cho thế hệ
trẻ hôm nay.
Thế hệ của ngàn năm thứ ba phải tránh những nỗi kinh
hoàng đã làm cho thế kỷ XX của chúng ta nhuộm đỏ máu. Còn có vô số bước phát
triển mà xã hội con người có thể thực hiện để phục vụ cho chính con người. Khi
chúng ta tiến bước đến tương lai, chúng ta có trong tay những khả năng chưa
từng có để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn và nhân đạo hơn theo tinh thần của
Tin Mừng.
13 THÁNG MƯỜI MỘT
Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ Tại Môi Trường Lao Động
Trong thời đại chúng ta, vấn đề bình đẳng nam nữ đang
được giải quyết, ít nhất về mặt pháp lý, bằng những đạo luật nhìn nhận sự bình
đẳng nam nữ tại môi trường làm việc. Tuy nhiên, như Thông Điệp Pacem in terris
ghi nhận, chúng ta phải đảm bảo cho phụ nữ “quyền có các điều kiện làm việc phù
hợp với các yêu cầu và các bổn phận của họ trong tư cách là vợ và là mẹ”. Chúng
ta phải xây dựng một xã hội trong đó phụ nữ có thời giờ để nuôi dạy con cái
mình – là những nhà xây dựng và những nhà kiến thiết tương lai. Giáo Hội rất ý
thức nhu cầu này, như tôi đã nói tại một hội nghị Thượng Hội Đồng giám mục
trước đây: “Gia đình phải được sống cách xứng đáng ngay cả khi người mẹ không
thể cống hiến hoàn toàn cho gia đình.” Điều này không có nghĩa rằng phải khai
trừ phụ nữ ra khỏi thế giới lao động làm ăn hay ra khỏi những hoạt động công
cộng ngoài xã hội.
‘Sự thăng tiến đích thực của phụ nữ đòi hỏi rằng công
việc làm phải được tổ chức sao cho họ không bị bắt buộc phải trả giá cho sự
tiến thân bằng việc bỏ mất ơn gọi chuyên biệt của họ trong gia đình. Bởi vì phụ
nữ có một vai trò không thể thay thế được, đó là vai trò làm mẹ” (LE 19).
Đó là giáo huấn của Giáo Hội. Trong một xã hội mong muốn
có sự công bằng và nhân đạo, thì những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
vị con người phải chiếm chỗ nhất trong bậc thang các giá trị. Chúng ta phải bảo
vệ những nhu cầu này và nêu cao tầm quan trọng của nhân vị con người trong các
gia đình chúng ta. Chúng ta không được phép quên phẩm giá của vai trò làm mẹ và
tầm quan trọng của công việc nuôi dạy con cái.
14 THÁNG MƯỜI MỘT
Tình Yêu Cứu Độ Của Chàng Rể
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến,
sinh bởi người phụ nữ” (Gl 4,4). Khi người Con ấy (là Ngôi Lời vĩnh cửu) được
sinh ra bởi người trinh nữ ở Na-da-rét, một sự kết hiệp rất đặc biệt đã được
thực hiện: sự kết hiệp giữa thiên tính và nhân tính nơi ngôi vị thần linh của
người Con ấy. Chúng ta gọi là ngôi hiệp. Sự kết hiệp này cho thấy tình yêu đặc
biệt của Thiên Chúa đối với con người – như được bộc lộ xuyên qua mạc khải.
Tình yêu đặc biệt này mang những dáng nét của tình yêu phu phụ, nghĩa là nó
giống với thứ tình yêu kết hợp giữa vợ và chồng.
Đây là điểm độc đáo đặc trưng tình yêu của Thiên Chúa
dành cho con người, tình yêu mà một số ngôn sứ Cựu Ước đã làm chứng: Isaia,
Hôsê, Êdêkien. Theo các vị ngôn sứ này, tình yêu của Thiên Chúa nhắm đến không
chỉ một cá nhân, mà nhắm đến toàn thể dân Itraen. Trong Tân ước, Thư Êphêsô
cũng khẳng định tương tự: Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc. Nhưng Người là “Hôn Phu
của Giáo Hội” và Giáo Hội là Hiền Thê của Người. Tình yêu của Đức Kitô đối với
con người vừa có đặc tính cứu chuộc vừa có đặc tính phu phụ.
Theo giáo huấn của Thư Êphêsô, tình yêu phu phụ của Đức
Kitô đối với Giáo Hội là nguồn và là mẫu thức cho tình yêu kết hiệp người vợ và
người chồng trong một “Mầu Nhiệm Vĩ Đại”, đó là hôn nhân (Ep 5, 32).
