LẼ SỐNG 11
01
Tháng Mười Một
Giòng Giống Vĩ Nhân
Cách
đây mười năm, một người Pháp tên là Alfred de Pierrecourt để lại gia tài của
ông là 2 triệu Mỹ kim với lời di chúc là phải sử dụng số tiền ấy để gây giống
cho những người khổng lồ. Người thi hành di chúc của ông đã trích ra 1/4 số
tiền để tìm và mang những người cao lớn vượt tầm mức về sống ở gần thành phố
Rouen, khuyến khích họ lập gia đình với nhau. Nhưng chương trình gây giống
những người khổng lồ này bị thất bại vài năm sau đó.
Cách
đây non hai ngàn năm có một người cũng để lại một di chúc, một chương trình,
nhưng không phải để gây giống cho những người khổng lồ về phương diện hình vóc
mà là về phương diện tinh thần. Chương trình quen được gọi là "8 mối phúc
thật" do Chúa Giêsu biên thảo. Trải qua bao thế hệ mãi cho đến thời đại
chúng ta, vô số những tín hữu Kitô nhờ áp dụng chương trình này mà trở thành vĩ
nhân.
Mừng
kính những vĩ nhân ấy trong ngày lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta hãy noi
gương các ngài đem ra thực hành mỗi mối phúc thật trong cuộc sống, để càng sống
chúng ta càng phát triển, tiến bộ trên con đường thánh thiện mà Chúa Giêsu đã
vạch ra cho mỗi người chúng ta.
02
Tháng Mười Một
Bên Kia Sự Chết
Trên
giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau:
"Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có
lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát
ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời...
Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin
thống thiết ấy.
Cần
được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai
muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu
nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn
mỏng manh bất lực của mình.
Để
giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên
kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông công", Giáo
Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho
những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo
đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định
vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa,
nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican
II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành
hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ
được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...".
Nói
về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về
quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các
thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi
nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã
thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ
cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại
một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động
khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên
giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống
động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết
thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với
chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người
đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người
chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu
mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc
cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi
lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người
đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những
người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất
tử.
Yêu
thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải
là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu
nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin
Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
03
Tháng Mười Một
Con Chỉ Là Một Tên Mọi Đen
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc
đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần
ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như
có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị
thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát
và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào
một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi
trong sổ bộ của giáo xứ là "con không cha". Quả thật, con không cha
như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho
đến năm 8 tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì
người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh
khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ
16.
Nhưng
cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay
nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách
đố, như một ân sủng.
Năm
12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải
phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem
hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng
nhận thấy chỉ có thể sống trọn Đức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa
một nhà dòng Đaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà… Bí quyết nên thánh của
thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công
việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các
nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: "Thưa
cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi".
Sẵn
sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất
cả phần lỗi về mình.
Ôn
lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta
chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan
trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng
ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này.
Thiên
Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một
Thiên Chúa quan phòng là Đấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền,
thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao
quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh
hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những
thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị
người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi
và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. "Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát
đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt". Đó là định luật của cuộc sống. Thập
giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao
hơn.
Chúng
ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách,
chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa,
và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt
những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng
chính mạng sống của mình.
04 Tháng Mười Một
Quo Vadis, Domine?
Đêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng,
Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của
ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa… Ngày thứ hai, 16 tháng 10
năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan
Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu
tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại,
thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.
Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu
tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả
của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng "Quo vadis, Domine?" là ông
Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan… Qua
tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị
Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm "Quo
vadis,Domine?", "Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?". Theo tác giả
quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ
hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao
nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn
khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang
đi ngược chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã
hỏi: "Quo vadis, Domine?" nghĩa là "Lạy Chúa, Chúa đang đi
đâu?". Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: "Ta đang đi đến La Mã để
chịu đóng đinh một lần nữa". Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã
và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng
bổn mạng một cách đặc biệt của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên
Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Đức Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài
phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.
Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa
đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cái chết trong tội lỗi, chúng
ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi
tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.
Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng
cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám
mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo
Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm
của mình đã vạch ra... Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới
không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy
trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là
một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là
một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng.
Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh... Thập giá có lẽ đang chờ đợi
chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả
những ai mang danh hiệu Kitô.
05 Tháng Mười Một
Chiếc Quan Tài Con
Tại chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là
Viên Thủ Trung, nổi tiếng là tu hành đắc đạo.
Nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một
cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có một cái nắp đậy, mở được.
Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: "Người ta
sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời
ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt
đời, chẳng biết đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi cầm
lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn trong tâm hồn
ngay".
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà
đạp trên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập
sau lưng. Khi tử thần xuất hiện, thì con người không kịp mang theo bất cứ một
tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính
bén đối với trần thế này. Trái lại, được ôm ấp suy gẫm mỗi ngày, cái chết sẽ
trở thành một người bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường,
bận tâm thái quá... Trong tất cả mọi sự, người không ngoan đích thực luôn nghĩ
đến cùng đích.
06 Tháng Mười Một
Đồng Bạc Nhân Nghĩa
Một câu chuyện ngụ ngôn của Nga kể rằng: Có một
nhà phú hộ kia khi gần chết lòng trí vẫn chỉ nghĩ đến tiền của là động lực đã
thúc đẩy ông lao lực không biết mệt mỏi suốt cả cuộc đời. Dùng chút sức tàn,
ông cố gỡ chiếc bao nhỏ đeo ở cổ, lấy ra chiếc chìa khóa trao cho người đầy tớ
trung tín nhất của ông. Ông phú hộ ra dấu chỉ chiếc rương nằm trong góc nhà và
ra lệnh cho cô ta lấy những túi tiền vàng ở trong đó bỏ vào quan tài.
Khi chết xong, ông bắt đầu sống cuộc đời mới.
Khi chết xong, ông bắt đầu sống cuộc đời mới.
Đứng trước chiếc bàn dài trưng bày đủ thứ cao
lương mỹ vị, ông ta hỏi: "Món này giá bao nhiêu vậy?". Người bán hàng
trả lời: "Một xu". Ông phú hộ chỉ một món khác kém giá trị hơn và
hỏi: "Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu?". "Cũng một xu",
người bán hàng nhã nhặn trả lời.
Thấy người bán hàng vui tính ông phú hộ tiếp tục
hỏi: Còn miếng bánh này?". "Tất cả các vật trưng bày ở đây đều được
bán với giá một xu", người bán hàng cho biết.
