Các bài suy niệm Lời Chúa - Chúa Nhật Phục Sinh - năm A
LỄ PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv
10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
1. Ơn Phục Sinh
2. Đấng Phục Sinh
3. Đức Kitô sống lại
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Đón nhận ơn Phục Sinh
6. Biến đổi trở thành con người mới
7. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
8. Chúa đã sống lại
9. Câu trả lời của ngôi mộ trống
10. Tình yêu dẫn đến đức tin
11. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết
12. Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định
13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
14. Bước vào đời sống mới
15. Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông
16. Hy vọng mạnh hơn thất bại – Achille
Degeest.
17. Người đã trỗi dậy rồi
18. Mặt trời hé mọc
19. Chúa đã sống lại! Alleluia – R. Veritas
20. Mộ mở toang
21. Hai cái nhìn
22. Ngôi mộ trống - JKN
1.
Ơn Phục Sinh
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai”
cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị
quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái
Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc
nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những
49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ
trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi
ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai
tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng
nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm
hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm
thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt
mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc
Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân
không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ
điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất
là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát
vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt
giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong
trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay
vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó
chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ
tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự
biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở
rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng
ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng
ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết
tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt
lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá
bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới
cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng
ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần
chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần
phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham
dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
2.
Đấng Phục Sinh
Một cậu bé hỏi mẹ
về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng
với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc
đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không
biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con
đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn
đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin
của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta
tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới
đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại
cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con
người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một
thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu
là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không
sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ
là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có
giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường
hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông
Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người
chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một
ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về với bụi
đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết,
nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết,
Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu
có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa,
cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với
các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người
trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma.
Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm
nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp
nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin nhận Đức
Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ
được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì
không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều
mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng
máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong
mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi
cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng
được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người
ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai
ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió
đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của
Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín
hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là
bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những
mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự
Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy
mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp
cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
3.
Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước
hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp
thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến
chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá
và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn
thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày
thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì
đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà
thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và
Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho
Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ
mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại
một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó
có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn
Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ
yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin
được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến
mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết
Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách
biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông
cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa
cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ
phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho
đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy,
luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt
buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa
đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần
gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy
tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông
mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện
của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta
noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của
Chúa.
4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC
SINH
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn
rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy
những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được
tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến
ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống
trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các
ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong
mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc
đời các ngài thay đổi tận gốc rễ. Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc
tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn
các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng.
Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn
các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban
cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ.
Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong
căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng
Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết
dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới
biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh
Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc
đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất
vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất
cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy
vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời
cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối
không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những
linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những
niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà.
Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ
ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc,
giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh
em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân
ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó
là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những
lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất
công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm
hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ
ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết
ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính
bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở
trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2.
Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3.
Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người
không?
4.
Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế
nào?
5. Đón nhận ơn Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala
buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng.
Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững
mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại
hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu
thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các
ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn gọn: "Ông
đã thấy và ông đã tin". Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các
ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa
chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các
ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng
cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp
với Chúa.
Các
ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các
ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất
cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn
trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ
trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là
khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không
nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn
bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các
ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại:
Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ". Khi cúi xuống nhìn vào ngôi
mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình.
Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng
nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục
sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các
ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan
sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào "Ông
thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào trong mộ, Ông "thấy những
băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng
vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức
nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay
Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm
vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái
tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận
được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với
Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười
biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới
bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa
sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy
niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục
sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.
Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ
đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi
đời sống?
2.
Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: "Đức Chúa Giêsu sống
lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn", bạn suy nghĩ gì?
Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3.
Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
6. Biến đổi trở thành con người mới
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ
ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang
trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng
của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc
thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên
nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực
của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng
Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật
nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử
được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng
mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng
tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến.
Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem
trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng
thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức
tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người,
không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp
dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật
gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần
không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với
điều xấu. Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người
Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn
mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát
ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là
lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng
vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái
nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết
hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ
như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà
là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi.
Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết
và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi
những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi
chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta
cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để
chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới
với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào
Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của
Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
7.
Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt
rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn
lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất
đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng
trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm
những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người
tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel. Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày
nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn
đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm
ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng.
Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa
lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy
quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho
bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân
tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt
vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương. Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua
ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho
vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong
không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các
môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng
gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết
là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời
Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một
đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau
khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống
như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và
là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà
tin Ta sẽ không chết bao giờ."
ÙÙÙ
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống
con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ
mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong... Mầm mống
chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự
sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi
người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới:
kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông
khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần
nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được
khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp
người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết
của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh
của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng
lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy
đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
8. Chúa đã sống lại
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả
chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết
có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt
hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế?
Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô
và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã
thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu.
Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống
lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày
hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà
thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự
việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại.
Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi
bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào
Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ
dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi
mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời
cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được
nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế
hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức
tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng
hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội
khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có
nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời
gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng
ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội
lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng
ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp
bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải
xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường
như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây
ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải
tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người
đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai
sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước
những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin
Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa
Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những
mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng
ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh
chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã
nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên
người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ
Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại
Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết
đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ
cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục
Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc
sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận
ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho
con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
9.
Câu trả lời của ngôi mộ trống
(Trích từ ‘Suy Niệm
Hàng Ngày’ – Trầm Tĩnh Nguyện)
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ
đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Hai hôm sau ngày
Chúa Giêsu chịu chết và được táng xác trong huyệt đá, trời vừa hửng sáng, Maria
Mađalêna đi ra thăm mộ Chúa Giêsu và thấy tảng đá đậy cửa mộ đã bị lăn đi, còn
mộ thì trống không.