Bí Tích Hôn Nhân vừa là hình ảnh thể hiện vừa là sự tham
dự vào cuộc hôn phối giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng Những Thực Tại Đời Thường
Tiệc cưới Cana trong Tin Mừng Gioan là một câu chuyện
hùng hồn nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải. Ở đầu sứ vụ mêsia của Người,
Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để dự một đám cưới. Người không
đến đó một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến
cố này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin
Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên
trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng của Người qui hướng vào việc thiết
lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy
như chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với lối sống của Người. Nhưng sự thật
không phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta biết cách định hướng các thực
tại trần gian này qui hướng về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là
một biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu liên đới với các thực tại đời
thường của cuộc sống con người để giúp chúng ta hiểu rằng những giá trị đích
thực của con người có thể và phải phục vụ cho một định mệnh siêu vượt trên cuộc
sống trần gian này.
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản Ảnh Tình Yêu Của Đức Kitô
Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu
chúng ta muốn nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng nhằm làm một động thái nhắc
chúng ta nghĩ đến những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc
chúng ta về ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của tình yêu vợ chồng. Tình yêu này là
một dấu hiệu và một sự thông dự trong chính tình yêu vốn tồn tại giữa Chúa Kitô
và Giáo Hội. Tình yêu ấy không thể chịu sự chi phối của những thay đổi thất
thường và bất định của cuộc sống. Không, nó có thể và phải là một sự dấn thân
vĩnh viễn không thể phân ly và không thể phá hủy. Như vậy, tình yêu vợ chồng mở
ra tới những viễn tượng vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa và của cuộc sống bất
diệt.
Mẫu thức tối thượng và siêu việt này của tình yêu vợ
chồng được minh họa cho chúng ta trong Thư Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta
khám phá nền tảng cho việc chọn lựa hôn nhân để chúng ta thực sự hạnh phúc và
sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn lựa đời sống hôn nhân Kitô
giáo nâng đỡ và đào sâu tình yêu của chúng ta trong những lúc gặp khó khăn thử
thách, giúp làm cho tình yêu của chúng ta tinh tuyền hơn và sinh hoa trái nhiều
hơn.
Chúng ta cần đánh giá tình cảm của mình trong ánh sáng
của nhận thức nói trên về tình yêu vợ chồng. Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo
rằng một tình yêu đích thực và một cuộc hôn nhân Kitô giáo đích thực sẽ được
bộc lộ rõ rệt trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả là một bí tích. Chúng ta
bắt đầu thoáng thấy các lý tưởng của tình yêu và khả năng sinh hoa trái mà mỗi
người vợ người chồng Kitôhữu đều được mời gọi đạt đến với sự hỗ trợ của ân
sủng.
17 THÁNG MƯỜI MỘT
Ân Sủng Thánh Hóa Tình Cảm Nhân Loại
Sự đồng ý đón nhận nhau giữa một người nam và một người
nữ khi họ cử hành hôn nhân Kitô giáo không chỉ là một diễn tả tình cảm nhân
loại mà hai người cam kết trọn đời. Họ nói ‘vâng’ với nhau trong đức tin, một
đức tin mà họ dứt khoát chọn lựa cho cả đời mình. Mầu nhiệm này của cuộc hôn
nhân giữa họ là một phản ảnh của sự kết hợp thần nhiệm và của tình yêu phu phụ
giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Vì thế, hôn nhân giữa hai Kitôhữu trước hết là một hành
vi của đức tin. Tình cảm nhân loại của họ được chuyển hóa và được làm cho nên
thánh thiện nhờ ân sủng. Vì họ đã ký thác tình yêu và cuộc hôn nhân của họ cho
Thiên Chúa, nên Ngài nhất định sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng nó bằng ân phúc của
Ngài. Chính Đức Kitô cho biết rằng ở đây không chủ yếu là tự họ ràng buộc với
nhau, mà đúng hơn chính Cha trên trời đang ràng buộc họ với nhau. Và công việc
quan trọng đệ nhất của họ là liệu sao để không phá vỡ sự kết hợp thánh thiện
này.
Một đôi vợ chồng sẽ thành công trong việc bảo vệ cuộc hôn
nhân của mình nếu họ nhớ rằng chính Thiên Chúa đã trở thành người bảo vệ sự kết
hợp giữa họ. Và khi họ trải qua những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân, họ sẽ
chạy đến với Thiên Chúa trong lòng tin tưởng vững vàng vào sự quan phòng và vào
tình yêu thương của Ngài.
