LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Lời Chúa: Is
42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Mt 3,13-17
1. Dấu Thánh Giá
2. Chọn lựa
3. Con yêu
dấu
4. Dòng sông
Chúa dẫn tôi về
5. Người Con
yêu dấu
6. Chúa
Giêsu chịu phép rửa
7. Chúa
Giêsu chịu phép rửa – Damiano
8. Chúa
Giêsu chịu phép rửa
9. Khai mở
thời đại mới – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
10. Điểm hẹn
bất ngờ – ĐGM Vũ Duy Thống
11. Chúa
Giêsu chịu phép rửa
12. Chúa
Giêsu chịu phép rửa.
13. Phép rửa
tội của ta có làm ta thắc mắc không?
14. Giúp đỡ
Đức Kitô
15. Chúa
Giêsu đi vào hoạt động – André Sève
16. Sống
trọn ơn gọi làm người – R. Veritas
17. Lời
chứng của Gioan
18. Tiếng
Chúa
19. Con yêu
dấu
20. Làm
chứng
21. Con
Thiên Chúa
22. Chúa
chịu phép rửa
23. Chúa
chịu phép rửa
24. Chúa
chịu phép rửa
25. Chúa
chịu phép rửa
26. Vui mừng
đến cực điểm
27. Hoàng đế
cầu nguyện - Hoàng đế chịu phép rửa
28. Này con
yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta
29. Suy niệm
của nhóm Đồng Hành
30. Suy niệm
của JKN
31. Sám hối
là việc cần thiết để trở nên công chính
32. Chú giải
của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1.
Dấu Thánh Giá
Câu chuyện sau đây xảy ra vào thời
Giáo Hội bị cấm cách tại một địa phương truyền giáo. Hôm ấy trong một nhà
nguyện chặt ních người dự lễ, khi thanh lễ vừa mới bắt đầu. thì một người lính
trang bị đầy đủ vũ khí xuất hiện ngay trước cửa của nhà nguyện khiến mọi người
hết sức lo sợ. Vị linh mục bình tĩnh, ngài quay ra nhìn người lính. Anh ta cảm
thấy một sức hút kỳ lạ, anh mỉm cười và làm dấu thánh giá. Hiểu ý, vị linh mục
gật đầu mỉm cười và quay vào bàn thờ để tiếp tục thanh lễ. Dấu thánh giá chứng
tỏ rằng anh lính đó là người có đạo, là người công giáo.
Nhiều
lần chúng ta dùng nước phép để làm dấu thánh giá. Nghi thức này có nhiều ý
nghĩa. Trước hết nó nhắc nhở cho chúng ta việc Đức Kitô bước xuống sông Giođan,
cũng như bí tích Rửa Tội, nhờ đó chúng ta được gia nhập cộng đoàn dân Chúa, là
Giáo Hội. Đồng thời còn nói lên việc thanh tẩy tâm hồn để được xứng đáng tiến
đến với Chúa. Ngoài ra nó còn nhắc nhở chúng ta hãy loại bỏ những chia trí,
những cám dỗ của thế gian để được thuộc hẳn vào Chúa. Hơn thế nữa nó còn cho
chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá vì tất cả chúng ta, người
ngay lành thánh cũng như kẻ tội lỗi.
Mỗi
khi làm dấu thánh giá, thì niềm tin của chúng ta được củng cố. Niềm tin vào Ba
Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Dấu thánh giá còn tỏ ra
sự dâng hiến hồn xác con người để phụng sự Chúa. Nó là lời tuyên xưng thật đơn
sơ, nhưng lại vô cùng đẹp đẽ. Nó chứng tỏ chúng ta là người công giáo.
Cũng
như người lính trong câu chuyện đã làm dấu thánh giá để tỏ ra anh là người công
giáo. Đối với anh lính đó, cũng như đối với chúng ta, dấu thánh giá chứng tỏ
rằng chúng ta là thành phần của một cộng đoàn, được tụ hợp để thờ phượng Thiên
Chúa.
Ngay
khi được mai táng với Đức Kitô trong bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng được sống
lại với Ngài. Sự chết và phục sinh của Ngài được làm lại mỗi ngày trong thánh
lễ. Rồi trước khi ra về, chúng ta cũng làm dấu thánh giá để được thêm sức mạnh,
để được khích lệ hầu sống xứng đáng là những chứng nhân Đức Kitô giữa lòng cuộc
đời.
Chính
vì thế, với những ý nghĩa phong phú kể trên, chúng ta hãy làm dấu thánh giá cho
trang nghiêm và sốt sắng. Đồng thời chúng ta hãy ý thức rằng thánh giá là dấu
chỉ của một tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta, như lời thánh
Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
2.
Chọn lựa
Chúa
Giêsu chịu thanh tẩy hẳn không phải là để thú nhận tội lỗi. Tin Mừng cho thấy:
Là người Do Thái, Chúa Giêsu đã giữ trọn tất cả những gì lề luật đòi hỏi nơi
một người Do Thái. Sinh ra được 8 ngày, Ngài đã chịu phép cắt bì. Rồi khi đã đủ
ngày, Ngài được dâng tiến cho Thiên Chúa tại đền thờ. Và năm 12 tuổi, Ngài đã
theo cha mẹ đi Giêrusalem vào những dịp lễ lớn. Vì thế, chúng ta cũng không
ngạc nhiên khi Chúa Giêsu xuất hiện bên bờ sông Giođan để chịu phép rửa.
Tuy
nhiên, đọc lại Tin Mừng chúng ta có thể nhận ra điều này là tuy tham dự tất cả
những nghi lễ theo luật dạy, nơi Chúa Giêsu vẫn có một cái gì khác, vượt ra
ngoài điều các nghi lễ muốn ám chỉ, khiến cho những nghi lễ ấy có một cái gì
mới mẻ hơn, hoàn thiện hơn.
Chẳng
hạn khi Ngài chịu cắt bì và được đặt tên. Nhưng tên được đặt cho Ngài lại là
tên do thiên thần gọi trước khi Ngài đầu thai trong lòng mẹ. Khi tiến dâng nơi
đền thờ, Ngài đã được đón chào như ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Hiện
tượng vượt khung này lại càng tỏ rõ hơn qua việc Chúa chịu phép rửa ngày hôm
nay. Thực vậy Tin Mừng cho chúng ta thấy có sự tương phản giữa Gioan và Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu là người đến sau nhưng lại là người quyền thế hơn, mạnh sức
hơn. Còn Gioan người đi trước thì chỉ là kẻ tôi tớ, không xứng đáng cởi dây
giày cho Ngài. Việc thanh tẩy của Gioan chỉ là một thứ thanh tẩy bằng nước,
trong khi đó việc thanh tẩy của Chúa Giêsu lại chính là thanh tẩy bằng Chúa
Thánh Thần.
Tuy
nhiên, chóp đỉnh của sự kiện này đó là việc giới thiệu Chúa Giêsu, Đấng vừa
chịu phép rửa, là Con Thiên Chúa, Đấng sẽ đến để cứu chuộc nhân loại. Đúng thế,
công cuộc cứu chuộc không thể được hiểu như một cái gì có thể đạt được qua công
nghiệp, nhưng qua cuộc sống. Chúa Giêsu đã sống ơn cứu chuộc nơi mình Ngài. Bởi
đó, Ngài đã xuống sông Giocđan như mọi kẻ tội lỗi khác, nhưng lại với tính cách
là Con Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình cứu chuộc được thu gọn lại nơi việc Chúa
Giêsu chịu thanh tẩy.
Sở
dĩ như vậy là vì các chi tiết trong việc thanh tẩy đã gợi lại những gì diễn ra
trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu: Ngài xuống dưới nước như xác
Ngài bị chôn trong mồ. Trời mở ra như bức màn của đền thờ bị xé. Thánh Thần đáp
xuống với tiếng từ trời phán ra gợi lại việc Chúa phục sinh, ngự bên hữu Đức
Chúa Cha và sai Chúa Thánh Thần xuống.
Với
chúng ta cũng vậy, là người Kitô hữu, chúng ta đã được chịu phép thanh tẩy,
không phải bởi tay Gioan, nghĩa là bằng nước, mà từ sự chết và sống lại của Đức
Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Phép thanh tẩy này không chỉ là một nghi lễ tẩy
sạch tội tổ tông, mà còn là một biến cố mở đầu cho một cuộc hành trình, hay nói
đúng hơn, một cuộc đấu tranh và chiến thắng tội lỗi. Như thế, con đường cứu rỗi
là một sự lựa chọn dứt khoát: chọn Thiên Chúa thay vì ma quỷ, chọn điều thiện
thay vì điều ác. Phép thanh tẩy như thế không phải chỉ là một bí tích được chịu
một lần rồi thôi, mà còn là chính cuộc sống người Kitô hữu nữa.
3.
Con yêu dấu
(Trích từ
‘Manna’)
Suy Niệm
Xếp
hàng chung với những người thu thuế, tội lỗi, Đức Giêsu chờ đến phiên mình được
Gioan làm phép rửa. Gioan bối rối, khước từ. Đấng ông không đáng xách dép, Đấng
là thẩm phán quyền uy, Đấng sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần, Đấng ấy lại cúi
mình xin ông làm phép rửa sám hối.
Đức
Giêsu mời gọi ông cứ làm, dù ông không hiểu, vì đó là điều hợp với ý muốn của
Thiên Chúa. Câu nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Matthêu (3,15) tóm
gọn cả cuộc đời tương lai của Ngài. Ngài chỉ muốn giữ trọn, làm trọn điều Thiên
Chúa muốn.
Đức
Giêsu hạ mình trước mặt Gioan, và Ngài còn dìm mình thật sâu trong dòng nước.
Ngài chia sẻ cùng một dòng nước với những hối nhân. Ngài liên đới với sự hoán
cải của cả dân tộc.
Chính
lúc Ngài tự hạ vì vâng phục, Thiên Chúa lại muốn long trọng tôn vinh Ngài. "Vừa
ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra." Tầng trời mở ra là dấu hiệu
Thiên Chúa muốn ngỏ lời.
"Thần
Khí Thiên Chúa đáp xuống và ngự trên Người." Đức Giêsu đã được thụ thai
nhờ Thánh Thần, nay Ngài lại nhận được Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ. "Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." Chúa Cha trìu mến giới thiệu
cho ta Con của Ngài. Cha tấn phong Ngài làm Mêsia, nhưng theo kiểu một Tôi Tớ. Đức
Giêsu hiểu những gì Cha mới vén mở cho mình. Qua bao năm cầu nguyện, Ngài đã
được Cha tỏ lộ về căn tính và sứ mạng thiên sai của Ngài. Nhưng hôm nay, nơi
sông Giođan, Cha đã chuẩn nhận một cách long trọng và dứt khoát. Cả con người
Ngài bừng lên ánh sáng và sức mạnh. Đức Giêsu biết giai đoạn ẩn dật ở Nadarét
đã kết thúc. Đã đến lúc Cha muốn Ngài lên đường.
Kinh
nghiệm bên sông Giođan, Đức Giêsu chẳng thể quên. Kinh nghiệm ấy được sống và
lớn lên trong suốt đời Ngài. Ngài không chỉ đứng chung với tội nhân, Ngài còn
gần gũi họ, nâng dậy và gánh tội của họ. Ngài chết với những tội nhân và chết
như một tội nhân.
Các
tầng trời đã mở ra và không bao giờ khép lại. Sự hiện diện, lời nói, hành động
của Ngài đã luôn là một vén mở về khuôn mặt của Thiên Chúa.
Thần
Khí Thiên Chúa đã ngự trên và ngự trong Ngài. Thần Khí là bạn đường, hướng dẫn
Ngài vào hoang địa, đưa Ngài đi giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật.
Thần
Khí làm Ngài hớn hở mừng vui cất lời ca ngợi. Nhờ Thánh Thần, Ngài đã luôn sống
như Con của Cha, luôn làm điều đẹp lòng Cha và sống đơn sơ phó thác.
Phép
rửa ở Giođan chuẩn bị cho phép rửa nơi thập giá. Chúng ta được mời gọi sống
phép Rửa mình đã lãnh nhận. Mai táng cái tôi ích kỷ và rạng rỡ trong cái tôi tự
do.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Theo
ý bạn, đâu là khuôn mặt của một Kitô hữu lý tưởng? Tương quan của người này với
Ba Ngôi, với Hội Thánh và với thế giới có những nét đặc biệt nào?
·
Đối
với Đức Giêsu là một chuỗi những tự hạ vì vâng phục Cha và yêu thương con
người. Bạn có thể kể một số tự hạ của Ngài không? Bạn nghĩ gì về sự tự hạ của
bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là
điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng
con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn
yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên
điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán
cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự
do và được yêu mến.
4.
Dòng sông Chúa dẫn tôi về
(Suy niệm của
Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Mỗi
khi có dịp xem lại những bộ phim tường thuật lại cuộc đời sứ vụ của Đấng Cứu
Thế, tôi luôn cảm thấy gai người, cảm thấy lạ lùng, cảm thấy hạnh phúc, khi
thấy Đấng Cứu Độ thong thả hòa mình cùng đoàn người nhấn mình vào dòng sông
Gio-đan để đến cùng vị Tiền Hô, bày tỏ lòng sám hối về những lầm lỗi trong quá
khứ của mình. Một hình ảnh cảm thông và đồng hành quá đẹp! Một hình ảnh sẻ chia
và nâng đỡ, mà trước đó chưa từng có, và mãi mãi ngàn sao cũng không thể
tìm! Một hình ảnh khởi báo cho dụ ngôn
“Người Cha nhân hậu” mà thánh sử Luca sẽ ghi lại sau này (Lc 15,11-32) để tôi
hiểu được: Chúa không chỉ diễn tả lòng yêu thương của Đấng Tạo Thành dành cho
nhân loại bằng lời, mà Ngài còn thể hiện lòng yêu thương ấy bằng cách đến với,
ở với và sống với thụ tạo mà Ngài yêu thương nhất qua hành động cụ thể, rõ ràng
và thiết thực nhất. Một bài học sống động hình thành trọn vẹn Giới Luật Yêu
Thương.
Không
chỉ có thể, đọc lại trình thuật của thánh sử Matthêu ghi lại quang cảnh trên
(Mt 3, 13-17), chính thái độ đối đáp giữa đôi anh em bạn dì, nơi mà mỗi vị điều
mang một sứ vụ rất đặc biệt trong Chương Trình Cứu Độ mà Thiên Chúa đã trao
ban, Hai Đấng đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều mà lâu nay tôi vẫn lầm lẫn trong
đời Sống Đạo của mình.
I.
Giữ luật Giáo Hội là sống đúng theo Thánh ý Chúa:
Đấng
Cứu Thế tự nguyện đến gặp vị Tiền Hô để xin ông làm phép rửa cho mình với lời
khẳng định: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức
công chính” (Mt 3,15). Một Đấng toàn thiện toàn hảo! Một Đấng trong trắng vẹn
tuyền! Một Đấng không chút ô nhơ! Vậy mà Người chấp nhận phép rửa sám hối của
Gioan Tiền Hô để trở nên “người công chính” đúng nghĩa của nhân gian: giữ và
sống đúng luật mà Thiên Chúa đã mách bảo, đã hướng dẫn, đã quy định cho các tổ
phụ từ ngàn xưa. Vậy mà tôi…
Ù Khi thấy luật Giáo Hội có lúc không
giống như ý mình muốn! Có lúc không hợp với cung cách sống của mình! Có lúc như
rào cản làm mình không thể thực hiện sự tự do theo quan niệm cá nhân! Tôi đã
vội trách Chúa, lên án Giáo Hội, và lắm khi còn lăm le trở thành đối nghịch
nữa!!! Thật đáng thương nhưng cũng đáng sợ cho cách sống đạo của tôi. “Chiến
thắng chính mình”! quả không phải lúc nào cũng dễ!
Ù Nhìn lại quá khứ sống đạo của bản
thân, tôi mới thấy thấm thía cho sự bộp chộp, nóng vội của mình vì cạn nghĩ, vì
không thấm sâu lời Chúa, vì tầm nhìn chỉ đóng khung trong tính tự ái cao ngạo
của mình! Từ đó lắm khi chính tôi đã tự đẩy mình ra khỏi dòng nước tái sinh mà
chính Chúa đã làm mẫu mực để tôi biết sống vâng phục hơn, để đời tôi được thanh
thản hơn, để dòng nước Gio-đan thánh thiêng giúp tôi gội sạch ý mình đúng như ý
Chúa hơn!
II.
Giữ luật Giáo Hội là cùng Chúa đến với tha nhân:
Khung
cảnh Chúa Giêsu trầm mình dưới làn nước trong xanh của sông Gio-đan qua sự tuân
phục của vị Tiền Hô khi cử hành nghi thức sám hối đã đưa tôi đến sự cảm phục cả
hai Đấng: tất cả ý riêng đã được gạt hẳn một bên để ý Thiên Chúa Cha được thể
hiện trọn vẹn. Dòng nước không chỉ ôm lấy Đấng Cứu Độ, Đấng Tiền Hô, mà còn mở
rộng, ôm hết tất cả những ai thành tâm đến với nó. Tình liên đới của Hai Đấng
đã giúp tôi hiểu được một điều: Chúa muốn tôi nổ lực thoát vòng kiềm chế của sự
ác. Sự nỗ lực ấy luôn được sự cổ vũ, sự đồng hành, sự đỡ nâng của Người trên
mọi nẻo đường đời, bởi Chúa vẫn biết: tâm nguyện thì thiện hảo nhưng thân xác
lại bất toàn. Chuyện đứng lên lại vấp té dúi dụi trên con đường lữ hành là
chuyện thường tình. Điều quan trọng là tôi có dám đứng lên để tiếp tục đi nữa
hay không thôi!
Có
vấp ngã, có té trợt, có bưu đầu sứt trán, tôi mới dễ cảm thông với sơ suất của
người khác. Tôi mới có thể tự nguyện hòa mình vào dòng nước mát để đến với họ
hầu giúp nhau gội sạch bụi trần: “Người là Cha giàu lòng lân ái, và Thiên Chúa
hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn
gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng
biết an ủi những ai lâm vào cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4). Hình ảnh tự
nguyện, hình ảnh vâng phục, hình ảnh đồng hành của Đấng Cứu Độ đã soi rọi cho
tôi rất là nhiều điều, để: TRÍ của tôi được sáng suốt hơn! TÂM của tôi được mở
rộng hơn! Ý của tôi được đúng đắn hơn! Dòng sông nội tâm sẽ giúp tôi hiểu được
tình Chúa đang dành cho tôi, và sự mát mẻ thần thiên ấy Chúa muốn tôi cùng Chúa
chuyển đến cho bất cứ ai mà tôi có dịp gặp gỡ trên đường đời: một lời chào thân
mật! Một nụ cười thân thiết! Một nghĩa cử thân quen! Tình yêu của dòng Gio-đan
năm ấy, Chúa muốn tôi chuyển tải trọn đời…
Bây
giờ tôi đã hiểu: bao lâu tôi còn đắm mình trong dòng sông hạnh phúc với Chúa,
dù nhớp nhơ vẫn chưa tẩy sạch, bởi lâu ngày chày tháng rong rêu phủ đầy, tôi
vẫn được bình an và hạnh phúc! Bởi vì chính Chúa, phải chính Người đang đích
thân kỳ cọ, tắm rửa cho tôi! Hạnh phúc thật giản đơn! Mãi tới giờ này, vẫn có
người sao vẫn chưa tìm thấy? Bởi tại ai?
5.
Người Con yêu dấu
(Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Thái độ ỷ lại của con người.
Thật,
người ta khó tìm trong Tân Ước tâm tình sám hối, ít nhất là cách thể hiện bề
ngoài, của những người Pharisêu và các Kinh sư. Có một trường hợp hiếm hoi khi
nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc, hòa vào dòng người đông đảo từ nhiều
nơi, cùng đến xin chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả ở sông Gio-đan, nhưng những
người Pharisêu này chẳng những bị ông từ chối làm phép rửa sám hối cho họ, mà
còn hơn thế nữa, ông đã lên án nặng nề thái độ của họ, vì cho rằng họ chỉ là những
kẻ giả hình.
“Thấy
nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với
họ rằng: ‘nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối.
Và đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng: chúng ta đã có tổ phụ Ápraham. Vì, tôi nói
cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu
ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây:
bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt.3,7-10).
Thái
độ ỷ lại vào Ápraham mà Gioan đề cập, đã có nhiều người suy gẫm đến thái độ của
những người đã được Rửa Tội, đã có Đức Tin Công Giáo đạo giòng, hay, đã là Kitô
hữu. Hơn thế nữa, là tu sĩ, Giáo sĩ, những nhà Tu Đức thông thái...
