SUY NIỆM LỜI CHÚA - CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
Lời Chúa: St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9
MỤC LỤC
![]() |
Ảnh từ:http://www.kinhthanhvn.org |
1. Những sự việc bình thường
2. Chúa biến hình
3. Núi Tabor hôm nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
4. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Người biến đổi hình dạng
7. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
8. Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
9. Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10. Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia
12. Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
13. Chúa hiển dung bộ mặt nào?
14. Đường về đỉnh vinh quang
15. Biến hình
16. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
17. Dõi theo bước Chúa – R. Veritas
18. Biến hình – Richard Gutzwiller.
19. Con yêu dấu
20. Khuôn mặt
21. Phêrô
22. Thập giá
23. Suy niệm của JKN
24. Chú giải của Noel Quession
1. Những sự việc bình thường
1. Những sự việc bình thường
“Này là con Ta yêu dấu,
hãy nghe lời Ngài.”
Vào
lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái
và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy
chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong
cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri
mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng
bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận
biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông
đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường,
quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được
chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục
chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng
ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài
ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được
thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng,
rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được
ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một
cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng
hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện
với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống
vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng
Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với
sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi
với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón
nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra
ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng
kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở
giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và
quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính
Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù
Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau
khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua,
nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Ngày
hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường
của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh
ý Ngài hay không?
2.
Chúa biến hình
Tại
sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?
Ngay
từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng
hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm
chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng
kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến
hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối
cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con
gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về
những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có
thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo
Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông
chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của
Giáo Hội ngày hôm nay.
Như
chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì
chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:
-
Nếu
từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.
Thế
nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm
về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ
không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
-
Thủ
lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được
như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi
người.
Chính
Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
-
Mặc
dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là
Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho
nhau.
Cũng
trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus
servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến
việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú
như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để
các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra
đó là phục vụ.
Còn
chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan
niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta
theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới
luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái
an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?
Bởi
vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị
xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm
cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào
cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.
3.
Núi Tabor hôm nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa
Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu
nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa
đã hiển dung trước mặt các ông.
Trước
núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng
Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh
ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một
mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu
chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có
thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai
ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của
cuộc Vượt Qua.
Người
xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên
núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi
nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ
gặp Chúa hơn thật:
-
Thanh
vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
-
Trên
cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời,
bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
-
Trên
cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên
núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai
lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để
chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương
người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời
Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh
Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với
Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng
con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi
người trong mọi thời đại.
Một
thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy
máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên
Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống
của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
4.
Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại hữu hình
Bản
văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực
tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một
mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.
Nơi
chốn: "một
nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm
cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác
định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có
nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi. Đàng khác, "ngọn núi cao"
luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng
tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn
vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời
gian: đã được xác
định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn.
Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ
(Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian
vượt-thời-gian. Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở
lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức
do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này
trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng
là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm ngắm
Việc
Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng
còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần
thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con
người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày
Phục Sinh.
Biến
cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như
việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông
đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc
14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi
riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho
con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy
vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với
Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý
nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần
linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để
làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với
Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ
là bằng chứng của tình yêu. Như vậy, ba
vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về
vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi
qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ. Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức
Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh
quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh
sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến
từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với
"Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh
sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh
sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của
Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để
con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn
tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang
khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật,
và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai
chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng
thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện. Ngoài ra, nội
dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều
Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của
Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã
kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ. Cuối cùng, sự
hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt
khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở
đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải
đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này
cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy
vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì
Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự
chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường
Một
tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến
vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể
là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra,
có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu
đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh
quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh
quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu
độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh
quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại
toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi
vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để
tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên
đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh
quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ
xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên
thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ.
Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến
cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn
cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa,
là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc
càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về
Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi
với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào
vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức
Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
MẮT ĐỨC TIN,
MẮT CỦA TRÁI TIM
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví
dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu
như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy.
Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề
sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo,
hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả
những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao
giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở
nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng
trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của
Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông
chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang
của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn
vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng
tinh như ánh sáng”.
Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng
thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che
giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc
bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.
Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính
đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân
loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế
giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên
Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như
thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.
Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong
mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì
nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên
Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng:
Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em
sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô
sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm
Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng
hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh
em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn
ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.
Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện
một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa. Ăn chay là đến
với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi
nảy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành động trong Mùa Chay
là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời
tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh
sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.
Như thế ta đang công tác vào việc biến
hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành
trình phục sinh.
Lạy Chúa
Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin
ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.
6. Người biến đổi hình dạng
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức
Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa
đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn
mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai
thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh
khuôn mặt Thiên Chúa. Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có
thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu
việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt
Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình
cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy
rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra như một lời
giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các
ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung
(Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo
này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người...
Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với
Người” (2Pr 1,16-18). Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn,
sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con
đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi,
bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào
vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và
yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được
bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực
được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh
vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón
nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của
Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến
hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu
có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng. Sám hối là
đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là
những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm
bạn chưa rõ về bạn không?
·
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn,
nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn
mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con
thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con
rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con
nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho
khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi
người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của
Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm
nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con
biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường
gập ghềnh. Amen.
7.
Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
(Trích từ
‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu
bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt
bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ
sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng
thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ
lùng của chúng.
Thế
nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của
những tạo vật như thế. Tại sao? Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh,
chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt
của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là,
nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí
ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế
là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi
nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên
không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh
tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được
vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện
nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn
sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là
một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung
dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu
nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu
rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến
thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp
thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu
trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên
vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần
mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh,
đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng
núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và
bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh
thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa
trong tạo vật của Ngài.
ÙÙÙ
Theo
Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ
Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng
vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc
hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới:
thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia
hiện ra đàm đạo với Ngài.
Lòng
đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông
muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với
Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia."
ÙÙÙ
Hôm
nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng
ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.
·
Vinh
quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của
Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua
những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa
đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh...Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy
rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
"Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
·
Tình
yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan
chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người
mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn...
·
Mầu
nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà,
chan chứa yêu thương hiệp nhất.
·
Và
đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với
ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và
không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh
chúng ta.
Thông
thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ
thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta
để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa
Giêsu.
Ba
môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì
chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh
chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan
hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng
con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)
8.
Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người
đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt
thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài). Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu
mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở
nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét
gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay "con Bác thợ Giu-se, con
bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu
hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại
của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa
Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người
phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa." Nhưng ngoài bản tính nhân loại,
Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển dung
Trước
khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ
lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các
môn đồ bấn loạn. Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông
vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu
bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi
sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu
thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới
một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." …
"Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán
rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng
nghe lời Người!"
Dung
mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm
cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô
muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên
đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa
với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài
muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một
cho ông Êlia."
Sự
hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn
ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ
khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu
Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi
tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba
"nhân vật" đang chung sống:
·
Một
là "tôi-là".
Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là)
là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)
·
Hai
là "Tôi-muốn-là".
Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn
trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn
sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…
·
Ba
là "Tôi-tưởng-tôi-là".
Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về
mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người
tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây
chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình.
Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai
khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính
và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở
một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ
tôi mới "hiển dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời
Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn
xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để
nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy
xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan,
trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ
thế, khi phải "hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người
khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi
u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như
chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ
năm xưa.
9.
Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mầu
nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình,
mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế
gian, Thầy là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa
thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên
được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm
người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong
tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và
không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa
và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn
hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống
trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu
phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con
là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến
hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng
Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết,
Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình
an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và
bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh
xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an
cho nhân loại.
Chúa
đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng
cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh
nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng
đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa
lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các
tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng
quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ
rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá
và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa
lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy
quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết
khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai
nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không
muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông
luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức
thuyết phục sâu đậm.
Chúa
còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho
kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua
đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá
đầy tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa
trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ
mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ
nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm
với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài
đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph.
2,8)
Chúa
Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên
Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ,
tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo
gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những
con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con
Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với
người Do-thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi
trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12).
Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi
dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng
đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là
Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng
từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời
Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày
nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra
khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các
tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống
để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu
dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị
người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ
một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con
Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là
ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga.
1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất.
Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt
lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung
sướng khi được ở bên Chúa.