18 THÁNG MƯỜI MỘT
Bản Chất Siêu Việt Của Hôn Nhân Và Gia Đình
Những người vợ và chồng phải nhận ra rằng đời sống hôn
nhân và gia đình không chỉ đơn thuần là công việc của con người mà thôi. Không,
chúng nằm trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, kế hoạch ấy vượt trên những
tình trạng dao động của thời đại chúng ta và bất biến qua những thăng trầm của
lịch sử. Với cơ chế của một sự kết hợp bất khả phân ly giữa người chồng và
người vợ, Thiên Chúa muốn làm cho con người tham dự vào những mục tiêu cao nhất
của Ngài, đó là thông truyền tình yêu và năng lực sáng tạo cho con người và cho
mọi tạo vật.
Đó là lý do tại sao hôn nhân và gia đình cung ứng cho
chúng ta một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa. Đời sống hôn nhân và gia
đình là những thực tại phát xuất từ Ngài và được tổ chức bởi Ngài. Gia đình bắt
đầu và có đời sống của nó từ trên mặt đất này, nhưng nó được định liệu để được
biến đổi trên trời. Bất cứ nỗ lực nào không dành đủ quan tâm đến bản chất siêu
việt và cốt yếu này của đời sống hôn nhân và gia đình sẽ rơi vào nguy cơ không
nhận hiểu thực tại sâu xa của tình yêu vợ chồng.
19 THÁNG MƯỜI MỘT
Tiếng Gọi Chung Thủy
Được sinh ra từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, hôn
nhân tìm thấy luật nền tảng và giá trị luân lý của nó trong một tình yêu đích
thực giữa hai người. Cả vợ và chồng đều hoàn toàn dấn thân để nâng đỡ nhau. Và
xuất phát từ khát vọng chung của hai người muốn sống trung thành với tình yêu
của Thiên Chúa – là Đấng Sáng Tạo và là Cha của mình – họ sinh ra sự sống mới.
Sứ mạng mà họ lãnh nhận từ Thiên Chúa này đòi hỏi họ phải có một sự dấn thân
triệt để hơn nữa và một ý thức cao vượt hơn nữa về những trách nhiệm của họ
trong tư cách là con người và là Kitôhữu.
Họ phải không ngừng tìm cách tận dụng các ân sủng tuôn
chảy từ Bí Tích Hôn Nhân. Ân sủng bí tích này thật cần thiết để giúp họ đương
đầu với những thách đố của bao khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Các đôi vợ
chồng Kitôhữu tìm thấy ánh sáng và sức mạnh để giải quyết những vấn đề riêng
của họ nhờ ân sủng này. Họ có thể sống triệt để một tình yêu đích thực và phổ
quát – trước hết đó là tình yêu hướng về Thiên Chúa, vì họ phải khao khát vinh
quang của Ngài và nhiệt tình mở rộng Nước Ngài; thứ hai, đó là tình yêu hướng
về con cái họ trong ánh sáng của nguyên tắc Thánh Phao-lô: “Tình yêu không tìm
ích lợi cho riêng mình” (1Cr 13,5); và cuối cùng, đó là tình yêu hướng về nhau
trong đó người này tìm cách phục vụ người kia và hiểu được những tâm tư nguyện
vọng tốt lành của người kia. Ở đây không có sự độc đoán hay ích kỷ chen vào
trong ý hướng. Không, ở đây chỉ có một tình yêu trọn vẹn và phổ quát.
Điều này giải thích tại sao linh đạo vợ chồng đòi hỏi một
nỗ lực triệt để về luân lý và sự thánh thiện suốt đời. Nó phải được nuôi dưỡng
bởi những niềm vui và những hy sinh trong đời sống hằng ngày.
Những người vợ và chồng, anh chị em đừng cảm thấy cô đơn
trong sự dấn thân của anh chị em cho các mục đích nói trên. Thật vậy, Công Đồng
nhắc anh chị em rằng “Hôn Phu của Giáo Hội đến gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitôhữu
qua Bí Tích Hôn Phối. Ngài vẫn ở với họ để – như Ngài đã yêu thương Giáo Hội và
hiến mình cho Giáo Hội – họ cũng yêu thương nhau bằng một tình yêu chung thủy”
(MV 48). Anh chị em hãy sống tình yêu chung thủy ấy, sự chung thủy được nâng đỡ
bởi chính tình yêu của Chúa Kitô.
20 THÁNG MƯỜI MỘT
Một Nhãn Giới Mới Về Đời Sống Gia Đình
“Tình yêu vợ chồng đích thực được đưa vào trong tình yêu
thần linh, được hướng dẫn và làm cho phong phú bởi quyền năng cứu chuộc của Đức
Kitô và bởi đời sống của Giáo Hội, nhờ đó đôi vợ chồng có thể được dẫn dắt đến
với Thiên Chúa, được giúp đỡ và được củng cố để thi hành sứ mạng cao cả của
mình trong tư cách là cha là mẹ” (MV 48).