Bà chạy về báo tin
cho ông Simon Phêrô và người được mệnh danh là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến”.
Cả ba cùng hối hả chạy ra mộ. Họ đã cùng chứng kiến cảnh ngôi mộ trống không,
khăn liệm xếp lại gọn gàng. Nhưng trong thâm tâm, mỗi người lại có những suy
nghĩ khác nhau:
-
Bà
Maria Mađalêna cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Ga 20,13-15).
-
Ông
Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
-
Còn
“người môn đệ Chúa Giêsu thương mến” thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại
như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Cùng một sự kiện,
nhưng lại có nhiều thái độ đức tin khác nhau. Điều này vẫn thường xảy ra trong
đời sống của mỗi Kitô hữu.
ÙÙÙ
Sống đức tin là biết
nhìn tất cả mọi việc theo quan điểm của Thiên Chúa và trong ý hướng của Thiên
Chúa. Sống đức tin là xác tín rằng Thiên Chúa đang thực hiện chương trình của
Ngài xuyên qua mọi biến cố trong cuộc đời.
Nhưng làm thế nào để biết được ý
Chúa?
Cách thế duy nhất
và hữu hiệu nhất là sống bằng chính Lời của Ngài.
Lời Chúa sẽ soi
sáng cho chúng ta biết rõ ý Chúa, sẽ giúp chúng ta củng cố, phát triển và kiện
toàn đức tin.
ÙÙÙ
Chúa Kitô đã sống lại, chỉ còn
ngôi mộ trống không.
Trong cuộc sống, chẳng
thiếu gì lúc chúng ta gặp thấy ngôi mộ trống này. Đó là những lúc chúng ta kiếm
tìm một dấu chứng để củng cố lòng tin đang bị lung lay của mình.
Nhưng thay vì một
chứng cớ rõ ràng, Chúa Kitô lại chỉ đưa ra cho chúng ta một biến cố tạo nghi vấn.
Thay vì trả lời, Ngài lại bắt chúng ta tự đặt ra câu hỏi cho chính mình:
“Như thế nghĩa là gì?”
Quả thật lắm lúc
chúng ta đã bối rối phân vân trước câu hỏi bỏ ngỏ ấy.
“Chúa muốn nói gì?”
Thật khó mà xác tín
được!
ÙÙÙ
Bài Tin Mừng hôm
nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi ấy:
Cũng như cái chết
và sự sống lại của Chúa Giêsu đã được tiên báo trong Kinh Thánh, sứ mạng của mỗi
người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa tỏ lộ bằng cách này hay cách khác trong
chính cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa cũng đã
mở sẵn cho chúng ta một tương lai bằng cách chuẩn bị cho chúng ta những bước đường
trong quá khứ.
Xuyên qua những hỗn
độn trong cuộc sống, Thiên Chúa đã tỏ ý của Ngài cho chúng ta bằng những biến cố
bỏ ngỏ, những “ngôi mộ trống” mà Ngài đặt trước mắt chúng ta.
Muốn biết được những
“ngôi mộ trống” ấy muốn nói gì, chúng ta phải duyệt xét lại quãng đời đã qua của
mình, để nắm bắt những dữ kiện chính và xếp đặt chúng lại dưới ánh sáng của Tin
Mừng.
Với ơn soi sáng của
Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận ra được thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời
mình.
ÙÙÙ
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống cuộc sống trần gian, đã chịu chết
và đã sống lại để mở ra cho nhân loại đường về cõi trường sinh.
Con tin chắc một điều là Chúa cũng muốn con
sống, chết và sống lại như thế.
Nhưng để được sống lại như Chúa, con phải
theo con đường nào để hiến tế bản thân con?
Đâu là đỉnh núi Sọ của con?
Xin Chúa dạy con biết nhìn để thấy được điều
Chúa muốn con thi hành.
Và xin Chúa trợ giúp để con đủ nghị lực hoàn
thành điều Chúa muốn.
Những lúc Chúa cho con xem thấy “ngôi mộ trống”,
thì xin Chúa cũng cho con luôn nhớ rằng Chúa đã phục sinh. Amen!
10.
Tình yêu dẫn đến đức tin
(Trích từ ‘Suy Niệm
Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa
Nhật Phúc Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa:
Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc
Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ,
đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là
tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông
thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện,
chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin
Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết
treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ
Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục
xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu
ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác
Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn
giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên
biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp
thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như
người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt
đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria
Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và
nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa
nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa
đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô
và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước.
Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào
mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông
đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại
sao?
Đối với Maria
Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc
thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một
lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không,
bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình
trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm
yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa,
xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác
này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi
giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng.
Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông
chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ
để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống
lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng
Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập
đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu
yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể
hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy
nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với
Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì
ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời
mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng
dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với
cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã
tin.
Qua câu chuyện,
chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như
lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư,
lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của
thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành
trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của
Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu
chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình
yêu Chúa.
11.
Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết
(Trích từ ‘Bước
Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý
vị, đây không phải là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là
dòng chảy của lịch sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh
vẫn thuộc về Thiên Chúa. Đó là chân lý.
Đây là chóp đỉnh của
lịch sử ơn cứu độ và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều
ghi là “Ngôi Mộ Trống”. Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ ràng,
nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ. Điều nầy
nói lên điều gì, thưa quý vị?
Thưa nói lên rằng:
Khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều
gì thuộc về trần thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người
không lệ thuộc vào không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế
lực nào không chế được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên.
Chúng ta thấy biên giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm
Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột
đỉnh của mầu nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói,
không ai là không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình
thường không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp
đảm như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng
của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân
tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể
hoàn tất.
Biết bao cuộc suy
niệm, biết bao lời dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa
Giêsu, nhưng không ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người,
nhất là trong những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.