Hình
ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các
tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các
phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh quang
đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu
đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến
dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng
ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần
là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại
nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là
sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình
mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung
hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.
Trong
cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà
chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng
con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới
vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng
ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm
sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14,
30).
Sau
khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về
cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ
dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ
không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ
và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên
thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của
cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần
treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như
Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.
Chúng
ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt
từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương
tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi
an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta
biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang. Đây chính là hồng ân cứu
độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng
con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn
đời.
10.
Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cái
quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh
phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm
người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là
nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế
nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ
không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban
cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm
người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới
của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé".
Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa,
cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao
qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau.
Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si
mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:
Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là
to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt
ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng
to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó chưa sợ
ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì
cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
- "Thế mày có nhắc đến tên tao
không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên
anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ
một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức
nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ
đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một
tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa
vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức
mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư
tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...Thất bại của sư tử là không nhận ra
mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử
chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy
hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu
con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và
mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu
con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo
với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu
vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại
trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau.
Hàng xóm láng giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại
"bới lông tìm vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm
nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một
dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính
của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng
chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật
của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa
Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung
nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của
mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh
em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản
thiện" của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng
ta.
Mùa
chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn
đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta.
Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham
muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao
qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết
trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn
mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần
gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn
thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa
những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để
chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân.
Amen.
11.
Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia
(Trích
từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong
phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào
tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã
được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem
theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó.
Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người
biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng
say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có
những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng
ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu
hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí,
trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để
chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau:
"Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người". Còn hai ông Gioan và
Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa
Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách
vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp
đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất
về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi
cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất
phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư
nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì
một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng
Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất
hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá
kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê
sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và
được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi
nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây
ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm
phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh
quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng
ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng
dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi
với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ
buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm
thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như
Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa.
Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm
của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu
chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan
lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta
vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ
mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc
vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả
thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không
rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo
ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết
về điều này trong tác phẩm "Lời Dâng" như sau:
"Anh
không nghe thấy ư?
Bước chân
Người thầm lặng
Người tới,
tới và luôn luôn thường tới
Người tới,
tới và luôn luôn thường tới
Hàng giờ,
hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi".
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời
thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của
Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng
mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho
con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn
sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống
đạo.
12.
Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
LÊN
NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài
Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu
báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt
17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”,
nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn
ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có
lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối
thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự
Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9)
nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn
đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình
thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một
bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và
ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời
khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm
ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe
mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.
1)
Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình
thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và
về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là
em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một
ngọn núi cao” (Mt 17,1).
a.
Yếu
tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra
trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu
ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành
một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b.
Trình
thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và
được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả
không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là
nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi
nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới
thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài
thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt
khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng
thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.(Trình thuật
không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến
cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt,
chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh
đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố
này).
c.
Tách
biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”.
Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự
tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng
chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ
này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được
biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được
thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau
khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra
trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới
không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể
diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ
bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2)
Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước
hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình
dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân
được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được
biến đổi hình dạng.
Sự
biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ
transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có
nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển
âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong
bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.
Đức
Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được
chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người
chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu
dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà
không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì
làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có
thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực
ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của
sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện
với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa,
nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả
được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của
con người.
Bằng
ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh
bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể
mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần.
Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó
trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông
giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa
pha lê.” “Trông giống như...”, “như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả
được. Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị
kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh
“như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan
của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là
ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi. Trong thế giới thần linh ấy, các
nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh
Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn
sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội
dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các
nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống
và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách
thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung
lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm. Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa
Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái
lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này
vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá
đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và
Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới
này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.
3)
Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc
khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và
chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu
dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5). Từ
kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng
phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng
phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ
trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải
của Thiên Chúa.
Cách
thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng
những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự
lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn
vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc
khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai. Lời phát ra từ
đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa
ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt
3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát:
“Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp
với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức
Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một
lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy
nghe Người.”
Khi
gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ
và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe
Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan
giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là
Con yêu dấu của Người. Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán
với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn
đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu
Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn
của Chúa Cha.