Cần phải xem xét gia đình trong một bối cảnh rộng lớn
hơn, trong bối cảnh văn hóa và lịch sử trong đó gia đình sống và làm việc. Như
tôi đã đề cập trong Tông Huấn Familiaris consortio, “chúng ta đang sống trong
một giai đoạn lịch sử trong đó gia đình là đối tượng của vô số áp lực có chiều
hướng hủy hoại gia đình hay làm méo mó nó” (FC 3).
Gia đình đã bị tấn công bởi hàng lố những thay đổi về
kinh tế và xã hội – những thay đổi ảnh hưởng đến chính cấu trúc của đời sống
gia đình. Giáo Hội không thể dừng lại chỉ ở việc báo động về những thay đổi
này. Không, Giáo Hội phải thâm nhập, giúp chuyển hóa và củng cố gia đình. Các
Kitôhữu phải trở thành sự hướng dẫn lương tâm rất quan trọng trong tình hình
mới này. Họ phải là những kiến trúc sư phác họa một viễn tượng mới cho đời sống
gia đình. Điều này bao hàm sự biện biệt theo tinh thần Phúc Aâm. Nghĩa là,
chúng ta phải đọc và hiểu thực tại đời sống gia đình trong ánh sáng của Đức
Kitô, “vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng Cứu Độ cho loài người, kết
hiệp loài người với chính Ngài như là Thân Thể của Ngài” (FC 13).
Chỉ trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô chúng ta mới có thể
biết cách đúng đắn nhằm điều chỉnh cách nghĩ và cách sống sao cho nêu bật được
kế hoạch của Thiên Chúa về người nam và người nữ. Tính gay go của vấn đề nằm ở
chỗ sự khủng hoảng gia đình phát xuất từ sự tách ly giữa Tin Mừng và văn hóa.
Chúng ta phải xây dựng lại một nền văn hóa Kitô giáo đích thực có sức phản ảnh
các giá trị của Tin Mừng.
21 THÁNG MƯỜI MỘT
Trả Lại Cho Gia Đình Vai Trò Đúng Đắn Của Nó Trong Xã Hội
Trong tác phẩm Hành Trình Mục Vụ của ngài, Đức Hồng Y
Baffi đã dành một số trang rất hay để nói về những hiểm họa và những niềm hy
vọng của gia đình. Ngài nhấn mạnh rằng gia đình hôm nay rất ốm yếu trong xã hội
chúng ta, và đôi khi thậm chí gia đình bị khinh thường. Đó là lý do tại sao sự
chữa trị cho gia đình phải liên can tới việc Phúc Âm hóa nền văn hóa của chúng
ta. Nếu nền văn hóa của chúng ta được chuyển hóa xuyên qua cuộc gặp gỡ với Tin
Mừng, gia đình sẽ tìm lại được các gốc rễ của nó. Gia đình sẽ được canh tân
hoàn toàn và bắt đầu sống căn tính của nó trong tư cách là một hiệp thông và
cộng đoàn của các ngã vị trong niềm kính trọng hoàn toàn đối với tất cả các
thành viên của nó: vợ chồng, con cái, trẻ già …
Như vậy, thay vì đóng kín chính mình và thoái thác trách
nhiệm của mình đối với xã hội, gia đình Kitôhữu được canh tân sẽ trở thành tác
nhân chủ yếu xây dựng xã hội tương lai. Điều này là tất nhiên vì gia đình là
nền móng căn bản của xã hội. Vâng, gia đình Kitôhữu phải đảm nhận trách nhiệm
phục vụ cộng đồng lớn hơn, nhất là phục vụ người nghèo và những ai bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Gia đình Kitôhữu phải chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho thế
giới.
Gia đình Kitôhữu cũng có chỗ đứng riêng của mình trong sứ
vụ của Giáo Hội. Nó được mời gọi để tham dự, trong tư cách là một gia đình, vào
sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Gia đình thực thi sứ mạng này bằng việc sống trung
thành với căn tính của mình và bằng việc xây dựng mình trở thành một cộng đoàn
tin và loan báo Tin Mừng. Gia đình Kitôhữu được mời gọi sống cầu nguyện và phục
vụ mọi người theo giới luật yêu thương. Bằng cách này, gia đình trở thành một
nguồn sống và một nguồn ơn gọi – bởi vì trong tư cách là Giáo Hội tại gia, gia
đình tham dự vào sứ mạng ba chiều kích của Giáo Hội Chúa Kitô: đó là sứ mạng tư
tế, vương đế và ngôn sứ của Dân Thiên Chúa.
22 THÁNG MƯỜI MỘT
Đồng Cảm Với Những Nỗi Khó Khăn Của Người Khác
Giáo Hội không thể chỉ đóng khung mình trong những gia
đình Kitôhữu gắn bó với mình. Không, Giáo Hội phải mở rộng các chân trời của
mình ra để bao gồm tất cả mọi gia đình, nhất là những gia đình đang ở trong
những hoàn cảnh bi đát nhất.