Ông phú hộ mỉm cười thỏa mãn. Rẻ thật, ông nghĩ
thầm. Rồi sau một hồi ngắm nghía, ông chọn một đĩa thức ăn lớn. Nhưng khi ông
lấy một đồng tiền vàng mang theo lúc từ giã cõi đời ra trả, cô thu tiền không
nhận. Cô ta vừa lắc đầu vừa nói: "Ông đã học được quá ít trong cuộc
sống". Nghe nói thế ông phú hộ không khỏi ngạc nhiên, gặn hỏi: "Thế
nghĩa là gì? Đồng tiền vàng của tôi không đủ để trả cho đĩa thức ăn này
sao?".
Bấy giờ người thu tiền mới cho ông biết: "Ở
đây chúng tôi chỉ nhận những đồng tiền mà trong cuộc sống trước đây ông đã dùng
để giúp đỡ cho những người nghèo túng, đói khổ".
Tại những vùng chịu ảnh hưởng của Phật Giáo đến từ Trung
Hoa, vào những ngày giỗ hay ngày tư, ngày tết, các phật tử có thói quen đốt
những giấy tiền vàng bạc với niềm tin là qua đó họ có thể gửi tiền ấy cho ông
bà, cha mẹ đã quá cố để họ có thể tiêu xài nơi chốn suối vàng.
Những người Công Giáo cũng thể hiện lòng hiếu thảo của
mình đối với những thân nhân đã qua đời bằng cách dâng những hy sinh và kinh
nguyện đặc biệt trong tháng 11 mỗi năm. Cộng vào đấy, là những hành động bác
ái, chia sẻ, làm thay cho những người đã từ biệt cõi đời.
Lúc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nêu bật thật rõ
ràng ý nghĩa của biến cố "Nhập Thể" của Ngài: Ngài không những
"làm người" trong một thân xác duy nhất, ngài còn đồng hóa mình với
tất cả mọi người để nếu chúng ta yêu thương bất kỳ ai, đó là chúng ta cũng yêu
mến Ngài.
Để sống trọn ý nghĩa của tháng 11, tháng các đẳng linh
hồn, chúng ta không chỉ dâng lời cầu nguyện cho những người đã khuất bóng,
nhưng cũng hãy gia tăng những việc từ thiện bác ái, chia cơm sẻ áo với những
anh chị em thiếu thốn đang sống bên cạnh, để dâng các công đức ấy cho các đẳng,
đồng thời cũng để thâu nhập cho chính chúng ta những công nghiệp có giá trị
vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu.
07 Tháng Mười Một
Nỗi Khao Khát Của Hạt Muối
Khao khát duy nhất của hạt muối là được xem thấy
biển. Bằng mọi giá, nó muốn khám phá thế nào là biển... Ngày kia, nó ra đi...
Vừa đến bờ biển, nó khám phá ra một cái gì mênh mông, xanh ngắt và sống động.
Nó thốt lên:
- Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai?
Một đợt sóng trả lời:
- Hãy chạm đến ta, rồi ngươi sẽ hiểu.
Hạt muối trườn mình xuống nước. Ô kìa, nó cảm thấy
ngây ngất, niềm vui tột cùng làm nó cảm thấy như không còn đứng vững được nữa.
Nó cảm thấy như đang hòa lẫn từ từ trong nước. Niềm vui dâng trào. Nó lại hỏi
một lần nữa:
- Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai?
Một đợt sóng cuối cùng ôm ghì lấy nó và nó từ từ
tan biến trong nước. Nó chợt reo vui lần cuối cùng:
- Bây giờ ta mới hiểu thế nào là biển: biển là một
phần của chính ta.
Hạt muối chỉ có thể hiểu được thế nào là biển khi nó được
hòa tan trong nước. Có chìm ngập trong biển, có đi vào biển mới hiểu được thế
nào là biển... Thiên Chúa cao cả hơn lý trí của con người. Chúng ta không thể
chỉ biết Thiên Chúa bằng lý trí... Hãy để cho Thiên Chúa chiếm ngự, hãy để cho
Thiên Chúa ôm chầm lấy ta, ta mới có thể biết được Ngài là ai. Tình tri giao
giữa Thiên Chúa và con người chỉ có thể nảy nở bằng thinh lặng, hòa nhập trong
cảm mến, tri ân.
08 Tháng Mười Một
Tôi Là Người Hạnh Phúc Nhất Trần Gian
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa
mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần
dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được
tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng
bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một
việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những
đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn
xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một
chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn
có giá trị hơn... Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất
trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ
không do một sự cưỡng bách nào.
Khi
đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các
giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi
không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi
nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người
trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng
nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong
đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn
vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con
chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón
nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: "Từ
trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của
người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người
hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với
tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần
gian".
Một
thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy
nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và
7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được... Cuối
cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người
tá điền nghèo... Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy
đi một nơi khác.
Bùi
ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy
hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban
tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt
lên với tất cả xác tín: "Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian
này".
Câu
chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về
hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta... Người Kitô là một người lữ hành
đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là
trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp
đầy bằng chính Chúa.
09
Tháng Mười Một
Dấu Chỉ Của Hòa Bình
Một
trong những biểu tượng sống động nhất trên thế giới là khát vọng hòa bình của
con người, có lẽ là bảo tàng viện và đài kỷ niệm những nạn nhân đầu tiên của
bom hạt nhân tại thành phố Hiroshima bên Nhật Bản...
Bước
vào tháng 8, kỷ niệm bom nguyên tử được dội xuống Hiroshima, hàng trăm ngàn
người Nhật Bản đã tập trung trước đài kỷ niệm tại thành phố này để tưởng niệm
những người đã chết. Từ 4 giờ sáng, chuông các chùa chiền và giáo đường trên
toàn quốc đổ hồi để nhắc nhở người Nhật về biến cố đau thương này.
Hiroshima
tưởng niệm những người quá cố, nhưng nó không là biểu trưng của hận thù, trái
lại, trong những giây phút mặc niệm trước những nạn nhân của bom hạt nhân, tất
cả mọi người Nhật đều được mời gọi để tha thứ và xây dựng hòa bình.
Ông
Akihiro Takahashi, một nạn nhân còn sống sót của biến cố, nay đã được bầu làm
giám đốc của bảo tàng viện hòa bình Hiroshima và đồng thời điều khiển tổ chức
văn hóa phụng sự hòa bình của thành phố, đã nói lên tâm tình của ông như sau:
"Tôi
đã không bao giờ quên ngày đó... Qua bao nhiêu năm, tôi đã thù ghét chế độ quân
phiệt của Nhật Bản và quân đội Hoa Kỳ. Lúc đó, tôi là đứa bé khỏe mạnh, ngày
nay tôi đã trở thành một người bệnh hoạn... Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
tôi đã gặp gỡ với rất nhiều người có tín ngưỡng, nhất là các bạn trẻ. Họ đã mời
gọi tôi tha thứ... Qua những cuộc gặp gỡ này, tôi đã lướt thắng được hận thù.