Vì vậy, để đối nghịch
lại với cuộc thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của
sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản
diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau
khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con
Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện
là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm
nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không
có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục
Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu
đến giây phút cuối cùng.
Đoạn Tinh Mừng (Ga
20,1-9) hôm nay, cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), ( Mt 28,1-8) tường thuật
cùng một sự kiện là “Mồ Trống”. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy
là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy
có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn
trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu
nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây
giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh
Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt cuộc
hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại “trên đường Emau”
(Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu hiện ra với các
môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện Phục Sinh không dừng
lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra sau Phục Sinh, vì vậy,
Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một ngày, mà là Lễ Phục Sinh với
tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.
Vì thế, với niềm
hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời
cả Triều Thần Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống lại
thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin cầu
cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!
12.
Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định
Niềm tin Phục Sinh
là vấn đề cốt lõi của giáo lý Kitô giáo, như Thánh Phaolô đã tuyên xưng trong
thư gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh
em thật hảo huyền” (1Cr. 15, 17).
Tuy nhiên, có một sự
khác biệt giữa Tin Mừng Luca và Gioan liên quan đến sự kiện Chúa Giêsu Phục
Sinh. Hình như vì yêu mến các bà hơn, nên Thánh Luca đã kể rằng: sau khi được
Thiên Thần hướng dẫn, các bà đã tin; nhưng khi các bà báo lại cho các Tông Đồ,
các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (x. Lc. 24, 1-11). Ngược lại, có vẻ vì bênh vực
các Tông Đồ hơn, nên Thánh Gioan lại nói rằng: các bà chưa tin và tưởng rằng
xác của Chúa đã bị ăn cắp; nhưng khi đến nơi, Gioan liền tin rằng Chúa đã Phục
Sinh (x. Ga. 20, 1-10).
Ngày nay người ta vẫn
còn nói đến ba lý thuyết khác nhau xoay quanh việc Chúa Phục Sinh: Xác của Ông
Giêsu đã bị ăn cắp; Ông Giêsu chết giả, các môn đệ giải cứu và đưa sang Ấn Độ;
Chúa Phục Sinh thực sự. Đâu là sự thật cho những vấn nạn này?
Thực ra, mầu nhiệm
đức tin không thể giải thích hoàn toàn bằng những luận chứng khoa học. Trong đoạn
Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan muốn trình bày về niềm tin của chính mình – người
môn đệ Chúa yêu, sau khi đã nghiền ngẫm và rao giảng trong suốt thời gian dài,
hơn là cố ý trình bày sự kiện lịch sử. Thánh Gioan trình bày ba phản ứng khác
nhau của con người về niềm tin Phục Sinh:
] Các bà đi đến cửa mộ nhưng không vào trong, không quan sát, không đặt vấn
đề và suy nghĩ về sự kiện. Các bà kết luận theo cái nhìn khả giác rằng xác của
Chúa đã bị ăn cắp. Dường như các bà suy nghĩ cách đơn sơ, hời hợt, và ý tưởng
Chúa Phục Sinh chưa hiện diện nơi tâm trí các bà.
] Phêrô vào trong ngôi mộ, quan sát những băng vải và khăn che đầu của
Chúa, nhưng không kết luận điều gì. Ngài suy nghĩ bằng lý trí, không đưa ra kết
luận Chúa có Phục Sinh hay không.
] Thánh Gioan yêu mến Chúa nhiều, và có lẽ nhờ sức trẻ, ông đã chạy nhanh
hơn. Ông cúi xuống để suy nghĩ, chiêm ngắm sự kiện và ông đã tin. Thánh Gioan
không dừng lại ở cái nhìn khả giác hay lý trí, nhưng còn chiêm ngắm bằng tình
yêu. Tình yêu giúp ngài nhớ lại và tin những điều Chúa đã báo loan báo.
Con người thời đại
thường có tham vọng tìm bằng chứng Phục Sinh bằng giác quan hay lý trí. Nhưng
làm sao ta có thể đóng khung cái vô hạn vào cái hữu hạn. Vì thế, mầu nhiệm Phục
Sinh là kho tàng vô tận để con người khám phá và kín múc. Chìa khoá bước vào mầu
nhiệm là tình yêu và kinh nghiệm gắn bó với Chúa mang tính cá vị, như thánh
Gioan Tông Đồ.
Những băng vải vẫn
còn đó, nhưng được xếp lại gọn gàng. Dấu vết của cái ác vẫn còn hiện diện,
nhưng việc sống gắn bó với Chúa Phục Sinh sẽ giúp ta sắp xếp lại những khúc mắc
hỗn độn của cuộc sống.
Ngôi mộ là biểu tượng
của sự dữ, chết chóc và đau buồn. Chúa Giêsu Phục Sinh mở toang cửa mộ, giải
thoát con người khỏi sự kìm hãm của sự dữ, mở ra thời đại mới, thời đại của hy
vọng và chiến thắng. Niềm tin Phục Sinh cho phép ta có đủ lý do để hy vọng về sự
chiến thắng những cơn giống tố của cuộc đời.
Là người Kitô hữu,
chúng ta không đặt vấn đề lịch sử tính cho bằng nhận ra sự điệp Phục Sinh. Nơi
sâu thẳm tâm hồn mỗi người thường tồn tại những nấm mộ bất khả xâm phạm. Nấm mộ
ấy chôn cất nhiều nút thắt khó sắp xếp và tháo cởi như: đau buồn về những yếu
kém của bản thân, những cố gắng không được như ý, những khốn khó vùi dập liên hồi,
và sự giằng co giữa ý Chúa và ý mình. Ta phản ứng thế nào với nấm mộ của mình:
thất vọng, sợ hãi và không dám nghĩ đến; tự mình suy nghĩ tìm cách giải quyết;
hay để Chúa cùng song hành, phó thác, vui lòng đón nhận và sống trong hy vọng để
thánh ý Chúa được thực hiện nơi bản thân?