Nghe
lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời
loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo
trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế,
biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật
khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao
với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối
diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh
hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại
đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông
ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã
thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa
hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra
khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra
nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục
Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa,
Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ
lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình
thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây
là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc
đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong
khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và
chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến
cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao
cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc
xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy
ra trên núi như ba môn đệ hay không?
-
Liệu
độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ
đẹp của thế giới trên cao hay không?
-
Liệu
độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là
ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước
gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe
có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin
vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong
sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc
Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho
cuộc đời này
13.
Chúa hiển dung bộ mặt nào?
(Suy niệm của
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi
được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự
hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự
kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút
nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong
đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn
không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn
là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để
củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì
việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng
Phêrô - một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục
đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội
dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo
lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng
tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt
tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua
thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó
Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần
thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm,
thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là
con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục
sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực
của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ
thập giá.
Ngược
hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho
thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê,
hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc
xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến
cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh của Đức Giêsu.
“Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”.
Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới
được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’,
là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33).
Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người!”
Hiểu
được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả
Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho
thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay
thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng
còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy
nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu,
bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở
một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc
nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là
mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh
quang tình yêu của Ngài.
Vì
vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình
như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi
mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và
quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi,
nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa
chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết
chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của
Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế,
hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi
như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên
Chúa.
Mùa
chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và
củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá
theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang
vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn
coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu
tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu
thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ
nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men
14.
Đường về đỉnh vinh quang
(Suy niệm của
Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên
“Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều
đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng
biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi
cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị
chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành
lựa chọn người kế vị. Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ
vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp. Ít lâu sau, vị cao tăng
bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon
giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh
nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín
vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ
giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản. Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo
của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng
tuyên bố: A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi. Bị thầy đuổi, không một lời
thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi. Ba ngày sau, A trở lại
Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức)
được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm
thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG
VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh
quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ
xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ. Đức Giêsu
biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính
cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên
trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang
lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng
tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông
Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp
hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31). Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh
Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành
mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong
thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức
Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là
Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức
Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó:
con đường Thập Giá. Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt.
16,22).
Đức
Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin
vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là
sự thật và là sự sống”. Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng
trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi
để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người”
(Pl.3,10).
Sự
biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng
sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình. Không trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình
dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG
THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng
tuyên bố: A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi. Bị thầy đuổi, không một lời
thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước
vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác
ngộ - nhận thức) được rồi”. Vị cao
tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng
đáng đúng như lòng muốn.
Điều
gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những
giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình. Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng
sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn
lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng
lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy
mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô
và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không
sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các
môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn. Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy
yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13). Đó là sự xác tín căn bản. Đó
là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo
Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa
anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần
thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức
Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14). Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để
“chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi”
hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập
giá của đời ta”.
Nếu
con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng,
theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể
bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với
việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan. “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy!
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà
là của loài người!” (Mt.16,23).
Không
phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta
muốn được trở nên một con người như lòng
Thiên Chúa mong ước. Vì sự sống là từ Thiên Chúa. Nên con người phải được
biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến
mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi
sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20). Sự
biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa,
mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa”
(2Pr.1,4). Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự
biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng
và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời. Anh em là
giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng
Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi
miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu
huyền (1Pr. 2,9)
THỰC
TẾ HÔM NAY
Chúa
Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã
chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ
không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!
(Mt.17,5). Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt,
cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một
chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều
chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc.
Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe
rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”
(Ga.6,60).
Từ
lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải
biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến
đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu
hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn
lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
15.
Biến hình
(Sưu tầm của
Linh Xuân Thôn)
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp
đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng
và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: "Lạy Chúa, xin
ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá
nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã
thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị
lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn
lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay
đổi một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi
chính mình con."
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu
nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de
Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
ÙÙÙ
Bạn
thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là
cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức
Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một
ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong
cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên
Tính của Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên
Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.
Hơn
hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của
Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua
bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để
trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở
thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con
người.
Ngày
nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và
bạn lên núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi
và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các
bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng
thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình
dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin
yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước
đường lữ thứ trần gian này.
Hôm
nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài. Biến hình không phải
là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi
sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”. Đó là ơn được làm
con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.
Biến
hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là
mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và
cậy trông phó thác.