Tôi cũng đã nói chuyện với viên trung úy phi công ném bom và tôi đã có thể nói
với ông rằng tôi không kết án ông nữa".
Nếu
chết là một chấm hết, thì cái chấm hết ấy có lẽ chỉ có giá trị đối với sự thù
hận. Người chết không còn hận thù nhau nữa. Dù có căm thù sâu sắc đến đâu, nằm
kề bên nhau trong một nghĩa địa, những người chết sẽ không bao giờ thấy một
cuộc chiến giữa những người chết. Nếu có một thế giới không còn chiến tranh,
không còn vũ khí, không còn hận thù nhau nữa... có lẽ đó là thế giới của nghĩa
trang. Nơi đó chính là nơi an nghỉ khỏi mọi thù hận.
Cái
chết, dù độc ác đến đâu, cũng trở thành đấu chỉ của hòa bình... Đó là điều mà
chúng ta có thể xác quyết khi nhìn ngắm cái chết của Đức Kitô trên thập giá.
Ngài chết để lôi kéo mọi người đến với Ngài. Và để thực hiện điều đó, trong
những giây phút cuối cùng của cuộc sống trần gian, Ngài đã tha thứ ngay cho
những kẻ đang hành hạ Ngài.
Trong
cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người quá cố. Những
người quá cố đó có thể là những người thân của chúng ta, họ cũng có thể là
những người chúng ta chưa hề quen biết, nhưng nhất là những người đã từng là kẻ
thù của chúng ta... Tâm tình của người Kitô chúng ta trước hết phải là tâm tình
tha thứ của Chúa Giêsu... Cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu rỗi
và hòa bình. Cái chết của những người Nhật Bản tại Hiroshima đã trở thành một
lời kêu gọi xây dựng hòa bình và tha thứ... Cái chết của những người mà chúng
ta đang ngậm ngùi tưởng niệm trong suốt tháng 11 này cũng phải là một âm vang
của chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá: Xin Cha tha cho chúng.
10
Tháng Mười Một
Hôm Nay Là Ngày Của Chúa
Khi
Đức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu
nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Đức
Gioan 23 biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế ngài nói: "Tôi đã
dọn sẵn hành trang".
Ông
Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người ý viết hồi ký về những giây
phút sau hết của cuộc đời Đức Gioan 23 như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi
ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Đức Thánh Cha đến
bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy thế nào. Đức Gioan 23
trả lời: "Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở
trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo".
Linh
mục Capovilla thưa: "Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng
con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ...". Đức Gioan 23 ngắt lời hỏi:
"Họ đã nói với con những gì?".
Nghẹn
ngào, linh mục bí thư của ngài nói: "Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với
cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay cha sẽ được về Thiên Đàng".
Nói
xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút
nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một
giọng ôn tồn nói: "Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của
tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở nên mềm nhũn. Cha đã nói với
người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng
của một linh mục: Hôm nay cha sẽ được vào Thiên Đàng".
Chúng
ta đang sống trong tháng 11:
-
Đây là tháng Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.
-
Đây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để
trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh
nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự
tích cực và cố gắng sống thành lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh
lễ đòi hỏi.
Nhưng,
vào tháng 11 hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ bến bờ
chúng ta phải tới, nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi.
-
Đó là từ giã cõi đời.
-
Đó là nhắm mắt xuôi tay.
-
Đó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.
Ước
gì chúng ta có được sự bình thản trong giờ lâm tử như Đức Gioan 23 . Ước gì,
như ngài, chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn và có niềm hy vọng để tin
tưởng rằng: lời Chúa Giêsu phán với người trộm lành cũng được áp dụng cho chúng
ta: "Hôm nay con sẽ được cùng Ta về Thiên Đàng".
Nhưng,
nếu Thiên Đàng là bến bờ, là Đức Mến, thì cuộc sống của chúng ta phải định
hướng theo đó.
Nếu
Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng, thì trong những chuỗi ngày
sống, chúng ta cũng phải hướng mục và xây dựng theo tiêu chuẩn đó.
11
Tháng Mười Một
Xẻ Áo
Trong
một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa
lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một
mảnh vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van
xin từng đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng
không có lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt
phân nửa áo choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin
đang run rẩy vì cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ
khác lạ của người thanh niên.
Đêm
hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao
tặng cho người ăn mày và Chúa nói: "Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa
Tội, đã đắp lên tôi chiếc áo này".
Ai
trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của
thánh Martinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào
đời vào khoảng thế kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi,
Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng
vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn
bè nói đến Đức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng
chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô
xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người
đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức
thánh.
Năm
350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô
cũng bị giám mục thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận
và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được
tha, Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến
Cadet để hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh
và từ trần tại đó.
Mỗi
năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Đức
cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu.
Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng
thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ
quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với
những quà bánh thơm ngon được trình bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ
đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương
"xẻ áo" của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên
bố trong ngày phán xét: "Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những điều ấy
cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy".
12
Tháng Mười Một
Tình Yêu Mạnh Hơn Thời Gian
Một
hôm, vua Ai Cập đang đứng chiêm ngưỡng những bia tháp mà ông đã cho dựng lên
tại thành phố Eliopolis. Bỗng nhiên có một cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ
đâu đến, đã cười ngạo nghễ và thách thức với nhà vua như sau: Hãy bỏ tất cả và
cút đi...
Nhà
vua giận tím gan, thế nhưng ông ta đã tự chủ và trả lời: "Hỡi người già,
ngươi là ai mà dám ra lệnh cho ta một cách hỗn láo như thế... Không lẽ ngươi có
nhiều quyền thế hơn ta?".
Lão
ông tự giới thiệu: "Đúng thế, bởi vì ta là Thời Gian...".
Nghe
đến tên Thời Gian, vua Ai Cập tái mặt và té khỏi ngai vàng... Cùng với ông, cả
đế quốc Ai Cập cũng sụp đổ.
Lão
già Thời Gian cũng rảo qua khắp các đế quốc trên thế giới. Lão đi đến đâu, thì
các đế quốc rơi rụng như sung: Hôm nay tại Babylone, ngày mai tại Athène, ngày
mốt tại Ninive, tại Carthage...