Một
sự ỷ lại vào “cội nguồn” như vậy, nghe có vẻ chắc chắn, nhưng rõ ràng, rất nguy
hiểm, dễ đưa con người đến sự trống rỗng bề trong, “hữu danh vô thực” !
Chuyện
Đời cũng thế, biết bao người “con ông cháu cha”, ỷ lại vào bề thế “gia phả”,
“lý lịch”, “cái ghế” của cha ông, làm sụp đổ cả đời, có khi làm liên lụy, lung
lay cả gốc rễ mình nương tựa!
Ngày xưa còn đi học, nhớ trong lớp có
một thằng bạn du côn lắm, nó đánh lộn 6 lần, mà vẫn không bị đuổi học, vì nó là
“con” một ông Cha giáo. Nó thông minh và học giỏi, nhưng sự ỷ lại vào bố nuôi
của nó đã làm hỏng ước nguyện của nó. Nó không thể sửa đổi tính tình của nó.
Sự
ỷ lại vào người khác làm mất sự phát huy tiềm năng của bản thân mình. Đó là
loại cây không còn khả năng sinh hoa trái tốt. “Không ai là hoàn thiện”. “Nhân
vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”. “Sai lầm là thường tình của con
người”. Sự ỷ lại dễ đưa người ta đến sai lầm và không biết ăn năn sám hối.
Người Pharisêu là một thí dụ. Con người không biết sám hối, không thể thăng
tiến được. Lòng sám hối đem lại hoa quả xứng đáng cho con người. “Hãy sinh hoa
quả xứng với lòng sám hối”. Sám hối không phải là nghi lễ bên ngoài, mà là hành
động ở bên trong. “hãy xé lòng chứ đừng xé áo”.
Biết
hối hận, ăn năn, con người sẽ làm những điều lành để phục thiện, từ đó, cây sẽ
lại sinh hoa kết trái. Ngược lại, con
người lún sâu trong lầm lỗi, lấy điều dữ làm lẽ sống, như cây không còn có khả
năng sanh quả lành trái ngọt. Lúc ấy
“Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất
cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt.3,10).
Khi
đó, dù là Abraham có muốn cứu giúp, cũng chẳng thể nào được. “Lạy tổ phụ
Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước,
nhỏ lên lưỡi con cho mát, vì ở đây, con bị lửa thiêu đốt khổ lắm ! Ông Ápraham
đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi;
còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ La-da-rô được an ủi
nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã
có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà
bên đó qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc.16,24-26).
Niềm tin vào Giêsu.
Cũng
tự xếp vào hàng những người tội lỗi, Chúa Giêsu đến với Gioan để chịu phép rửa
sám hối. Gioan cũng từ chối không chịu thực hiện phép rửa cho Chúa Giêsu, nhưng
không phải từ chối vì Chúa Giêsu không thật lòng sám hối, như đã từ chối đối
với Pharisêu và Xa-đốc, nhưng vì Ngài không có gì để sám hối. Ngài là Đấng
Thánh. Gioan còn khẳng định: chính ông mới là người cần được Chúa Giêsu làm
phép rửa. “Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền
Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng
ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa,
thế mà Ngài lại đến với tôi!" (Mt.3,13-14).
Chúa
Giêsu không chịu phép rửa sám hối vì bản thân mình - “Ngài xuống thế mang thân
phận hoàn toàn như con người ngoại trừ tội lỗi” – nhưng, vì thân phận tội lỗi
của nhân loại mà Ngài tự nguyện gánh lấy. Ngài chịu dìm mình xuống sông Gio-đan
thay cho con người để rồi sẽ chết thay cho con người và rửa sạch tội trần gian
bằng dòng máu hiến tế của Ngài. Ngài là Đấng Cứu Thế. “Đây là Chiên Thiên Chúa,
đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga.1,29).
Tất
cả nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và chương trình cứu độ ấy được
mạc khải tỏ tường sau khi “Thiên-Chúa-làm-người” chịu trầm mình dưới sông
Gio-đan vì nhân loại.
“Khi
Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra.
Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và
có tiếng từ trời phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người." (Mt.3,16-17).
Sự
hài lòng của Thiên Chúa là vì con Thiên Chúa đã vâng phục theo thánh ý Chúa
Cha. "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt.3,17).
Chúng
ta hạnh phúc biết bao nếu một ngày nào ta gọi Thiên Chúa là Cha: “Cha ơi !”, và
được Ngài đáp lại bằng lời khen ngợi âu yếm ngọt ngào: “Con là con yêu dấu của
Ta, ta hài lòng về con”. Ước mơ ấy đòi hỏi ta đi theo con đường Chúa Giêsu Kitô.
“Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống”. (Ga.14,6).
·
Đi
trọn con đường đó, ta được Chúa Kitô thánh hiến và trở nên là đứa con đẹp lòng
Thiên Chúa. “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh
hiến” (Ga.17,18-19).
·
Đi
trọn con đường đó là con đường khiêm hạ theo Chúa Giêsu từ sự nghèo nàn cùng
cực ở Hang Đá Bê-lem đến sự nhục nhã tận cùng trên Thập Giá đồi Can-vê.
·
Đi
trọn con đường đó là con đường yêu thương phục vụ từ cúi xuống rửa chân cho các
môn đệ đến hiến mạng sống vì người mình yêu.
Không
thể đi con đường đó nếu con người không biết khiêm nhường, hạ mình, theo gương
Đấng Cứu Thế.
Nói
như cách nói của ĐHY Nguyễn Văn Thuận “Không một thánh nhân nào không có một
quá khứ, vì thế, chẳng có một tội nhân nào mà chẳng có một tương lai”. Quá khứ
để biết ăn năn, và tương lai để có niềm hy vọng. Ăn năn trong niềm tin yêu, chứ
không phải ăn năn trong sợ hãi.
“Tình
yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ
hãi gắn liền với hình phạt, và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo”
(1Ga.4,18).
Hy
vọng vào chân lý vững chắc chứ không phải hy vọng mơ hồ. “Tôi biết tôi đã tin
vào ai và xác tín rằng: Đức Kitô là vị thẩm phán chí công có đủ quyền năng bảo
toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi. Mãi cho tới ngày Ngài ngự đến” (2Tm
1,12; 4,8).
Tương
lai ấy là Thiên Đàng Hạnh Phúc, nếu chúng ta chung thủy đến cùng đối với Tình
Thương đến cùng của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
“Cho
dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loại thọ
tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. (Rm.8,38-39).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nâng đỡ con,
để con được luôn gần gũi Chúa,
để con được hồn nhiên gọi Chúa là Cha,
và được Chúa ôm vào lòng trìu mến:
“Con là con yêu dấu của Cha !”. Amen.
6.
Chúa Giêsu chịu phép rửa
(Trích từ ‘LÀM NỤ HOA
TRẮNG’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Tuần trước là lễ Ba vua cũng gọi là lễ
Hiển Linh. Một em bé đến với tôi tâm sự và cho biết: gọi là lễ Ba Vua thì em
hiểu có ba vua dâng của lễ như Phúc Âm đã tường thuật và như Hang đá thường
trình bày, nhưng gọi là Hiển Linh thì em không hiểu. Em xin giải thích cho em
hiểu “hiển linh” là gì. Tôi giải thích bằng cách cắt nghĩa chữ đơn giản: hiển
là tỏ lộ ra, linh là linh thánh (là Thiên Chúa); hiển linh là Chúa tỏ mình ra.
Em “vâng dạ”, nhưng nhìn vào mắt em tôi biết em chưa hiểu. Trên bàn tôi lúc đó
có tấm phim nhựa nhỏ và tấm ảnh màu rửa cỡ lớn. Tôi đưa tấm phim cho em xem và
hỏi em có nhìn thấy không. Em xoay ngược xoay xuôi xoay ngang xoay dọc biết
rằng có hình người nhưng chịu không nhìn rõ ai cả. Tôi đưa tiếp cho em tấm ảnh
mới rửa từ tấm phim ấy và em reo lên mừng rỡ đồng thời kể tên vanh vách những
người trong ảnh. Thấy em vui tôi cũng vui lây. Và trong niềm vui ấy tôi tiếp
tục giải thích cho em về chữ “hiển linh” một cách cụ thể. Thiên Chúa vẫn có đó
như hình vẫn có ở trong phim, nhưng ta chỉ thấy Ngài khi Ngài tự tỏ mình ra như
hình được in rõ ra trong tấm ảnh vậy. Tôi thấy mắt em cười và bước ra khỏi
phòng tôi trong tư thế nhảy chân sáo như vừa khám phá ra một điếu gì lớn lao
lắm. Tôi nhìn theo em và thầm nghĩ: có lẽ Thiên Chúa đang tỏ mình ra cho em.
Thiên
Chúa tỏ mình ra là một chủ đề lớn đã trở thành mối bận tâm cho mọi người Kitô
hữu trên đường tìm Chúa, mà em bé tôi kể ở trên chỉ là một điển hình; đồng thời
đó cũng là chủ đề xuyên suốt cả toàn bộ Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, các chiến
tích lẫy lừng, và cũng rất thường trong
những biến cố kinh thiên động địa như biến cố “Vượt Qua” với vách nước vựng
đứng mở lối cho dân Do Thái ra đi trên biển, rồi cột lửa soi sáng ban đêm và
áng mây tạo bóng mát ban ngày… Nhưng từ ngày Con Chúa làm người, Thiên Chúa lại
chỉ tỏ mình ra qua con đường tự hạ. Bài Phúc Âm hôm nay là khởi đầu cuộc đời
công khai, Chúa Giêsu tự hạ chịu phép Rửa và tỏ mình trong vinh quang Ba Ngôi
là một ví dụ rõ rệt. Nhưng Chúa Giêsu tự hạ thế nào và tỏ mình ra sao trong
suốt cuộc đời của Người? Ngày nay Chúa còn tỏ mình ra cho con người hay không?
Tự hạ.
Ngày
Giáng Sinh, Thiên Chúa đã tự bỏ trời cao bước xuống thế trần để nhận lấy kiếp
người trong Hình hài một thơ nhi bé bỏng, lại sinh ra trong cảnh thiếu thốn
nghèo hèn. Ngài là Thiên Chúa vinh quang nhưng đã để vinh quang đó lại trên
trời như lời hoan ca của các thiên thần xác định, mà chỉ ôm hai chữ “bình an”
xuống thế làm một con người bình thường giữa muôn người bình thường khác. Thiên
Chúa sinh ra mọi loài nay chịu sinh ra bởi một người phụ nữ. Thiên Chúa vô hình
nay bước xuống hữu hình, Thiên Chúa vô biên nay đón nhận mình vào những giới
hạn. Thiên Chúa giàu sang nay tự hạ làm kẻ nghèo hèn.
Khởi
đầu cuộc sống công khai, Thiên Chúa làm người ấy – Chúa Giêsu, lại tự hạ hơn
một bước nữa khi rước vào đời mình kiếp sống tội nhân đến song Giođan và xin
ông Gioan chịu phép Rửa. Người chấp nhận bầu bạn và đánh chén với những người
tội lỗi đã đành như Phúc Âm vẫn kể, Người còn chịu nhận mình là một tội nhân
xếp hàng đứng chung với những tội nhân khác để đợi tới phiên mình cuối đầu xin
ơn tha thứ. Thiên Chúa đã thánh thiện mà nhận mình là người tội lỗi, Thiên Chúa
tuyệt đối không mang tì vết mà lại cầu xin ơn tha thứ làm lại cuộc đời như một
người hư hỏng. Sự tự hạ của Chúa thật không hiểu nổi. Chưa hết, kết thúc cuộc
đời trần thế, trên đỉnh Núi Sọ cũng gọi là cao điểm tuyệt đối của sự tự hạ,
Chúa Giêsu chịu chết nhục hình giữa hai tên trộm cướp. Người bị giết như một kẻ
tử tội. Cái chết thê thảm mà ngày nay các tượng thánh giá bằng kim loại quý đeo
trên ngực hay được vẽ vời đánh bóng trong các giáo đường không diễn tả được.
Phúc Âm kể: Người chết dữ. Thiên Chúa quyền uy đã để cho người ta trói lại và
xét xử. Thiên Chúa hằng sống đã tự hạ để người ta giết chết. Ôi lạ lùng!
Tỏ mình.
Nhưng
tự hạ lạ lung đến thế để làm gì? Nếu để phô trương danh thế tiếng tâm thì chỉ
là dại dột mà kẻ dại nhất trong loài người cũng không dại dột đến thế. Sự tự hạ
của Chúa Giêsu là một phương tiện để Người tỏ mình ra:
-
Sinh
ra như một trẻ nghèo hèn giữa cánh đồng trong Hang đá Bêlem, Người tỏ mình ra
là một Thiên Chúa vinh quang, như lời hát đồng thanh của các thiên thần trong
đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời…”
-
Bước
xuống đất đen của con người cần được thanh tẩy và xếp hàng đứng chung với các
tội nhân chờ được dìm xuống trong nước, Người tỏ mình ra là Thiên Chúa thánh
thiện tuyệt đối có quyền quyết định trên trời dưới đất, như Phúc Âm mô tả: “các
tầng trời mở ra”.
-
Lãnh
nhận phép Rửa trong nước, Người tỏ mình ra là Đấng sẽ khai sinh phép Rửa trong
Thánh Thần, như hoạt cảnh Tin Mừng trình bày: “Chúa Thánh Thần ngự xuống trên
người như chim bồ câu”. Mang vào mình thân phận tội lỗi nhân loại đến tận gốc nguồn là sự phản bội của Adam,
Người tỏ mình ra là Con Chí Ái của Chúa Cha từ thuở đời đời, như tiếng từ trời
giới thiệu: “Này là con Ta yêu dấu hằng làm đẹp lòng Ta”.
-
Và
chính khi trần trụi bên dòng nước cầu ơn tha thứ, Người xuất hiện là một ngôi
vị trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa ngời sáng uy linh. Nếu có bài hát “lung linh
lung linh hai tiếng gia đình”, thì ở đây có lẽ phải hình dung là ca khúc “uy
linh uy linh gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi”. Cuối cùng, chết nhục hình như tên tử
tội bị kết án, Người tỏ mình ra là Thiên Chúa hằng sống, Đấng ban ơn cứu độ
giải xá cho hết mọi người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình.
Thiên
Chúa vinh quang tỏ mình ra cho nhân loại bằng con đường tự hạ. Cái sang của đạo
dường như ấn giấu trong bức màn tăm tối, đúng như Lão tử nhận xét về một đạo
chân chính: “Minh đạo nhược muội”. Nếu lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa
tỏ mình ra, thì ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho ta, dĩ nhiên
trong Phụng Vụ, Bí Tích và Giáo Hội, nhưng Ngài còn thích hơn khi tỏ mình ra
cho ta qua cuộc sống thường nhật, qua những biến cố, những sự kiện, qua những
con người ta gặp gỡ và qua những bổn phận âm thầm mỗi ngày. Cánh Ngài tỏ mình
ra cũng vẫn là cách tự hạ khiêm nhường nhỏ bé tối tăm và thầm lặng.
Trời
chỉ mở ra với vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa khi Chúa Giêsu vì yêu thương đứng
chung với hàng ngũ tội nhân và cầu nguyện. Muốn gặp thgấy Thiên Chúa tỏ mình,
chúng ta cũng phải liên kết với Ngài bằng sám hối cầu nguyện và bằng tinh thần
liên đới yêu thương chia sẻ cuộc sống với những người khác.
Giữa năm 1984, ở Thụy Sĩ người ta đã
phát thử thành công tivi màu với hình ảnh nổi, nghĩa là có chiều sâu của khung
cảnh và người xem dường như thấy mình đang góp mặt trong khung cảnh ấy. Nhưng
muốn thưởng thức, phải mang một gọng kính có hai tròng mắt khác màu nhau, một
xanh một đỏ và phải ngồi đúng vị trí đối diện trực tiếp với màn ảnh. Thiên Chúa
vẫn tỏ mình nổi bật trên cuộc sống từng người. Muốn gặp Ngài, hãy ngồi vào vị
trí đức tin và đeo gọng kính với hai tròng cầu
nguyện và yêu thương.
7.
Chúa Giêsu chịu phép rửa – Damiano
(Trích từ
‘Sống Lời Chúa’)
Thánh
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay mang một ý nghĩa quan trọng trong chương
trình cứu độ của Thiên Chúa, mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu như là
Đấng Messia, thời kỳ cuối cùng của chương trình cứu độ.
Có
người thắc mắc: Chúa Giêsu có tội tình gì mà phải chịu phép rửa?
-
Vì
Chúa đến gánh tội trần gian,
-
Vì
Chúa lập Bí tích rửa tội thật, phép rửa trong Chúa Thánh Thần, mà phép rửa của
Gioan chỉ là phép rửa thống hối chuẩn bị cho phép rửa này mà thôi. Phép rửa này
được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần công nhận: Trời mở ra, Chúa Thánh Thần
đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha phán: đây là Con Ta yêu dấu, Ta
hài lòng về Người.
Thánh
Grêgôriô viết: Chúa Giêsu chịu phép rửa để chôn vùi trọn vẹn con người Adam cũ
trong dòng nước.
Khi
Chúa Giêsu chịu phép rửa, tầng trời liền mở ra. Tội Adam đã đóng cửa trời lại,
nay phép rửa của Chúa Giêsu, Adam mới, là chìa khóa lại mở cửa trời ra, mở đầu
cho một giai đoạn mới.
Thánh
Gioan Tẩy Giả nói với Chúa Giêsu: Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa. Và thánh
giáo phụ Grêgôriô viết: đó là đèn nói với mặt trời, tiếng nói với Lời, phụ rể
nói với chàng Rể, người cao trọng nhất trong số người do người nữ sinh ra nói
với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ nói với Đấng được
thờ lạy từ trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai nói với Đấng vừa
xuất hiện và sẽ xuất hiện.
Chim
bồ câu xưa kia đã báo tin cho ông Noê là đại hồng thủy đã bắt đầu bị đẩy lùi,
Bồ câu hôm nay từ trời đến cũng để nói lên rằng thời kỳ hồng thủy của tội lỗi
đã bắt đầu bị đẩy lùi, đem đến niềm vui cho nhân loại. Thiên Chúa lại đến với
xác phàm để con người trong xác phàm trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ Đức
Kitô, Đấng đẹp lòng Thiên Chúa mọi đàng mà con người chúng ta có khả năng sống
đẹp lòng Thiên Chúa.
Phép
rửa của Chúa Giêsu thúc dục mọi người chúng ta tiếp tục thanh tẩy mình sạch mọi
vết nhơ tội lỗi. Việc thanh tẩy này đòi hỏi chúng ta phải hy sinh và từ bỏ rất
nhiều, như Đức Kitô phải chịu thanh tẩy trong máu sau nầy.
Cuộc
đời Kitô hữu là để hoàn thành những gì mà phép rửa tội đã mở đầu, là tiếp tục
thống hối ăn năn để thánh hóa con người chúng ta. Những đau khổ thử thách trong
cuộc sống chỉ mang bộ mặt tiêu cực đối với mọi người, nhưng đối với người Kitô
hữu lại có giá trị cứu chuộc vì nó đang giúp ta hoàn thành phép rửa của chúng
ta. Bởi lẽ khi chịu phép rửa, người Kitô hữu hứa bước theo Đức Kitô, chiến đấu
với tội lỗi, chấp nhận mọi đau thương của cuộc đời như Đức Kitô đã chấp nhận
những đau khổ của cuộc đời Ngài để thánh hóa chúng ta.
Thánh
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay mời gọi mọi người chúng ta dứt khoát với
tội lỗi, lên đường xông vào cuộc chiến với Đức Kitô, tự thánh hóa mình mỗi
ngày.
Vui
vì được giải phóng.
Trong một trại giam những người nô lệ
ở Nam Mỹ, những người da đen ban ngày thì lam lũ làm việc quần quật trên nương
mía, dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, ăn không đủ no, bị hành hạ đánh đập như
một đàn vật; ban đêm lại bị lùa vào giam trong trại như một đám tù nhân. Bổng
một đêm nọ một người trong bọn họ rỉ tai với những người chung quanh rằng một
người da đen đang tìm cách để giải thoát họ. Dấu hiệu để nhận ra người đó là
một cây Thánh Giá trên trán người ấy. Niềm hy vọng dâng trào trong tâm hồn của
tất cả mọi người; mấy đêm liền họ không sao chợp mắt được, sống trong hồi hợp
đợi chờ. Rồi giây phút đó đã đến: trong đêm khuya, một người da đen, đã đến,
lẻn vào mở cửa và giải thoát họ, dẫn họ chạy, chạy suốt đêm và cuối cùng họ đã
đến miền đất tự do. Rồi người da đen đó biến mất. Đêm hôm sau, sau một buổi
nhảy múa vì niềm vui được tự do, mọi người an giấc thì bổng một luồng ánh sáng
giữa đêm khuya làm sáng rực cả cánh rừng nơi họ đang ngủ. Mọi người choàng tỉnh
dậy, thì thấy Chúa Giêsu hiện đến với họ với cây Thánh Giá trên trán. Họ liền
nhận ra người đã đến giải thoát cho họ chính là Chúa Giêsu.
