VIỄN CẢNH CÁNH CHUNG
JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?
- Thiên Chúa phân biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo tiêu chuẩn ấy có hợp lý không?
- Qua bài Tin Mừng này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?
Suy tư gợi ý:
1.
Viễn cảnh cánh chung: phân biệt chiên và dê
Bài
Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày
cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời
gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ
phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên
là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ
không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời
nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám
chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh
chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng
(x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được
chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau
trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người
ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng
(x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung
với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa
ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa
gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: “cỏ
lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho
lẫm” (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ
tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới
được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét
xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?
2.
Tiêu chuẩn để phân loại
Chỉ
có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu
suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để
xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
-
Ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai
loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người
dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ
ba.
-
Ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không
theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay
không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay
không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế
nào.
-
Ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo
một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với
tha nhân chung quanh mình.
Dường
như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không
cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là
linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo,
ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần
biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi
nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều,
v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm
gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động
của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác -
quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3.
Đó là tiêu chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai
không tin
a)
Tin vào Đức Giêsu là điều kiện để được cứu độ
Trên
nguyên tắc, ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được cứu độ
(x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công
chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ
không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ).
Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào
việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều
luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành
động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại,
nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương,
mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình.
Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường
học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh
viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình
được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết
yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế
không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát
xuất từ đức tin hay tình thương.
b)
Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng
việc làm
Người
ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin
làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích
thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên
công chính” (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là
loại “đức tin rẻ tiền”, là thứ đức tin chỉ được
tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống,
không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động.
Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực
phải là thứ “đức tin đắt giá”, không chỉ được
tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành
động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của
đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một
thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể
vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát,
tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: “Đức tin
không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,14.17).
c)
Việc làm của đức tin là việc làm gì?
Tin ở
đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Mà bản chất
của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giêsu chính là
hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do
đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức
Giêsu, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài,
nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa
những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc
biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp
bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn
biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử
với những người chung quanh, những người gần gũi nhất
(vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân
thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu
giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ
phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự
hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.
Vả
lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người
đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính
là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giêsu bên cạnh
chúng ta. Đức Giêsu xác định rõ điều ấy trong bài Tin
Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải
yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới
ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để
xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư
xử của chúng ta với tha nhân.
Để
tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giêsu nói:
“Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm
này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga
13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn
để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giêsu
với những người khác.
Cầu nguyện
Tôi
nghe Đức Giêsu nói với tôi: “Anh tin Thầy và sống đạo
của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối
xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay.
Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối
xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính
là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với
họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh
yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ,
chính là anh làm điều đó cho Thầy”.
JKN