Đến đây, ta có thể
viết tiếp lời tuyên xưng của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Bao
lâu hy vọng Phục Sinh chưa tác động trên cuộc đời, thì việc giữ đạo cũng sẽ trống
rỗng.”
13.
Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh
khởi sự bằng thái độ hốt hoảng. Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra. Xác của
Thầy đặt bên trong đã biến mất. Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria
Mácđala!
Bà đã đi thăm mộ
lúc trời còn tối. Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng
sáng để lên đường. Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
-
Tình
yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)
-
và tham
dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy
lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước
cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy
về báo tin cho hai môn đệ. Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy. Vấn đề duy nhất
làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15). Bà cần
biết chỗ đó, để lấy ngay xác về. Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để
kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng. Chỉ có
ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp
riêng. Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh. Chẳng ai ăn cắp xác
mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà
Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các
biến cố:
-
ý nghĩa
của cái chết bi đát trên Núi Sọ,
-
ý nghĩa
của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất
vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại,
đổ vỡ mất mát trong cuộc đời. Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải. Những
gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong
nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11). Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên
trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ
không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi. Sự sống bật dậy
từ tro tàn của cái chết. Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù. Tình yêu thắng
trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng. Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ
cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp
chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc
đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
14.
Bước vào đời sống mới
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
SUY NIỆM
Có câu chuyện trong thế giới triết học người
ta đặt tên là “Xóa tan dấu vết đời mình”, nội dung như sau:
Là con trai của nhà hiền triết, nhưng
Pédiantre lại không có một chút thiên tư minh triết nào, ông là một nhà độc tài
mới lên của thành Corinthe. Người ta biết ông hung bạo và mất quân bình. Trong
một cơn giận dữ, ông đã giết vợ lúc bà đang mang thai, chỉ vì tin vào lời bà
thiếp nói rằng vợ ông bất trung. Tuyệt vọng, ông thiêu sống luôn bà thiếp này.
Ngoài tính khí bất thường và ghen tuông giết
người, định mệnh đã an bài cho ông có một bà mẹ mê ông. Những nụ hôn dành cho đứa
con khi còn nhỏ, dần dần biến chất khi nó lớn lên. Để quyến rũ con, bà làm cho
ông tin là có một người đàn bà rất đẹp muốn trao thân với ông, nhưng với điều
kiện là phải làm trong bóng tối hoàn toàn, và người đàn bà này không được nói với
ông một lời nào...
Như thế, Cratéia trở thành tình nhân của con
mình. Nghi ngờ, ông nhờ một nữ tỳ cầm đuốc vào phòng lúc bất ngờ. Thế là ông
khám phá mưu mô của bà. Ông muốn chết. Muốn xóa hết dấu vết cuộc đời ông.
Để hủy diệt cuộc đời ô nhục, để làm biến mất
tấm thân xấu xa nhuốm tình mẫu tử, cái bóng hình làm dơ bẩn cuộc đời phàm này của
ông. Ông quyết định hủy bỏ dấu vết của nó trên quả đất, xóa luôn ký ức của loài
người có về ông.
Một tối không trăng nọ, ông kêu hai tên đầy
tớ vào:
Tụi bây có biết con đường đàng sau bụi rậm
kia không, con đường khuất hút đàng sau rừng cây?
Họ gật đầu có vẻ ngạc nhiên.
Tụi bây đi theo con đường đó. Đi thật lâu.
Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn. Tiền đây.
Hai người ra đi mà không dám đặt câu hỏi.
Người ta không thể nào trái lệnh Périandre.
Một lát sau, ông kêu bốn người đầy tớ khác tới
và bảo họ đi cùng con đường ông đã chỉ.
Khi các ông thấy hai người đàn ông đi lang
thang trong đám cây rậm rạp kia, các ông giết họ rồi chôn xác họ. Tiền đây.
Bốn người đàn ông ra đi. Vì tiền hậu thưởng
nhiều, vì không ai trái lệnh nhà độc tài Périandre thành Corinthe.
Từng nhóm nhỏ, các người đàn ông này mang vũ
khí vào rừng cây, đi tìm hai người đi lang thang để thủ tiêu mà không cần nói
lý do. Và thế là Périandre từ từ đi đến chỗ hẹn. (“Khi nào gặp một người đi một
mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn”. - Người đi một mình đó chính là ông). Kế
hoạch của ông thật là hoàn hảo! Nhân chứng này tiếp tục giết nhân chứng kia!
Còn ai biết được xác Périandre chôn ở đâu, nếu xác của người giết ông, rồi xác
của người giết “người giết ông” không tìm thấy?
Làm rối tung dấu vết. Làm xóa mờ dấu vết. Chẳng
bao giờ có mộ bia. Đối với nhà minh triết ngược đời này, chắc chắn đây là tự do
tối thượng. Khi nghĩ đến một loạt xác chết sẽ xảy ra, ông cảm thấy như có một
lưỡi gươm đang đâm vào sườn. Đêm tối mịt. Tối hoàn toàn.
Jean-Philippe de Tonnac.
CHẾT ĐI CON NGƯỜI CŨ…
Trước khi “bước vào
đời sống mới”, chúng ta phải “chết đi” con người cũ. “Chết đi con người cũ”,
không có nghĩa là “xóa tan dấu vết đời mình”, ngược lại, là “tên tuổi được vinh
quang” vì được chia sẻ “vinh danh Thiên Chúa”.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu: Thầy
coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được
gì? Chúa Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy,
thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng sẽ được ngự
trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em,
chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp bội, và
còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).
Có một dòng tư tưởng
mang nặng triết lý hiện sinh, rằng, suy cho cùng, tất cả suy nghĩ và hành động
của con người đều là vị kỷ, đều nhắm vào cái lợi cho riêng mình. Ngay cả việc
con người cố vươn lên để nên Thánh, để vào Thiên Đàng, để hưởng Niết Bàn, cũng
là vì ích lợi cho riêng mình.