Biến
hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý
Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến
hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên
giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức
cho con để con cũng được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay Thánh này, để con
được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha
nói với con rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5). Amen
16.
Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Suy niệm của
Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cuộc
Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền
bính của các tông đồ.
I.
NGỮ CẢNH
Cả
ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau
lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức
Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt
16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng
Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
-
Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã
cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó:
“Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng
Người đã dứt khoát từ chối.
-
Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu
gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại
đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời
dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo
Tin Mừng “cho muôn dân”. Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà
bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
-
Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi
cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải
hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức
Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của
Chúa Cha.
Theo
văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám
dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ;
chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con
Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch
nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo
thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung
được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
II.
BỐ CỤC
Bản
văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến
(17,2-8):
a) Mở đầu:
Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình
huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa
phán,
c) Kết: các
môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết
(17,9).
III.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
-
Sáu ngày sau (1):
Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày;
và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
-
Phêrô, Giacôbê và Gioan
(1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
-
một ngọn núi cao
(1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi
này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà
Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay
Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan
trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối
Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và
Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
-
biến đổi hình dạng
(metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất
quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
-
Môsê và Êlia (3):
Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi
Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho
các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những
ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
-
ba cái lều (4):
Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm
8,14-18).
-
đám mây sáng ngời bao phủ các ông
(5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao
phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của
Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh
40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
-
tiếng từ đám mây phán
(5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về
ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11
….
-
Đây là Con yêu dấu của Ta
(5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con”
trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và
hiệp thông.
-
Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh
Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).
-
Đức Giêsu lại gần
(7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52
lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho
Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến
gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6
Khi các môn đệ nghe vậy
họ
ngã sấp mặt xuống đất
và
hết sức kinh hoàng
7
Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
|
Mt 28,16-20
16
Mười một môn đệ…
17
Khi thấy Người,
các
ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.
18
Đức Giêsu đến gần
nói
với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”
|
-
thị kiến (9):
Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền
vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn
10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16;
40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển
vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
IV.
Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Bản
văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta
biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự
sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin.
Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ
đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng
lại khó cho chúng ta hôm nay.
*
Mở (1)
Chi
tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác
giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn
nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết? Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa
ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi? Chi tiết “sáu ngày sau”
hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây
bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả
chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu
đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái
khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về
Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là
vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
*
Thị kiến (2-8)
Sau
phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố
quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng
tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả
Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là
một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi
nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa
trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô
hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa
được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái
sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức
Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con
Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về
Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh. Đức Kitô biến đổi hình
dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất
hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân
Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x.
Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu
về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức
Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn
Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức
Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan
Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê
mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản
ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản
giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít
lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị
Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa
của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng
hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức
người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23),
nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức
Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23),
nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông.
Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với
chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực
tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không
còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục
Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng
như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn
gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa
Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người,
nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường
phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi
Đavít).
Tác
giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi,
im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền
thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can
thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên
trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc
1,12-13.29-30).Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau
khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn
một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên
Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến
mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi
Êlia trở lại (x. 17,10).
*
Kết (9)
Từ
trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với
các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp
(chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác
định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để
hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng
tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc
Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện
trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa,
Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu
độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố
quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười
Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm
xác nhận các quyết định của các ông.
V.
GỢI Ý SUY NIỆM
1.
Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết
chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài
dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc
sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người
thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao
cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác
với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh
lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng
chói”.
2.
Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa
là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và
hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà
lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe,
nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai
lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số
phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng
đắn mà loài người phải đón nhận.
3.
Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là
nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là
trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối
cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không
còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là
Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4.
Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ
vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới
những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu
để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện
dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”.
Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5.
Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười
Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh
luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của
Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu
Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho
chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên
Chúa.
17.
Dõi theo bước Chúa – R. Veritas
(Trích từ
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên
mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao
nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.
Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu
bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi
lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm
lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có
cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và
nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.
Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình
bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào
lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu
trời trăng sao đẹp quá chừng!”.
Thưa
anh chị em,
Trong
truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường
được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những
mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu
mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa.
Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi
Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày
chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một
mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin
Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ
vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận
ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy
vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ
mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Thế
nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn
rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con
đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để
giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết
thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài
trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt
các ông.