Tất cả chúng ta đều biết rõ những hoàn cảnh khó khăn đang
đè nặng trên nhiều gia đình. Có những gia đình của người tị nạn, những gia đình
của người phục vụ trong quân ngũ, những gia đình của các thủy thủ hay của những
người rày đây mai đó thuộc đủ mọi lý do. Có những gia đình của các tù nhân, của
những người trốn tránh sự bách hại … Tất cả những gia đình ấy đều phải chịu sự
chia cách lâu dài. Có những gia đình có con cái bị khuyết tật hoặc có người
nghiện rượu hay ma túy. Có những gia đình chỉ còn đôi vợ chồng cao niên sống cô
quạnh lẻ loi. Mọi người đều biết rõ bi kịch của các gia đình thường xuyên xảy
ra bất hòa và cãi vã kịch liệt. Có những gia đình có con cái vô ơn và bướng
bỉnh chống cưỡng lại cha mẹ. Có những gia đình mà người vợ hay người chồng mất
đi, kẻ ở lại phải sống cô đơn suốt đời. Có những gia đình mà cái chết bi đát
của một thành viên xuân trẻ phủ trùm trên mọi người một nỗi tiếc thương da diết
khôn nguôi.
Cuối cùng, có những gia đình là sào huyệt của tội lụy,
theo góc nhìn của người Kitôhữu. Tất cả những bối cảnh đó đặt ra những vấn đề
mục vụ gay go cho Giáo Hội. Giáo Hội phải ý thức những hậu quả nghiêm trọng mà
chúng gây ra. Giáo Hội không thể dửng dưng với con người trong các hoàn cảnh
khó khăn đó, vì Giáo Hội phải cảm thông và quan tâm đến phần rỗi của họ.
Chúng ta hãy cầu nguyện khẩn thiết cho các gia đình, nhất
là cho các gia đình đang vướng mắc trong những hoàn cảnh khó khăn.
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em bé này nhân danh Thầy là đón nhận
chính Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận
trẻ em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ
tình yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được làm cha làm mẹ. Việc nhận con
nuôi là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới thấy tấm lòng rộng mở để
chia sẻ sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa trẻ đang cần có cha mẹ và
cần một mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại chúng ta những đám mây đen đang vần vũ
trên các gia đình, chúng ta vẫn được khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng
đại rực sáng lên trong các gia đình Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi
nhìn thấy các chứng tá ấy. Những sự chọn lựa theo tinh thần Kitô giáo thường
trái ngược với não trạng thế gian xung quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ
thách đố và chất vấn những người cần nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng
muốn sống một cuộc sống đóng kín và ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu
qua đó các gia đình Kitôhữu tuyên bố rằng mình không muốn khép kín nơi chính
mình – trái lại, muốn mở ra đón nhận một đứa trẻ đáng thương và nhận một trách
nhiệm cao cả cách vui tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con nuôi không bao giờ là một quyết định
dễ dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn kèm theo với nó những bổn phận hết
sức quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là một quyết định có sức làm phong
phú cộng đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong thời đại chúng ta ngày càng
có nhiều gia đình ước ao nhận ocn nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích
cực. Đây là một sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý
do tại sao tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm
nhận công việc quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người
liên hệ đến việc giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy
ý nghĩa này và chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một
cách đầy yêu thương và quảng đại.
24 THÁNG MƯỜI MỘT
Hòa Bình, Hoa Trái Của Sự Chuyển Hóa Nội Tâm
Chính Thiên Chúa là Đấng biến đổi trái tim con người, như
Ngôn Sứ Eâdêkien đã diễn tả hùng hồn: “Ta sẽ ban cho các ngươi một quả tim mới,
sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân
mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Giáo
Hội không ngừng công bố sự thật rằng hòa bình thế giới bắt rễ từ trong chính
cõi lòng con người, từ trong lương tâm của mọi con người.
Hòa bình chỉ có thể là hoa trái của một cuộc chuyển hóa
nội tâm, bắt đầu trong lòng của mỗi người và lan tỏa ra trong mọi xã hội tới
mọi cộng đồng. Cộng đồng thứ nhất trong các cộng đồng chính là gia đình. Gia
đình là cộng đồng đầu tiên được mời gọi sống hòa bình và cũng là cộng đồng đầu
tiên được mời gọi tranh thủ hòa bình và hữu nghị cho hết mọi người trên thế
giới này.