Cách phân tích như
vậy, thoáng nghe qua, có vẻ rất đúng với thực tế, nhưng cách lập luận như vậy,
nó đã mang nặng sự vị kỷ ngay từ ở căn tính tội lỗi của con người. Điều đó cũng
có nghĩa là thừa nhận bước đi thăng hoa của Tôn Giáo trong tâm hồn của con người.
Đúng là khi nhắm tới mục tiêu “nên Thánh”, con người đã nghĩ đến thế giới hạnh
phúc vĩnh hằng cho chính mình, nhưng, đồng thời, con người cũng nhắm tới mục
tiêu “yêu thương đổng loại”, không ai có thể làm lành lánh dữ mà “chỉ có một
mình”! và, do đó, không ai nên Thánh “chỉ một mình!”.
Để có được sự sống
đời đời làm gia nghiệp – như Chúa Kitô đã hứa – con người phải biết thực thi Giới
Luật Yêu Thương, và Yêu Thương không như kiểu con người, mà Yêu Thương như Thầy,
Yêu Thương như Chúa Giêsu. Để sống đúng như Giáo Huấn của Ngài, con người không
được vị kỷ, mà phải “hủy diệt” chính mình. Con người khi yêu thương đồng loại,
không phải để được hưởng vinh quang Thiên Quốc, nhưng là vì Yêu Mến Thiên Chúa.
“Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.
Cũng như Chúa Giêsu
yêu thương con người, chết vì con người, không phải để tìm Vinh Quang Chúa Cha
ban tặng, vì tự Ngài đã là Thiên Chúa, mà chỉ vì Ngài yêu thương Chúa Cha. Ngài
muốn thực thi hoàn toàn Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Cha yêu thương con người, Ngài
yêu thương con người như Chúa Cha. Tình Yêu ấy là một.
“Con đã cho họ biết
danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ,
và con cũng ở trong họ nữa.”(Ga.17,26).
“Tình Cha đã yêu
thương con ở trong họ”. Khi tình yêu bao la ấy chiếm ngự trọn vẹn trái tim con
người, thì làm gì còn sự ích kỷ hẹp hòi nơi con người nữa? Trái tim ấy trào
tràn Tình Yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy lan tràn đến tha nhân. Đó là lúc “đóng
đinh” con người ích kỷ, hẹp hòi vào Thập Giá, đó là lúc “xóa tan dấu vết bợn
nhơ của đời mình”, chứ không phải xóa tan “cuộc sống mình”. Chúng ta vẫn sống,
và sống với một trái tim mới, một cuộc đời mới. “Ta sẽ ban tặng các ngươi một
quả tim mới, sẽ đặt thần thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng
đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt”
(Ez.36,26). “Chúng ta biết rằng: Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào
Thập Giá với Đức Kitô, như vậy con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi
quyền của tội lỗi”. (Rm 6,6-7).
…BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG MỚI
Bước vào đời sống mới
với sự sống lại cùng Chúa Kitô và sống như Chúa Kitô. “Tôi sống, nhưng không phải
tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal.2,20).
Để “Chúa Kitô sống
trong tôi”, lòng trí ta phải luôn hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên
Chúa ta đã được Chúa Giêsu giảng dạy trong Giới Luật Yêu Thương. Đời của Ngài
là bài học sống động để ta noi gương tiến bước, từ sự chiến thắng cơn cám dỗ của
Satan nơi hoang địa, đến cuộc chiến thắng trên đỉnh Can-vê.
Ta được rửa sạch mọi
bợn nhơ nhờ dòng máu cứu chuộc của Ngài. Ta được Ngài ban Thánh Thần để vươn
lên thượng giới. Như con thuyền giữa biển đời, ta đủ sức vượt qua giông tố với
điều kiện ta đừng buông tay lái, và tin tưởng Ngài luôn hiện hiện bên ta. Đồng
hành với ta. Sống trong ta. Nếu ta sống buông thả, xuôi đời mình theo những
chuyến tàu dục vọng, ta mất sức mạnh của Ngài ban. Ta mất Thánh Thần. Ta đánh mất
Ơn Cứu Độ. “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính
xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần
Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống
và bình an” (Rm 8,5-6)
-
Bước ra
khỏi nấm mồ nô lệ tội lỗi, không phải để bước vào nấm mồ khác của hoang mang,
hoài nghi, lo sợ. Đó không phải là một cuộc vượt ngục bước ra khỏi nấm mồ nô lệ
và đứng trước vùng đất xa lạ không biết đâu là con đường đi đến tự do.
-
Bước ra
khỏi nấm mồ sự chết, ta bước vào đời sống mới. Bỏ lại sau lưng mùi tang tóc sự
chết và đọa đày, hít thở không khí trong lành và bắt đầu tận hưởng cuộc sống mới
tự do và ngập tràn hạnh phúc yêu thương.
Ngay từ hôm nay, chứ
không phải đợi chờ hứa hẹn. Bình an ngay hôm nay trong sự hoan lạc vinh quang của
Chúa Kitô Phục Sinh. Lòng ta nhẹ nhàng bay bổng khi trút bỏ được bao thứ rác rưởi
phù phiếm trần gian mà ta cứ nhọc công tom góp và sống chết vì nó. Ta hạnh phúc
biết bao khi Ánh Sáng Phục Sinh soi rọi cho ta thấy những giá trị đích thực của
đời người mà từ lâu đôi mắt ta mù lòa không nhận ra được thật hư. Ta vui mừng,
vì cuối cùng, ta không phải đau đớn “xóa tan dấu vết đời mình” mà không hiểu vì
sao ta sống!
“Thật vậy, anh em
đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên
Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện
với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl.3,3-4).