Bị
giam hãm trong cảnh nô lệ tội lỗi, chúng ta cũng đã được Chúa đến giải thoát,
nhưng ta có sẵn sàng chạy theo Chúa Giêsu đến miền đất tự do hay không? Hay ta
lại làm như một người Israel đã ra khỏi đất nô lệ Ai cập nhưng lại muốn quay
trở lại với những củ hành Ai cập xưa?
8.
Chúa Giêsu chịu phép rửa
(Trích từ http://vi.radiovaticana.va – Suy niệm
của Hà Thanh Bình)
Quý
vị và các bạn thân mến,
Để
ra mắt dân chúng nhân dịp nào đó, người ta thường phô trương uy tín và quyền
lực của họ. Nhưng Đức Giêsu thì ngược lại, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai của
mình bằng một cử chỉ không mấy oai phong: chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Ngài
chấp nhận đứng vào hàng tội nhân để đến xin ông Gioan làm phép rửa. Con Thiên
Chúa khai trương công việc của Thiên Chúa bằng một dấu chỉ khiêm tốn nhất mà
con người có thể làm được.
Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa vô tội, nhưng Ngài hoà mình vào đoàn người sám hối để
cùng chia sẻ thân phận tội nhân của anh em đồng loại. Ngài là Đấng Cứu Độ, đến
để cứu tội nhân, nhưng Ngài không tỏ ra xa cách họ, ngược lại Ngài đặt mình
ngang hàng với họ. Cùng với đoàn người xin chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng đã
đứng xếp hàng để chờ đến lượt mình. Gương mặt của một Đấng Cứu Thế dường như bị
lẫn trong đám đông. Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò Cứu Thế của Ngài bị hạ
giá; ngược lại, chính vì cùng hòa mình với tội nhân nên Ngài có thể cứu được
hết mọi người, kể cả những người thấp bé nhất.
Không
phải vì vô tình hay theo phong trào mà Đức Giêsu đã xin ông Gioan làm phép rửa
cho mình. Chính Ngài ý thức rõ việc Ngài làm: Ngài biết Ngài là ai và phép rửa
ông Gioan dành cho ai.
Ông
Gioan đã làm phép rửa để tỏ lòng sám hối. Ai đến với ông đều nhận thức rằng
mình có tội. Tuy nhiên, lãnh nhận phép rửa của Gioan người ta cũng chưa được
tha tội, bởi vì phép rửa của Gioan không phải để tha tội. Phép rửa ấy chỉ để tỏ
lòng sám hối về tội lỗi của mình. Muốn được tha tội, người ta phải cần phép rửa
của Đấng đến từ Thiên Chúa, vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Vậy mà Đức Giêsu,
Đấng đến để tha tội lại xin Gioan làm phép rửa. Đức Giêsu biết về chính mình;
và chính Gioan cũng biết Đức Giêsu – người đang xin ông làm phép rửa – là ai,
và ông nhận mình mới là người cần được Đức Giêsu làm phép rửa.
Hãy
chiêm ngắm sự giằng co giữa hai thế đứng trên dòng sông Gio-đan. Một bên là kẻ
dọn đường, bên kia là nhân vật chính. Ai trọng hơn ai? Điều khiến cả người
ngoài cuộc lẫn kẻ dọn đường phải ngạc nhiên là: nhân vật chính cúi mình xin kẻ
dọn đường làm phép rửa cho mình để tỏ lòng sám hối!
Đức
Giêsu đã sám hối thật. Ngài không có thái độ giả tạo khi bước xuống dòng sông
Gio-đan. Ngài không có tội, nhưng Ngài sám hối cho và vì tội lỗi của anh em
đồng loại. Khi dấn thân cho con người, Đức Giêsu đã để sang một bên địa vị
Thiên Chúa của Ngài. Để cứu con người, Ngài phải cùng đi với con người và cùng
san sẻ kiếp người với anh em. Thánh Phaolô đọc thấy tấm lòng của Đức Giêsu và
Ngài chia sẻ cùng các tín hữu Philipphê rằng: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Từ
nay, Ngài thiết lập một nền công chính mới. Nơi đó không còn cảnh kẻ có tội tự
khép mình trong tội lỗi, còn kẻ thấy mình trong sạch thì đứng ra tố cáo. Ngược
lại, chính Đấng hoàn toàn vô tội đang đứng ra mang lấy gánh nặng tội lỗi thay
cho anh em mình. Ngài thiết lập nền công chính mới để ai bước theo Ngài cũng
biết dấn thân cho sự công chính ấy. Nơi đó, không còn có nguyên cáo hay bị cáo
nữa, nhưng chỉ còn những con người nâng đỡ nhau trong hành trình mà ai cũng có
những yếu đuối. Yếu đuối của người này có thể là điểm mạnh của người kia, và
ngược lại. Nhờ thế, bước chân khập khiểng của người này sẽ được người kia nâng
dậy; lỗ hổng của người kia sẽ được người này bù đắp. Trong sự công chính mới,
người ta cần đến nhau để bổ túc cho nhau. Nơi đây, những người bước theo chân
Đức Giêsu sẽ học được từ thầy chí thánh của mình mẫu gương san sẻ gánh nặng và đau
khổ với anh chị em đồng loại.
Mừng
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta được mời gọi làm mới lại ân sủng của Bí
Tích Rửa Tội mà mình đã lãnh nhận. Đức Giêsu đã chịu rửa trong nước để ban cho
chúng ta ân huệ được rửa trong Thánh Thần. Ngài đã tỏ lòng sám hối từ phép rửa
trong nước, để chúng ta được tha tội nhờ phép rửa trong Thánh Thần; và hơn thế
nữa, được trở nên con người mới, được làm con Thiên Chúa với quyền thừa kế nước
của Người (x. Rm 8, 16-17). Một khi nhận ra giá trị của Bí Tích Rửa Tội, chúng
ta sẽ sống xứng đáng hơn với ơn mà Bí Tích này mang lại, như lời khuyên của
Thánh Phao-lô dành cho các tín hữu Roma: chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy,
để thuộc về Đức Kitô Giêsu... hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng
nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (Rm 6, 3.11).
Biến
cố khai mạc công trình cứu độ của Thiên Chúa được xác chuẩn bởi cuộc thần hiện
của cả Ba Ngôi. Nơi đó, chính Chúa Cha đã chứng thực cho Đức Giêsu. Vì thế,
những ai bước theo con đường của Đức Giêsu, trong phép rửa của Ngài, sẽ không
sợ lạc lối.
9.
Khai mở thời đại mới – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Thưa
qúy OBACE, Báo chí thế giới trong những ngày cuối năm 2012 đã bầu chọn 10 gương
mặt quyền lực có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2012, thì người đứng đầu
danh sách là Tổng thống Mỹ, kế đến là Thủ tướng Đức, Tổng thống Nga, Bill Gates
và kế đến là Đức Giáo Hoàng Benedicto 16. Những con người này được ghi nhận đã
có những ảnh hưởng lớn nhất trên toàn thế giới trong năm qua. Riêng đối với Đức
giáo Hoàng, Ngài không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự, cũng
không phải là người đứng đầu một quốc gia giàu có to lớn như nước Mỹ, Ngài cũng
không phải là nhà điều hành kinh tế như Bill Gates, vậy mà tiếng nói và ảnh
hưởng của Ngài vẫn lan rộng trên thế giới và góp phần xây dựng hòa bình cho thế
giới và làm thay đổi bộ mặt thế giới. Vậy thì quyền lực và sức mạnh của Đức
Giáo Hoàng đến từ đâu? Thưa quyền lực và sức mạnh ấy đến từ chính Đức Giêsu, và
sứ mạng của ngài là tiếp nối sứ mạng của chúa Giêsu là đem tình yêu thương cứu
độ và bình an đến cho toàn thế giới.
Hôm
nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa để khai mở một
thời kỳ mới, một sứ mạng mới. Nếu như với màu nhiệm Giáng Sinh, Đức Giêsu đã
đến trần gian trong âm thầm đơn sơ dưới hình hài của một em bé, và liền sau đó
là những năm sống đời ẩn dật một cách bình thường tại thôn làng Nazareth, thì
hôm nay, với biến cố chịu phép rửa tại sông Giodan, Chúa Giêsu đã chính thức,
và công khai bắt đầu sứ mạng rao Giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa cho mọi
người.
Tin
Mừng Luca hôm nay đã phân biệt rõ ràng cho chúng ta về sứ mạng của Gioan và sứ
mạng của Chúa Giêsu, cũng như phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu sau này.
Sống trong một thời kỳ khao khát Đấng Cứu Thế, thì việc xuất hiện của Gioan,
với lời giảng mạnh mẽ và cương quyết, với sự thu hút đám đông và việc làm phép
rửa, thì nhiều người đã nghĩ rằng Gioan chính là Đấng Mesia. Gioan đã không ảo
tưởng về mình, ông cũng không vượt quá giới hạn của mình, chỉ là người dọn
đường, vì thế ông đã không ngại ngần để thanh minh cho mọi người khỏi sự lầm
tưởng khi quả quyết với họ rằng: Tôi không phải là Đấng Mesia. Ông đã nói về sự
giới hạn của mình để làm nổi bật sứ mạng và sự vô hạn của Đấng đến sau ông: Tôi
rửa anh em bằng nước, nhưng có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi… sẽ rửa anh
em bằng Thánh Thần và bằng lửa. Như thế Gioan đã xác định cho thấy phép rửa của
ông không có sức mạnh tha tội, mà chỉ là một dấy hiệu bày tỏ lòng sám hối để
đón chớ một phép rửa thực sự bằng thánh Thần và bằng lửa, tức là một phép rửa
trong quyền năng và lòng yêu mến.
Giữa
đám đông như thế, Chúa Giêsu - Đấng không hề có tội, lại khiêm nhường bước
xuống dòng sông, đứng chung hàng với tội nhân và cũng xin được chịu phép rửa từ
tay Gioan. Việc làm này không chỉ diễn tả sự hạ mình thẳm sâu của Thiên Chúa,
mà còn là đánh dấu một thời đại mới, thời mà Thiên Chúa không còn ở xa, nhưng
Ngài đã bước đến để tìm kiếm con người để gánh vác tội lỗi con người. Thánh
Luca đã thuật lại: Đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự
xuống trên Người dưới hình chim bồ câu. Tác giả muốn nhấn mạnh rằng chính lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu đã khiến cho cửa trời mở ra, hình ảnh này gợi nhớ lại
ngày xưa khi Adam Eva cắt đứt mối dây liên hệ với Thiên Chúa, phá hủy các cuộc
chuyện trò với Thiên Chúa, đã làm cho cửa trời đóng lại, thì hôm nay Đức Giêsu
là Adam mới đã nối lại mối dây thân tình với thiên Chúa, qua những cuộc trò
chuyện và cầu nguyện thân mật với Thiên Chúa. Cửa trời được mở ra kể từ đây,
qua Chúa Giêsu,Thiên Chúa có thể dễ dàng đến với con người và con người cũng có
thể dễ dàng đến với Thiên Chúa.
Kể
từ biến cố này sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu đã bắt đầu, và sứ mạng
này đã được ghi dấu bởi sức mạnh và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, đó là sứ
mạng yêu thương và phục vụ, tha thứ và cứu chữa, tìm kiếm và chăm sóc cho nhân
loại chúng ta. Tiếng từ trời phán: Con là con yêu dấu của cha, cha hài lòng về
con, vừa là lời Thiên Chúa cha giới thiệu Đức Giêsu của cho toàn thể nhân loại,
vừa là lời xác định về sứ mạng mà Thiên Chúa cha đã trao phó cho Ngài mà Đức
Giêsu đã hoàn toàn vâng phục đón nhận. Chính từ sự hài lòng về sứ mạng của Chúa
Giêsu và hiến tế của Ngài mà Thiên Chúa Cha đã ban ơn cứu độ cho toàn thể nhân
loại.
Sứ
mạng của Chúa Giêsu đã mở ra một thời kì mới và có ảnh hưởng trên toàn thể thế
giới cho đến ngày tận thế, tuy nhiên để có thể tiếp nhận và sống trong thời đại
mới, thì cũng cần phải có những con người mới, thích ứng được với những đòi hỏi
mới như lời Isai đã kêu gọi: Thời nô dịch thời hủy diệt đã mãn, và hãy mở một
con đường thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi
núi đồi, để cho Thiên Chúa ngự đến. Lời kêu gọi này là một đòi hỏi canh tân đổi
mới, uốn nắn lại cuộc đời và sống cho ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và mọi
người, vì để tiếp nhận được Tin mừng của Đức Kitô, đòi mỗi người phải chấp nhận
một cuộc biến đổi, lột xác để trở nên con người mới, con người của Tin mừng, để
có thể sống trong tình yêu thương chăm sóc của vị mục tử Giêsu.
Bài
đọc hai, Thánh Phaolô đã chỉ rõ cho chúng ta phải sống con người mới của Tin
mừng như thế nào. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa
của Đức Kitô, và được tha thứ tội lỗi và được đón nhận vào nhà Thiên Chúa,
chính vì thế Thánh Phao lô mời gọi chúng ta phía từ bỏ lối sống vô luân và
những đam mê trần tục, sống chừng mực công chính và đạo đức ở trần gian này.
Thưa
quý OBACE, qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta đã được cứu chuộc, được tái sinh và
trở nên con cái Thiên Chúa, đó là một ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta.
Tuy nhiên ân phúc này sẽ chỉ sinh hiệu quả và đem lại hạnh phúc cho chúng ta
khi chúng ta tích cực cộng tác và làm cho những ơn này trổ sinh trong cuộc đời
mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phỉ sống cho xứng đáng với
vinh dự ấy, tức là phải loại trừ những gì là phàm tục tầm thường ra khỏi cách
sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta, và phải tích cực làm nhiều việc
thiện việc tốt cho mình và cho mọi người; là những người được cứu chuộc, chúng
ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi dục vọng và tật
xấu, vì Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài giúp ta chiến đấu
và chiến thắng trước những ràng buộc lôi kéo đó, hãy dựa vào sức mạnh của Thánh
Thần để chống trả lại những tấn công của ma quỷ và cám dỗ.
Mừng
lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho mỗi người nhớ đến sứ mạng của mình
trong đời sống thường ngày, là những bậc cha mẹ, chúng ta cũng cần tẩy rửa
chính bản thân mình khỏi những đam mê như rượu che cờ bạc, cá độ, lô đề… nó
đang bôi bẩn hạnh phúc và sự bình an của gia đình, thanh tẩy khỏi gia đình mình
khỏi sự gian dối, chửi bới cãi vã, mà thay vào đó là sự quan tâm thông cảm chia
sẻ với nhau nhiều hơn, và mỗi người hãy góp phần làm cho gia đình nên ấm cúng
thuận hòa, cùng nhau vun đắp cho hạnh phúc gia đình mình bằng những giờ kinh
những giờ cầu nguyện sớm tối, sống như thế là chúng ta đang chung tay đổi mới
gia đình và con cái nên những con người được Thiên Chúa yêu thương và cứu
chuộc.
Ngày
lễ này cũng nhắc cho các bạn trẻ nhớ rằng mỗi người chúng ta đã lãnh nhận Bí
tích Rửa tội và thuộc về Đức Kitô, vì thế chúng ta không thể để mình thuộc về
hay là rơi vào tay của ma quỷ và sự xấu, nhưng đòi mỗi người phải dám sống cho
xứng đáng là một người Kitô hữu trong xã hội hôm nay, tự hào vì mang danh là
Kitô hữu. Vì đã thuộc về Đức Kitô, nên chúng ta cũng phải thi hành sứ mạng mà
Chúa trao phó cho mỗi người, tùy theo hòan cảnh môi trường sống của mình, sứ
mạng ấy là tiếp tục đem tình yêu thương đến cho thế giới, cùng nhau xây dựng
một môi trường sống tốt đẹp hòa bình, cùng nhau làm cho tinh thần của Tin Mừng
lan tỏa trong xã hội hôm nay, nơi nhà trường, nơi xí nghiệp, nơi gia đình của
mỗi người.
Khi
mỗi người chúng ta cố gắng sống với một quyết tâm đổi mới bản thân, gia đình và
xã hội, hoàn thành tốt sứ mạng Chúa đang trao phó, thì Nước Trời cũng sẽ mở ra
cho chúng ta và cho mọi người và chính Thiên Chúa cũng sẽ nọi với ta rằng: Con
là con yêu dấu của ta, ta hài lòng về con. Amen
10.
Điểm hẹn bất ngờ – ĐGM Vũ Duy Thống
(VỚI CẢ TÂM
TÌNH – Trg. 37)
Gần
nhà thờ Đức Bà là cả một quần thể panô, người ta dựng lên để quảng cáo cho
những phim ảnh đang được trình chiếu tại các rạp trong thành phố. Dù muốn hay
không muốn, mỗi lần đi qua, những tựa phim cứ trải ra như tấm thực đơn thơm nức
mời mọc, đến nỗi một người bạn thấy thế có lần đã thốt lên câu đùa: “Nếu chịu
khó xem hết những panô quảng cáo này, người ta có thể trở thành nhà điểm phim
nghiệp dư đấy”. Ừ nhỉ! Không xem phim thì xem tựa phim, biết đâu lại chẳng là
một cái thú?
Mấy
tuần lễ gần đây, thử để ý, đã thấy xuất hiện một cuốn phim mới tựa đề “Điểm hẹn
bất ngờ”. Chẳng biết nội dung thế nào, nhưng tựa phim ấy đã âm thầm đi vào bộ
nhớ, để rồi chợt lóe lên khi tiếp cận với trang Tin Mừng hôm nay, đến nỗi cũng
muốn gọi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa như là một điểm hẹn bất ngờ.
1) Điểm hẹn bất ngờ giữa Gioan Tẩy Giả
và Chúa Giêsu.
Phúc
Âm Nhất Lãm đưa ra ba bản văn song song rất giống nhau về việc Chúa Giêsu chịu
phép Rửa, nhưng riêng bản văn của Matthêu mới có mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan
Tẩy Giả và Chúa Giêsu như được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay. Và chính mẩu
đối thoại tưởng như trầm chìm ấy lại là một bất ngờ lý thú làm nên điểm hẹn cho
phép Rửa nơi sông Giođan.
Khi
giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố rằng mình chỉ là
tiếng kêu bên ngoài, còn Đức Giêsu mới là Lời làm nên ý nghĩa; mình chỉ là cát
hoang trải dài sa mạc, còn Đức Giêsu mới là Nẻo Đường thênh thang đi tới; mình
dẫu đến trước nhưng lại có sau, còn Đức Giêsu dẫu đến sau nhưng hằng có trước;
và mình chỉ rửa trong nước, còn Đức Giêsu mới là Đấng sẽ rửa chính thức trong
Thánh Thần. Ông tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng Cứu Thế. Ấy thế mà,
bất ngờ thay, chính Đức Giêsu lại đến với Gioan Tẩy Giả nằng nặc đòi ông làm
phép Rửa cho mình: chủ sự bước xuống làm thụ nhân, còn thụ nhân lại miễn cưỡng
đóng vai chủ sự.
Điều
bất ngờ là điều người ta không chờ đợi. Ở đây còn mạnh nghĩa hơn, bởi điều đó
Gioan Tẩy Giả không hề nghĩ tới nên dám đâu đợi chờ. Và vì thế, bất ngờ lại
càng bất ngờ hơn. Nhưng chính điều bất ngờ ấy đã thành điểm hẹn giao ca thế hệ
giữa Cựu Ước mà Gioan Tẩy Giả là đại biểu kết thúc với Tân Ước mà Đức Giêsu là
Đấng khởi đầu.
Đồng
thời, đó cũng là điểm hẹn gặp gỡ bất ngờ trong việc “chu toàn thánh ý Chúa”. Nơi Đức Giêsu, đó là việc Người sống lấy
thái độ công chính của Israel, nhưng lại đưa sự công chính ấy tới đỉnh cao hoàn
thiện, cũng như khi chịu phép Rửa bởi nước, Người đã thánh hóa chính nguồn nước
tái sinh. Còn nơi Gioan Tẩy Giả, đó là việc ông đổ nước cho Đức Giêsu, một vinh
dự đến bất ngờ, nhưng cũng chính vào giờ phút ấy, ông cảm nhận rất rõ rằng sứ
vụ của mình tới đây đã mãn: “Người phải
lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Hình như ông đã sẵn sàng để chịu một phép
Rửa khác, cũng là điểm hẹn bất ngờ cho ông: đó là kiếp ngục tù.
2) Điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ
đau khổ và Người Con chí ái.
Nếu
bên ngoài, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa đã là một điểm hẹn cho Gioan Tẩy Giả
gặp gỡ Đấng Cứu Thế, thì đi sâu vào chính mầu nhiệm, đó còn là điểm hẹn bất ngờ
giữa người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã ghi lại trong bài ca thứ nhất (bài đọc
thứ nhất) và Người Con chí ái của Chúa Cha mà phần sau trích đoạn Tin Mừng đã
nêu lên, làm thành một lễ Hiển Linh mới cho tất cả những ai cần được cứu độ.
Khi
bước xuống dòng sông phép Rửa, Đức Giêsu tỏ mình ra không chỉ là Đấng đã đến
sống giữa con người, mà còn là Đấng sống cho con người bằng cách đón nhận vào
mình đời sống thực thụ của họ, để trọn vẹn liên đới với họ mọi mặt, kể cả mặt
yếu đuối tăm tối đớn hèn nhất là thân phận tội nhân. Người là tôi tớ của Giavê
đã tự nguyện gánh tội trần gian, đã tự hạ chịu hết mọi nỗi đau của toàn thể dân
mình, và mặc dầu chẳng vướng tội nhơ, Người đã nhẫn nhục cúi xuống lãnh nhận
phép Rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới đến cùng với mọi tội nhân.
Nhưng
bất ngờ làm sao, chính khi bước lên từ dòng sông phép Rửa ấy, Đức Giêsu lại tỏ
mình ra trong một quang cảnh hoàn toàn khác lạ, làm thành đỉnh cao của toàn thể
mầu nhiệm Hiển Linh: Người được tiếng từ trời xác nhận là Con chí ái và được
Thánh Thần tấn phong làm Đấng quy tụ tất cả nhân loại về một đầu mối cứu độ. Đất bỗng gặp Trời, Người
Tôi Tớ đau khổ bỗng hóa nên Người Con chí ái, và Người tự hạ xóa mình ra không
lại bất ngờ nên Đấng vừa làm đẹp lòng Cha, vừa làm thỏa lòng mong ước của bao
thuở đợi chờ.
Và
như thế, dòng sông phép Rửa đã nên điểm
hẹn bất ngờ để Chúa Giêsu tỏ mình cho nhân loại: Người vốn là Con chí ái
của Chúa Cha, nhưng đã tự hạ làm người Tôi Tớ, và khi đi đến cùng trong đau
khổ, Người là Đấng thuộc về Trời cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
3) Điểm hẹn bất ngờ giữa đời làm người
và đời làm con Chúa.
Điểm
hẹn bất ngờ nơi sông Giođan, đối với Chúa Giêsu, đã như một dự báo về công cuộc
Tử Nạn và Phục Sinh, để từ đó mở ra những điểm hẹn mới cho tất cả những ai đã
lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Được
trở nên chi thể Chúa Kitô, được thông phần sự sống thiên linh và được trở nên
con Thiên Chúa: đó là thiên chức của đời tín hữu. Nhưng thiên chức ấy không
miễn chuẩn cho họ khỏi phải chu toàn những trách vụ trong đời sống trần thế mà
họ là thành phần. Do đó, đời tín hữu chính là một điểm hẹn bất ngờ giữa cuộc
sống đời và cuộc sống đạo, giữa phận làm con người và phận làm con Chúa, giữa
sự sống nhân linh và sự sống thiên linh. Vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao
chu toàn được cả hai mặt sống trong cùng một cuộc đời, làm sao cho mặt ân sủng không
bị nhận chìm vì nhu cầu cơm áo, và làm sao cho mặt đời thường được nâng lên
ngang tầm với sức mạnh của thánh ân?
Sẽ
là một điểm hẹn đáng buồn nếu như hai mặt sống không có sự đồng bộ, sẽ là một
điểm hẹn đáng trách nếu đạo đời vẫn tiếp tục ly thân; nhưng sẽ là một điểm hẹn
của niềm vui nếu như đời tín hữu là một đời biết chu toàn thánh ý Chúa, cho dẫu
nhiều khi vì thánh ý mà phải chấp nhận một số thiệt thòi nào đó trong đời.
Và
bởi vì việc Chúa chịu phép Rửa là một bất ngờ về tình liên đới, nên giới luật
yêu thương với những hành động cụ thể cũng là một điểm hẹn đem lại những hiệu
quả bất ngờ nhất cho những kẻ sống tinh thần của con Chúa trong phận kiếp của
con người. Biết liên đới là biết dẹp bỏ mọi hàng rào cản lối yêu thương, và
sống liên đới cũng có nghĩa là không mệt mỏi vượt qua những ranh giới vị kỷ của
bản thân mình, để không chỉ đón nhận người khác mà còn quan tâm thăng tiến họ
nữa.
Hôm
nay Phụng Vụ khép lại Mùa Giáng Sinh, đồng thời mở ra Mùa Thường Niên. Không
còn nữa những tưng bừng bên ngoài, nhưng vẫn có đó một sâu lắng niềm vui. Bởi
cuộc đời Chúa Kitô là điểm hẹn giữa thiên tính và nhân tính để bất ngờ mở ra
mùa cứu độ, cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng muốn là điểm hẹn giữa ơn thánh Chúa và
nỗ lực con người để xin được vươn tới những bất ngờ hạnh phúc.
11.
Chúa Giêsu chịu phép rửa
Hôm
nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, đánh dấu sự
xuất hiện công khai và bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa của
Ngài. Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài xuống thế làm người
để cứu chuộc nhân loại và là Đấng hoàn toàn vô tội, nghĩa là không vướng một
khuyết điểm hay một tội lỗi nào. Ngài bị cám dỗ nhưng không bị sa ngã. Vậy mà
trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu lại đến với Gioan để xin
lãnh nhận phép rửa. Theo suy luận bình thường, thì Ngài đâu phải lãnh phép rửa
của Gioan, vì phép rửa là một dấu hiệu sám hối chỉ dành cho kẻ có tội. Có tội
mới cần sám hối, có nhơ bẩn mới cần tẩy rửa, và chính Gioan Tẩy Giả cũng đã
thắc mắc điều này. Nhưng ở đây, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan mang
một ý nghĩa đặc biệt. Cá nhân Ngài hoàn toàn vô tội nhưng Ngài mang một sứ mạng
là gánh tội trần gian và chịu chết để đền tội cho nhân loại. Nếu Ngài chịu chết
để đền tội thay cho toàn thể nhân loại chứ không phải cho riêng Ngài thì cũng
vậy, Ngài lãnh nhận phép rửa của Gioan là để lòng sám hối cho cả nhân loại chứ
không phải cho bản thân Ngài, vì Ngài luôn luôn và mãi mãi là Đấng hoàn toàn vô
tội.
Nếu
khởi đầu cho mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang
một thân xác yếu hèn, thì khởi đầu cho một sứ mạng công khai Ngài chấp nhận cho
một thân phận tội lỗi, thân phận của người tôi tớ mà đã được ngôn sứ Isaia diễn
tả trong bài đọc I: “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn”.
Và đó cũng chính là thân phận của người Con yêu dấu mà Chúa Cha hài lòng về
Người. Thánh Giám mục Maximo đã nói: “Nếu Ngài giáng sinh, Ngài sinh ra làm
Người từ một trinh nữ thì hôm nay, Ngài sinh ra trong bí tích của mầu nhiệm Ba
Ngôi Thiên Chúa”. Khi tầng trời được mở ra với sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần
qua hình ảnh chim bồ câu và tiếng nói của Chúa Cha. Chúa Giêsu đến sông Giođan
và Ngài muốn thanh tẩy trong giòng nước không phải để giòng nước thánh hóa
Ngài, nhưng để Ngài thánh hóa giòng nước. Và từ đây, giòng nước mang một ý
nghĩa thanh tẩy mới trong bí tích rửa tội của Gioan. Khi Ngài bị dìm xuống thì
chúng ta được cứu vớt, nhưng khi Ngài bị treo lên chúng ta được giải thoát và
khi Ngài chịu chết thì chúng ta được cứu sống.
Việc
Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc chúng ta xác tín hơn vào mầu nhiệm nhập
thể làm người của Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô đang ở giữa chúng ta, một
Thiên Chúa đã kết thân với con người và gần gũi với nhân loại. Tầng trời bị che
lấp bởi tội lỗi nay được mở ra với Đấng Cứu Thế để Thánh Thần Chúa ngự xuống
trên Đấng mà Chúa Cha yêu thương và gọi là “Con Yêu Dấu”. Chính biến cố này còn
nhắc nhở chúng ta về ơn phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta được
tái sinh để trở nên người mới, nghĩa là chúng ta đã thực sự trở nên con cái của
Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ mà
là người nhà của Thiên Chúa. Vì chính qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được
tháp nhập làm chi thể mà Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta còn được tham dự vào các
chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giêsu. Những gì Chúa Giêsu đã sống
như là “Con Yêu Dấu” duy nhất của Chúa Cha thì tất cả loài người chúng ta cũng
đang được mời gọi như thế để sống đúng với con cái của Thiên Chúa.
Xin
cho mỗi người chúng ta luôn luôn sống vững mạnh với đức tin để chúng ta mãi mãi
là con yêu dấu của Thiên Chúa.
12.
Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Một
biến cố quan trọng, một lời tuyên bố chính thức từ trời cao đóng ấn vào công
cuộc cứu thế của Ngôi Lời đã xảy ra trong hoang địa vắng vẻ, qua sự khiêm
nhường và hạ mình của hai người trong cuộc là Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu. Đang
lúc toàn dân nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, thì Gioan xuất hiện rao giảng thanh
tẩy thống hối để được tha thứ tội lỗi. Nhìn vào đời sống thánh thiện và khổ
hạnh của Gioan, dân chúng đã lầm tưởng ông là Đấng Mêsia, nên đã vội tuôn đến
với ông. Để tránh sự ngộ nhận đó, ông đã vội vàng cải chính: “Sẽ đến sau tôi,
Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi giây giầy Ngài”.
Thế
nhưng khi Chúa Cứu thế Giáng sinh ở Belem thì chẳng có ai nhận ra Ngài, ngoại
trừ các mục đồng và các đạo sĩ.
Các
sách Tin Mừng không nói nhiều về thời niên thiếu của Chúa Giêsu tại Nazarét.
Điều đó cho thấy quãng thời gian 30 năm ẩn dật của Chúa vẫn là thời gian bị
quên lãng. Nhưng rồi một ngày kia, Ngài xuất hiện công khai ở bờ sông Giodan,
nơi Gioan đang làm phép rửa, lúc đó Ngài đã 30 tuổi.
Chúa
đến với Gioan và xin ông làm phép rửa cho mình. Được ơn soi sáng. Gioan biết
mình đang đứng trước mặt Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, nên ông đã từ
chối: “Chính tôi cần được Ngài thanh tẩy cho, thế mà Ngài lại đến với tôi”.
Nhưng Chúa Giêsu đã thuyết phục Gioan hãy làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi Chúa
Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa lấy hình bồ câu đậu
xuống trên Ngài, và có tiếng tự trời: “Con là Con chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng
mộ”.
Phép
rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận đã khai mào cho sứ vụ và con đường cứu thế của
Ngài: con đường của người tôi tớ đau khổ. Mỗi kitô hữu chúng ta cũng đã lãnh
nhận phép rửa trong Chúa Thánh Thần, nhờ đó chúng ta trở nên con cái Thiên
Chúa. Phép rửa đó đã biến chúng ta thành một tạo vật mới, và chính cuộc sống
mới này đòi hỏi chúng ta phải đi vào con đường của Chúa Giêsu: trở thành tôi tớ
của Thiên Chúa, đồng thời trở thành tôi tớ mọi người, hiến thân phục vụ vì hạnh
phúc của mọi người.
13.
Phép rửa tội của ta có làm ta thắc mắc không?
(Trích từ ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chúa
Giêsu ‘đến xin Gioan làm phép rửa’. Điều này có thể làm ta ngạc nhiên. Gioan
Tẩy Giả là người đầu tiên phản đối. Con người đâu có thể thánh hóa Đấng Thánh!
Nhưng Chúa Giêsu bảo cứ việc làm như Người xin, vì cần phải hoàn thành sự công chính. Sự công chính
nào đây? Là sự công chính của Người Tôi Tớ muốn vâng lời. Đức Kitô đã vâng lời,
đã chọn vâng lời. Ý nghĩa của phép rửa bởi Gioan là đưa loài người đến chỗ vâng
phục Thiên Chúa. Đức Giêsu đi vào con đường ấy, nhưng khác với ta ở chỗ tư cách
của Người là tư cách Người Con có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mình, và làm
vui lòng Chúa Cha hoàn toàn. Việc Người xin chịu phép rửa có mục đích dẫn đưa
vâng lời đến chỗ hoàn hảo, bằng cách biến nó thành niềm tuân phục của con thảo.
Hành vi khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa chứa đựng mầm mống tất cả những
lời nói, việc làm sẽ được phát triển về sau, trong mầu nhiệm Đức Kitô. Thử nêu
lên hai câu hỏi:
1) Chúng ta có nghĩ tới việc rửa tội
của ta như một biến cố sơ khởi cần phải phát triển trong suốt cuộc đời không?
Đa
số chúng ta đã được rửa tội lúc mới sinh ra. Sau đó chúng ta hấp thụ một nền
giáo dục tôn giáo. Có lẽ ta trung thành giữ đạo vì thói quen hơn là vì chọn lựa
ý thức, sáng suốt, tự do –sự chọn lựa mà đức tin đòi hỏi. Câu chuyện Chúa Giêsu
chịu phép rửa phải làm cho ta suy nghĩ về giá trị chân thực của đời sống Kitô
hữu của mình. Chẳng hạn, ta có thể dựa vào các bản văn và lời kinh trong nghi
thức rửa tội, để tự đặt ra cho mình một số câu hỏi. Có bao giờ, nhân dịp nghi
lễ rửa tội một em bé, ta tự nhủ: điều mà chúng ta đang tham dự đó, một ngày xa
xưa đã xảy đến với ta và đã hướng ta vào một cuộc sống hiện tại hay không? Một
số đề tài trong nghi thức rửa tội có thể làm đầu đề cho ta suy nghĩ như từ bỏ
tội lỗi, ma quỷ, sự dữ; kết hợp với Đức Kitô; với Giáo Hội và Thánh Thể của
Người; sống như con thảo với Chúa và như anh em với mọi người; thờ phượng Chúa
trên hết; tinh thần trách nhiệm thiêng liêng trong Giáo Hội và trong đại gia
đình nhân loại v.v…
2) Phép Rửa trong nước và Thánh Thần
hướng ta về phép Rửa Tội quyết định nào?
Lâu
lắm sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: “Có một phép rửa ta
cần phải nhận, và ta khắc khoải biết bao cho nó thành sự thực” (Lc 12,50). Chúa
Giêsu nghĩ tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống
vâng lời mà Người đã chọn lựa. Chúng tôi không nói người Kitô hữu phải hoàn thành
ơn Thánh Tẩy của mình trong khắc khoải. Trái lại mới đúng. Nhưng họ phải luôn
luôn tự hỏi: Mình có thực hiện thánh ý Chúa Cha, ngày lại ngày, trong suốt cuộc
đời không? Ý Chúa Cha đòi buộc họ đi vào trong sự hiệp thông với đức tuân phục
của Chúa Giêsu Kitô bằng cách này hay cách khác và do đó buộc họ phải chết để
phục sinh. Bí tích Thánh Thể chúng ta đã chịu, hướng ta về phép rửa, quyết định
được diễn tả qua tiếng ‘thưa vâng’ đối với Chúa; qua tiếng ‘thưa vâng’ cuối
cùng, vào thời giờ một mình Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch
của ta trước kế hoạch yêu đương do Chúa đề nghị với ta.
14.
Giúp đỡ Đức Kitô
Ngôi thánh đường trong làng được xây
cất sắp hoàn thành, chỉ còn việc gắn cây Thánh Giá lên đỉnh tháp chuông. Thế
nhưng giàn ráo lại không lên tới nơi. Một thanh niên khỏe mạnh và cao tới 1m8
tình nguyện kiệu người thợ hàn trên đôi vai của mình. Mọi người đứng dưới sân
nín thở theo dõi. Sau cùng, công việc cũng đã kết thúc, cả hai đều leo xuống.
Nhưng khi vừa đặt chân tới đất, chàng thanh niên lực lưỡng bị ngất xỉu, bởi vì
hai tay và vai anh đều bị phỏng. Tại sao vậy? Bởi vì khi người thợ hàn cây
thánh giá, chì sôi từng giọt rớt xuống trên vai anh. Mặc dầu rất đau đớn, nhưng
anh không dám cử động, bởi vì bất kỳ một cử động nào trong hoàn cảnh như thế sẽ
có nguy cơ làm cho anh thợ hàn rơi xuống. Phải mất mấy tuần lễ những vết phỏng
mới chữa lành.
Từ
câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta nhận
thấy một người còn nhiệt tình và can đảm hơn thế nữa. Đó là Gioan
Tiền Hô. Ông đã chịu đau khổ: Mặc áo nhặm, ăn châu chấu và mật ong
rừng. Ông đã chấp nhận bị chỉ trích và bị bắt bớ, cuối cùng chính ông đã hy
sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Ông là một sứ giả, một tiền hô được
sai đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu thế. Sứ mạng của ông là là loan báo cho
mọi người được biết Đức Kitô chính là Đấng Cứu Thế, được mong đợi từ hàng ngàn
năm về trước. Ông đã nâng cao Đức Kitô lên để Ngài có thể cứu chuộc chúng ta
bằng cây thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng được mời gọi để làm một
công việc như thế. Đoạn Tin Mừng còn cho thấy: Đức Kitô đã khởi đầu cuộc sống
công khai của mình bằng cách chịu phép rửa của Gioan. Dĩ nhiên phép rửa của
Gioan không phải là một bí tích mà chỉ là một nghi thức sám hối, để đánh dấu sự
chỗi dậy quay trở về cùng Chúa. Sở dĩ Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan
là vì Ngài muốn đồng hóa mình với thân phận tội nhân. Ngoài ra, cũng nhờ đó,
Ngài thánh hóa nước để dùng trong bí tich Thánh Tẩy sau này.
Chính
vì thế, biến cố ngày hôm nay còn nhắc nhở cho chúng ta về bí tích rửa tội mà
chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Đức Kitô, loan
báo cho mọi người nhận biết Ngài chính là Đấng Cứu thế, đồng thời tiếp tay với
Ngài trong công cuộc cứu độ trần gian bằng mầu nhiệm thập giá.
-
Là
những người cha và những người mẹ, chúng ta hãy nói cho con cái chúng ta những
điều Đức Kitô đã nói va đã làm. Như thế, chúng ta cũng đang loan truyền Đức
Kitô cho con cái chúng ta vậy.
-
Là
người giáo dân, chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Phúc âm, và như thế
chúng ta cũng đang giúp đỡ Đức Kitô rồi đó.
Ngoài
ra chúng ta còn có thể cộng tác và chia sẻ công việc với Ngài bằng cách dạy
giáo lý, cầu nguyện và hy sinh cho việc truyền giáo, bố thí và giúp đỡ những kẻ
nghèo đói và bất hạnh. Mỗi việc chúng ta làm nhân danh Kitô hữu là chúng ta
cộng tác với Ngài để đem sức sống và sức mạnh của Ngài cho nhân loại. Cần phải
có những Gioan Tiền hô để dọn đường Chúa đến. Cần phải có những người như anh
thanh niên sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ, để cộng tác với Ngài trong chương trình
cứu độ.
Nói
tóm lại, mỗi người chúng ta cần phải biết chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc
đời, để rồi trong ngày sau hết, chính Chúa Cha sẽ tuyên phong chúng ta, như
ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giocđan: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
15.
Chúa Giêsu đi vào hoạt động – André Sève
“Khi ấy Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống
công khai và đến với Gioan để được chịu phép rửa”. Bước đầu này quan trọng hơn phép
rửa, Matthêu làm cho chúng ta cảm thấy điều này bằng cách đánh dấu sự dồn dập
khác thường trong lối viết của mình: “Ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong,
Ngài lên khỏi nước và các tầng trời mở ra”.
Chúng
ta đang tham dự vào “thần khải”, tức sự mạc khải các mầu nhiệm của Chúa. Miêu
tả những điều tương tự khó đến nỗi thánh sử chỉ có thể sử dụng văn phong “thiên
cảm”. Chúng ta nên tiếp nhận, không quá cụ thể nó nhưng cũng không biến nó
thành sự tưởng tượng đơn thuần. Ngày ấy trên bờ sông Giócđan đã xảy ra việc lên
ngôi của Đấng Cứu Thế và sự mạc khải về nhân tính của Ngài.