Đó là lý do tại sao suy tư hôm nay của chúng ta về hòa
bình được tập chú vào gia đình. Chúng ta hy vọng rằng trong các tế bào căn bản
này của xã hội sẽ có một niềm khát vọng mãnh liệt được sống hòa bình và hữu
nghị với mọi con người.
25 THÁNG MƯỜI MỘT
Mái Ấm Đích Thực Của Chúng Ta
“Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào lòng các ngươi” (Ed
36,27). Khi hai con người, một nam một nữ, tiến tới trước bàn thờ trong tư cách
là thừa tác viên của nhau để cử hành Bí Tích Hôn Phối, Giáo Hội khẩn cầu cùng
Đấng Tạo Hóa. Giáo Hội xin Thánh Thần xuống trên hai con người sắp trở thành vợ
và chồng và sắp bắt đầu một gia đình mới này. Họ sắp sửa cùng chung sống dưới
một mái nhà và cùng nhau xây dựng cuộc sống chung gia đình.
Mái ấm là nơi mà vợ chồng chung sống, là dấu hiệu bên
ngoài của cuộc sống họ. Nhưng đó cũng là một mầu nhiệm thâm sâu mà họ cùng nhau
chia sẻ trong lòng. Con người ta không chỉ sống trong một mái ấm, họ còn xây
dựng một mái ấm. Và họ xây dựng mái ấm bằng cách sống trong lòng nhau: chồng
trong vợ, vợ trong chồng, con cái trong cha mẹ và cha mẹ trong con cái. Và mái
nhà của Cha chúng ta trên trời là chỗ trú ngụ đích thực của trái tim con người.
Như vậy, chúng ta nhìn thấy nơi mái nhà một phản ảnh mầu nhiệm mà Đức Kitô nói
đến trong Căn Gác Thượng: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy và chúng ta sẽ đến và cư ngụ trong người ấy” (Ga 14,23).
Phụng vụ khơi gợi cho chúng ta hình ảnh tuyệt vời của
cộng đồng hôn nhân và đời sống gia đình vốn đã được mô tả trong Thánh Kinh.
Chúng ta gặp thấy hình ảnh đó trong Thư Eâphêsô khi Thánh Phao-lô nói về sự kết
hợp giữa vợ chồng trong hôn nhân Kitô giáo: “Đây là một mầu nhiệm lớn lao, tôi
đang nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32).
Tình yêu của vợ và chồng có mẫu thức của nó nơi tình yêu
của Đức Kitô đối với Giáo Hội và phản ảnh tình yêu ấy cho thế giới. Trên Thập
Giá, Đức Giêsu đã diễn tả đầy đủ nhất về tình yêu này. Người hy sinh chính sự
sống của Người vì tình yêu đối với Hiền Thê của người là Giáo Hội. Chúa Thánh
Thần, Đấng mà mỗi người chúng ta lãnh nhận trong Bí Tích Phép Rửa và Bí Tích
Thêm Sức, giúp cho những người vợ và chồng có thể yêu nhau với cùng tình yêu
hiến thân đó. Thánh Phao-lô dạy những người làm chồng: “Người làm chồng, hãy
yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội
Thánh, … thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Tình yêu của Đức Kitô
là một tình yêu bất diệt, một tình yêu không ngừng trao ban sự sống và đơm bông
kết trái. Cũng vậy, các đôi vợ chồng Kitôhữu được gắn kết với nhau trong một sự
kết hợp có sức sáng tạo và dưỡng nuôi sự sống mới.
26 THÁNG MƯỜI MỘT
Mỗi Đứa Trẻ Đều Mang Một Sứ Điệp Về Lòng Tín Thác
Mỗi khi một đôi bạn đến trước bàn thờ để cử hành Bí Tích
Hôn Phối, Giáo Hội kêu cầu Chúa Thánh Thần để Ngài biến đổi tâm hồn họ – một sự
biến đổi trở thành một nền tảng vững chắc cho giao ước hôn nhân của họ.
Sự biến đổi thâm sâu này cũng là một sự thánh hiến đặc
biệt của hôn nhân (Humanae vitae 25). Khi người nam và người nữ cam kết dấn
thân cho nhau, họ thánh hiến linh hồn và thân xác họ cho Thiên Chúa bằng một
cách thế mà một đời sống gia đình trọn vẹn có thể nảy sinh từ sự kết hợp đó:
một sự hiệp thông của tình yêu và sự sống được diễn tả trong một cộng đồng nhân
vị.