Lạy Chúa,
Còn đó đoạn đường trần chông gai,
và một đời yếu đuối.
Xin cho con từng ngày,
chịu đóng đinh cùng Ngài,
được Phục Sinh với Ngài,
trong Tình Yêu Vĩnh Cửu của Ngài. Amen.
15.
Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông
“Ông đã thấy và đã tin”
(20,8).
Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?
CHIA SẺ
Đoạn Tin Mừng Ga
20,1-9 nói về tiến trình “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến.
Xin chia sẻ đôi nét về người môn đệ bí ẩn này và ý nghĩa của việc “thấy” và
“tin”.
Truyền thống đồng
hóa môn đệ Đức Giêsu yêu mến với tông đồ Gioan. Nhưng thực tế không đơn giản.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tông đồ Gioan thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức
Giêsu: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Hình ảnh tông đồ Gioan, cũng như các môn đệ
khác, thường là không hiểu Đức Giêsu. Khi Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu
và bên tả, Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Khi
những người Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò, Giacôbê và Gioan nói: “Thưa Thầy,
Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Và Đức
Giêsu đã quay lại quở mắng các ông (Lc 9,54-55). Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, ba môn đệ
thân tín ngủ khi Thầy đang hấp hối (Mc 9,32-42). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Phêrô
đóng vai trò tông đồ trưởng và nổi bật hơn tông đồ Gioan.
Trong Tin Mừng thứ
tư, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến có một vị trí đặc biệt và nổi bật hơn Phêrô
và các môn đệ khác trong nhiều khía cạnh. Người môn đệ này xuất hiện lần đầu
tiên trong bữa tiệc ly (Ga 13,1-32). Phêrô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức
Giêsu xem ai là người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Người môn đệ này có vị trí gần
Đức Giêsu hơn Phêrô và hiểu Đức Giêsu hơn Phêrô. Trong biến cố Thương Khó, các
môn đệ khác sợ sệt bỏ chạy, thì người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đứng dưới chân
thập giá và được Đức Giêsu trao phó chăm sóc Mẹ của Người (Ga 19,26-27). Trong
trình thuật ngôi mộ trống (Ga 20,1-9), người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy
và đã tin, còn lòng tin của Phêrô không được nói đến. Khi Đấng Phục Sinh hiện
ra trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a (Ga 21,1-14), người môn đệ này là người đầu tiên
nhận ra Đức Giêsu. Như thế, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến trổi vượt hơn Phêrô
và các môn đệ khác về ba phương diện:
1. Về vị trí, ông ở bên cạnh Đức Giêsu trong bữa
tiệc Vượt qua cuối cùng (Ga 13,23).
2. Về lòng tin, ông đã thấy và đã tin trước
ngôi mộ trống (Ga 20,8).
3. Về sự hiểu biết, ông nhận ra Chúa trước tất
cả các môn đệ khác (Ga 21,7).
Việc người môn đệ Đức
Giêsu yêu mến thường hiện diện với Phêrô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng
hóa người môn đệ này với tông đồ Gioan trong Tin Mừng Nhất Lãm. Với sự thân tín
đặc biệt và được trình bày cách lạ lùng trong Tin Mừng Gioan, người môn đệ Đức
Giêsu yêu mến là một nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật biểu tượng. Đây là
người môn đệ lý tưởng và mẫu mực cho người tin qua mọi thời đại.
Đoạn Tin Mừng Ga
20,1-9 cho biết thế nào là “thấy” và “tin”. Có thể hiểu người môn đệ này không
vào mồ trước, vì tôn trọng Phêrô là trưởng Nhóm Mười Hai; nhưng mạch văn cho thấy,
ông trổi vượt hơn Phêrô về ba khía cạnh:
1. Trước hết, ông chạy trước Phêrô để tới mộ
trước. Việc ông mau mắn hơn Phêrô cho thấy sự gắn bó giữa ông và Đức Giêsu.
2. Thứ đến, ông là người thấy những băng vải
trong mộ trước Phêrô.
3. Cuối cùng, sự thấy của ông có hiệu lực hơn sự
thấy của Phêrô: Những điều Phêrô thấy chỉ có tính cách thông tin, còn những gì
người môn đệ này thấy bằng mắt thể lý đã dẫn tới thấy bằng mắt đức tin, “ông đã
thấy và đã tin” (20,8).
Hai động từ “thấy”
và “tin” không có bổ túc từ nên có thể hiểu theo nghĩa rộng. Những điều người
môn đệ này thấy không chỉ là thấy những băng vải như đã kể ở trên, mà ông còn
thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giêsu không còn đó. Xa hơn, gợi đến những gì
ông đã thấy khi đứng dưới chân thập giá.
Tuy nhiên, đây
không phải là “thấy” bình thường mà là thấy đúng theo ý Thiên Chúa. Nghĩa là
“thấy” và “tin” gắn kết với nhau như Đức Giêsu đã nói: “Đây là ý muốn của Cha
Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời”
(6,40).
Động từ “tin” trong
câu: “Ông đã thấy và đã tin” (20,8) cũng không có túc từ và cho phép hiểu: Người
môn đệ này không chỉ tin vào việc Đức Giêsu sống lại mà còn tin vào những lời Đức
Giêsu đã nói, tin Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, tin là Đức Giêsu có thể
ban sự sống đời đời. Và ở mức độ cao nhất: Tin Đức Giêsu là Chúa và là Thiên
Chúa như lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con” (20,28). “Thấy” và “tin” theo nghĩa tuyệt đối, không có túc
từ, cho thấy người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã hiểu ý nghĩa của biến cố Thương
Khó.
Tuy nhiên, giữa việc
“thấy bằng mắt” và “tin” có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống và những
băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu Phục Sinh. Người
môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy dấu chỉ, chứ không thấy Đức Giêsu sống lại. Vì
thế, chúng ta không ngạc nhiên khi Tin Mừng thứ tư kết thúc với lời động viên
các tín hữu thế hệ sau: “Phúc cho những người không thấy mà là những người tin”
(20,29).