Lúc
Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thiên Chúa phá vỡ sự im lặng đã có từ lâu, tiếng của
Chúa Cha công bố một điều gây kinh ngạc. Nhưng trước đó Thánh Thần phải can
thiệp vào những lần sáng tạo và những lần xức dầu, Đấng bay là là trên mặt nước
trong Sáng thế ký, Đấng làm cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng Mẹ Maria và là
Đấng phải tác động mạnh đến Ngài để làm cho Ngài thành Đấng Cứu Thế hằng được
đợi trông (Is 11,1-9).
Đây
là lúc: “Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài”. Ngài long trọng
nhậm chức cứu thế: Ngài là Đấng được xức dầu (Đấng Cứu Thế trong tiếng Do thái
và Kitô trong tiếng Hy lạp có nghĩa là được xức dầu). Giêsu Nadaret là Đấng
Israel trông mong, toàn bộ Lịch sử thánh từ từ tiến tới lúc Thánh Thần tác động
trên Giêsu để rồi giao cho Ngài sứ mạng của Đấng được xức dầu.
Đó
là điều đã được chờ đợi. Điều bất ngờ cũng đến từ trời, tức là Thiên Chúa: “Có
tiếng từ trời phán bảo: Đây là Con yêu dấu của Ta”.
Đấng
Cứu Thế là Con Thiên Chúa! Sau biết bao thế kỷ chờ đợi, người Do thái vẫn từ
chối mạc khải này. Họ vẫn còn chờ đơi Đấng Cứu Thế, và đây là sự hiểu lầm to
lớn nhất trong lịch sử. Giêsu-Đấng Cứu Thế, Giêsu- Kitô đã làm họ lạc hướng do
những vẻ bề ngoài thực sự quá đơn sơ: “Đấng Cứu Thế là con của bác thợ mộc!”.
Nhưng đồng thời Ngài làm họ ghê tởm do ý định mà họ đoán được: “Một người phàm
làm ra vẻ là Con của Thiên Chúa, thật là phạm thượng!”
Chúng
ta đừng vội nghĩ rằng giờ đây tất cả đối với chúng ta đều đơn giản. Mỗi tình
tiết của Phúc Âm và thậm chí mỗi từ trong đó đều là những giai đoạn của một
bước đầu rèn luyện rất khó khăn của chúng ta: hiểu cho được sứ mạng của Chúa
Giêsu-Đấng Cứu Thế và bản thể Con Thiên Chúa của Ngài, cho đến khi chính chúng
ta sống và làm cho thế giới sống cái sứ mạng đó.
Matthêu,
Matcô và Luca đều bắt đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu bằng biến cố lớn
lao đi vào hoạt động này, trời mở ra, Thánh Thần hiện xuống và lời tuyên bố của
Chúa Cha, để chúng ta đọc toàn bộ Phúc Âm dưới hai ánh sáng. Đó là ánh sáng Cứu
thế: “Ngài thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài” và ánh sáng Ba Ngôi: “Đây là
Con Ta yêu dấu”.
Tất
cả đều được nói lên bằng rất ít lời nhưng sự suy niệm của chúng ta phải tạo cho
chúng một ánh sáng mà chúng ta sẽ không bao giờ ngưng thấy nơi Giêsu Đấng Cứu
Thế-Con Thiên Chúa.
16.
Sống trọn ơn gọi làm người – R. Veritas
(Trích từ
‘Sống Tin Mừng’)
Một
hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số
những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ
nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải
đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội
cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích
và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng
nghĩa chối bỏ mọi cam kết khi chịu Phép Rửa Tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn
được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới.
Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ
còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói
rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu
khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo.
Lần thứ hai để cử hành Hôn Phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành
tang lễ cho long trọng.
Khi
Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả
thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của
phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các
Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với
lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu
Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những
nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu
như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đám đông chật ních
trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ,
hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết
đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con
người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là
quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng
ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời
cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện
đích thực của lòng tin.
Khi
đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong
dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể,
Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua
cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài
đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống
như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu
thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa
Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống
trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu
đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được
mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống.
Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao
cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống
cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu
thương.
Thập
giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của
Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu
Thánh Giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta
treo Thánh Giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh
Giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta,
mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí
ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy
chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam,
những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay
nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin,
thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin Mừng.
17.
Lời chứng của Gioan
(Trích từ ‘Cùng Nhau
Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có
ai đó đã nói rằng: "Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng
tối". Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel
đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để
giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến
để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính bản thân của từng người khỏi
kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện.
Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu
cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là
hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao
ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì:
"cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt
đi". Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn
lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa
trầm luân muôn đời.
Lời
rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta
thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa
có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng
quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến
hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi
cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng
sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những
lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn
làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa
trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang
nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan
đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội
gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng
lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây giầy cho
Người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết,
chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà
bản thân ông phải nhỏ bé đi để Người được lớn lên trong ông. Tức thì ông nghe
một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của
Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. "Ađam - Ađam ngươi đang ở đâu?".
Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời.
Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: "Đây là con Ta yêu
qúy, hãy nghe lời Người".
Kính
thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em
Ngày
chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của
Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp
lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian
năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về
cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để
buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi,
trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời
Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con
Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm
nay.
Thế
giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn
sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí
công.
Thế
giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin
mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình.
Thế
giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân,
ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh
dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn
biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.
18.
Tiếng Chúa
Tục ngữ Việt Nam có câu:
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Với câu tục ngữ trên, người xưa muốn
bảo chúng ta rằng: qua giọng nói của người đối diện, chúng ta có thể đoán biết
được phần nào tính tình của họ.
Cho dù nghe giọng noi mà bắt hình
dong, nếu không được đúng trăm phần trăm, thì ít nữa cũng biết được rằng: lời
nói là một kho tàng cao quí nhất của con người.
Đúng
thế, lời nói là một phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta chia sẻ những ý
nghĩ, những ước muốn, nhờ đó mà hiểu biết nhau hơn và xích lại gần nhau hơn. Vì
thế, người xưa cũng đã khuyên:
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Và
chúng ta cũng có thể xác quyết:
Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng
nói.
Nhờ
lời nói, chúng ta có thể diễn đạt được bản thân chúng ta cho người khác. Nhờ
lời nói, chúng ta có thể bày tỏ cho người khác những ước vọng mình đang theo
đuổi. Nhờ lời nói chúng ta không phải chỉ đạt tới những điều mình muốn diễn tả,
mà hơn thế nữa còn đi vào con đường tương giao mật thiết, tạo được sự cảm thông
với những người chung quanh.
Dù
khoảng cách giữa người nói và kẻ nghe có là một đại dương bao la chang nữa, thì
người nói vẫn cảm thấy mình đang hiện diện một cách mật thiết với kẻ nghe. Bằng
cách thức ấy, Thiên Chúa cũng đã nói với mỗi người và với mọi người chúng ta.
Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra
và từ trời có tiếng phán:
-
Này
là con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Trong
Cựu ước, chúng ta thấy có lần tiên tri Samuel cũng đã khao khát được nghe tiếng
Chúa:
-
Lạy
Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe.
Còn
chúng ta thì sao? Có lẽ đôi lúc chúng ta cũng đã nhủ thầm:
-
Nếu
Chúa thực sự hiện diện, thì xin hãy nói với con. Nếu Chúa thực sự yêu thương,
thì xin hãy xuống khỏi trời cao để nhìn xem những gì đang xảy ra trong cõi nhân
sinh.
Qua
biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Giócđan, một nhịp cầu cảm thông nối liền trời
với đất được được thiết lập: Trời mở ra và tiếng nói của Thiên Chúa đã vang
vọng đến tai con người:
-
Các
ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Thánh
Phaolô trong bức thư gửi tín hữu Do Thái cũng đã xác quyết:
-
Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên
tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con Một
Ngài.
Như
thế, toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu đã trở thành một lời tâm sự, giãi bày tình yêu
thương của Thiên Chúa đối với con người. Chỉ với tiếng nói của Người Con yêu
dấu ấy, chúng ta mới thấy được dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Đồng thời,
nhờ bí tích Rửa tội, người Kitô hữu cũng đã lãnh nhận một sứ mệnh, đó là trở
thành tiếng nói của Thiên Chúa vang lên cho người khác, bởi vì trong cuộc sống
của mình, người Kitô hữu có bổn phận phải giới thiệu, phải trình bày khuôn mặt
đích thực của Thiên Chúa.
Nếu
trời đã mở ra cho tiếng nói của Thiên Chúa được vang vọng đến con người khi
Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì cũng vậy, qua bí tích Rửa tội, người
Kitô hữu có bổn phận tiếp tục làm thế nào cho tiếng nói ấy được mọi người lắng
nghe và chấp nhận. Người Kitô hữu có bổn phận làm chứng nhân cho tình yêu của
Thiên Chúa giữa lòng cuộc đời.
19.
Con yêu dấu
Có một người bị rơi xuống hố sâu, tối
tăm. Anh cố gắng trèo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại bị tụt xuống. Tình cờ
Đức Khổng Tử đi tới. Ngài nhìn xuống hố thấy anh bèn thương hại bảo: “Thật tội
nghiệp cho con, nếu con chịu khó nghe lời ta dạy bảo, con đâu bị rơi xuống hố
như vậy”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau đó Đức Phật Thích Ca đi đến.
Ngài cũng nhìn xuống hố thấy anh và nói: “Thật tội nghiệp cho con, nếu con leo
lên được trên này, ta sẽ giúp con”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau cùng
Chúa Giêsu xuất hiện. Ngài nhìn xuống hố rồi nói: “Thật tội nghiệp cho con!”
Rồi Ngài nhẩy xuống hố, nâng anh lên, và giúp anh trèo ra khỏi cái hố.
Qua
phép rửa, Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giođan, biểu tượng cho chiều sâu của
tội lỗi và sự chết, để cứu nhân loại.Đức Giêsu không cần phải chịu phép rửa vì
Ngài là Thiên Chúa, nên không có tội. Hơn nữa Ngài lại tràn ngập ơn Chúa Thánh
Thần ngay từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria. Tuy nhiên qua phép rửa, bằng sự
dìm mình trong dòng nước sông Giođan:
Ngài
chấp nhận và bắt đầu sứ mạng người đầy tớ đau khổ của Ngài. Ngài tự xếp mình
vào số những tội nhân, và Ngài đã là “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội trần
gian”. Ngài đã làm trước kỳ hạn cuộc “rửa” bằng cái chết đẫm máu của mình… vì
tình yêu, Ngài đã ưng nhận phép rửa của sự chết để tha thứ tội lỗi của chúng
ta.
Ngài
đã nêu gương sáng về nhân đức khiêm nhường, và đã khởi sự sứ mạng phục vụ đối
với những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, và tật nguyền.
Ngài
đã bày tỏ “sự hư vô hóa bản thân mình” để trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha
trong sứ mạng Thiên Sai. Vì thế, Chúa Cha đã lên tiếng nói rằng Ngài rất thỏa
lòng về Con của Ngài. Đây là dấu hiệu bề ngoài chứng thực rằng Chúa Giêsu đã
được chỉ định là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Và bây giờ, Ngài sẵn sàng cho sứ
mệnh của một Đấng Thiên Sai.
Nhân
ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta suy nghĩ về phép rửa tội của chúng
ta. Nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng Raymond E. Brown, đồng thời cũng là thần
học gia, đã đưa ra nhận xét: “Ngày một người được nhận bí tích Thanh tẩy thì
quan trọng hơn ngày người đó được truyền chức linh mục hay giám mục”.
Theo
giảng huấn của Công đồng Vatican II, phép rửa tội đã sát nhập chúng ta vào Chúa
Giêsu Kitô, để trở nên giống Ngài, và tham dự vào các chức vụ của Chúa Kitô: tư
tế, tiên tri và vương giả.
Sách
Giáo lý Công giáo số 1213 cũng nói lên sự quan trọng của phép rửa tội như sau:
“Bí tích Rửa tội là nền tảng của tất cả cuộc sống Kitô giáo, là cửa mở vào sự
sống trong Chúa Thánh Thần, và là lối dẫn vào các bí tích khác. Nhờ phép rửa
tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được sinh lại làm con của Thiên
Chúa, được trở thành các chi thể của Chúa Kitô, được gia nhập vào thân thể Giáo
Hội và tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội. Phép rửa tội là bí tích của sự sinh
lại bởi nước và trong Lời Chúa”.
Thường
thường được lãnh phép rửa tội từ khi mới sinh, chúng ta dễ bị quên đi ý ngĩa
sâu xa về tầm mức quan trọng của bí tích này. Đồng thời cũng đã không có cơ hội
trải qua những kinh nghiệm nội tâm của ơn gọi được tái sinh, những cảm nghiệm
về ơn phúc được mời gọi làm con cái Thiên Chúa, và cái giá phải trả khi quyết
định lãnh phép rửa tội.
Qua
Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của
Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta
cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là
con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
20.
Làm chứng
Câu chuyện đã xảy ra cách đây khá lâu.
Ngôi thánh đường nhỏ bé trong một thị xã của vùng Trung Tây Hoa Kỳ đã xưa cũ,
cần phải được sửa chữa lại, nhất là ngọn tháp. Cây thánh giá trên đỉnh ngọn
tháp này phải được hàn lại cho chắc chắn để chịu đựng nổi sức gió thổi và sự
xoi mòn của nắng mưa sương tuyết. Nhưng giàn ráo không thể bắc lên cao cho tới
cây thánh giá được, chỉ gần tới mà thôi. Có một công nhân lực lưỡng, cao ráo,
vai u thịt bắp, sẵn sàng đứng chịu cho người thợ hàn leo lên vai của anh để làm
việc. Việc làm này thật nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người!
Từ bên dưới, đám đông nhìn lên nín
thở. Sau cùng, công việc hàn lại cây thánh giá cũng hoàn tất. Người thợ hàn bò
xuống khỏi đôi vai nở rộng và khỏe mạnh của anh công nhân. Rồi anh công nhân
cũng chậm rãi leo xuống khỏi giàn ráo. Khi vừa xuống tới đất, anh nằm bật ngửa
ra nền nhà. Đôi vai và hai cánh tay vạm vỡ của anh đầy những vết phỏng. Cái gì
đã xảy ra? Trong khi người thợ hàn lại cây thánh giá, những giọt kim loại nóng
bỏng đã nhiễu xuống đôi vai và hai cánh tay của anh công nhân đang cố gắng giữ
chặt lấy người thợ hàn. Mặc dù đau đớn và xót xa cực độ, nhưng anh đã không dám
nhúc nhích. Bất cứ một phản ứng nào cũng có thể làm cho người thợ hàn ngã xuống
và chết tại chỗ. Phải mất vài tuần lễ những vết phỏng mới được lành hoàn toàn.
Qua
phép rửa tội, chúng ta cũng được gọi để làm chứng minh cho Tin Mừng. Làm chứng
nhân cho chân lý đòi hỏi phải hy sinh, và đôi khi phải trả giá bằng chính mạng
sống của mình như Gioan tẩy giả đã làm. Làm môn đệ của Đức Kitô phải thường xuyên
đấu tranh với những khuynh hướng xấu nơi bản tính của con người, chống lại sự
dữ, tội lỗi và ma quỉ. Đó là cuộc tử đạo kéo dài suốt đời người.
Trong cuốn “Tiếng Chim Ca”, cha
Anthony De Mello, S.J. đã dùng dụ ngôn “Tiệm Bán Chân Lý” để nói lên cái giá
phải trả của những người môn đệ theo Chúa Giêsu: Tôi hoa mắt lên khi thấy tên
cửa tiệm: “Tiệm Bán Chân Lý”. Cô bán hàng rất lễ phép: tôi muốn mua loại chân
lý nào đây, toàn diện hay từng phần – phiếm diện? Chân lý toàn diện, dĩ nhiên
rồi. Đối với tôi, nhất định không có lừa bịp, không có khống chế, không có giải
thích quanh co. Tôi muốn chân lý của tôi phải thuần khiết và minh bạch. Cô bán
hàng vẫy tay ra hiệu chỉ cho tôi phía đằng kia tiệm sách.
Cậu bán sách ở đó lấy ngón tay chỉ cái nhãn
hiệu có ghi giá cả. Cậu ta nói: “Thưa ông, giá rất đắt”. Tôi hỏi: “Giá bao
nhiêu?” Vì tôi cương quyết mua cho bằng được cái chân lý toàn diện, cho dù phải
trả bằng bất cứ giá nào. Cậu trả lời: “Thưa ông, giá của sự an toàn của ông
đấy“. Tôi ra khỏi tiệm với con tim nặng trĩu. Tôi đang cần sự an toàn cho những
niềm xác tín bất khoan nhượng của tôi.
Vì làm chứng nhân cho chân lý nên thánh Gioan
Tẩy giả đã bị chém đầu, Chúa Giêsu đã phải chết trên cây thập giá. Phải trả
bằng giá của mạng sống, vì thế Chúa Cha đã phán: “Nầy là Con yêu dấu của Ta,
Con đẹp lòng Ta”.
Qua
Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của
Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta
cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là
con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
21.
Con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong
rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi. Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về
hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
-
Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của
ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có
lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí
tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực
vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không
có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ
nghèo túng.
Nhưng
đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi
mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn
sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi
Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa,
nhưng là một sự thật:
-
Thiên
Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng
ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như
thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị
bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói
câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi
trói và đem cậu về nhà nuôi. Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã
dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh
dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử,
bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghĩ:
-
Phải chăng đây chính là hoàng tử, con
ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé
và nói:
-
Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã
ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo
và mừng rỡ kêu lên:
-
Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
-
Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự
đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều
phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra
mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm
bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó
cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với
chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế
nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người
nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
-
Tôi
đi nhà thờ.
Nhưng
nói: - Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người
con thố lộ tâm tình với cha mình. Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi
vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò
chuyện với Thiên Chúa.
Một
người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso
giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
-
Tôi
sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi
chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến
Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ
đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con
Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải
có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi
đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau
hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ
sông Giócđan:
- Này là Con Ta yêu dấu,
đẹp lòng Ta mọi đàng.
22.
Chúa chịu phép rửa
Tôi
thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những
gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta
một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn
ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình
nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng
thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình
huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến,
những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một
cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc
Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta
không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với
cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải.
Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu
phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu
đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì
Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ
đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy
nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài
chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính
Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một
cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa
Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài
bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng
đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc
đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài.
Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ
không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta
phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước
hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở
nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta
hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình
lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng
Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và
sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy
chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế
giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ.
Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các
con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái
Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép
rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với
tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và
họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra
sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải
tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh
Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra
khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta
biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ
lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi.
Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho
đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn
sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách
cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không?
Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn,
những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua
chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có
thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự
tính.
Những
gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép
rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng
ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của
phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng
nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi
dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
23.
Chúa chịu phép rửa
Tâm
lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được
vượt trổi hơn người khác.
Khi
nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế
nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được
khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều
khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội
họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay
bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu
căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội
đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác.
Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong
cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn
thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi
vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người
khác xuống để chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi
đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người
khác?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả.
Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi
hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng
Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu
căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng
nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm
ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người
chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng
thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật
vậy,
-
Chúa
Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và
cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
-
Là
Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một
đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái
lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận
làm người.
-
Là
Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha,
một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một
anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
-
Là
Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm
phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
-
Người
là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để
trở thành một người vô danh như họ.
Biết
nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm
tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên
tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên
Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên
Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được
phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng
với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu
chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cánh
Cửa Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
24.
Chúa chịu phép rửa
Trong
ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng
ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của
Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài
Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa
Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có
sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng
liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của
Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa
Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép
rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho
người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về
đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông
Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách
nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt
qua để vào Đất hứa.
Khi
xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới
với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên
thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng
nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng
sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm
chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là
lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý
nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu
dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con
duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của
Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô
Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến
hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn
dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh,
ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là
Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi
vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên
Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau
khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn
mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can
trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người
Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như
được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được
lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành
với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ
đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết
hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài
lòng về Con”.
25.
Chúa chịu phép rửa
Hôm
nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa.
Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con
người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội
cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh
nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào
cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại
tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái
chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa
tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi
và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong
các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng
sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu
đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử
hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ
mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là
Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình
trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải
qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa
Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước
chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến
dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng
niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi
chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết
của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu
không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta
lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội
không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những
cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để
mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một
tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh
Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì
còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một
cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của
tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con
người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự
chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng
niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc
nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh
nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được
mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên
đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc
tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống
chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giây phút của cuộc
sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn
sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không
biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một
cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự
phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin
rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta
cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đó chúng ta được tham dự vào sự phục
sinh vinh hiển của Ngài.