Nhưng
ngày kia, người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Cụ
tuyên bố nghênh chiến với lão già Thời Gian. Lão già Thời Gian tưởng mình có
thể phá vỡ tất cả mọi công trình của con người trên trần gian này. Cũng một
giọng điệu vô cùng hách dịch, lão ta cũng đến trước cửa Vatican và dõng dạc
tuyên bố: "Ta là Thời Gian đây". Tiếng gầm thét đó đã làm rung chuyển
trái đất, thế nhưng đã không làm cho bô lão trên ngọn đồi Vatican mảy may lo
sợ. Cụ bình tĩnh đáp lại: "Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu!... Xuyên qua các
thế hệ, ta phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với loài
người...".
Thời
gian là liều thuốc chữa được mọi khổ đau... Thời gian giúp chúng ta quên được
dĩ vãng u buồn... Đó là những câu nói mà chúng ta thường dùng để tự an ủi mình
hoặc người khác khi đứng trước thất bại, hay bất cứ một nỗi bất hạnh nào...
Mà
quả thật, thời gian không những giúp chúng ta chữa lành được nhiều vết thương
trong cuộc sống, thời gian còn là một kẻ phá hoại tàn nhẫn. Cái chết xảy ra
hằng ngày xung quanh chúng ta là một chiến thắng của thời gian. Sự sụp đổ của
không biết bao nhiêu đế quốc trên cõi trần này cũng là một chiến thắng của thời
gian...
Chỉ
có một sức mạnh thời gian phải nhượng bộ: đó là sức mạnh của Tình Yêu. Chúng ta
thường nói: Tình Yêu mạnh hơn sự chết. Đúng hơn, chúng ta phải nói: Tình Yêu
mạnh hơn Thời Gian, bởi lẽ thời gian không bao giờ có thể xóa mờ được tình yêu.
Bất
cứ một nghĩa cử yêu thương nào mà con người làm cho tha nhân, đều trở thành bất
diệt. Những nghĩa cử yêu thương trở thành bất diệt là bởi vì nó tham dự vào
tình yêu của Thiên Chúa. Người sống cho kẻ khác là người sống cho Chúa. Và ai
sống cho Chúa tức là sống mãi trong Tình Yêu.
Chúng
ta đang cầu nguyện cho các đẳng linh hồn trong tháng 11 này. Chúng ta cầu
nguyện vì chúng ta tin rằng thời gian đã không đưa họ đi vào quên lãng. Trong
tình yêu của Chúa mà chúng ta đang san sẻ cho những người xung quanh, những
người quá cố cũng sẽ được sống mãi. Còn lời kinh nào hữu hiệu hơn cho những
người quá cố cho bằng những nghĩa cử yêu thương của chúng ta...
13
Tháng Mười Một
Ánh Mắt Mẹ Tôi
Paul
Nagai, một bác sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã
trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của
ông. Từ vô thần, ông đã trở thành người có niềm tin. Ông đã giải thích như sau:
"Trong
kỳ nghỉ mùa xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong.
Tôi hối hả chạy đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và
thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã
thương tôi đến cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng: cho dù
khuất núi, người vẫn ở bên tôi luôn mãi... Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh
hồn. Bỗng nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của
người... Từ đó, con người tôi đổi hẳn, tôi tin rằng mẹ tôi, người đã sinh ra
tôi, đã yêu thương tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết".
Chúng
ta có một linh hồn bất tử. Đó là nền tảng của phẩm giá con người. Nếu sinh ra,
sớm nở tối tàn như bông hoa đồng nội và cuối cùng trở về với cái không vô tận,
thì đâu là giá trị của con người?...
Chúng
ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang trong mình ánh lửa
của Vĩnh Cửu, cho dù thân xác này có hư nát đi, chúng ta vẫn tiếp tục cuộc sống
mai hậu. Đó là cùng đích của tất cả mọi bôn ba lao nhọc của chúng ta trên cõi
đời này. Bạn sẽ chuẩn bị gì cho mảnh hình hài còn lại ấy?
14
Tháng Mười Một
Tôi Tiếp Tục Cuộc Chơi!
Mới
đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1,200 người tại 20
thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt như sau: "Nếu
bạn chỉ còn một ngày nữa để sống, bạn sẽ làm gì?". Kết quả của cuộc thăm
dò được phân chia như sau:
-
57% những người được phỏng vấn trả lời rằng họ sẽ sống ngày cuối cùng với gia
đình. 12% muốn ở một mình hoặc với bạn bè.
-
26% người đàn ông được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
42% khác thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè.
-
32% đàn ông lẫn đàn bà muốn được sống với gia đình trong những giây phút cuối
đời.
-
6% người đàn ông muốn được sống bên vợ...
Trên
đây có lẽ chỉ là những con số không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất
cả mọi người. Nhưng xuyên qua kết quả đó, chúng ta cũng có thể đọc được một
thái độ chung của con người khi đứng trước sự chết: đó là sự cô đơn...
Cái chết là một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt ra cho bạn giây phút này đây, bạn sẽ làm gì?
Cái chết là một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt ra cho bạn giây phút này đây, bạn sẽ làm gì?
Có lẽ
chúng ta còn nhớ chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị
chết...
Giữa
một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: nếu ngay bây giờ, chúng
con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?
Một
số trả lời rằng sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số cho biết sẽ đi xưng tội để
dọn mình chết lành v.v... Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: "Nếu trong
giây lát tôi có chết, tôi cũng sẽ tiếp tục cuộc chơi".
Có lẽ
đó là câu trả lời làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành
mạnh là một bẩn phận, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận
hằng ngày.
Nếu
chúng tabiết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ
Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng giây phút...
thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ đó. Người luôn trung thành với
những gặp gỡ trong giây phút hiện tại, sẽ không phải hãi sợ trong cuộc gặp gỡ
tối hậu là cái chết.
Chúng
ta đang cầu cho các đẳng linh hồn. Giáo Hội kêu mời chúng ta dâng các việc đạo
đức và hy sinh để cầu cho họ. Đó là những việc làm không thể thiếu sót trong
nghĩa vụ liên đới của người Kitô. Nhưng còn có một việc làm khác không kém giá
trị: đó là sự trung thành của chúng ta trong những bổn phận hằng ngày. Người có
niềm tin trưởng thành thực sự, luôn nhìn thấy ý nghĩa và giá trị của những bổn
phận vô danh và nhàm chán hằng ngày...
15
Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có
hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa
nặng hạt đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội
được... Lập tức, một trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và
đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình
một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng:
"Chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô
gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà trên tay?".
Vị
sư đã bồng người thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: "Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ
rồi. Còn anh sao cứ mãi mang cô ta tới đây".
Chúa
Giêsu đã nói: "Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác... Sự hoán cải
đích thực chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài,
nếu không đi cùng một ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là
trò giả hình...
16
Tháng Mười Một
Vui Để Đợi Chết
Theo
giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ
ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày
giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát
không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông:
"Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như thế?".