Thật
vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên
xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn
liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời
gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng
vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì
trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan
niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị
khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì
lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên
tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng
thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang
mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong
sa mạc.
Rồi
bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor,
vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can
Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi.
Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các
ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.
Chính
trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo
với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng
Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt
qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế,
mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau
Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.
Anh
chị em thân mến,
Không
phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung
sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở
cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để
chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy
sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường
phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần,
đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh
chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên
đường đời.
Con
đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ
biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua
con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ
La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh
sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không
dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó
là quy luật của muôn đời.
Thưa
anh chị em,
Trong
cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa
lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành
cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại
với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp
nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi
bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận
những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt,
những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo
đường Chúa đã đi qua.
Xin
ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta
biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của
Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp
tục trên dấu chân của Ngài.
18.
Biến hình – Richard Gutzwiller.
(Trích trong
‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’)
Quang
cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng:
Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này
bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một
tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh
này chia làm hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên
Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên
chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo
Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến
Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh
quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ
là bằng chứng của tình yêu.
Họ
thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết.
Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát
huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác
thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu
tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã
thấy nơi Đức Kitô vinh quang.
Môisen
và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa
mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy
nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức
Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể
nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc
cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới
của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực,
để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia
là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal
là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa
tể của trời cao và vũ trụ.
Trước
hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa.
Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái.
Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của
trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha
trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma.
Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên
trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường
cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa
hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được
thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.
Đó
là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan.
Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước
đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một
ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên
bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc
biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh
cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước
đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc
đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai
nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của
Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng
của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được
vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở
đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh
thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên
núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.
Như
thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi
Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các
môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ
hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải
tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ
điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây
cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến
hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo
dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với
đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ
bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi
chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống
mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian
chung kết.
Đức
Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng
hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và
phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh
cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó
đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi
sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.
19. Con yêu dấu
Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc
âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình
những hai lần.
Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông
Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi
lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ
câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:
-
Này là Con Ta yêu dấu.
Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như
chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh
núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng
như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một
đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:
-
Này là Con Ta yêu dấu.
Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho
Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:
-
Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô
luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo
thánh ý của Chúa Cha.
Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa
Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên
trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số
một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết
với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:
-
Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.
Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng
phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:
-
Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên
thập giá.
Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh
nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như
Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người
phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn
sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và
có một địa vị sáng chói.
Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng
ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên
khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền
thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa
vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già
nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:
-
Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là
Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa
ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.
Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện
về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa
vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những
người con yêu dấu của Chúa.
Muốn được như thế chúng ta hãy noi
gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa
con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo
điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.
Bởi đó, để trở thành những người con
ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa
Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua
Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.
Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha,
thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh
Taborê:
-
Này là Con Ta yêu dấu.
20. Khuôn mặt
Một vị ẩn sĩ
nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng
thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận
lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị
ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế.
Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không
thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa
lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô
bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình,
nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của
mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi,
cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé
phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên
miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông.
Sau khi đã
uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì
sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ
đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết
chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.
Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và
chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám
bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.
Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ
nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi
cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh
như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp
nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen
long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.
Đức Giêsu biến hình sáng láng trước
mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được trước vinh quang Phục
sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn
cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới
vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật
Phục sinh.
·
Người kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng
khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức Kitô.
·
Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời
khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một
tình yêu trao ban vô vị lợi.
·
Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của
Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em.
·
Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng
của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.
Người tín hữu thường nếm vinh quang
Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ
vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm
được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ
điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng,
thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc
đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục sinh rạng ngời.
Mùa Chay là mùa sám hối và canh tân.
Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu
mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng
thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu
thương.
Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để
mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt sám hối bao
giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.
Canh tân là lao mình về phía trước,
trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính
chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
21. Phêrô
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta
cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô. Như chúng ta đã thấy: trước sự hiện
diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã vui mừng hớn
hở thưa lên:
-
Lạy Thày, được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày
muốn, chúng con xin làm ba lều.
Thế nhưng sau đó, cũng chính Phêrô đã
lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ phải chịu, để rồi
Ngài đã phải nặng lời quở trách:
-
Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ biết những
việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những việc thuộc về Thiên Chúa.