26.
Vui mừng đến cực điểm
Màn cuối cùng trong phim "Ben
Hur" diễn tả cảnh bầu trời bị biến dần sau những đám mây trời tụ hội. Cảnh
ba cây thập tự vươn lên ở tận mút cùng của ngọn đồi xa xa được quay thật lâu;
và rồi màn ảnh thu dần chú tâm đến Thập Tự chính giữa. Đồng lúc ánh sáng của
sấm sét tỏ cho thấy một người đàn ông đang quằn quại thật thống khổ trong im
lặng theo nhịp điệu của từng ánh chớp. Mưa bắt đầu rơi và rơi thật dữ dội. Cứ
theo mỗi ánh chớp của sấm sét tỏ cho thấy vũng nước mưa dưới chân thập tự dần
dần dâng cao và loang rộng ra xung quanh. Bất thình lình một giọt máu rớt xuống
và loang rộng ra; thế rồi từng giọt máu đào tiếp tục nhỏ xuống và giờ đây biến
cả vũng nước mưa thành vũng máu. Mưa vẫn rơi nặng hạt mang theo giòng máu đỏ
tràn ra khắp nơi tới tất cả những vũng đọng khác. Thế rồi máu đào theo giòng
nước tạo thành mạch nước nhỏ chảy tới những giòng nước lớn hơn và cứ thế chúng
tạo thành một suối nước máu lớn chảy ra sông cả và hoà vào với biển khơi.
Thông
điệp đó thật quá rõ ràng, nghĩa là dòng máu ấy sẽ chảy đến tất cả mọi nơi, đến
tận những hoang đảo và tận cùng trái đất. Sự vĩ đại của đồi Canvê ấy là đã tỏ
lộ cho chúng ta thấy tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Tin
Mừng cao cả của sự sống và chết này sẽ lan rộng phổ biến tới từng ngóc ngách
của trần gian. Thế giới đã bắt đầu cảm nhận Chúa Kitô! Thế giới đã bắt đầu cảm
nhận ơn Cứu Chuộc! Và thế giới đã bắt đầu cảm nhận ý nghĩa của lời phán ra từ
Trời Cao khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Người
làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17).
Đọc
sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta thấy khi Thánh Philípphê tới thành Samaria thì
các sự lạ lùng đặc biệt bắt đầu xảy ra. Quỷ dữ bị trừ khử. Những người tàn tật
được lành mạnh. Thánh Luca đã viết: "Cả thành phố đều hân hoan" (Acts
8:8). Có bản dịch rằng, "Sự vui mừng trong thành đó dâng lên như cơn sốt
cao độ". Đó là một trong những tính cách cảm nghiệm của Kitô hữu. Qua bí
tích Rửa Tội, chúng ta đã được đón nhận vào làm "Con Yêu Dấu của Ta,"
chúng ta đã sống ơn gọi đó thế nào? Chúng ta đã cảm nghiệm sự hân hoan vui mừng
được thông phần với Chúa Kitô chưa?
Một
triết gia ngoại giáo vào thế kỷ 19 đã nói: "Tôi sẽ tin vào Ơn Cứu Độ Kitô
Giáo nếu như những tín hữu đạo giáo đó tỏ lộ được niềm vui ơn cứu độ của
họ". Đây quả là một lời chí lý! Nhưng thế nào là thấy niềm vui ơn cứu độ?
Chúng ta có thể thấy sự sống động của ơn cứu độ được tỏ lộ qua nhóm người đang
cử hành lễ hội và vui mừng như đến "cực điểm của cơn sốt". Chúng ta
cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi ta nhìn xem một người đứng bên cạnh mộ
huyệt của người thân yêu với một vẻ tin tưởng rằng chết không phải là lời nói
sau cùng. Chúng ta cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi mọi Kitô hữu thương
yêu nhau như lời Chúa Giêsu: "Nếu các con yêu mến nhau, thiên hạ sẽ nhận
ra các con là môn đệ Thầy."
"Đây
là con yêu dấu của Ta, Con làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Sự thỏa
lòng của Thiên Chúa cũng ngự trị trên chúng ta. Chúng ta đã được nhận vào cộng
đoàn Con Yêu Dấu của Ngài qua bí tích Rửa Tội, được Chúa thỏa lòng với trách
nhiệm làm theo thánh ý Ngài trên trái đất đó là: Yêu Thương Mọi Người.
Trách
nhiệm chúng ta lãnh nhận là làm sao tỏ lộ phản chiếu như tấm gương hình ảnh
tình yêu của Chúa cho mọi người.
Mấy
năm trước đây, nhà văn Ann Landers viết một đoạn văn ngắn với nhan đề "Hãy
Để George Làm" như sau:
Đây
là câu chuyện về bốn người có tên: Mỗi Người, Vài Người, Ai Đó, và Không Ai. Có
một công việc quan trọng cần phải hoàn thành và Mỗi Người được giao cho công
việc đó. Mỗi Người nghĩ là Vài Người sẽ làm việc đó; Ai Đó có thể làm; và Không
Ai hoàn thành rồi. Vài Người bực mình vì đó là việc của Mỗi Người. Không Ai
thấy rằng Mỗi Người không thi hành công việc trong khi Mỗi Người nghĩ Ai Đó có
thể làm rồi. Sau cùng thì Mỗi Người trách Vài Người mà đúng ra Không Ai phải
hỏi Ai Đó. Nhưng đúng hơn hết, vị cao cả Vài Người của tất cả nói là không phải
Mỗi Người, nhưng là Anh, rằng có công việc quan trọng cần phải hoàn thành. Hơn
nữa, Không Ai nhưng là Anh được gọi làm việc đó. Chúa Giêsu không hỏi ai nhưng
là Anh tìm kiếm sự cứu chuộc và hành thi hành công việc cứu độ.
Chúng
ta, cộng đoàn Con Yêu Dấu cùng với Chúa Kitô, chúng ta hãy cử hành lễ hội trong
sự yêu mến nhau.
27.
Hoàng đế cầu nguyện - Hoàng đế chịu phép rửa
Tại một thành phố bên Tiệp Khắc, giữa
những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền
tụng câu truyện như sau: Một hôm Hoàng đế Josephh II cùng đoàn tùy tùng đến
viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hoàng đế thấy một
nông dân đang ngồi nghỉ mệt bên một chiếc cầy. Ông đến trò chuyện với người
nông dân và xin được cầy thử vài luống.
Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì
có một người sang trọng lại xin tra tay vào cầy và ông phá lên cười khi thấy
những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói:
"Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể tra tay vào cày để
kiếm sống được". Nghe thế, một người trong đoàn tùy tùng mới nói nhỏ cho
người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông chính là Hoàng đế. Lập
tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị
Hoàng đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.
Sự hạ cố của vị Hoàng đế làm cho người
nông dân cảm động, thán phục đến nỗi kể từ đó ông không sử dụng đến chiếc cầy
ấy nữa; ông lau chùi và đánh bóng nó, rồi cất giữ một cách trân trọng như một
báu vật. Về sau chiếc cầy này được mang đến trưng bày tại một cuộc triển lãm ở
Vien, Áo quốc.
Sự
việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa cũng thật khó hiểu và khó chấp nhận như mầu nhiệm
Thập giá. Nên ông Gioan là người đã biết Chúa Giêsu Kitô là ai, ông liền can
ngăn Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép Rửa, thế mà Ngài
lại đến với tôi". Ở đây, Chúa Giêsu muốn chịu phép Rửa của Gioan để nhìn
nhận công việc này là do Thiên Chúa như là sự chuẩn bị cuối cùng đưa vào thời
đại Messia, giai đoạn mà Chúa bước vào cuộc đời công khai ra đi rao giảng ơn
cứu độ. Đức Kitô biết rằng có thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha trong việc
này, thì Ngài mới lập nên được nền công chính mới, đất trời mới đã giao hòa.
Chính Thần khí xức dầu cho Đức Giêsu, tấn phong Người làm Đấng Messia với Lời
của Thiên Chúa Cha ban tặng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người".
Chúng
ta thấy trong suốt cuộc đời của Người, Ngài đã tự coi mình như "Con Người
đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người". Ngài muốn
tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự
đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận Phép Rửa từ một người. Những thái
độ khiêm hạ của vị Hoàng đế trần gian và Hoàng đế Nước Trời đã làm cho dân
chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong
một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua ở trần gian này. Một cử chỉ cao
đẹp của Chúa đã làm cho cửa Trời mở ra, ơn trời tuôn đổ, ơn cứu độ được trao
ban và loan truyền.
Lạy Chúa, chúng con là những người đã
được lãnh nhận phép Rửa tội và từ ngày đó chúng con được tham dự vào hàng tư
tế, bậc vương giả và ơn tiên tri. Xin giúp chúng con biết nhận ra những hồng ân
cao cả đó để chúng con luôn vang lời ca cảm tạ, hăng say rao giảng Tin Mừng cứu
độ và vui vẻ phục vụ Chúa trong hết mọi người qua các đặc ân trên.
28.
Này con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta
Hôm
nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa. Chúng ta biết Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa, Ngài là Đấng vô tội và luôn trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha
trong suốt cuộc đời trần thế. Vậy mà tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép Rửa bởi
Gioan ở sông Giođan? Bởi vì Chúa Giêsu không tự cho mình cao trọng vượt trên người
khác, Ngài muốn chứng tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài luôn luôn liên đới với hết
mọi người, bằng cách sống trung thành với lề luật và chia sẻ thân phận làm
người trong mọi chiều hướng.
Sau
khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Ngài liền thấy trời mở ra và Thánh Thần như chim
bồ câu ngự xuống trên Ngài. Những hình ảnh "trời mở ra và Thánh Thần như
chim bồ câu" có thể làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì thế hệ chúng ta ngày
nay thích những gì có tính cách khoa học hơn là những câu văn bóng bảy nên thơ.
Tuy
nhiên, không vì thế mà chúng ta đành chối bỏ sự hiện hữu của Thần Linh Thiên
Chúa, luôn kết hiệp với Đức Kitô và cũng rất cần thiết cho cuộc đời của chúng
ta. Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thần linh Chúa bay là trên mặt nước, giờ
đây Người cũng hiện diện lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa.
Đồng
thời, hình ảnh "trời mở ra" mang đầy ý nghĩa: các tầng trời bị che
lấp bởi tội lỗi của nhân loại, giờ đây được mở ra trước mặt Đấng Cứu Thế để
Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Đấng mà Thiên Chúa Cha yêu thương và gọi là
"Con yêu dấu". Chúa Giêsu là Đấng đến để làm cho trần gian chúng ta
đang bị khép kín vì tội lỗi phải mở toang ra để đón nhận ơn cứu độ.
Từ
nay, nhờ phép Rửa của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là xa lạ, mà rất gần gũi
nhân loại, đất với trời thông đạt với nhau, thiên đình và hạ giới không còn
cách biệt. Những gì Chúa Giêsu đã sống như là Con yêu dấu duy nhất của Chúa
Cha, thì loài người chúng ta cũng đang được mời gọi sống đúng như là con cái
của Thiên Chúa.
Thông
thường, sống trong hoàn cảnh xã hội thiêng liêng về vật chất, chúng ta hay có
những cái nhìn thật phàm trần. Thế giới tân tiến ngày nay đe dọa đánh đổ nhân
cách con người và nhìn con người trong chiều kích vật chất trần tục: hạnh phúc,
tương lai, và sự cứu độ chỉ nằm trong kỹ thuật. Ví dụ: Muốn có người yêu hãy
dùng loại nước hoa này, muốn giữ gìn sắc đẹp và trị các vết nhăn hãy thoa loại
kem kia, muốn giàu sang hạnh phúc nên dùng phương thức nọ... nên bảo vệ môi
sinh thì chúng ta sẽ sống lâu bền... hãy thay đổi quy chế xã hội thì chúng ta
sẽ sống ấm no hạnh phúc v..v..
Những
điều trên đây không phải là không đúng, nhưng rất hạn hẹp và giảm giá trị con
người trong tầm mức vật chất, quên đi đức tính siêu việt. Chính vì đắm chìm
trong thế giới kỹ thuật vật chất trần tục, mà có nhiều người vẫn tiếp tục sống
coi như là không có Thiên Chúa, sống mà không biết rằng nhờ Đức Giêsu Kitô, mọi
người đều là con Thiên Chúa.
Chúng
ta thử nghe câu chuyện nầy: Dũng, một thanh niên 15 tuổi, đang học đệ tam, hỏi
cha mẹ:
-
Con
đã được Rửa tội chưa?
Cha
mẹ trả lời là chưa.
-
Vậy
thì ba má?
-
Có
chứ, và còn đi học giáo lý nữa, rồi còn làm đám cưới ở Nhà thờ nữa kia.
-
Vậy
tại sao ba má không xin Rửa tội cho con?
-
Vì
muốn con tự do lựa chọn.
-
Nhưng
mà làm sao biết lựa chọn, khi con không hiểu một tí gì về Thiên Chúa, phải biết
mới lựa chọn được chứ!
Qua
câu chuyện nầy, chúng ta thấy trong những năm gần đây, có những bậc phụ huynh,
theo trào lưu Âu Mỹ hiện đại, viện cớ là vì tôn trọng tự do của đứa bé, để sau
này nó tự quyết định, nên không đưa đứa bé đi Nhà thờ Rửa tội.
Ý
hưởng tôn trọng tự do này được coi như đúng với điều kiện là khi lớn khôn, đứa
bé phải có đủ phương tiện học hỏi, có người hướng dẫn giúp nó hiểu biết và suy
nghĩ để định đoạt... bằng không thì thật nguy hại, vì đó là chính sách san bằng
đoản hậu.
Làm
sao đón nhận Thiên Chúa khi mà chưa được nghe nói đến Ngài? Tại sao một đàng
chúng ta lại tự quyết định thay cho đứa bé bằng cách ghi danh cho nó học môn
này chương trình nọ (piano, tennis v...v...) và đàng khác ta lại nói là để cho
nó tự do lựa chọn. Thật là mâu thuẫn! Chúng ta đừng quên rằng đạo lý và tôn
giáo không phải là việc riêng tư, nhưng có cả tầm vóc xã hội, sự chối từ đường
hướng đạo đức sẽ là nguồn gốc cho sự bạo động và khước từ người khác. Vì thế,
chúng ta không lạ gì khi thấy thế hệ trẻ ngày nay hoặc thiếu lý lẽ sống hoặc
sống trong bạo động...
Chính
vì vậy mà mỗi người chúng ta cần phải nói với những người khác rằng "tất
cả chúng ta không phải là con cái của tăm tối, mà chúng ta được sinh ra để nhận
biết Thiên Chúa và đón nhận hồng ân của Ngài, nhờ đó chúng ta có một cuộc sống
hoàn hảo, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa."
Những
bài Phúc âm không phải là những chuyện cổ tích thuộc về quá khứ, nhưng luôn
mang tính cách hiện tại, chính hôm nay, bởi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa mà các
tầng trời sẽ mở ra cho chúng ta, để Thần Linh Chúa ngự xuống trên từng người
một và được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: "Này là con yêu dấu của Ta. Ta
đặt trọn vẹn yêu thương trên ngươi".
29.
Suy niệm của nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
(c.14)
Matthêu đã dựa vào Máccô để viết bài tường thuật này. Cách diễn tả thẳng và
thiếu khéo léo của Máccô đã làm cho Giáo Hội sơ khai phải lúng túng không ít,
vì Đức Giêsu là Đấng vô tội thì không thể nào lại phải nhận phép rửa tha tội
của Gioan. Vì vậy Matthêu đã bỏ đoạn của Máccô nói về sự tha tội và thêm cuộc
đối thoại giữa Đức Giêsu và Gioan.
(c.15)
"công chính" (có sách viết là "công lý") - câu này làm ta
liên tưởng đến đoạn Isaia 42:6 trong bài đọc thứ nhất "Ta đã gọi ngươi
trong công lý", có nghiã là để chu toàn ý định của Ta về lịch sử cứu rỗi
nhân loại. Vì thế, việc Đức Giêsu nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả đã được Thiên
Chúa dự định trước trong kế hoạch của Ngài, và để Đức Giêsu được giới thiệu như
là người tôi tớ của Yavê.
(c.16)
Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống trên Đức Giêsu là dấu chỉ Ngài được xức dầu tấn
phong là Đấng Mêsia (CV 10:37-38)
(c.17)
"tiếng từ trời" - Theo Máccô, tiếng đó nói rằng "Con là",
nhưng trong Matthêu tiếng đó nói "Đây là" có ý muốn giới thiệu cho
những người khác đang hiện diện ở đó rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Một lần
nữa Đức Giêsu được tỏ ra cho nhân loại, như một lễ Hiển Linh thứ nhì.
Một Điểm Chính
Đức
Giêsu được Cha giới thiệu là người Con duy nhất hiểu ý Thiên Chúa. Ngài là
"người tôi tớ", "ngưòi Con yêu dấu", "người được
chọn", người mà Thiên Chúa "hài lòng".
Suy Niệm
Hãy
ý thức và suy niệm về Thánh Ý của Chúa trong cuộc đời của bạn.
Nhớ
lại một lần bạn đã cảm thấy một cách thấm thía Chúa yêu thương bạn.
30.
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu nói
của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút
ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống
tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho
ai?
2. Muốn con
người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai
con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1.
Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong
bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong
hai người, Gioan Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là
Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta
thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để
chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gioan Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn
toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai
trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: «Có Đấng quyền thế hơn tôi
đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người»; «Người phải
nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Người
loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì
Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật
sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực
hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc
loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật
lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào
đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một
cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có
thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi
người ca tụng ta là người đạo đức, là «có lửa». Từ khi có danh thơm tiếng tốt
ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày
càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ «thăng quan tiến chức» trong
Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên «vì mình» hơn và bớt
«vì Chúa» đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến
ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham
quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì
quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng
lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng
Tin Mừng – nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm
những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội – rất cần tinh thần phản tỉnh
để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: «Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa
chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn» (Mt 26,41;
Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần
phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều
anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2.
Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài
Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều
kích tâm linh. Trong đó, Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía
cạnh trong cùng một con người: Gioan Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của
ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu
phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt
yếu khiến con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6), «giống như
Thiên Chúa» (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban
cho chúng ta: «Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng
đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr
1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức
Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh
em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48).
Giữa
con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật,
nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng
luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con
người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên
hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính
Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính
Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là
tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy
nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người
thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: «Trong lòng
mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú». Thật vậy, có những lúc ta
suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành
động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải
luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có
người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường
khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa
hai con người này: «Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần
Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên
kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn» (Gl 5,17); «Những
ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn
những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí» (Rm 8,5).
Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: «Nếu anh em sống theo tính xác
thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành
vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác
thịt:
Bản
chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng
«phình to bản ngã». Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ
của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình,
luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý
riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: «Những kẻ sống theo
xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi» (Rm 8,5); «Họ khoe mình khôn
sáng nhưng đã nên điên dại» (Rm 1,22); «Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa
sự sống Chúa Trời» (Ep 4,18); «Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu
muội đắm chìm trong bóng tối tăm» (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con
người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của
lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi
những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên
Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở
nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn
luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng
không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3.
Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi
mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người
khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín – nhiều khi
rất mạnh mẽ – lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là
thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài
Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gioan Tẩy giả – tượng trưng cho phàm ngã – để tự
hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu – tượng trưng cho thần ngã – nổi bật lên. Chỗ
khác Gioan nói: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30).
Phàm
nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo
phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu
ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần
ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực
này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn
thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ
đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một
người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý
của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực
hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành
một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi
của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân
con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như
xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
Con». Xin giúp con đạt được điều ấy.
31.
Sám hối là việc cần thiết để trở nên công chính
Câu hỏi gợi ý:
1.
Phép
rửa của Gioan khác với phép rửa trước đó của Do Thái giáo làm cho dân ngoại ở
chỗ nào? Ông làm phép rửa với mục đích gì?
2.
Tại
sao Đức Giêsu hoàn toàn vô tội lại yêu cầu Gioan làm phép rửa cho mình? Ngài có
phi lý khi yêu cầu điều đó không?
3.
Tại
sao khi Đức Giêsu nói: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính»
thì Gioan mới làm phép rửa cho Ngài? Câu đó có ý nghĩa gì?
Suy tư gợi ý:
1.