Khải
Kỳ thưa: "Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm
người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non
yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là
sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để
đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?".
Lạc quan,
vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá
cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ
đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở
nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người... Mỗi ngày có niềm vui
nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban
của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.
17
Tháng Mười Một
Trong Mọi Sự, Hãy Nghĩ Đến Cùng Đích
Một
ngày nọ, triết gia Diogene của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athène và dựng lên một
căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: "Ở đây có bán sự khôn ngoan".
Một
bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao báo, mới cười thầm trong
bụng... Muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm
tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người
đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogene 3 hào
và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết
gia Diogene nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: "Anh hãy về
đọc lại cho chủ anh nghe câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng
đích".
Vị
khoa cử thành Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết
trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất
cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy...
"Trong
tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích".
Có lẽ
đó cũng là khuôn vàng thước ngọc mà Giáo Hội muốn ngỏ với mọi người chúng ta
trong những ngày tháng cuối cùng của năm Phụng Vụ này. Mỗi năm qua đi: đó là
hình bóng của đời người và lịch sử của thế giới này.
"Trong
tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích". Người lực sĩ nghĩ đến phần thưởng
đang chờ đợi mình. Người học sinh nghĩ đến ngày đỗ đạt thành tài... Điểm đến
thúc đẩy con người hăng say làm việc.
Thời
Noe, mọi người ăn uống, vui chơi và cười nhạo khi ông cho đóng tàu để phòng nạn
Hồng Thủy. Đối với họ, chuẩn bị để đương đầu với tai nạn, chuẩn bị để làm một cuộc
hành trình dài là một chuyện viển vông, là điều ngu xuẩn...
Hãy
vui hưởng cuộc sống, hãy sống như thể con người sẽ không bao giờ chết: đó là
thái độ của nhiều người trong chúng ta. Sống như thế là sống không định hướng,
sống như thế là sống không mục đích. Thánh Phaolô đã gọi những người đó là
những người chỉ biết thờ cái bụng của mình...
Cái
chết là cửa để bước vào cuộc sống mai hậu. Và cuộc sống mai hậu ấy tùy thuộc
vào những tích chứa, những xây dựng của chúng ta trong cuộc sống tại thế này.
Nếu trong cuộc sống này, chúng ta hướng tất cả mọi hoạt động của chúng ta vào
cùng đích ấy, nếu chúng ta hành động, suy nghĩ như thể chúng ta sẽ ra đi tức
khắc, thì chắc chắn khi bước qua ngưỡng cửa ấy, chúng ta sẽ không ngỡ ngàng,
thất vọng...
Nhưng
dĩ nhiên, không phải từ sức mình, chúng ta có thể xây dựng cho mình tương lai
vĩnh cửu ấy. Sự sống trường sinh là ân ban nhưng không của Chúa. Thiên Chúa chỉ
chờ đợi nơi chúng ta sự ưng thuận và đáp trả tích cực mà thôi... Ước gì từng
suy nghĩ, từng hành động, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta đều là một đáp
trả tích cực của chúng ta đối với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa.
Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc
trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về
cõi phúc ấy, chúng ta có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay
trong cuộc sống này...
18
Tháng Mười Một
Tôi Đã Gặp Ngài
André
Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit.
Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín...
Ngày
nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn,
ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ
nghĩ rằng Chúa đang chờ ông. Trong một phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng
thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi
nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: "Thiên Chúa hiện hữu. Đó
là một chân lý".
Ông
đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề:
"Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Người". Quyển sách đã được liệt kê
vào danh sách của những tác phẩm bán chạy nhất...
Dù
cho ta có chối bỏ Thiên Chúa, Người vẫn luôn luôn chờ đợi ta. Tại một góc đường
nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào
đó, Người đang chờ ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào
cũng chờ đợi ta... Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò
của Thiên Chúa. Bao lâu ta còn tìm kiếm, bao lâu ta còn phấn đấu, bao lâu ta
còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn còn chờ đợi ta...
19
Tháng Mười Một
Một Lỗ Nhỏ Trên Vách Tường
Tại
một trung tâm bài phung nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ
rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn
tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.
Vị
nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau
nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách
tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà
đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng
của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy. Khuôn mặt của người
đàn bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn
biết cười trong trung tâm bài phung đó đã giải thích cho vị nữ tu như sau:
"Người
đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để
chữa chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt
lên đó một cái hôn... Nhưng cuối cùng, nàng không thể giữ tôi lâu hơn. Người ta
đã đến đưa tôi vào trung tâm này.
Nhưng
vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng của vách tường và
mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống. Nhờ nàng, tôi vẫn
còn muốn sống...".
Tình
yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không nhìn người chồng xấu
số như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ đã đem lại sức mạnh và
niềm vui sống cho người chồng... Nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và
được yêu. Bất cứ ai cũng cần đến tình yêu và muốn thể hiện tình yêu... Bạn có
biết rằng có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, một ánh mắt cảm
thông của bạn không?
20
Tháng Mười Một
Con Lừa Của Chúa
Thánh
Gioan Maria Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng
chừng như ngài không còn đủ khả năng để tiến tới chức linh mục. Ngày kia, thừa
lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học đã đến khảo sát Vianney.
Vianney đã không trả lời được câu hỏi nào... Không giữ được bình tĩnh, vị gióa
sư đã đập bàn quát lớn: "Vianney, anh dốt như lừa! Với một con lừa như
anh, Giáo Hội sẽ làm được gì?".
Vianney
khiêm tốn, bình tĩnh trả lời: "Thưa thầy, ngày xưa, Samson chỉ dùng một
cái xương hàm của một con lừa để đánh bại được 3 ngàn quân Philitinh. Vậy, với
cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm gì được sao?".
Thiên
Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương tình của Người. Người chọn chúng ta
không vì tài năng, đức độ của chúng ta. Người quyền năng đến độ có thể biến sự
dốt nát, tầm thường của chúng ta thành những giá trị siêu phàm.
Điều
quan trọng chính là sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của
Người. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Người,
ngay cả bằng chính sự dốt nát, vô dụng của mình.
21
Tháng Mười Một
Vâng ý Cha Dưới Đất Cũng Như Trên Trời
William
Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong
Kinh "Lạy Cha" như sau: Giữa những câu "chúng con nguyện danh
Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" và câu "ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời" thay vì dấu phết hay dấu chấm phết nên dùng dấu hai chấm,
để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất ý Chúa được vâng
phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và Nước Chúa được
thống trị mọi nơi.
Đề
nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng Nước Trời giữa lòng xã hội
trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của các tín hữu Kitô.
Bởi
lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của sứ điệp Chúa Giêsu rao
giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời của Ngài.