Những người vợ và chồng nhận sự hiệp thông này từ Thiên
Chúa như một món quà. Đây là một quà tặng mà họ phải ân cần chăm sóc và đào sâu
qua tháng năm. Cùng với nhau, họ đem lại sự sống từ mối hiệp thông yêu thương
thâm sâu này. Con cái họ trở thành một dấu hiệu và một hoa trái của tình yêu
vốn là quà tặng của Thiên Chúa ấy. Với sự chào đời của đứa con, một điều vốn
cần đến tình yêu dâng hiến, họ khám phá rằng sự kết hợp của họ trong tình yêu
đã đào sâu tới mức bao gồm một con người khác. Họ nhận ra sự thực trong những
lời sau đây của nhà hiền triết Ấn Độ R. Tagore: “Mỗi đứa trẻ được sinh ra mang
theo với nó sứ điệp rằng Thiên Chúa không mất lòng tín thác vào con người”.
Công Đồng Vatican II dạy rằng những cha mẹ có trách nhiệm
phải cân nhắc đến “thiện ích của mình và thiện ích của con cái mà mình đã sinh
ra hoặc chưa sinh ra, phải biết đọc những dấu chỉ của thời đại và của hoàn cảnh
riêng mình trên phương diện vật chất và tinh thần, và cuối cùng phải biết đánh
giá về thiện ích của gia đình, của xã hội và của Giáo Hội” (MV 51).
27 THÁNG MƯỜI MỘT
Khởi Đầu Và Kết Thúc Của Tạo Vật
“Nhân loại sẽ nhìn thấy Con Người xuất hiện trên đám mây
với uy quyền và vinh quang cao cả” (Lc 21,27).
Mùa Vọng hướng suy tư của chúng ta về sự khởi đầu, bởi vì
mầu nhiệm sáng tạo cho thấy sự đến lần thứ nhất của Thiên Chúa. Và sự khởi đầu
ấy hướng chỉ cái chung cuộc: sự đến lần thứ hai của Đức Kitô.
Các Sách Tin Mừng nói về những dấu hiệu của thời cánh
chung. Thế giới này sẽ trải qua sự hủy diệt và tiêu vong. Thật vậy, sự qua đi
của các tạo vật không ngừng nhắc chúng ta rằng thế giới này sẽ kết thúc. Chúa Nhật
I Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta những suy tư về mầu nhiệm rất quan trọng này:
mầu nhiệm bắt đầu và kết thúc của tạo vật.
Mầu nhiệm về bản tính phù du của vạn vật và mầu nhiệm sự
chết tự nó biểu lộ rõ ràng nơi mọi sự chung quanh chúng ta. Không ai nghi ngờ
sự kiện rằng mọi sự trên đời này sẽ tiêu vong và thế giới hữu hình này sẽ mai
một. Không ai nghi ngờ sự thật rằng mọi người trên trái đất này rồi sẽ chết.
Đời sống con người như một cánh hoa sớm nở tối tàn. Xuyên qua sự qua đi của thế
giới và xuyên qua sự chết của con người, Thiên Chúa – Đấng Vĩnh Hằng – được tỏ
lộ ra. Ngài không bị khống chế bởi thời gian. Ngài là vĩnh cửu. Ngài là Đấng
“hiện có, đã có và sẽ đến” (Kh 1,8).
Mùa Vọng tiên vàn là một lời nhắc nhở rằng Thiên Chúa là
Đấng vĩnh hằng. Thiên Chúa không có khởi đầu – cũng không có chung cuộc.
28 THÁNG MƯỜI MỘT
Lạy Chúa Giêsu, Xin Hãy Đến!
Nhận thức được rằng Thiên Chúa là Đấng vĩnh hằng, Ngài
toàn năng, Ngài là sự khởi đầu và là cứu cánh của mọi tạo vật, Giáo Hội lại mời
gọi chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến.
Đây là Đấng hoàn toàn ở trên mọi tạo vật. Ngài là Thần
Khí bất diệt. Tuy nhiên, Ngài đồng thời ôm lấy tất cả những gì đã được dựng nên
và tất cả những gì có hơi thở. Trong Ngài, chúng ta sống, cử động và nhận lấy
hữu thể của mình” (Cv 17, 28).
Như vậy, Ngài không chỉ ở bên ngoài thế giới tạo vật.
Ngài còn ở trong chính thế giới của chúng ta. Tạo vật tràn ngập sự hiện diện
của Ngài. Và sự hiện diện ấy luôn luôn công bố cho ta biết rằng Ngài đang đến.
Thiên Chúa, trong tư cách là Đấng Sáng Tạo và là Chủ Tể mọi loài, đang đến với
thế giới này, thế giới mà Ngài đã gọi vào hiện hữu từ hư vô.
Ngài cũng nâng đỡ mọi sự mà Ngài đã tạo thành. Ngài là
chính sự quan phòng thần linh. Nơi Ngài, thế giới có được vận mệnh đích thực
của nó. Tất cả những gì đã được hiện hữu nhờ quyền năng và sức mạnh của Thiên
Chúa sẽ vẫn tiếp tục hiện hữu qua Ngài.