Thực ra, không ai
có bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu sống lại. Dù chúng ta là những người
không thấy mà tin, bài Tin Mừng mời gọi chúng ta đạt tới hành động “thấy” đích
thực như người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Từ việc thấy dấu chỉ được kể lại trong
Tin Mừng, dẫn tới việc thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là nhận ra sự hiện diện
của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.
Việc Đức Giêsu Phục
Sinh đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, xin cho tất cả chúng ta
“thấy” và “tin” qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng và qua những dấu chỉ
trong cuộc sống hôm nay để đón nhận sự sống, niềm vui và bình an của Đấng Phục
sinh ban tặng.
16. Hy vọng mạnh hơn thất bại –
Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Điều gì người ta sống cách sâu đậm nhất là điều khó diễn tả nhất. Đó là
trường hợp của kinh nghiệm về đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Đối với
người vô thần, sự sống lại của Đức Kitô là cái gì chỉ có trong lòng tin của người
Kitô hữu. Đối với người Kitô hữu, đó là một thực tại còn chắc chắn hơn sự kiện
lịch sử được chứng minh cách vững vàng nhất. Họ có thể diễn tả thế nào lòng tin
của mình trước người không tin, hoặc ngay trước những đòi hỏi hợp lý của chính
lý trí mình?
Ai tin Đức Kitô sống lại, chỉ còn cách có thái độ như các Tông đồ. Với
ngôn ngữ và cách suy nghĩ của riêng mình, các ngài làm chứng rằng đã biết Chúa
Giêsu trước khi Người chết, và đã gặp lại Người sau khi sống lại. Làm chứng,
nghĩa là quả quyết đã sống và đã thấy. Các ngài không hiểu bằng cách nào Chúa
Giêsu đã từ cõi chết đi vào cõi sống, đã hiện ra trong những điều kiện khác với
điều kiện trước khi chết. Các ngài không nói gì về điểm này. Nhưng quả quyết một
cách vô cùng chắc chắn là sự việc đã xảy ra.
Người Kitô hữu ngày nay cũng thế, họ tin Chúa chịu chết và phục sinh
nhưng không thể trả lời cho những ai chất vấn họ, xin họ giải thích. Vậy mà sự
hiện diện và hoạt động của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống họ là một kinh nghiệm
biến đổi cả con người họ. Họ có thể làm chứng mà không thể cắt nghĩa việc ấy.
Chúng ta có thể rút từ bài đọc của thánh Gioan hai đề tài suy niệm:
1) Hai người đều
chạy.
Phêrô và Gioan khi nghe Maria Madalêna báo tin liền vội vàng chạy tới mồ.
Trong sự vội vàng và sự ‘hướng về’ này, chúng ta nhìn thấy một ý nghĩa tượng
trưng. Ta có hướng về Chúa Giêsu sống lại và đang sống không? Đối với Phêrô và
Gioan, ngôi mộ tượng trưng cho thất bại ê chề, kể từ chiều thứ sáu (sau khi
Chúa tắt thở). Bây giờ thì họ lại hướng về một hy vọng tuy còn mập mờ, bí ẩn,
nhưng họ vẫn lao mình chạy. Trong đời ta phải chăng cũng có những thất bại mà
ta tưởng là nhất định rồi. Chẳng hạn một ước muốn không thành, một công việc
tông đồ không kết quả, một hạnh phúc hợp lý rơi vào thất bại… Ta có hay chăng một
niềm hy vọng biết nhìn thấy quyền năng Phục Sinh Chúa dành cho ta qua thử
thách, dù lớn lao thế nào đi nữa? Ta là môn đệ của Chúa sống lại. Người kêu mời
ta đừng bao giờ đặt một viên đá tuyệt vọng trên cái gì hết, song hãy hy vọng.
Cái được phục sinh có thể sẽ khác với ta chờ đợi nhưng ‘khác’ hơn theo nghĩa ‘tốt’
hơn.
2) Ông thấy và
tin.
Điều này nói về tông đồ Gioan. Bản văn thêm rằng lúc đó ông hiểu rõ Kinh
Thánh, tức Cựu Ước. Quả thật con người và lịch sử của Chúa Giêsu là ánh sáng
soi chiếu toàn bộ Cựu Ước, cũng như Tân Ước. Phải đọc Thánh Kinh thế nào? Thưa
bằng cách tìm gặp ở đó Chúa Giêsu Kitô là chân lý ta, là sức mạnh ta, là sự chỉ
giáo, luân lý, đời sống của ta.
17. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ
sống lại. Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ
trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu. Là những Kitô hữu ngoan đạo,
chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện
tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ
và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở
toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ
trống vẫn là một bí ẩn khôn dò. Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những
gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ
ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy
đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).Ông
cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin. Quả
thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về
cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để
nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Đức Giêsu phục
sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44). Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc
này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26). Nhắc nhớ là nối
quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong
quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao
các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải
tìm Ngài ở ngoài phần mộ. Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ. Đức
Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã
chỗi dậy. Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta
không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin
Ngài đã sống lại thật. Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc
đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người
Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống
mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng
gì trên cuộc sống đời này không?
·
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui
hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
-
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy
gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
-
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với
chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
-
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng
giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
-
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy
kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
-
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin
hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là
Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
18. Mặt trời hé mọc
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ
Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông
Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức
Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như
trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Kẻ thù Chúa hả hê
vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống
đã bị nuốt chửng. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng
đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang
nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ
được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi loé
lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với
dầu thơm vừa mua được để ướp xác. Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm:
"Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở
ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi,
và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị
đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng
hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm. Cửa mộ
đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối
lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta. Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy
vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn
đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối? Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô
mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm
ta lớn lên và cứng cáp. Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám
chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi
mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt?
Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
·
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai
táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió
cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi
tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời
con.
19. Chúa
đã sống lại! Alleluia – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang
tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng
tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận
đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh
cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa
Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau
bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm
được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm
ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới
khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét,
nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn
bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in
trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại
cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một
phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã
chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng
đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta
vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn
phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng
lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt
đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh
đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi
khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại
nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi
mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm
trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc
với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông
ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông
Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm
này”.
Sau lời tuyên bố
đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng
kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu
mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi
sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã
Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của
lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay.
Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà
còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng
mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em.
Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình
và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được.
Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì
chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại,
thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối
thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã
đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những
quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang
sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá
không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình
bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em
sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến
những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế.
Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá
trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống
cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại,
ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ:
“Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt
lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên
câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được
như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì
em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm
vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô
vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh
hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm
tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là
để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống,
giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn
toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng
như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời
chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên
xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
20. Mộ mở toang
Gioan
“cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin.
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều
ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sau thăm thẳm, đầy
màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang
chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự
im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy
được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái
chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy
chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết
chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng
không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại
như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết.
Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống
rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu
nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục
sinh.
Ngôi mộ mở lòng mớ trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức
tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến
đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”,
được trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 122 -123).
Một vài tuần trước lễ Phục sinh, người chồng đã chết vì một tai nạn đột
ngột: đang khi ông đốt các nhánh cây vụn trong khu vườn của gia đình, ông đã sơ
ý để lửa bắt vào mình.
Tai nạn đã làm cho bà vợ trở nên như người mất trí, một đàng vì nó đột
ngột quá, đàng khác vì nó xảy ra tại chính khu vườn của gia đình. Bà không giám
bước chân ra vườn. Thậm chí không dám nhìn về hướng đó nữa.
Rồi tới lễ Phục sinh. Hai người hàng xóm đến thăm bà và rủ bà đi ra vườn.
Mới nghe tới đó, bà co rúm người lại. Nhưng các bà hàng xóm tin rằng việc này sẽ
có ích cho bà nên cứ khuyến khích. Thế là cả 3 ra vườn, đến chính nơi xảy ra
tai nạn. Người vợ muốn quay lưng bỏ vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy, một lời trong
Tin Mừng lóe lên trong đầu bà: “Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết? Ngài
không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi”. Bà nghĩ lời đó nói về chính người
chồng của bà.
Thế là nỗi buồn sầu bấy lâu nay chắp cánh bay mất. Bà tìm lại được niềm
vui.
21. Hai cái nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy
khác nhau:
] Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự
nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm
của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến
tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái
nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng,
khóc lóc.
] Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức
tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và
xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng
lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái
nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin
này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong
đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt
thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người
tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái
nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản
và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông
nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng
cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức
Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã
nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận
“Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết
tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta
cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế,
trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc
trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
22. Ngôi mộ trống - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống
của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2.
Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn,
nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và
cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức
Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục
sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một
biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu
Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức
tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại,
thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của
anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu
chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những
kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2.
Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho
đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của
tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm
được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết
bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà
nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con
người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng
gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng
có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện
sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại
trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là
Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc
ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của
Ngài.
3.
Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những
con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần
Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết,
thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của
Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới»
(Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa
trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy
sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh
Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng
quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ
thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4.
Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới
sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người
mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và
tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị
đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã
bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh
Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là
con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi
mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo
theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep
4,22-24).
5.
Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ,
là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc
và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy
mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói
ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống
nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì
anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác,
một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt
khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ,
nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công
lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một
năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi
ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không
hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người
mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ
phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một
nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho
nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng
quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm
giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được
cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ
lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho
ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có.
Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ
càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên
mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có
vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7.
Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã
được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người
đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như
vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng
tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi
con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên
Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên
con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ
là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới
là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm
như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm
cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều
quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời
sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em
thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá
anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ
biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói,
hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức
Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một
biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế,
đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một
con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần
của Cha hãy biến đổi con.
23. Chú giải của Noel Quesson
Sáng
sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh
xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là
người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất"
trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần
lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện
của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới
đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh.
Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng,
Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu
tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời
công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không
còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh
21,4).
Lúc
trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là
những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc,
Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị
là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy
tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức
Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện
ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy
hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta
nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ
danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa
nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra,
trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được
Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta
nên ghi nhận điều đó.
Bà
nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người
ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ.
Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại,
nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện
ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy
nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ
vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến
lúc này, mới chỉ có thế!
Ông
Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy
mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên
dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng:
Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi
trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga
13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông
cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn
Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở
đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn
lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có
thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không
tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của
nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân
xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng,
khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo
như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng
chỗ, bên trong băng vải.
Bấy
giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông
đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói
rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu
gì hết” (Lc 24,12).Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta
đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết. Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy
và đã tin".
Vây ông
đã thấy những gì? Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải
thích. Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu.
Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức
Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu
này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người
môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những
người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh
tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở
nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn
cả.
Ông đã
thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ
còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và
"khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng,
ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác
ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những
khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô. Dấu chỉ
không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt
đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận".
Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà
tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin,
dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng
ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ
nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ
thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói,
một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải
thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói
với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất
cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những
kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta
đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã
phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải
thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới
được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa. Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những
khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng
cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật
vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy
từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh
Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu
chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì
ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước
những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức
Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta
chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn
suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần. Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý:
Muốn tin, cần phải yêu mến.
Đăng nhận xét