"Ai
vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ
Ta".
Tuyên
bố câu này, Chúa Giêsu không có ý khước từ mối dây liên lạc và tình mẫu tử giữa
Ngài với Đức Maria. Nhưng Ngài muốn nêu bật một thực tại: Đức Maria đã trở nên
Mẹ Ngài qua câu trả lời: "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng
như lời sứ thần truyền" và trong suốt cuộc đời, Đức Maria đã trung tín giữ
trọn lời thưa xin vâng này đến giây phút đứng dưới chân thập giá.
Mừng
Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì chúng ta có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn
là học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: "Xin vâng!".
22
Tháng Mười Một
Nồi Cháo Tuyệt Vời
Một
hôm, có một người lạ mặt đến gõ cửa nhà của một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng
người đàn bà cho biết trong nhà bà không còn gì để ăn cả. Người lạ mặt mới nói:
"Bà đừng lo, tôi có mang theo một hòn đá có thể biến nước thành một thứ
cháo tuyệt vời nhất trần gian. Nhưng trước tiên bà hãy cho tôi mượn một cái nồi
lớn".
Thấy
người lạ mặt đề nghị một cách nghiêm chỉnh, cho nên người đàn bà mới cho nước
vào cái nồi lớn nhất và đặt lên bếp. Khi nước vừa sôi, thì người đàn bà chạy
đến các nhà láng giềng để mời sang chứng kiến điều lạ lùng sắp xảy ra. Trước
đôi mắt mở to của mọi người, người khách lạ mới cho viên đá vào nồi, rồi dùng
muỗng lấy nước đưa lên miệng nếm, ông vừa hít hà: "Thật là tuyệt diệu!
Nhưng giá có thêm một ít khoai thì tốt hơn". Nghe thế, một người đàn bà có
mặt bèn sốt sắng đề nghị: "Trong bếp tôi còn một ít khoai". Nói xong,
bà đon đả chạy về nhà mang khoai sang. Người khách lạ cho những miếng khoai tây
được thái nhỏ vào trong nồi. Một lát sau, ông nếm thử và nói: "Tuyệt!
Nhưng giá có thêm chút thịt thì chắc chắn phải ngon hơn".
Nghe
thế , một người đàn bà khác chạy về mang thịt đến. Người lạ mặt cũng cho thịt
vào nồi, đảo lên trộn xuống một hồi rồi nếm thử và nói: "Bây giờ thì quý
vị thưởng thức nồi cháo của tôi, nhưng nếu có thêm một chút rau cỏ cho vào thì
là hoàn hảo". Dĩ nhiên, ai cũng muốn nếm thử nồi cháo, cho nên ai cũng hăm
hở đi tìm rau. Có người mang đến nguyên một giỏ củ cà rốt và hành. Người lạ mặt
cho các thứ rau vào nồi rồi ra lệnh cho người đàn bà chủ nhà: "Bây giờ tôi
cần một ít muối và tiêu nữa là có được một nồi cháo ngon nhất trần gian".
Khi nồi cháo đã sẵn sàng, ông hối thúc mọi người đi tìm chén bát đến. Có người
mang cả bánh mì và trái cây.
Mọi
người vui vẻ ngồi vào một bàn tiệc bất ngờ. Trong khi mọi người nói cười rộn
rã, thì người khách lạ lẻn đi. Ông vẫn để lại hòn đá mà mỗi khi cần đến, những
người hàng xóm có thể sử dụng để cùng nấu chung với nhau một nồi cháo ngon nhất
thế giới.
Một
hòn đá, cộng với một ít thực liệu và gia vị sẽ tạo nên một nồi cháo ngon nhất
trần gian: đó là hình ảnh của sự đóng góp vào phép lạ mà Thiên Chúa không ngừng
thực thi cho con người.
Bà
góa thành Sarepta đã dâng cúng một ít bột mì cho tiên tri Êlia để từ đó được
lương thực hằng ngày trong suốt mùa hạn hán. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhân
bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một
cậu bé...
Với
một chút đóng góp từ lòng quảng đại của con người, Thiên Chúa có thể làm những
phép lạ cả thể. Tất cả những công trình bác ái và giáo dục trong Giáo Hội đều
bắt nguồn một cách khiêm tốn: Chúng ta hãy nhìn vào công trình của Mẹ Têrêxa
thành Calcutta, của cha Pierre, sáng lập cộng đồng Emmaus, của cha Van
Straatten, sáng lập Hội trợ giúp các Giáo Hội đau khổ: một căn nhà nhỏ, một
miếng thịt mỡ, một công việc vô danh... Phép lạ của Thiên Chúa thường bắt đầu
bằng những đóng góp nhỏ và âm thầm của con người.
Thiên
Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta cơ may để đón nhận phép lạ của Ngài. Ngài
chỉ cần một chút lòng quảng đại của cúng ta. Nếu chúng ta sẵn sàng dâng tặng
cho Ngài một chút những gì chúng ta có thì có biết bao nhiêu người chung quanh
sẽ được chung hưởng phép lạ của Thiên Chúa.
23
Tháng Mười Một
Tấm Gương Trong Lâu Đài Versailles
Lâu
đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du
khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là
phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên
trần nhà đến các vách tường.
Du
khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một
phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang
hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý
đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó
đều là của bạn.
Đó là
hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là quan
trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào
bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào dành cho
người khác.
Cái
tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người
khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn
mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta
thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng
ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy Giả khi gặp
chúa Giêsu: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Thưa bạn, đó
là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.
24
Tháng Mười Một
Đây Bài Ca Nghìn Trùng
Đây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, từ dạo Đức Giêsu gục đầu tắt thở trên thập
giá, cuộc sống và cái chết của Ngài đã trở nên một bài ca nghìn trùng, một bản
tình ca muôn thuở nói lên mối tình Thiên Chúa yêu thương nhân loại, được thể
hiện qua cái chết tự ý thực tình của Ngài để sống trọn từng chữ lời mình tuyên
bố:
"Không
có Tình Yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình".
Đây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng, bài ca muôn thuở của
một cuộc đời sống cho tình yêu và một cái chết, chết cho cuộc tình. Vì thế,
cuộc sống khó nghèo, khiêm tốn, lam lũ để dấn thân rao giảng Tin Mừng và cứu
nhân độ thế của Đức Giêsu phải kết thúc bằng cái chết tang thương, tất tưởi,
cái chết đầy đau đớn, tủi nhục trên thập giá, để ngàn đời hai bàn tay bị đinh
đâm thâu qua không thể nào nắm lại được nữa, nhưng muôn thuở một bàn tay luôn
xòe ra như muốn nói: "Vâng, Con hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha",
và bàn tay kia luôn mở rộng như muốn nói: "Vâng, Ta chọn tình thương yêu
và sẵn sàng phục vụ mọi người cho đến khi đổ giọt máu cuối cùng".