Mọi tạo vật đều “tường thuật vinh quang Thiên Chúa”, đều
làm chứng cho sự hiện diện của Ngài và cho sự đến của Ngài. Sự đến của Thiên
Chúa được biểu lộ nơi chính sự hiện hữu của thế giới, nơi nguồn gốc của nó và
nơi sự phát triển của nó.
Chúng ta phải luôn sống trong niềm mong đợi Chúa đến, như
Đức Kitô nói trong Tin Mừng Luca (21, 25-28.34-36).
29 THÁNG MƯỜI MỘT
Sự Giải Thoát Của Chúng Ta Đang Đến Gần
Theo Tin Mừng Luca, khi Chúa Giêsu đề cập đến hồi tận
thời trong bài giảng của Người, Người cảnh giác chúng ta về những đại họa khủng
khiếp, về các dấu hiệu của sự hủy diệt, và về tất cả những gì sẽ gây ra “nỗi
khốn khổ cho các dân tộc”. Chúa muốn nói với những người của thời ấy và cả của
thời chúng ta, vì lời của Người là lời phổ quát. Người nói: “Anh em hãy đứng
dậy và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc của anh em đã gần đến” (Lc 21,28). Tiếng
gọi này là thách đố của Mùa Vọng. Ở đây, Chúa đúc kết tất cả ý nghĩa của từ “Vọng”
cho chúng ta.
Như vậy, Thiên Chúa không chỉ được tôn vinh trên tạo vật
của Ngài. Không chỉ mọi tạo vật làm chứng cho Ngài là Đấng Tạo Hóa toàn năng.
Không chỉ thế giới đang thay đổi xung quanh chúng ta làm cho chúng ta nghĩ về
bản tính vĩnh hằng, bất biến của Ngài. Không, Ngài cũng đích thân đi vào trong
lịch sử thế giới chúng ta nữa. Ngài trở thành một với chúng ta trong thân phận
con người của chúng ta.
Chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài trong tư cách là “Con Người”
(Lc 21,27). Mùa Vọng hướng chỉ sự đến ấy của Ngài. Mùa Vọng tiên vàn nói rằng
Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm. Mùa Vọng hướng về mầu nhiệm Nhập Thể. “Trong
những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính
để nối nghiệp Đavít …” (Gr 33,15).
Hiểu một cách chính xác, ơn cứu chuộc là sự hiện diện của
Đấng Công Chính giữa các tội nhân. Vì thế, Mùa Vọng gắn kết chặt chẽ với mầu
nhiệm tội lỗi – tội lỗi đã đi vào trong lịch sử loài người ngay tự ban đầu.
Thiên Chúa đến và đem ơn cứu độ cho chúng ta. “Ngài sẽ trị nước theo lẽ công
bình chính trực” (Gr 33,15).
30 THÁNG MƯỜI MỘT
Ngài Đến Để Phán Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết
Chúng ta biết về cuộc sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm
mầu ấy ở Bê-lem. Chúng ta biết cuộc sống và cái chết của Người trên Thập Giá.
Bằng lời Tin Mừng cứu độ của Người và, cuối cùng, bằng cái chết và cuộc Phục
Sinh của Người, Người đã rao giảng “những gì công minh chính trực” trên mặt
đất. Chúng ta hãy “đứng thẳng dậy và ngẩng đầu lên”. Vì với sự đến của Đấng
Công Chính, với mầu nhiệm Vượt Qua của Người, ơn cứu độ của chúng ta được bảo
đảm.
Mùa Vọng hướng chỉ về sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con
Người, Đấng đã sinh ra ở Bê-lem đêm ấy. Từ khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ
lộ cho chúng ta thấy chính Người trong toàn bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu
tới chung cuộc.
Người cho chúng ta thấy lịch sử loài người trên trái đất
không phải chỉ là một dòng lịch sử hướng về sự chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của
nó và dẫn về điểm hoàn thành mọi sự. Theo nghĩa đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự
đến khác của Con Người, lần này trong tư cách là vị Thẩm Phán của hồi tận thời.
Người đã đến để ươm mầm Tin Mừng qua cuộc Nhập Thể và cuộc Tử Nạn của Người.
Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét các dân tộc và thu hoạch hoa trái mà Người
đã gieo trồng. Người sẽ đến để bóc trần những kín ẩn của mọi lương tâm và mọi
cõi lòng vào cuối thời gian.
Như vậy, lịch sử con người trên trái đất không chỉ là một
hành trình tiến về cái chết. Tiên vàn nó là một sự chuẩn bị cho sự thật của
cuộc phán xét. Nó là một sự chuẩn bị cho sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.
Đăng nhận xét