Rồi cũng chính Phêrô trong sân nhà
thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ của một đứa nữ
tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời như tục ngữ đã
nói:
Khi vui
thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Đúng thế, khi chúng ta có tiền và có
quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
-
Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm
hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà
ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm đến.
Hay như tục ngữ cũng nói:
Thấy người sang bắt quàng làm họ.
Thế nhưng khi tiền hết và quyền hết
thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:
Hết cơm hết gạo hết ông tôi.
Không những hết tình mà đôi khi vào
lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ trở mặt, phản
lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm thầm và cay
đắng ghi nhận:
Thế thái
nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu trách:
-
C’est la vie, đời là thế.
Tuy nhiên chúng ta đừng vội trách
người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản thân chúng ta trước,
bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những tha nhân và nhất là
đối với Thiên Chúa.
Thực
vậy, kinh nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như
cảm thấy Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những
gian nguy thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa
thật xa vời và độc địa như lời thơ cổ:
Trẻ tạo
hóa đành hanh chi ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Rồi từ đó chúng ta bực bội tức tối và
lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ muốn bước theo
Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh Canvê. Chúng ta
chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh mình vào thập giá.
Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng, chúng ta kéo lê thập
giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương tiện cứu độ.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng:
-
Đỉnh Canvê mới chính là nơi để Chúa Giêsu chu
toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi để Ngài gieo mầm phục sinh cho
nhân loại.
Là môn đệ của Chúa chúng ta không có
một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời Ngài đã nói:
-
Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo ta.
Chúng ta không dừng lại tại thập giá
và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang và phục sinh. Vì thế,
mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng tới trời cao. Trời
cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con đường thập giá. Những
hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời thường, nếu chúng ta
trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con đường dẫn chúng ta
tới vinh quang phục sinh.
22.
Thập giá
Anh chị em có biết tại sao khi nghe
hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa,
trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông
Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ nhìn thấy
những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay
bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong
chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các ông chưa
bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ
gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại,
tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống
và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò
và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói
đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông
thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi ai theo
Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ
mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô vừa
thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại nói
đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi sau
đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho các ông thấy vinh quang chói
lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng
để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước
Sinai. Chúng ta có thể đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây
thập giá làm cho các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây
thập giá có gì. Cũng vậy, sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở
trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy
mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào
trong vinh quang của Ngài sao?”. Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì
đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng
ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh
quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy
được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau
Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới tới được vinh quang ở phía sau cây
thập giá. Cuộc sống có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa
lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và
những lời độc địa, chát chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn
của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời
an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng,
hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm
thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản
muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải
kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”. Những lúc ấy chúng ta phải vận dụng
sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đằng sau cây thập
giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đằng trước chúng ta,
chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài.
Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc.
Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu chúng ta biết sống
với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu
chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng biết sống trong Ngài
lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày hội, chúng ta cũng biết
sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài lúc đầy tiền của,
chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay… Điều chúng ta cần ghi nhớ là
chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và nếu
chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng
chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi. Bởi vì
cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên Chúa,
nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống với
Ngài”.
Như vậy, Chúa Giêsu hiển dung là để
củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá sợ các đau khổ,
không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước
Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm tin và một hy vọng
vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải
trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của các ông là Con Thiên
Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì các ông cũng phải đi
theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không phải qua đau khổ, thử
thách. Sống ở đời, không ai trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta
gọi là những thánh giá mà Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác
thánh giá của mình. Ngay chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những
lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác
cho nên, với một thái độ khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên
chúng ta, và sẽ thưởng công cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta
không trông thấy, nhưng chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra
trong đời sau và trong thế hệ con cháu chúng ta.
23. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển
dung là gì?
2.
Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!». Nội dung của lời giới thiệu này
có mấy điểm? Là những điểm nào?
3.
Vâng nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?
Suy tư gợi
ý:
1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giêsu
Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân
tín nhất của Đức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần
tính của Đức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu
việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc
khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.
– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một
bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người
thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong
hiện tại.
– dung nhan chói lọi như mặt trời:
biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.
– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu
tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi,
không khiếm khuyết.
– Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo: đây là
hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Môsê, nhà làm
luật, tượng trưng cho luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện
các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và
thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã
báo trước sự ra đời của Đức Giêsu. Môsê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu
của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Êlia là
nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên
Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai
chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giêsu.
– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba
người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh
quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các
tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng
hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều
Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với Môsê trong đám mây
(Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra từ đám mây: «Đây là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!»:
Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa
Cha trực tiếp giới thiệu «Con Yêu Dấu» của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn
nữa?
2. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giêsu
Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa
đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu vào
Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta
nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành
trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là
Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững
chắc này, các ông rao giảng về Đức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi
gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phêrô đã nhắc lại biến cố này
như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: «Thật vậy,
khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường
thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm
liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và
danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con
yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ
trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người» (2Pr 1,16-18). Nếu mục
đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của
Đức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin
được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng
ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng
làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.
3. «Hãy vâng nghe lời Người!»
Qua biến cố hiển dung, Đức Giêsu chẳng
những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá
trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá
trong tôn giáo cho bằng Môsê và Êlia, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ
trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới
thiệu Ngài: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người!».
Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng
nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:
a. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Đó là
một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con
duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính
với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của
Ngài.
b. Đức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha:
Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết
nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí
của Ngài.
c. Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta
«hãy vâng nghe lời Người!». Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô
cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không
một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như
vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.
Thánh Phêrô, người đã chứng kiến việc
hiển dung của Đức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã
phải thốt lên tâm tình của mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời» (Ga 6,68). Chính Đức Giêsu
cũng đã xác nhận: «Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết» (Ga
8,51). «Không bao giờ phải chết» ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.
4. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giêsu
Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời
Đức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là
một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một
cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí «tại
đây và lúc này» (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được
Đức Giêsu nói đến trong câu: «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào»
(Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội
lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần
vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là
thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích
kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh
phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh
phúc không ai lấy mất được.
Sự sống đời đời ấy ta có được là do
vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như
Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như
Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như
ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời
sau. Chỉ khi ta có được «hạt giống sự sống đời đời» ở đời này do việc vâng nghe
lời Đức Giêsu, ta mới có được «cây sự sống đời đời» ấy ở đời sau (x. Kh
22,2.14.19).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giêsu
cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là
điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được
nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện
được điều ấy. Amen.
24. Chú giải của Noel Quession
Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám
dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu
truyện Đức Giêsu biến hình.
Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem
Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt,
và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn
ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.
Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau
khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã
theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều.
Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực
sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông
đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người
lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và
tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn
giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về
chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc
đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách
lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.
Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy
hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó
cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức
tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ
phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba
sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái
viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ
đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến
với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người...” (Mt 16,27-28).
Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô,
Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra
một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh
tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn
người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và
mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu
hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong
chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu,
trong mùa Chay này?
Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là
một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt
5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt
18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến
hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang
của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi
nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ
mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho
thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn
sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61).
Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các
ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh
như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia,
nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản
chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng
như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền:
tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây,
“metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn
là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người
ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái
ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,... đã lấy hình dạng con người
đầy tớ... (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói
được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời
gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia
hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba
môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải
đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại
Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về
sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ
mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng:
lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba
cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của
ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình,
lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận
Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người:
Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa
trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn
mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).
Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của
mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là
cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều
lều...”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định
nó lại!
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời
bao phủ các ông.
Đám mây này, biểu tượng của sự hiện
diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của
Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên
Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết
kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một
lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta
không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ
‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần
trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng
mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong
các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của
Thiên Chúa.
Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con
yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không
quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được
lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra... đây là một đám mây... đây là một
tiếng nói...”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình
được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm
gì cả.
Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự
mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là
Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một
mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người... bây giờ được nói lại cho các
môn đệ với một hậu quả đi theo.
Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của
mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc
mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho
chúng con.
Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt
xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy
(từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển
hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh
thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của
con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại
với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người
khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho
Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô
hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để
yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới
gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu
của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa
mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ
còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu
truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người
từ cõi chết trỗi dậy”.
Sách kinh lễ không dám dùng từ chính
xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp
“Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho
sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người,
như chết, dưới đất... mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ
đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ
muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày
cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái
khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ
trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một
trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn
tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm...
Đăng nhận xét