Đây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng của cuộc sống dấn thân
phục vụ được kết thúc trên thập giá để từ dạo ấy thập giá là biểu tượng cho một
quy luật muôn thuở của Tin Mừng do Đức Giêsu rao giảng: "Nếu hạt lúa gieo
xuống đất không mục nát đi, nó cứ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó mục nát đi,
nó sinh ra được nhiều hạt khác".
Đây
bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, đây bài ca tình thương muôn thuở được sướng
lên để chờ đợi những câu đáp trả. Ngày hôm nay, nhân ngày lễ mừng thánh Andrê
Dũng Lạc và các bạn tử đạo, chúng ta hãy hân hoan dâng lên Thiên Chúa cuộc sống
và cái chết vì đức tin, vì tình yêu của các bậc đàn anh, đàn chị, của chúng ta
như những câu đáp lại điệp khúc bản tình ca của Chúa Giêsu: "Không có tình
yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình".
Một
điểm son nổi bật nhất trong những thành tích vẻ vang chứng tỏ niềm tin sắt đá
được các thánh tử đạo Việt Nam ghi vào những trang sử của Giáo Hội là: Lòng tôn
kính thập giá.
Không
hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam thời đó đã dùng thập giá làm phương
tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là "Quá khóa"
để dùng thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết. Nhưng trăm ngàn hình
khổ đã không làm cho các vị anh hùng đức tin Việt Nam tự ý bước qua thập giá,
dấu hiệu của Đấng đã rao giảng và đã thực hiện lời mình xác quyết: "Không
có tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình".
Không
bước qua thập giá để chứng tỏ mình không chối bỏ đạo, không chối bỏ niềm tin
vào Thiên Chúa, không chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với mình dù phải chịu
tan xương nát thịt, dù phải chịu kìm kẹp, giam cầm, dù phải chịu voi dày ngựa
xéo, dù phải chịu đầu rơi máu đổ, các vị tử đạo Việt nam đã nêu gương đáp lại
tình yêu của Đấng chết treo trên thập giá để:
- Nợ
máu, các ngài đã trả bằng máu.
- Nợ
tình, các ngài đã trả bằng tình.
- Nợ
mạng sống, các ngài đã trả bằng những cái đứnng lặng im, không qua khóa, nhưng
cái đứng bất động này là những cử chỉ hùng hồn dẫn các ngài đến cái chết vì một
niềm tin, chết cho một cuộc tình như Đức Giêsu đã nêu gương.
25 Tháng Mười Một
Không Qúa Muộn Để Nên Thánh
Người Nhựt Bản có kể một câu chuyện như sau:
Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai.
Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không
mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người
chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ.
Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng
không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê
tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống
qua ngày bằng nghề hành khất.
Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi
tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc
thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.
Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã
bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết
sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.
Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua
núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.
Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của
mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng
tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho
cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy
chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:
"Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho
phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu
hãy giết tôi".
Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được
mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên
đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.
Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha
mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay
vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự
nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.
Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây
dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.
Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người
thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy
vừa nói trong tiếng khóc:
"Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của
tôi?"
Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh
thường nói:" Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng
ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ". Nét đẹp quí phái nhất nơi
lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm
xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu chuyện trên đây hẳn phải là hình
ảnh của sự phục thiện mà Thiên Chúa vẫn luôn khơi dậy trong lòng người.
Nhưng
bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa
tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy
khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu
diệt cho bằng được. Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện
bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.
26 Tháng Mười Một
Vui Với Người
Vui, Khóc Với Kẻ Khóc
Cha Pierre, người sáng lập phong trào Emmaus, chuyên
giúp những người không nhà không cửa tìm được nơi cư ngụ và tự lực cánh sinh từ
việc chế biến những đồ phế thải, đã ôn lại một trong những kỷ niện mà ngài cho
là ý nghĩa nhất trong cuộc đời như sau: Gia đình tôi gồm có tất cả 8 anh chị
em. Một ngày thứ năm nọ, chúng tôi muốn tập trung lại với nhau để đi đến thăm
một gia đình bà con của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi đã phạt tôi bằng cách bắt
tôi phải ở nhà. Buổi chiều hôm đó, các anh em tôi trở về, ai cũng nói huyên
thuyên vì một ngày được chơi đùa thỏa thích. Thái độ đó càng làm tôi bực tức
thêm. Không kềm hãm được sự ghen tức, tôi đã nói với một người anh như sau:"
Không có tôi thì kể như cuộc chơi cũng không có ý nghĩa gì". Tôi trút hết
cả giận dữ cũng như sự kiêu hãnh của tôi và bỏ đi nơi khác.
Ba tôi đang đau liệt trong phòng của ông. Tình cờ nghe
được lời phát biểu ngạo mạn của tôi, ông cho gọi tôi vào… Lúc đó tôi mới hiểu
được sai trái của tôi cũng như nỗi khổ tâm của cha tôi. Nhưng cha tôi đã không
la rày tôi. Ông chỉ nhỏ nhẹ bảo tôi:" Con không biết rằng con vừa nói một
lời lẽ xấu xa ư ? Con nghĩ rằng chỉ có con là người quan trọng nhất sao? Tại
sao con không bằng lòng khi những người khác được sung sướng?"
Lúc đó tôi mới hiểu rằng ba tôi đau khổ trong thân xác
đã đành, nhưng ông còn đau khổ gấp bội trong tinh thần vì tính xấu xa của tôi.
Tôi không bao giờ quên được câu chuyện trên đây… Và có
lẽ đây là câu chuyện đánh dấu cả cuộc đời còn lại của tôi.
Ba nguyên tắc cơ bản hướng dẫn đời sống của các cộng đồng Emmaus do cha
Pierre sáng lập, trước hết đó là lao động. Các thành phần của cộng đồng Emmaus
không chấp nhận bất cứ một sự dâng cúng nào. Tay làm hàm nhai, mỗi người trong
cộng đồng đều ý thức về giá trị của việc làm và sự đóng góp của mình.
Nguyên tắc thứ hai đó là đời sống cộng đoàn. Tất cả mọi tiền của kiếm
được đều bỏ vào quỹ chung của cộng đoàn. Từ 30 năm nay, tất cả tiền của thu
tích được đều được chi dùng cho đời sống của cộng đồng cũng như được bố thí cho
những người nghèo khổ túng thiếu hơn.