Phép rửa của Gioan Tẩy Giả
Gioan
Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước xuất hiện khoảng năm 30 sau công
nguyên. Trước ông, có khoảng 20 vị ngôn sứ được Thánh Kinh ghi nhận đã xuất
hiện rải rác trong khoảng 450 năm, bắt đầu là ngôn sứ Êlia (khoảng năm 900
trước CN), và cuối cùng là ngôn sứ Giona (khoảng năm 350 trước CN). Kể từ ngôn
sứ Giona, suốt gần 400 năm, dân Do Thái không có một ngôn sứ nào xuất hiện. Năm
63 trước CN, Do Thái bị đế quốc Rôma thống trị tàn bạo, nên từ đó dân chúng ai
nấy đều nóng lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân Ngài. Thế rồi Gioan
Tẩy giả xuất hiện như một vị ngôn sứ, ông ăn mặc giống Êlia (2V 1,8; x. Mt
3,4), rao giảng cùng một sứ điệp như Êlia về sự phán xét của Thiên Chúa, đồng
thời kêu gọi «hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần» (Mt 3,2) và loan báo sẽ có
một «Đấng đến sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người»
(Mt 3,11b). Vì thế, dân chúng cảm thấy có một cuộc phục hưng lớn về mặt tôn
giáo bắt đầu xảy ra để chuẩn bị Nước Trời sắp đến. Chính Gioan cũng rất ý thức
về cuộc phục hưng ấy mà ông là người góp phần vào.
Trước
khi Gioan xuất hiện, phép rửa là một nghi thức mà người Do Thái vẫn thường làm
cho dân ngoại khi họ trở lại Do Thái giáo. Ai đã theo Do Thái giáo rồi thì
không lãnh nhận phép rửa nữa. Còn Gioan thì lại làm phép rửa cho chính người đã
theo Do Thái giáo. Phải nói đó là một chuyện lạ đời đối với dân chúng. Phép rửa
của ông có ý nghĩa là: Nước Trời đã gần đến, mà người khai mạc là một «Đấng đến
sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người» (Mt 3,11b). Để
đón Nước Trời cùng với Đấng ấy, con người phải chuẩn bị bằng việc sám hối, dù
đã là người Do Thái giáo. Và hình thức biểu lộ cụ thể là lãnh nhận phép rửa.
Thánh Phaolô cho biết mục đích phép rửa của Gioan: «Ông Gioan đã làm một phép
rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu»
(Cv 19,4). Tóm lại, phép rửa của Gioan nhằm giúp dân chúng sám hối hầu chuẩn bị
một kỷ nguyên mới do Đức Giêsu khai mạc và thực hiện.
Ngoài
phép rửa ông đang làm, ông còn giới thiệu cho dân Do Thái một thứ phép rửa khác
mà ông không làm được: «Đấng đến sau tôi (…) sẽ làm phép rửa cho các anh trong
Thánh Thần và lửa» (3,11c). Vì thế, khi Đức Giêsu đến để xin ông làm phép rửa
cho Ngài, thì ông thấy yêu cầu ấy quả là nghịch lý. Ông cho rằng «Chính ông mới
cần được Ngài làm phép rửa», thứ phép rửa «trong Thánh Thần và lửa» của Ngài,
chứ đâu có chuyện ngược đời là ông lại làm phép rửa cho Ngài. Nhưng Đức Giêsu
trả lời: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính». Lúc ấy Gioan
mới chịu làm theo ý Ngài.
2.
Tại sao Đức Giêsu lại lãnh nhận phép rửa của Gioan?
Quả
thật, việc Đức Giêsu đòi Gioan làm phép rửa cho mình là một chuyện nghịch lý.
Nhưng Ngài có lý của Ngài. Chắc chắn Ngài chịu phép rửa của Gioan không phải
như những người Do Thái khác là để tỏ lòng sám hối tội lỗi, vì bản thân Ngài
hoàn toàn vô tội. Chính phép rửa của Gioan là để chuẩn bị tâm hồn con người đón
Ngài đến, thì tại sao Ngài lại chịu phép rửa của Gioan? Ngài chịu phép rửa của
Gioan là vì:
-
Tuy
bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là
Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Vì thế, trước mặt Thiên
Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài phải tự liệt mình vào hàng
tội nhân cần phải sám hối. Và Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự
như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nêhêmi (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x.
Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm.
-
Với
tư cách Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Ngài muốn hòa mình với loài người tội lỗi để
cùng họ sám hối trước mặt Thiên Chúa. Đây quả là thái độ khiêm nhường và đầy
tình yêu, một thái độ cần thiết phải có để được tha tội, và riêng đối với Ngài,
để chuộc tội cho nhân loại trước Thiên Chúa. Thái độ này khác hẳn với thái độ
của người Pharisêu, thích tự coi mình là những người thánh thiện, muốn được
tách biệt hẳn với đa số dân chúng mà họ coi là tội lỗi.
-
Ngài
muốn đánh dấu việc bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng hành động sám hối
thay cho nhân loại, và kết thúc cuộc đời Ngài bằng việc chết trên thập giá để
đền tội thay cho nhân loại. Cái chết của Ngài chính là «phép rửa bằng lửa» (x.
Mt 3,11) cho những ai tin vào Ngài và sống giới răn yêu thương của Ngài. Phép
rửa này có khả năng xóa sạch tội lỗi của họ trước mặt Thiên Chúa. Nhờ đó, toàn
cuộc đời công khai của Ngài mang ý nghĩa sám hối và đền tội thay cho nhân loại.
-
Ngài
muốn ủng hộ phép rửa và chủ trương phải sám hối của Gioan. Vì muốn gia nhập
Nước Trời, công việc cần thiết đầu tiên là phải sám hối, nhìn nhận tội lỗi mình
trước Thiên Chúa, quyết tâm sống đời sống mới, mặc lấy những quan niệm mới và
thay đổi cách sống cho phù hợp với quan niệm mới ấy… Sám hối mà Gioan đòi hỏi
không chỉ là thứ sám hối xuông theo nghi thức, chỉ tỏ vẻ hối hận nhưng sau đó
không có gì thay đổi cả, mà là thứ sám hối đòi buộc phải có «hoa quả chứng tỏ
lòng sám hối» (Mt 3,8).
3.
«Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính»
Khi
Đức Giêsu yêu cầu Gioan làm phép rửa cho Ngài, Gioan một mực can ngăn, nhưng
Ngài bảo: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính». Đức công chính
đòi hỏi phải hành xử phù hợp với thực trạng của mình. Đức Giêsu đại diện cho cả
nhân loại tội lỗi, đi sai trệnh đường lối Thiên Chúa, nên Ngài phải đại diện
cho toàn nhân loại sám hối trước mặt Thiên Chúa. Người có tội mà nhìn nhận tội
lỗi mình đồng thời sám hối và quyết tâm sửa đổi, thì người ấy mới trở nên công chính.
Sám
hối không phải là nhìn nhận bản chất mình là tội lỗi, trái lại phải nhận ra bản
chất mình là «hình ảnh của Thiên Chúa», «được tạo dựng giống như Thiên Chúa»
(St 1,26-27), là «con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang
trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4), nhưng lại sống không đúng với
bản chất cao cả ấy của mình. Chính vì thế, chúng ta làm nhục Thiên Chúa. Tương
tự như một hoàng tử, là cành vàng lá ngọc, mà lại làm những việc đê tiện, bỉ ổi
khiến vua cha phải xấu hổ vì con. Thật vậy, nếu bản chất của ta là tội lỗi thì
khi ta sống trong tội lỗi, ta không có gì đáng trách vì ta đã sống đúng với bản
chất của mình. Tương tự như một người hạ tiện làm công việc hạ tiện thì không
có gì đáng xấu hổ. Nhưng bản chất ta là thánh thiện, nếu ta lại chấp nhận vùi
mình trong tội lỗi, thì ta thật đáng trách. Chẳng khác gì một người có tấm thân
ngọc ngà mà lại cam lòng vùi mình vào đám phẩn hôi.
Nếu
ta chưa sống đúng với bản chất thánh thiện cao cả của mình, thì sự công chính
đòi hỏi ta phải sám hối. Sám hối là phải thay đổi quan niệm và trở thành «con
người mới» (Ep 4,24; Cl 3,10), đúng với bản chất thánh thiện và cao cả ấy. Vì
nhân loại đầy tội lỗi, Đức Giêsu đã phải thực hiện sự sám hối ấy với tư cách
đại diện cho toàn nhân loại, để nhân loại nên công chính trước Thiên Chúa. Phần
chúng ta, chúng ta cũng phải «làm như vậy để giữ trọn đức công chính».
CẦU NGUYỆN
Lạy
Cha, Đức Giêsu thánh thiện và hoàn toàn vô tội, thế mà vì yêu thương nhân loại
tội lỗi, Ngài đã gánh lấy tội lỗi nhân loại, và tự liệt mình vào hàng những
người tội lỗi cần phải sám hối. Còn con thì lại hành động ngược lại, con tuy
tội lỗi nhưng lại thích được người khác tôn vinh và đối xử như một người thánh
thiện. Con rất ngại phải nhìn nhận mà chỉ muốn chối phăng những tội lỗi của
mình. Ôi, xin cho con biết hành xử như Đức Giêsu khi xin Gioan làm phép rửa cho
mình.
32.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
LỄ
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU
CÂU
HỎI GỢI Ý
1. Matthêu mô tả gì trong phép rửa của
Chúa Giêsu: cảm xúc tôn giáo? thị kiến? kinh nghiệm về một trật tự khác? Việc
Thần khí xuống "như một chim câu (c.16) và lời nói của "tiếng từ trời
có ý nghĩa gì trong hậu cảnh Cựu Ước và đối với hôm nay?
2. Việc Thần khí tấn phong Chúa Giêsu làm
Messia và tiếng nói từ trời soi sáng thế nào lời gian Tẩy giả công bố về việc
hối cải và Nước Trời gần bên (3,2), lời mà Chúa Giêsu lấy lại sau đó (4,17)?
Làm sao cho thiên hạ nghe lời công bố ấy hôm nay? Và từ đoạn văn này, ta rút ra
được điều gì giúp hiểu về phép rửa trong Giáo Hội?
3. Chúa Giêsu phủ nhận quan niệm của vị
Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia trên điểm nào?
4. Làm sao giải thích thái độ Chúa Giêsu
đến xin chịu phép rửa?
ÙÙÙ
1. Việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả dẫn ta đến phép rửa của
Chúa Kitô, trung tâm đích thực của các trình thuật chương 3- 4. Về phép rửa
này, Tin Mừng Nhất Lãm cống hiến cho ta 3 bản văn song song rất giống nhau. Thế
nhưng đoạn văn của Matthêu lại thêm vào trình thuật một mẩu đối thoại ngắn giữa
Gioan và Chúa Giêsu, một mẩu đối thoại rất có ý nghĩa xét trong nhãn giới của
ông. Rồi đây chúng ta sẽ thấy nó ý nghĩa chỗ nào.
2. Khi chấp nhận liên đới với kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu tỏ ra
muốn phản đối quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của
Đấng Messia: thay vì xuất hiện như Thẩm phán cánh chung đến quét sạch sân lúa
trong cơn Hỏa nộ, Chúa Giêsu lại tự hủy trong dòng nước Giođan. Trình thuật
Matthêu như thế kín đáo ám chỉ cuộc Tử nạn, qua việc đồng hóa Chúa Giêsu với
người Tôi tớ Giavê (Is 42,1; x. Mt 3,17), Đấng đã gánh lấy mọi yếu hèn của ta
(Is 53,4; x. Mt 8,17). Chính trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (27,45-56) cũng
chứa đựng nhiều yếu tố của cảnh này, như chúng ta sẽ thấy về sau khi nghiên cứu
cuộc Khổ nạn.
3. Thuộc văn thể nào cái trình thuật về thị kiến khai mạc
của chúng ta đây, một trình thuật xem ra không mô tả một quang cảnh thấy được
bên ngoài, cũng chẳng tỏ cho biết một kinh nghiệm tâm lý hay một mặc khải bên
trong của Chúa Giêsu? Trước hết, trình thuật có chủ ý thần học; nó biểu lộ mối
ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên muốn diễn tả niềm tin của họ vào Chúa
Giêsu như vào kẻ đến thỏa mãn lòng mong đợi Đấng Thiên Sai, và muốn biện minh
cho thái độ khó hiểu của Chúa Giêsu khi đến xin Gioan làm phép rửa. Trình thuật
có những nét tương tự với các cuộc "thần hiện " (tỏ mình của Cứu
Chúa) hay với những cảnh "kêu gọi ngôn sứ", thường thấy trong Cựu
Ước. Nhưng đúng hơn, nó thuộc về một văn thể khác mang tính chất khải huyền, mà
ta có thể gọi là văn thể "thị kiến giải thích" (vision
interprétative), thường được dùng trong các Targumim. Thật vậy, các Targumim
liên hệ đến lịch sử tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, đều soi sáng lạ lùng trình
thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa của chúng ta.
4. Trình thuật này có lẽ có có liên hệ với kinh nghiệm phép
rửa Kitô giáo mà Matthêu sẽ đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (28,19). Người
chịu thanh tẩy "đi lên" khỏi nước sự chết, đón nhận Thần Khí và tỏ
mình ra như "Con chí ái" của Chúa Cha, trước khi được dẫn cùng với
Chúa Giêsu vào hoang địa thế gian, hầu chịu thử thách cùng chu toàn phận vụ
trong đó.
CHÚ
GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ" (c. 13), một tiếng thường gặp trong
Matthêu, ở đây tương đương với một công thức chuyển mạch thuần túy. "Xuất hiện" cũng là động từ
Matthêu đã dùng để đưa Gioan Tẩy Giả nhập cuộc (3,1): ông tái nhấn mạnh mối
tương quan mật thiết giữa Gioan và Chúa Giêsu vậy. "Bỏ Galilê”: Matthêu không đề cập đến Nadarét mà ông đã nói
tới ở 2,23. "Để chịu thanh tẩy":
mục đích rõ ràng của Chúa Giêsu. Matthêu minh bạch đặt vấn đề Chúa Giêsu chịu
rửa, trước khi trả lời trong các câu kế tiếp.
Cuộc
đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu (cc. 14-15), mà chỉ Matthêu có, phản ảnh một
khuynh hướng hộ giáo. Việc Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu đã sớm gây nhiều
khó khăn cho Kitô hữu (so sánh Lc 3,21tt; Ga 1,29-34; Tin Mừng người Hy bá).
Các khó khăn đó như thế này:
(1) Các vai
trò xem ra đảo ngược, trái ngược với điều chính Gioan loan báo khi ông tự tuyên
bố mình không đáng mở dây giày cho Đấng Messia tương lai;
(2) Phép rửa
của Gioan, có việc thú tội kèm theo (3,6) được các tội nhân đón nhận, vậy Chúa
Giêsu, khi cúi mình chịu, phải chăng cũng ý thức mình là tội nhân. Cuộc đối
thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu đem lại câu trả lời cho khó khăn thứ nhất, trong
lúc cuộc thần hiện tiếp theo phép rửa làm giảm khó khăn thứ hai.
Gioan
(c.14) nhận thấy bổn phận chuẩn bị cho Chúa Kitô đến giờ đây chấm dứt; lúc này
tới phiên ông chịu rửa "trong Thánh
Thần và lửa" (c. 11) và Chúa Giêsu phải là người ban phép. Nhưng Chúa
Giêsu trả lời (c.15) rằng cần phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếng prepon
(do động từ prepoin "thích hợp", và gán tương đương với dei: phải)
diễn tả sự bắt buộc do thánh ý Thiên Chúa. Đoạn văn gần giống bản văn chúng ta
là Dt 2, 10 (so sánh với Lc 7,30). ở đây có hai tiếng quan trọng, đặc biệt của
thần học Matthêu: plêroun (làm trọn; thực hiện; hoàn thành; kết thúc) và
dikaiosunê (sự công chính). Thông thường, plêloun có nghĩa là "làm
trọn", theo nghĩa chấp hành tốt lề luật chẳng hạn. Nhưng trong Matthêu,
nghĩa của nó phong phú hơn nhiều. Nếu dự đoán được những kết luận của cuộc phân
tích Mt 5,17, ta sẽ hiểu rằng việc "làm trọn" ở đây (có hai nghĩa
“bảo tồn và kết thúc”, “duy trì và kiện toàn”. Sở dĩ Chúa Kitô, khi chịu phép
rửa bởi Gioan, "đã làm trọn"
sự công chính, đó là vì Người vừa cúi chịu vừa siêu hóa và bày tỏ ý nghĩa tròn
đầy của phép rửa ấy; cử chỉ của Người mặc khải điều đã được chứa đựng cách bất
toàn trong việc người Israel cúi mình chịu phép rửa của Gioan vậy.
Tiếng
thứ hai, "hệt nghĩa công chính" (Matthêu rất ưa dùng, nhất là trong
Diễn từ trên núi). Trong văn mạch chung của tư tưởng tôn giáo và tư tưởng xã
hội Hy bá (cả hai chỉ là một), tiếng này chỉ sự hoàn thành thánh ý Thiên Chúa;
sự tuân thủ Lề luật Giao Ước dưới mọi đòi hỏi yêu sách. Việc Matthêu dùng ý
niệm "công chính" nằm trong
truyền thống thần học của Israel: con người trở nên công chính khi, nhờ ý thức
sâu sắc về sự siêu việt và thánh thiện của Thiên Chúa, họ cố gắng sống phù hợp
với tôn ý Ngài. Nhưng tại sao Thiên Chúa đã quyết định là Đấng Messia của Ngài
phải nhận phép rửa của Gioan và tỏ mình như kẻ có tội? Bản văn không đưa ra một
lý do sáng sủa nào để giải thích ý định thần linh lạ lùng này, trừ ra lời ám
chỉ mập mờ về việc “hoàn thành mọi nghĩa công chính". Nhưng toàn thể Tân
Ước có gợi lên hai lý do của đòi hỏi ấy.
Lý do thứ nhất, được nhiều nhà chú giải nhấn mạnh
dựa vào Mt 20,28 và 26,28, có thể phát biểu như thế này: Chúa Giêsu phải xóa
hết tội lỗi của "nhiều người". Cv 8,32-35, trích Is 53,7-8, cho thấy
Chúa Giêsu như là Tôi tớ Giavê chịu đau khổ vì tội dân mình, mặc dầu chính
Người không vương mắc tội Phaolô còn minh định giáo thuyết ấy hơn: qua việc
nhập thể, Chúa Giêsu đã mang lấy "một xác thịt giống xác thịt tội lỗi (Rm
8,3), Người đã trở nên chi thể và thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi. Thành ra
mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi chịu phép rửa thống hối vì đã
muốn liên đới với mọi tội nhân (2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17).
Nhưng
ta có thể thấy một lý do thứ hai
trong phép rửa của Chúa Giêsu, hay đúng hơn là lý do đầu, song nhìn dưới một
hình thức hơi khác. Lý do ấy không nhấn mạnh đến sự đồng hóa Chúa Giêsu với tội
nhân cho bằng đến việc Người đồng hóa với các tội-nhân-hối-cải. Thật vậy, đối
với người Do Thái, lãnh nhận phép rửa của Gioan là một yêu sách công chính,
theo nghĩa là họ phải dùng nghi thức đó mà biểu lộ sự thống hối của mình, biểu
lộ lòng ước muốn trở về với Giavê và sống trung thành hơn nữa với những đòi hỏi
của Giao Ước. Xét về cơ bản thì sự công chính Kitô giáo, như Matthêu hiểu, đồng
nhất ý nghĩa với sự công chính của Giao Ước cũ (nhưng cũng siêu hóa nó): đó là
trung thành với các yêu sách của Giao Ước mới, là thần phục Luật mới của Chúa
Kitô chương 5-7). Như thế, khi "làm trọn hết nghĩa công chính" là
Chúa Kitô lấy thái độ trung thành với Giao Ước của những người Israel
"công chính" làm của mình, đồng thời đưa lòng trung thành đó lên tới
tuyệt đỉnh hoàn thiện. Đấy chính là ý nghĩa đặc biệt của phép rửa Chúa Kitô,
một phép rửa trong đó Người trở nên liên đối với dân Người đang quay đầu trở
lại. Qua phép rửa, Chúa Kitô kéo hết thảy những kẻ tin đi với mình và trong
mình về tùng phục lại Chúa Cha; lòng tùng phục thảo hiếu này Người sẽ bày tỏ
cách đặc biệt sáng ngời trong cuộc Tử nạn. Thành ra phép rửa của Chúa Giêsu đã
là dấu chấp nhận trước cuộc Tử nạn (26,39), sự hoàn thành mọi lẽ công chính.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu tóm tắt cả cuộc đời Người
vậy.