Nguyên tắc thứ ba là phục vụ. Đây là nguyên tắc tổng hợp mọi nguyên tắc
khác của đời sống cộng đoàn. Phục vụ có nghĩa là sống cho người khác, lấy đau
khổ của người khác làm chính đau khổ của mình, lấy niềm vui của người khác làm
chính niềm vui của mình.
Có lẽ nguyên tắc cơ bản mà cha Pierre đang áp dụng trong các cộng đoàn
Emmaus của ngài chính là bài học mà ngài tiếp thu được từ thân phụ của mình:
"Con không bằng lòng khi thấy những người khác được hạnh phúc ư?".
Nguyên tắc trên đây cũng là lời khuyên mà thánh Phaolô thường nhắn nhủ
các tín hữu của ngài:"Vui với người vui, khóc với kẻ khóc".
Dù
sống trong địa vị nào trong xã hội, dù sống dưới hình thức gia đình nào, độc
thân hay có đôi bạn, mọi người đều được mời gọi để sống chung với những người
xung quanh. Nguyên tắc đơn sơ và cơ bản nhất trong cuộc sống chung vẫn
là:" Lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của chính mình, lấy niềm
đau của người khác làm nỗi khổ của chính mình".
27 Tháng Mười Một
Tiếng Vọng Rừng Sâu
Có một cậu bé ngỗ nghịch thường bị mẹ khiển trách.
Ngày nọ, giận mẹ nhưng không thể xúc phạm một cách trực tiếp, cậu chạy đến một
thung lũng cạnh một khu rừng rậm. Cậu lấy hết sức mình và thét lên: "Tôi
ghét người". Câu ngạc nhiên vô cùng vì từ khu rừng có tiếng vọng lại:
"Tôi ghét người". Cậu hoảng hốt quay về với mẹ và khóc nức nở. Cậu
không thể hiểu được từ trong rừng đã có người thù ghét cậu.
Người mẹ nắm tay đưa cậu trở lại khu rừng và bảo cậu
hãy hét lên: "Tôi yêu người". Lạ lùng thay, cậu vừa dứt tiếng thì
cũng có người nói vọng lại: "Tôi yêu người". Lúc đó người mẹ mới giải
thích cho cậu như sau: "Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của chúng ta. Con cho điều
gì, con sẽ nhân điều đó. Ai gieo gió thì người đó gặt bão. Nếu con thù ghét
người, thì người cũng sẽ thù ghét con. Nếu con yêu thương người, thì người cũng
sẽ yêu thương con".
Hận
thù lúc nào cũng kéo theo hận thù, bạo động lúc nào cũng sinh ra bạo động. Chỉ
có tình yêu mới làm phát sinh tình yêu. Bạo động và hận thù không thể là phương
thế để cải tạo xã hội. Chỉ có tình yêu đích thực mới cải đổi được lòng người.
Bạn hãy sống cao thượng. Bạn hãy lấy tình yêu để đáp trả lại hận thù. Tiếng
vọng cao đẹp nhất của một nghĩa cử yêu thương lúc nào cũng là tiếng vọng của
bình an tự trong đáy tâm hồn chúng ta.
28 Tháng Mười Một
Bà Vợ Của Socrate
Nhà hiền triết Hy Lạp Socrate chẳng may có một người
vợ khó tính như chằng tinh. Nhưng ông đã chịu đựng tất cả những dở chứng của bà
một cách kỳ diệu… Một ngày nọ, ông đang làm đạo với các môn sinh ngay trước cửa
nhà, bà vợ bắt đầu dùng một lời lẽ thô tục để rủa sả ông. Nhưng ông vẫn một mực
điềm nhiên như không nghe biết gì. Bà vợ không cầm nổi cơn giận, đã múc một gáo
nước tạt vào người ông. Nhà hiền triết cũng không để lộ một phản ứng. Mãi một
lúc sau, ông mới bỗng đùa với đám môn sinh: "Sau cơn sấm sét thì lại có
mưa giông".
Thánh
Basiliô khuyên dạy như sau: "Đừng ăn miếng trả miếng". Kẻ chiến thắng
trong một cuộc chiến phi lý là người bất hạnh nhất, bởi vì người đó sẽ mang
theo tất cả phần lỗi… Hãy để cho kẻ thù ta là thầy dạy ta. Đừng bắt chước điều
ta ghét bỏ. Đừng trở nên gương soi cho một kẻ đang giận dữ bằng cách phản chiếu
chính khuôn mặt giận dữ của người đó.
29 Tháng Mười Một
Cái Dũng Của Thánh Nhân
Thánh Clêmentê Hofbauer, nổi tiếng là một người nóng
tính.
Ngài được cử làm bề trên một cô nhi viện. Một hôm
trong nhà không còn lương thực, Clêmentê đã phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào
nhà một người giàu có đang tổ chức một
sòng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy.
Ông không kiềm nổi cơn bực bội nên đã nhổ tung nước bọt vào mặt thánh nhân.
Bình thường có lẽ Clêmentê đã có phản ứng mạnh. Nhưng vốn luyện tập nhẫn nại,
nên ngài đã đứng lên lau mặt rồi vui vẻ nói với người đã phỉ nhổ mình: "Đó
là qùa ông dành cho tôi, xin cảm ơn ông. Thế còn qùa của các trẻ mồ côi
đâu?". Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của thánh nhân, người chủ
nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để
giúp đỡ các em mồ côi.
Cái dũng
của thánh nhân chính là biết dùng sự thinh lặng, nhẫn nhục để biến cải tâm hồn
con người. Cổ nhân thường nói: "Một câu nhịn bằng chín câu lành".
Không có sức mạnh nào có thể thắng nổi sự bất bạo động. Bởi vì, khí giới dù có
tối tân và có sức đe dọa đến đâu cũng không thể thuyết phục được tâm hồn con
người. Chỉ có lòng tha thứ mới có thể bẻ gãy được thứ vũ khí ác hại nhất là hận
thù.
30 Tháng Mười Một
Bảo Chứng Của Trường Sinh Bất
Tử
Công
chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng
được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì
bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9
năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Đôi
vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu.
Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự
giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử
hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả
hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.
Những
người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị
thời gian làm hư hại vì thế chúng ta bảo
chứng cho sự trường sinh bất tử.
Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô
bên Italia có khắc ba dòng chữ:
- Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán
nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: "Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh
khắc".
- Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có
ghi hàng chữ: "Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc".
- Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung
thánh đường có khắc dòng chữ: "Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng
ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con
người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu
bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào
cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.
Vì thế họ chọn thái độ "sống gửi thác về". Họ thu nhặt những
giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện
tại, bằng cách áp dụng "hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người", vì họ
biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.
Vì
thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi:
nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi
ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo
hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng
phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc
sống mai sau.
Đăng nhận xét