Các
câu 16-17 trình bày sự kiện một cách gọn gàng, đơn giản. Điểm được chú trọng là
biến cố thần hiện, trung tâm của tất cả phần này. Matthêu đã nhấn mạnh rằng
việc thụ thai Chúa Giêsu là công trình của Thánh Thần (1,18-20), nay ông lại
cho thấy sứ mệnh Người không có nguồn gốc nào khác hơn. Chính lúc Chúa Giêsu tỏ
ra vâng lời và tự hạ, thì Người được xác nhận như là ngôn sứ và Messia, nghĩa
là như Thẩm phán cánh chung (mặc dầu việc tỏ mình như Thẩm phán được hồi lại
vào ngày Quang lâm). Thật thế, chính sự hạ mình như là Con được Cha sai đã làm
cho người trở thành Thẩm phán cánh chung, vì chính trong sự xóa mình, sự tự hủy
ấy (kénose, theo cách nói của Phaolô) mà trời đến gần đất.
“Trời mở ra": Matthêu dùng cũng một động từ như
Isaia đã dùng trong một đoạn thời danh: "Ước gì Ngài xé trời Ngài
xuống" (Is 63,19. Bản 70): Niềm hy vọng thiên sai diễn tả qua miệng ngôn
sứ bây giờ được thực hiện vậy.
“Người thấy Thần khí Thiên Chúa". Việc Chúa Cha chấp nhận sự tùng phục
của Chúa Con được biểu lộ rõ ràng qua việc Thần khí đáp xuống và nhất là qua
"tiếng nói từ trời". Như thế phép rửa có vẻ là cuộc tấn phong Chúa
Giêsu làm vua và Messia, vì Thần khí Người lãnh nhận là Thần khí đã ngập tràn
các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn
các nhân vật quá khứ, Người lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy. Chính Isaia đã
từng tiên báo như thế về Đấng Messia: "Sẽ đậu trên Người Thần khí Giavê,
Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu
biết và kính sợ Giavê"(Is 11,2). Ngôn sứ Gioel cũng đã tiên báo: thời Đấng
Messia tới sẽ được đánh dấu bằng việc tuôn tràn Thần khí cho mọi người (3,
1-2), việc tuôn tràn này bắt đầu từ sông Giođan nhưng sẽ đạt đến mức độ viên
mãn trong ngày Hiện xuống.
"Người thấy Thần khí Thiên Chúa
đáp xuống như chim câu”:
Trong Do thái giáo, chim câu không hề được coi là hình ảnh của Thần khí, thế
nhưng một vài bản văn các giáo sĩ có so sánh chuyển động của Thần khí Thiên
Chúa với cử chỉ của một con bồ câu "bay chập chững trên bầy con mà không
đụng tới chúng"; Thần khí cũng "bay là đà" trên nước nguyên thủy
như vậy (St 12). Trọng tâm so sánh nằm ở chỗ nhấn mạnh tới thần tính của Thần
khí (Thần khí chẳng phải là một mãnh lực mưu xuất từ thiên nhiên hay con người,
song là một hữu thể siêu việt), lẫn tính cách dịu dàng, gần gũi của hoạt động
Ngài. Bản văn Matthêu, như Maccô, không gợi lên hình dáng (Lc) cho bằng cách
thức mà Thần khí đột hiện và tác động trên Chúa Giêsu. Trạng từ ngữ “hơi như
(hôsei) chim câu" bổ nghĩa cho động từ "xuống" chứ không cho
danh từ "Thần khí".
"Người này là Con Ta": Tiếng phán ra là tiếng Chúa Cha;
tiếng ấy lấy lại lời khẳng quyết của Tv 2,7: "Con là con Ta, hôm nay Ta đã
sinh con"; nó cũng lấy lại lời Giavê ngỏ cùng người Tôi tớ đau khổ sẽ thể
hiện ơn cứu độ cho thân thuộc mình: "Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ
Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ. Ta đã ban Thần khí Ta trên Người..." (Is
42, 1). Cũng có thể đối chiếu lời công bố của Thiên Chúa với nhiều bản văn Cựu
ước trong đó Giavê gọi Israel là "con" Ngài (Xh 4, 22; Hs 11,1
v.v...) và một lần nữa kết luận rằng Matthêu muốn cho thấy Chúa Giêsu là Israel
mới. Trình thuật Cám dỗ (4, 1-11) sẽ củng cố hơn nữa việc song đối này.
Công
thức "Người này là Con chí ái Ta, kẻ
Ta sủng mộ" được lấy lại từng chữ trong trình thuật Biến hình (17,5).
Chắc hẳn Matthêu muốn thiết lập một sự tương đồng có tính cách thần học giữa
hai biến cố. Thật vậy, cũng như cuộc biến hình là thể hiện trước việc tôn vinh
Chúa Kitô khi Người sống lại tôn vinh là kết quả của tự hạ trong Khổ nạn), thì
sự phê chuẩn của Chúa Cha và việc đổ đầy Thần khí cũng loan báo, theo cách thức
riêng, việc tôn vinh Chúa Kitô (tôn vinh sẽ là kết quả không những của cuộc Tử
nạn mà còn của cả đời sống tự hạ, bắt đầu từ việc hạ mình ngày chịu phép rửa).
Hết thảy những điều này xác nhận rằng cảnh phép rửa thật là một cuộc thần hiện,
y như cuộc biến hình, hơn là một thị kiến của riêng Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện
này nhắm tới các độc giả Tin Mừng đã trở thành môn đồ Chúa Giêsu (vì Matthêu
không đề cập tới đám đông nào hết), y như cuộc Biến hình chỉ dành riêng cho 3
môn đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thôi vậy.
KẾT
LUẬN
Cơ
cấu văn chương và thần học của tất cả phần này (ch.3-4) chỉ cho thấy nên tìm
giáo huấn chủ yếu của các chương ở ngay trung tâm của chúng là 3,16-17. Thần
khí Thiên Chúa xuống trên Chúa Giêsu và thánh hiến Người, không những như Ngôn
sứ-tôi tớ, mà còn như kẻ hiện thân cho Nước Trời, vì Người là Đấng Messia thiên
hạ đợi trông. Trong Chúa Giêsu, trời xem ra nối liền với đất, vì trong Người
"Nước Trời đã gần bên" (3,2). Từ nay mọi cái đều hội tụ về Chúa
Giêsu, và mỗi người đều được kêu mời nghe tiếng phán từ trời, tiếng ban ý nghĩa
cho những gì xảy ra; từ nay Chúa giàu có bổn phận làm cho cuộc sống, ngôn ngữ,
cử chỉ Người trở nên tiếng nói Chúa Cha ngỏ với nhân loại.
Ý
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phép rửa của Chúa Giêsu cho ta thấy Người muốn sống đời
mình theo viễn tượng nào, muốn được sinh động bởi não trạng nào, muốn hành động
theo phương cách nào. Người đứng về phía các tội nhân mà Người đến tha thứ và
cứu vớt. Người mong biến đổi nhân loại, nhưng là từ bên trong, bằng cách chia
sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử
phán đoán. Người từ chối thống trị, chinh phục với vũ lực, bắt buộc người ta phải
thừa nhận Người. Từ đầu sứ vụ Người cho thấy chỉ muốn cứu nhân loại bằng cách
tự hủy mình cho đến chết trên Thập giá. Kitô hữu nào dự định thực hiện cuộc
giải phóng con người cũng phải chấp nhận các phương pháp như trên.
2. Lúc Chúa Giêsu chìm dưới dòng nước sông Giođan, nghĩa là
trong vũ trụ của các tội nhân, dưới tận đáy khiêm nhượng, thì Chúa Cha đến gặp
Người và đặt Người làm “Kitô và Chúa” (Cv 2, 33): ai hạ mình xuống sẽ được nâng
lên.
3. Chúa Giêsu muốn liên đới với con người trong nỗi khốn
cùng và sự yếu hèn của họ. Người muốn đợi chúng ta chính nơi đó. Vì thế đừng
luống công làm ra vẻ quan trọng, tự đắc, cho mình xứng đáng với tình yêu của
Người. Chính trong đáy vực sâu tội lỗi mà Người gặp gỡ và phục hồi ta.
4. Ai chịu thanh tẩy là đi vào đời sống nghĩa tử với Chúa
Giêsu: người ấy được làm con cái Thiên Chúa theo cách riêng của mình và cũng
nhận được Thần khí Chúa Cha và Chúa Con.
33.
Chú giải của Noel Quession
Các
lễ Giáng Sinh, Thánh Gia, và Hiển Linh vẫn còn thật gần gũi. Dẫu vậy, rất nhanh.
Giáo Hội muốn làm cho chúng ta bỏ Tin Mừng tuổi thơ để đề cập cái chính yếu:
tác vụ công khai... cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu...
Bấy
giờ Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan...
Chúng
ta đừng quên những hoàn cảnh lịch sử của “biến cố" mà người ta có thể xác
định thời gian vào cuối năm 27.
“Đức Giêsu”... một người vẫn không ai
biết.
“Từ miền Galilê đến" tỉnh xa xôi này
một nửa ngoại giáo bị khinh để bởi những người dân cư miền Giuđê và Giêrusalem,
lãnh địa linh thánh tiêu biểu mà Thiên Chúa cư ngụ. “Bất chợt... xuất
hiện". Cái người vô danh này, đến từ một làng cũng tăm tối, bây giờ vào
cuộc.
Chúng
ta những người đang sống hơn hai nghìn năm sau, chúng ta bây giờ biết Đức Giêsu
sắp thay đổi bộ mặt địa cầu. Người khoảng 30 tuổi. Người ta không biết gì về
ông ấy. Một cuộc yên lặng 30 năm.
Trên
bờ sông Giođan. A! Con sông này, tất cả đã khởi đầu trên bờ của nó! Một con
sông độc nhất vô nhị trên thế gian, kể cả nói về mặt địa lý. Tiếng
"Giođan”, trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là "người đi xuống",
từ gốc "yarad" "đi xuống Con sông Giođan, thực tế là con sông
độc nhất phải xuống quá thấp! Nó bắt nguồn trên đồi Hécmôn, cao 520 mét, dài
220 cây số, chấm dứt ở Biển Chết, ở sâu 394m dưới mực nước biển. Thật là quá
thấp!
Như
thế sự xuống thấp này là cái gì vậy, con sông kỳ lạ này biểu trưng cho vực thẳm
nào vậy?
Đức
Giêsu đến gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình.
Thực
sự việc vào cuộc này gây lắm hoang mang.
Phép
rửa mà Đức Giêsu đến xin Gioan làm, đó là một phép rữa sám hối, dấu hiệu công
khai chỉ là người ta hối tiếc về các lỗi lầm của mình làm, người ta muốn thay
đổi cuộc đời... "Tất cả miền Giuđê và tất cả miền Giođan đều xin ông Gioan
làm phép rửa đồng thời xưng thú tội lỗi mình phạm".
Tôi
dành thời gian nhìn ngắm Đức Giêsu, trong hàng người đánh cá đợi đến lượt mình.
Một trực giác sáng ngời và không thể lầm lẫn được, bỗng chốc đem Đức Giêsu đến
đỉnh cao của tính nhân bản, nơi đó sự hiện diện của Thánh Linh linh hoạt nhất,
nơi đó sự chờ đợi của Thiên Chúa sống động nhất... Đức Giêsu tức khắc đến nhập
bọn với những người tội lỗi... tại chỗ mà Thiên Chúa tác động vào lòng họ, tại
chỗ mà họ quyết tâm sám hối...
Phép
rửa của Đức Giêsu, được cả bốn sách Tin Mừng chứng thực, là một sự kiện lịch sử
không thể chối cãi được? không bao giờ những Kitô hữu đầu tiên lại bịa chuyện
Đức Giêsu chịu phép rửa sám hối, quá trái ngược với ý nghĩ mà họ đang tạo dựng
cho họ một Đấng Mêsia, nếu sự kiện không bắt họ phải nhận, khiến cho người ta
phải hoang mang theo các luận giải của con người.
Còn
tôi? Có phải tôi phán đoán những người có tội trên đỉnh cao vững vàng về đạo
đức của tôi không? Có phải tôi cảm thấy có liên đới về nhân loại tội lỗi không?
Có
phải tôi lên án không? Hay là phải chăng thái độ của Đức Giêsu đòi hỏi tôi...
nâng đỡ, vâ cứu thoát những người làm điều xấu chung quanh tôi ư?
Gioan
môt mực can Người và nói: Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa thế mà Ngài lại
đến với tôi!
Đúng
thế, Gioan được yêu cầu có sự đổi lại ý thế nào? ông báo tin có một Đấng Mêsia
- quan xét, sắp sửa đốn tất cả những cây cối không sinh hoa quả và đem vào lửa
đốt tất cả mọi thứ rác rưởi phù phiếm (Mt 3,7-12). Và Đức Giêsu đến Chịu phép
rửa sám hối! Đó là thế giới đảo ngược. Chính ý tưởng của Thiên Chúa lật ngược.
Trái ngược với mọi chờ đợi của mình, Gioan Tẩy Giả sẽ làm phép rửa cho “người
con có quyền lực hơn mình" (Mt 3,11). Gioan phản đối. Đó là một sự khiêu
khích! ông muốn ngăn Đức Giêsu nhận cử chỉ này.
Như
thế có gì xảy ra trong phép rửa này? Có điều gì quan trong được tiết lộ trong
đó? Ta đứng ngưng lại ở cái bề mặt của cử chỉ này. Chắc chắn có một sự mạc khải
chờ đợi chúng ta đó.”
Nhưng
Đức Giêsu trả lời: Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn
đức công chính.
Đó
là “lời nói đầu tiên" của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng Matthêu. Nó chứng
tỏ môt sự trưởng thành bản vị một cách tuyệt đối đặc biệt. Quân bình biết mấy!
ý thức về sứ mệnh của mình biết mấy nơi con người này! Khi Người ta giản lược
Đức Giêsu chỉ là một con người mà Giáo hội đã Thiên Chúa hóa... hay là một con
người đã nhận thức dần dần mình là Thiên Chúa... thì người ta đi qua một cách
hoàn toàn đơn giản cái huyền nhiệm duy nhất về bản tính của người.
Những
năm tối tăm ở Nadarét không phải là những năm trống rỗng. Đức Giêsu là một
người Do Thái. Như tất cả mọi người Do Thái, người thấm nhiễm bộ Torah, Lời
Thiên Chúa. Và này đây, một cách hoàn toàn đơn giản, Người nói lên trong lời
nói đầu tiên công khai của người. Hai tiếng xác định bản chất của người; thực
thi... công chính. Hai từ Kinh Thánh cực kỳ xúc tích. Hai từ tiêu biểu
trong các từ vựng của Matthêu.
“Hoàn
tất", "pleroum"... "sự công chính "dikaiosunê"...
Thuật ngữ công chính sẽ hay được nói đến (Mt 5,6.10.20 - 6,11.21.32). Sống công
chính, tức là đáp lại chính xác ý muốn của Thiên Chúa: một hành động của con
người phản ánh cái ý muốn của Chúa. "Hoàn tất" tức là một hành vi
hoàn hảo, đầy tràn sự tinh tế ở chỗ là "giữ gìn trong khi biến đổi... hoàn
thành trong khi bảo vệ”. Hoàn tất là một hành vi hoàn hảo nhất mà một người có
thể làm. Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với nhau giữa những "người luôn
tiến tới" và "những người giữ truyền thống", giữa những người
cải tiến và những người bảo thủ. Nơi Đức Giêsu, chính người vừa trung thành với
truyền thống của mọi thời đại và đồng thời người canh tân, đổi mới, làm cho đến
cùng: đó chính là nguyên tắc của cuộc sống, tức là không bao giờ gián đoạn trọn
vẹn với quá khứ, mà phóng đến tương lai.
Này
nhé, Chúa không bao giờ là một người làm cách mạng, nhưng Người biến đổi tất
cả. Người xin Gioan, người cuối cùng trong các ngôn sứ của Cựu ước, đón nhận
phép rửa của người, trong chuỗi người tội lỗi, với tất cả mọi người... như tất
cả mọi người.
Nhưng
chú ý! Sẽ đột ngột bùng ra một cuộc canh tân.
Bấy
giờ ông Gioan mới để cho Người làm.
Khiêm
tốn biết mấy trong những từ quá nghèo nàn đến thế. Người ta không nói rằng
Gioan đã hiểu. Chỉ đơn giản, ông để cho làm. Ông tự xóa bỏ mình đi, ông phải
thay đổi cái khái niệm hiếu thắng mà ông có về Đấng Mêsia. Có lẽ ông đoán một
con người huyền nhiệm đang đứng trước mặt ông chăng? Cả chúng ta, ta hãy bước
vào huyền nhiệm này... bên ngoài tất cả.
Bởi
vì, chính ở đó tất cả kết thúc trong câu truyện này. Ta hãy lắng nghe.
Ngay
khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong. Người ở dưới nước đi lên.
Phép
rửa không được miêu tả. Người ta không mô tả một cảnh tượng. Câu chuyện cực kỳ
ít lời, dè dặt hoàn toàn. Matthêu chỉ kể ra sự kiện bằng một phân từ đơn giản:
được làm phép Rửa... Đức Giêsu đi từ dưới nước lên. Chúng ta chỉ được nói rằng
Đức Giêsu đã hoàn tất hai động tác: "Người xuống nước... Người từ dưới
nước lên... động tác đi về phía sông Giođan, chỗ thấp nhất trên hành tinh này,
nhưng là động tác của Thiên Chúa đến gặp gỡ loài người tội lỗi, Đức Giêsu...
Sinh ra, chịu khổ hình thập giá chết, táng trong mồ xuống nơi luyện hình... một
cuộc đi xuống đến chóng mặt!... sống lại, từ trong kẻ chết và lên trời…”
Này
đây các tầng trời mở ra...
Tầng
trời mở ra. Thiên Chúa Hiển Linh. Cuộc hiển linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ
mình ra. Hình ảnh hình tượng về tầng trời mở ra thường thấy trong Kinh Thánh để
nói rằng một sự giao thông được thiết lập giữa thiên giới và con người được
chấp nhận cho sống những bí mật của Thiên Chúa (Ex 1,1; Kh 19,11; Cv 7,56...)
Chúng
ta, chính chúng ta cứ luôn luôn nghĩ rằng trời đóng lại, không thể tới được.
Dẫu vậy tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, đều nhờ Người mà trời mở ra sẵn trên
đầu họ.
Và
người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
Chúng
ta đã chú ý rằng đây không phải là việc mô tả một cảnh tượng: Đó là một huyền
nhiệm... Matthêu không nói rằng đã có một con chim bồ câu. Người nói rằng Thần
Khí đáp xuống có phần như một con chim bồ câu. Trạng ngữ “có phần như"
không bổ nghĩa cho Thần Khí, mà là cho từ "đáp xuống”. Đó là một hình ảnh
kỳ diệu mang theo ý nghĩa. Một số văn bản rabbi đã so sánh động tác của Thần
Khí Thiên Chúa với động tác chim bồ câu bay lượn trên chuồng của chúng nhưng
không chạm xuống, đúng bằng cách như thế Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt
nước thời nguyên thủy (St 1,2). Mũi nhọn của sự so sánh là nhấn mạnh tính cách
đồng thời đến: Tính chất khác biệt của Thần Khí, vẫn phân biệt với thế giới thụ
tạo, mà Đức Giêsu là một phân tử có tính cách con người, do thân xác của
Người.... Sự dịu dàng và sự gần gũi của hành vi Thiên Chúa: phân biệt với Đức
Giêsu, Thần Khí vẫn ở đó, rất gần gũi như thể người bay lượn trên chuồng của
Người, từ nơi đó vùng lên mầm của sự sống. Thần Khí là Chúa và Người ban cho sự
sống.
Và
có tiếng từ Trời phán ra: Đây là Con yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người.
Tất
cả Phương Đông tin kính Đức Giêsu chịu phép rửa, cũng như Ba Ngôi Thiên Chúa
Hiển Linh. Và Thánh Cyrillee thành Giêrusalem chú giải: "muốn có một Đức
Kitô (Đấng chịu Xức Dầu), phải có một Đấng nào đó Xức Dầu cho Người, tức Chúa
Cha, và một Đấng nào đó là sự Xức Dầu, tức Thánh Linh. Không có Thiên Chúa Ba
Ngôi thì từ Đức Kitô đã không có ý nghĩa gì!".
Chính
vì thế mà tượng Thiên Chúa hiển linh biểu thị Đức Giêsu đứng dưới sông
Giođan... ở trên cao một bàn tay biểu trưng Đấng đến Xức Dầu, Chúa Cha vô hình,
mà tiếng của Người làm chứng cho Đức Giêsu. Đức Giêsu là một trong những ngôi
vị của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu rất thánh: Hôm nay là sự mạc khải đầu tiên
của huyền nhiệm này.
Đăng nhận xét